intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ án hành chính

Chia sẻ: Jincuichu Jincuichu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

264
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ án hành chính do Nguyễn Minh Tâm thực hiện nhằm giới thiệu đến người học vấn đề bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của con người khi tham gia vào các quan hệ pháp luật cũng như đảm bảo pháp luật thực thu nhằm giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ án hành chính

  1. Tiểu Luận Cuối Khoá LỜI NÓI ĐẦU Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến rõ rệt,   nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị  trường thì quan hệ  giao lưu về  kinh tế, văn hóa, xã hội … ngày càng phong  phú, đa dạng và phức tạp hơn. Bên cạnh đó, với chính sách mở cửa mời gọi   đầu tư và Việt Nam đã gia nhập WTO thì việc giao lưu quan hệ hợp tác kinh  tế, văn hoá với các nước trên thế  giới không ngừng được phát triển. Trong  quá trình hợp tác, kinh doanh, trao đổi trên các lĩnh vực không thể tránh khỏi  những mâu thuẩn tranh chấp về  quyền lợi phát sinh dẫn đến khởi kiện lẫn  nhau. Tuy nhiên không phải lúc nào người dân cũng đồng ý với các phán   quyết của Toà án hay các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Từ thực tế  trên, đòi hỏi Nhà nước phải có một cơ  chế  để  bảo vệ  quyền và lợi ích hợp  pháp của các chủ  thể  khi tham gia vào các quan hệ  pháp luật này, cũng như  bảo đảm pháp lụât được thực thi nhằm giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Nhận   thức được tầm quan trọng của vấn đề, Toà hành chính Việt Nam đã ra đời  nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền khiếu nại, tố  cáo của các tổ  chức và cá nhân theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật   hiện hành. Để Toà hành chính thực hiện tốt các chức năng của mình một cách  có hiệu quả, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định   về  các thủ tục giải quyết các vụ  án hành chính; khiếu nại, tố  cáo ngày càng  hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21/05/1996 của   Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu mà xã  hội và nhà nước đặt ra để giải quyết các vụ án hành chính (VAHC) đạt hiệu  quả. Tuy nhiên, sau một thời gian đi vàoáap dụng thực hiện  ®· ph¸t  sinh  nhiều vướng mắc về  thủ  tục vµ thẩm quyền, đồng thời để  hoàn thiện hơn  nữa Pháp lệnh thủ  tục giải quyết các vụ  án hành chính, đảm bảo hơn nữa   quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như  hoàn thiện hơn nữa hệ  thống pháp luật về tố tụng mµ Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành hai  pháp   lệnh   số   10/1998/PL­UBTVQH   ngày   25/12/1998   vµ  số   29/2006/   PL­ UBTVQH ngày 04/05/2006 nhằm sửa đổi, bổ  sung một số  điều về  thủ  tục   Nguyễn Minh Tâm Trang : 1
  2. Tiểu Luận Cuối Khoá giải quyết các vô ¸n hµnh chÝnh, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt  động của Toà hành chính tại Việt Nam.  Do sự  hạn chế  về thời gian, tài liệu, cũng như  phương pháp nghiên  cứu đề tài: “THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT  CÁC VỤ  ÁN HÀNH CHÍNH” được nghiên cứu dựa trên các quy định của  pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các vụ  án hành chính, kết hợp với tìm hiểu thực tiễn áp dụng của Toà án có thẩm  quyền về  giải quyết các vụ  án hành chính  ở  địa phương và số  liệu, tư  liệu  thu thập được nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy, cô   quan tâm đóng góp ý kiến để khóa luận được tốt hơn. CHƯƠNG I  Nguyễn Minh Tâm Trang : 2
  3. Tiểu Luận Cuối Khoá KHÁI QUÁT V Ề TOÀ HÀNH CHÍNH CƠ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM. 1. Khi niệm về Tài phán hành chính. Thuật ngữ “Tài phán” có gốc La­tinh là “Jurisdictio”. Theo nghĩa rộng,  thuật ngữ  “Tài phán” nghĩa là phán quyền, tức là quyền lực của Chính phủ  (bên cạnh việc điều hành hành chính) trong việc phán xét tính đúng sai của  các hoạt động hành chính diễn ra trên lãnh thổ nhất định; theo nghĩa hẹp, đây  là thẩm quyền  hoÆc quyÒn tµi ph¸n của cơ  quan Toà án trong việc lắng  nghe, xem xét, đánh giá và ra các phán quyết được thể hiện trong các bản án   hay phán quyết của Toà đối với một vụ việc cụ thể trong  mét ph¹m vi l·nh thæ nhÊt ®Þnh. Quan niệm của các nước theo hệ thống luật chung (Common law) ,  tiền thân là luật Anglo­ Saxon: Anh, Mỹ, Canada, Úc, Na Uy, Ailen, Malaysia,   Singapore … Hệ  thống luật này được phát triển dựa trên cơ  sở  của án lệ,   nhµ níc kh«ng cã sù ph©n biệt rạch ròi giữa Luật công với Luật tư. Các  tranh chấp hành chính được giải quyết bởi các cơ quan đã ban hành ra quyết  định hành chính bị khiếu nại, hoặc bởi các cơ quan cấp trên của cơ  quan đó.   Trong trường hợp không thoả mãn với việc giải quyết khiếu nại này, người  dân được quyền kiện ra Toà án.  Tài phán hành chính là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính   thuộc thẩm quyền của Toà án tư  pháp, nhằm đảm bảo chức năng xét xử  chung của một loại cơ quan tài phán. Tuy nhiên, trong xu hướng quốc tế hoá,  hợp tác hoá các nước theo hệ  thống luật chung này cũng bắt đầu thành lập   những bộ phận chuyên trách trong toà thường để giải quyết các vụ kiện hành   chính trong các vụ kiện đặc biệt quan trọng như: lĩnh vực đất đai, thuế, bảo  hiểm … Quan   niệm   của   các   nước   theo   hệ   thống   Châu   Âu   lục   địa   (continental law hay civil law), tiền thân là luật La Mã (Romano­Germani):  Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Bỉ, Hà Lan, Châu Mỹ La Tinh, các nước Châu Phi, các   nước Trung Cận Đông, Indonexia. Các nước theo hệ  thống luật này có sự  phân biệt rạch ròi giữa luật công và luật tư. Tranh chấp hành chính được xác   định là một tranh chấp trong lĩnh vực công phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân  công dân với các cơ quan, tổ chức công quyền. Bên cạnh đó, các quốc gia này   đã thành lập hệ  thống cơ  quan tài phán hành chính độc lập (Toà án hành   Nguyễn Minh Tâm Trang : 3
  4. Tiểu Luận Cuối Khoá chính) bên cạnh hệ thống Toà án tư pháp để chuyên thực hiện chức năng xét  xử các khiếu kiện hành chính. Hình thức này được gọi là hình thức “lưỡng hệ  tài phán”. Như vậy, tài phán hành chính, theo quan niệm của các quốc gia theo  hệ  thống luật lục địa, là hoạt động xét xử  các tranh chấp hành chính giữa   công dân và tổ  chức của họ  với các tổ  chức, cá nhân công quyền và hoạt   động tư vấn pháp luật cho Chính phủ. Quan niệm  của Việt Nam: Sau khi nhà nước  Việt Nam Dân chủ  Cộng hoà ra đời, chính phủ  mới đã đặt biệt quan tâm tới việc giải quyết   khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hành vi, quyết định hành chính của cơ  quan công quyền xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của họ, cũng như việc xử  lý nghiªm khắc đối với các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ  nhà nước   có thẩm quyền khi thực thi công vụ. Đồng thời trong quá trình công nghiệp   hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu mới mà nền  hành chính phải đáp  ứng. Để  đáp  ứng yêu cầu bức thiết này, Đảng và Nhà  nước đã tổng kết thực tiễn về hoạt động Tài phán hành chính và học tập kinh   nghiệm của cộng đồng quốc tế, trên cơ sở đó Việt Nam đã lựa chọn mô hình  Tài phán hành chính có tính quá độ đặc thù riêng, phù hợp với điều kiện phát   triển kinh tế ­ xã hội của đất nước.  Theo từ  điển tiếng Việt “ tài phán” là việc “ xét xử, phán xử  đúng,  sai”. Dưới góc độ pháp lý thì khái niệm “ tài phán” rộng hơn khái niệm xét xử  . Như vậy, Tài phán hành chính Việt Nam được hiểu là hoạt động xét xử các  vụ án hành chính theo quy định của pháp luật về Tố tụng Hành chính và chủ  yếu do các Toà hành chính (THC), các Tài phán hành chính trong hệ  thống   Toà án Nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của cá  nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà  nước. 2. Toà hành chính­ Cơ quan Tài phán Việt Nam: Theo Luật Tổ chức Toà án Nhân dân năm 2002 Việt Nam có các Toà án   sau: Toà án Nhân dân tối cao; Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Toà án Nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. 3. Đối tượng xét xử của Toà hành chính việt Nam: a.Quyết định hành chính (QĐHC):  Nguyễn Minh Tâm Trang : 4
  5. Tiểu Luận Cuối Khoá Theo Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh thủ  tục giải quyết các vụ  án hành   chính năm 2006( PLTTGQCVAHC) thì QĐHC là quyết định bằng văn bản  của cơ  quan Hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ  quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số  đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.  Điều này chứng tỏ  rằng không phải mọi quyết định hành chính đều  thuộc đối tượng xét xử  của Tòa hành chính. Từ  đó cho ta thấy rằng một   QĐHC chỉ trở thành đối tượng xét xử của Toà án khi thoả mãn đồng thời các  dấu hiệu:  Thứ nhất xét về mặt hình thức: Một QĐHC phải được thể hiện dưới   hình thức văn bản mà không bao hàm các quyết định bằng các hình thức như:  tín hiệu, lời nói … (quyết định không thành văn). Một quyết định khi được  thể  hiện dưới hình thức một văn bản sẽ  đem lại nhiều  ưu thế  cả  về  tính  chính xác lẫn tính ổn định. Từ đó đã hình thành nên hai quan điểm : ­ Quan điểm thứ 1: Tòa hành chính chỉ xét xử các QĐHC bằng văn bản  mà văn bản đó phải có tên gọi là “quyết định”, còn các văn bản không có tên  gọi là “quyết định” sẽ không thuộc đối tượng xét xử xủa Tòa hành chính như  các quyết định giao đất, quyết định thu hồi đất, quyết định giải quyết tranh   chấp đất… ­ Quan điểm thứ 2: Bất kỳ một văn bản nào mà nội dung của nó chứa   đựng một văn bản cá biệt đều thuộc đối tượng xét xử  của Tòa hành chính,   không phụ thuộc vào nó được ban hành đúng tên gọi hay không. Ví dụ: thông  báo về việc kỷ luật buộc thôi việc… Như  vậy, quan điểm thứ  hai là đúng đắn hơn. vì một quyết định cá  biệt ban hành không đúng thủ tục, tên gọi cũng đã là một căn cứ để  cá nhân,   tổ chức có thể khởi kiện tại Tòa hành chính có thẩm quyền. Thứ hai về mặt nội dung: QĐHC theo luật tố tụng hành chính phải là  những  quyết   định cá  biệt (quyết  định  áp dụng quy phạm pháp luật hành  chính), nghĩa là nó chỉ  được áp dụng một lần đối với một hoặc một số  đối   tượng cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính (còn được gọi là quyết định  áp dụng pháp luật). Đối tượng áp dụng của quyết định là cá nhân hoặc tổ  chức có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp và được ghi nhận trong  nội dung của quyết định có thể  là người khởi kiện vụ  án hành chính với   quyết định hành chính đó. Ví dụ: Một người có thể  khởi kiện ra Toà án yêu   cầu huỷ bỏ quyết định của cấp có thẩm quyền về việc thu hồi giấy phép về  sản xuất, kinh doanh cuả mình. Cũng như ví dụ trên nếu cấp có thẩm quyền    Nguyễn Minh Tâm Trang : 5
  6. Tiểu Luận Cuối Khoá cấp giấy giấy phép về sản xuất kinh doanh cho một người mà lại ảnh hưởng  đến lợi ích của người khác thì người này có thể  khởi kiện tại Toà yêu cầu   huỷ  quyết định trên, trong trường hợp này người khởi kiện không phải là  người áp dụng QĐHC. Như vậy, không phải bất kì người khởi kiện nào cũng  là đối tượng áp dụng của QĐHC. Như vậy, đối với đối tượng áp dụng quyết định hành chính sẽ  dẫn tới   tình trạng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của họ, cụ  thể: được hưởng quyền, lợi ích; gánh vác một nghĩa vụ  bổ  sung; tước bỏ  hoặc hạn chế một hoặc một số quyền, lợi ích; buộc thực hiện hoặc cấm hay  hạn chế thực hiện một số hành vi nhất định. Riêng đối với người khởi kiện  nhưng không thuộc đối tượng áp dụng của quyết định thì thông thường họ  phải chịu thiệt hại về quyền hoặc lợi ích hợp pháp do quyết định hành chính  trên gây ra. Thứ  ba về  chủ  thể  ban hành: Phải do cơ  quan hành chính Nhà nước  hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành (chủ  thể  ban hành QĐHC là rất rộng). Cơ  quan hành chính nhà nước  ở  đây được   hiểu không chỉ  là cơ  quan có chức năng quản lý hành chính Nhà nước thông  qua hoạt động chấp hành, điều hành như  Chính phủ, các bộ, cơ  quan ngang   bộ … (ở Trung ương), Uỷ ban nhân dân các cấp, các Sở, phòng, ban …(ở địa  phương), văn phòng Quốc hội, văn phòng Chủ  tịch nước, Toà án nhân dân,  viện kiểm sát nhân dân; mà còn cả  các cơ  quan Nhà nước có thẩm quyền  quản lý hành chính trong một số  trường hợp nhất  định như  quyền tuyển   dụng, bổ  nhiệm công chức, quyền quyết định dự  toán, quyết toán kinh phí   hoạt động … Thứ  tư    về  phạm vi các lĩnh vực của quyết định:  Ở  nước ta, hoạt   động xét xử hành chính còn mới mẻ, vẫn còn trong giai đoạn vừa làm vừa rút   kinh nghiệm nên không phải mọi QĐHC đều thuộc đối tượng xét xử của Tòa   hành chính, mà quyết định hành chính theo luật tố tụng hành chính Việt Nam  chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực nhất định thuộc quá trình hành pháp (loại  việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án do luật định). Cụ thể trong các   lĩnh vực theo Điều 11 PLTTGQCVAHC Quyết định xử  phạt vi phạm hành  chính: ­ Quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý  vi phạm hành chính; ­ QĐHC trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định  xử phạt vi phạm hành chính;  Nguyễn Minh Tâm Trang : 6
  7. Tiểu Luận Cuối Khoá ­ QĐHC, HVHC trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử  lý vi   phạm hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị  trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ  sở  giáo dục; đưa vào cơ  sở  chữa bệnh; quản chế hành chính; ­ QĐHC trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ  nhà  ở, công trình,   vật kiến kiến trúc kiên cố khác; ­ QĐHC trong việc cấp, thu hồi giấy phép về  xây dựng cơ  bản, sản  xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ  hành   nghề  hoặc QĐHC khác  liªn quan  đến hoạt động kinh doanh, tài chính của  thương nhân; ­ QĐHC liên quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước;  ­ QĐHC liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế,  dịch vụ và cung ứng dịch vụ; ­ QĐHC trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản; ­ QĐHC trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế; ­ QĐHC trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất; ­ QĐHC trong quản lý Nhà nước về  sở  hữu trí tuệ  và chuyển giao công  nghệ; ­ QĐHC  trong quản lý Nhà nước về đầu tư; ­ QĐHC của cơ quan hải quan, công chức hải quan; ­ QĐHC về quản lý hộ tịch; ­ QĐHC đối với việc từ chối công chứng, chứng thực; ­  QĐHC về  quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất,  thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử  dụng đất; bồi  thường, hỗ  trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy  chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất; ­ Khởi kiện về danh sách cử  tri bầu cử  Đại biểu Quốc hội, danh sách  cử tri bầu cử  Đại biểu Hội đồng nhân dân; ­ Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ  từ  Vụ trưởng và tương đương trở xuống; ­ Quyết định của Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố  trực  thuộc   trung   ương   giải   quyết   khiếu   nại   đối   với   quyết   định   của   ban   chủ  nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;  Nguyễn Minh Tâm Trang : 7
  8. Tiểu Luận Cuối Khoá ­ Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc; ­ Các QĐHC khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và  §iều  ước  Quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra, QĐHC theo luật tố tụng hành chính còn phải thoả  m·n các  điều kiện pháp lí như: Quyết định hành chính phải là quyết định hành chính  lần đầu; Phải do người có năng lực chủ  thể  theo quy định của luật tố  tụng   hành chính khởi kiện trong phạm vi thời hiệu nhất định; Quyết định hành   chính bị  một người vừa khiếu nại đến cơ  quan Nhà nước có thẩm quyền,  vừa khởi kiện VAHC đến Toà án có thẩm quyền thì quyết định đó mới thuộc   đối tượng xét xử hành chính của Toà án nhân dân; trường hợp một QĐHC bị  nhiều người khiếu kiện trong đó có người khiếu nại đến cơ quan hành chính  nhà nước có thẩm quyền, có người khởi kiện VAHC đến Toà án thì quyết  định đó không thuộc đối tượng xét xử hành chính. b. Hµnh vi hµnh chính (HVHC). Hành vi hành chính là hành vi của cơ  quan nhà nước, của người có  thẩm   quyền trong cơ  quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ,   công vụ theo quy định của pháp luật (theo khoản 2 Điều 4 PLTTGQCVAHC). Từ khái niệm trên ta thấy HVHC có những dấu hiệu sau: Một là về mặt chủ thể. Một  hµnh vi hµnh chÝnh thuộc thẩm quyền  xét xử của Toµ hµnh chÝnh thì nó phải được ban hành bởi các chủ thể được   quy định ở điều 12 PLTTGQCVAHC đó là hµnh vi hµnh chÝnh của cơ quan  Nhà nước và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó.  ë đây, chúng  ta cần hiểu rõ hai thuật ngữ “cơ quan nhà nước” và “cán bộ, công chức”. Theo hiến pháp 1992 thì “cơ quan nhà nước” được chia thành bốn loại: ­ Cơ  quan quyền lực nhà nước: Quốc hội và hội đồng nhân dân các  cấp. ­ Cơ  quan quản lý Nhà nước: Chính phủ, các Bộ, cơ  quan ngang Bộ,  Uỷ ban nhân dân các cấp và các ban ngành trực thuộc Uỷ ban nhân dân. ­ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân các cấp. ­ Cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Thuật ngữ  “ cán bộ, công chức” theo điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công  chức quy định cán bộ, công chức là:  Nguyễn Minh Tâm Trang : 8
  9. Tiểu Luận Cuối Khoá ­ Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong   các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị­ xã hội. ­ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ  thường xuyên làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị­ xã hội. ­ Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. ­ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ  trong ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước. ­ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ  trong các cơ  quan, đơn vị  thuộc Quân đội nhân dân không phải là sĩ quan  chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ  quan, đơn vị  thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyện nghiệp. Hai là hình thức biểu hiện. Một hµnh vi hµnh chÝnh được xem là đối  tượng xét xử  của  Toµ hµnh chÝnh  thì hành vi đó phải là hành vi công vụ  được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động của cơ  quan   hành chính nhà nước, cán bộ, công chức bị khởi kiện tại Toµ hµnh chÝnh . Hµnh vi hµnh chÝnh được biểu hiện dưới dạng hành động được hiểu  là việc một người theo quy định của pháp luật được giao nhiệm vụ  thi hành  quyết định hành chính của người có thẩm quyền, nhưng khi thi hành công vụ  người đó không thực hiện đúng như  trong quyết định hành chính nên đã gây  thiệt hại cho người phải chấp hành quyết định.      Một cơ  quan hoặc một người theo quy định của pháp luật sau khi   nhận đủ hồ sơ về việc xin cấp các loại giấy phép, về xây dựng cơ bản, sản  xuất kinh doanh, mặc dù hồ  sơ  đã đầy đủ  các tài liệu cần thiết và đủ  điều  kiện được cấp, thế nhưng quá thời hạn do pháp luật quy định hoặc vì vụ  lợi   mà cơ  quan đó hoặc người đó vẫn không cấp giấy cho người có yêu cầu..  Đây là hµnh vi hµnh chÝnh được thực hiện dưới dạng không hành động. Ba là về phạm vi. Cũng như quyÕt ®Þnh hµnh chÝnh, hµnh vi hµnh chÝnh không phải lúc nào cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Toµ hµnh chÝnh, để  đảm bảo cho việc xác định được một   hµnh vi hµnh chÝnh  có  phải là đối tượng xét xử  của Toµ hµnh chÝnh hay không, pháp luật đã quy  định một cách cụ thể tại Điều 11 PLTTGQCVAHC (như đã nêu ở phần trên). c. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức. Quyết định kû  luật  buéc thôi việc là quyết định bằng văn bản của  người đứng đầu cơ  quan, tổ  chức áp dụng hình thức kỹ  luật buộc thôi việc    Nguyễn Minh Tâm Trang : 9
  10. Tiểu Luận Cuối Khoá đối với cán bộ, công chức giữ  chức vụ  từ  vụ  trưởng và tương đương trở  xuống thuộc quyền quản lí của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ,  công chức (theo khoản 3 Điều 4  PLTTGQCVAHC). Quyết định kỷ  luật buộc thôi việc là một dạng biểu hiện của quyết  định hành chính nói chung, vì vậy nó cũng có đầy đủ  tính chất và đặc điểm  của một QĐHC. Nếu dùng thuật ngữ “người đứng đầu cơ  quan, tổ chức” là  chủ thể ban hành sẽ dẫn đến chủ thể thực hiện không biết cơ quan, tổ chức   ở đây là cơ quan, tổ chức nhà nước hay cả các cơ quan, tổ chức chính trị, tổ  chức chính trị­ xã hội. Để  xác định được vấn đề  này chúng ta sẽ  căn cứ  vào   Điều 12 PLTTGQCVAHC thì các chủ  thể  có thẩm quyền ban hành QĐHC  bao gồm: Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị  xã, thành phố  thuộc tỉnh;   QĐHC của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ  quan thuộc chính phủ, văn phòng chủ  tịch nước, văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân   dân tối cao và QĐHC, HVHC của Thủ trưởng các cơ quan đó; Quyết định của  chủ  tịch  ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố  trực thuộc trung  ương; Quyết định   của chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan thuộc   Uỷ  ban nhân dân huyện, quận, thị  xã, thành phố  thuộc tỉnh và Thủ  tướng  chính phủ. Bên cạnh đó,  Toµ hµnh chÝnh cßn cã thẩm quyền giải quyết khởi  kiện quyết định buộc thôi việc và quyết định sa thải. Tuy nhiên, Toà án không  có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyết định buộc thôi việc trong   Quân đội nhân dân và C«ng an nh©n d©n do xuất phát từ tính chất đặc thù  riêng liên quan đến an ninh quốc phòng và trật tự  an toàn xã hội, do đó các   tranh chấp này sẽ  giải quyết theo luật, các quy định riêng của quân đội nhân   dân và C«ng an nh©n d©n.  Nguyễn Minh Tâm Trang : 10
  11. Tiểu Luận Cuối Khoá CHƯƠNG II THẨM QUYỀN TOÀ HÀNH CHÍNH Thẩm quyền giải quyết các vụ  án hành chính là một nội dung quan  trọng trong tổ  chức và hoạt động tài phán, liên quan đến quản lý Nhà nước,  đến phân công thực hiện quyền lực Nhà nước cũng như liên quan đến bảo vệ  quyền, lợi ích hợp pháp của công dân ... Trong ngôn ngữ  tiếng Việt, “ thẩm quyền” là thuật ngữ  dùng để  chỉ  quyền xem xét, kết luận và định đoạt  một vấn đề  theo pháp luật hoặc chỉ  một tư  cách về  chuyên môn được thừa nhận để  có ý kiến mang tính chất  quyết định về một vấn đề. Trong   tiếng   Anh,   “thẩm   quyền”   được   sử   dụng   bằng   thuật   ngữ  Jurisdiction để chỉ  thẩm quyền hoặc phân quyền, tức là quyền lắng nghe và  phán quyết một vụ  kiện hay đưa ra một án lệnh nào đó của Toà hoặc vùng   lãnh thổ mà trong phạm vi đó thẩm quyền của Toà được thi hành. Thẩm quyền xét xử  hành chính là ph¹m vi thùc hiÖn quyÒn lùc nhµ níc cña Toµ ¸n trong viÖc gi¶i quyÕt c¸c tranh chÊp hµnh chÝnh gi÷a mét bªn lµ c«ng d©n, tæ chøc vµ bªn kia lµ c¬ quan c«ng quyÒn, theo  Nguyễn Minh Tâm Trang : 11
  12. Tiểu Luận Cuối Khoá thñ tôc tè tông hµnh chÝnh nh»m b¶o ®¶m vµ b¶o vÖ lîi Ých cña Nhµ n- íc, cña x· héi, quyÒn vµ lîi Ých hîp ph¸p cña c«ng d©n. Từ định nghĩa trên ta có thể rút ra một số đặc điểm về thẩm quyền toà  hành chính: ­ Về  nội dung: Thẩm quyền xét xử  hành chính của Toà án bao gồm:   Đối tượng xét xử, hoạt động xét xử, phán quyết và sự  quy định, điều chỉnh   của pháp luật về đối tượng hoạt động, về phân cấp và phân định thẩm quyền ­ Về  tính chất: Thẩm quyền giải quyết VAHC là xem xét, phán quyết  về  tính đúng đắn, tính hợp pháp trong hoạt động của cơ  quan hành pháp về  đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền hành pháp ( QĐHC, HVHC ... ). ­ Về mục đích: Thẩm quyền xét xử hành chính một mặt khẳng định vai   trò kiểm tra tư pháp đối với hành pháp, mặt khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích  hợp pháp của công dân, tổ  chức, góp phần tăng cường hiệu lực hoạt động  của bộ máy Nhà nước. 1. Cơ sở xác lập thẩm quyền của Toà hành chính: ë  nước ta, tổ  chức và hoạt động của các cơ  quan trong bộ  máy Nhà   nước được xác lập theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tất cả quyền lực nhà  nước thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng  có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện   quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Từ quan điểm này, việc xác lập thẩm quyền xét xử hành chính của Toà   án dựa vào các cơ sở: ­ Cơ  sở  lý luận: Trước hết, phải xuất phát từ  các quan điểm của chủ  nghĩa Mac­ Lê nin về  nhà nước và pháp luật, về  tổ  chức tư  pháp, XHCN. ë nước ta, việc xây dựng bộ  máy nhà nước nói chung và xác lập thẩm quyền  của Toà án (trong đó có thẩm quyền tài phán hành chính) nói riêng dựa trên  quan điểm, đường lối chủ  trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam   (ĐCSVN). Đặc biệt, trước yêu cầu tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước,   tăng cường vai trò bảo vệ  của Nhà nước đối với xã hội, đối với công dân,   Đảng ta đã có chủ trương: Xúc tiến thành lập  Toµ hµnh chÝnh trong TAND,  xác định mô hình tổ  chức và thủ  tục tố  tụng phù hợp với đặc điểm của các  vụ kiện hành chính.  Nguyễn Minh Tâm Trang : 12
  13. Tiểu Luận Cuối Khoá Ngoài ra, việc thành lập thiết chế tài phán hành chính cũng như xác lập  thẩm quyền xét xử  hành chính còn cần thiết phải học tập kinh nghiệm của  các nước trên thế giới để đảm bảo tính có căn cứ khoa học đầy đủ  (phương   pháp so sánh).    ­ Cơ sở pháp lý: Theo hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992 thì ở  nước ta chỉ  có một hệ  thống Toà án thực hiện chức năng xét xử. Điều 127   Hiến   pháp   quy   định   “Toà   án   nhân   dân   tối   cao,   các   Toà   án   nhân   dân   địa  phương, các Toà án quân sự  và các toà án khác là những cơ  quan xét xử  của  nước CHXHCNVN”. Trên cơ  sở  của Hiến pháp, hàng loạt các quy định mới trong các văn   bản pháp luật quan trọng được ban hành, quy định chức năng, nhiệm vụ,  quyền hạn, cơ  cấu tæ chức, trình tự  tố  tụng, phạm vi xét xử  hành chính …   cho TAND như  Luật tổ  chức TAND (sửa đổi, bổ  sung); Luật khiếu nại, tố  cáo, đặc biệt là PLTTGQCVAHC (sửa đổi, bổ  sung)… là những cơ  sở  pháp   lý vững chắc cho việc xác lập và sử dụng thẩm quyền xét xử hành chính của  TAND. ­ Các cơ sở khác: Ngoài hai cơ sở trên việc xác lập thẩm quyền xét xử  hành chính của TAND cần dựa vào một số  nhu cầu thực tiển của đời sống  chính trị­ xã hội như: Yêu cầu năng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của   hoạt động hành pháp dẫn đến việc phải cải cách nền hành chính nhà nước   mà quan trọng nhất là cải cách thủ  tục hành chính và thực hiện tốt quy chế  dân chủ, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và   vì dân. 2. Th   ẩm quyền giải quyết  c¸c     VAHC c   ủa  Toµ   hµnh chÝnh : Thẩm quyền về  việc của Toà hành chính được xác định trong khuôn  khổ  của Điều 11 (đã được sửa đổi, bổ  sung) bao gồm 9 nhóm việc. Thẩm  quyền về  việc là căn cứ  để  phân biệt thẩm quyền giữa các toà chuyên trách   với nhau và cũng là căn cứ để các toà chuyên trách xem xét các khiếu kiện có  thuộc thẩm quyền thụ lý và xét xử của mình không. Theo quy định của pháp   luật hiện hành, Toà án giải quyết các vụ  án hành chính đối với các khiếu   kiện sau đây:  Nguyễn Minh Tâm Trang : 13
  14. Tiểu Luận Cuối Khoá 2.1.1 Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính: Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002  (PLXLVPHC năm 2002) và pháp lệnh số//PL­UBTVQH12 ngày 02/04/2008  về sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì  xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức   có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý Nhà  nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị  xử  phạt vi phạm hành chính. Các hình thức xử lý vi phạm như: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá   nhân, tổ  chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ  hoặc   đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện; phạt  tiền tuỳ  thuộc vào tính chất, mức độ  vi phạm mà có mức phạt tương  ứng;   Riêng hình thức trục xuất quy định tại Pháp lệnh thì tuỳ  từng trường cụ  thể  sẽ  được áp dụng là hình phạt chính hoặc hính phạt bổ  sung đối với người   nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài các biện pháp xử  phạt trên cá nhân, tổ  chức còn có thể  bị  áp  dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như: ­ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành  chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình trái phép như: Xây dựng công trình  sai  quy  định trong giấy phép  xây dựng; Cải  tạo, sửa  chữa  công trình  cò kh«ng có giấy phép hoặc sai phép; Sử dụng đất không đúng mục đích; Lấn,   chiếm đất đai … ­ Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, lây lan  dịch bệnh do hành vi hành chính gây ra; ­ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ  Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá,  vật phẩm, phương tiện; ­ Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và  cây trồng, văn hoá phẩm độc hại; ­ Biện pháp khắc phục hậu quả  khác do người có thẩm quyền quyết   định theo quy định của Chính phủ. 2.2  Khiếu kiện quyết định ngăn chặn và bảo đảm việc xử  lý vi phạm   hµnh  chính  (khoản  1   Điều  43  và  khoản  3   điều  118  PLXLVPHC  năm    Nguyễn Minh Tâm Trang : 14
  15. Tiểu Luận Cuối Khoá 2002): Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành   chính được áp dụng khi cần ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính hoặc để  bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính. Người có thẩm quyền có thể  áp dụng các biện pháp sau đây theo thủ  tục hành chính: Tạm giữ  người; Tạm giữ  tang vật, phương tiện vi pham   hành chính; Khám người; Khám phương tiện vận tải, đồ  vật; Khám nơi cất   giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; Bảo lãnh hành chính; Quản  lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục   trục xuất; Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường  giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn. Cá nhân, tổ chức hoặc người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền   khiếu nại về việc áp dụng biện pháp đó và được thực hiện theo quy định về  thủ tục giải quyết các VAHC. 2.3  Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng biện pháp cưỡng   chế,   thi   hành   quyết   định   xử   phạt   vi   phạm   hành   chính   (Nghị   định   35/2005/NĐ­CP về áp dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử   phạt vi phạm hành chính). Áp dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử  phạt vi phạm   hành chính là biện pháp khắc phục hậu quả  do vi phạm hành chính gây ra  trong trường hợp không áp dụng xử phạt (cưởng chế hành chính) đối với cá  nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính đã quá thời hạn chấp hành hoặc  quá thời hạn hoãn chấp hành các quyết định nêu trên mà không tự  nguyện   chấp hành. Biện pháp cưỡng chế  bao gồm: Khấu trừ một phần tiền lương hoặc   một phần thu nhập, khấu trừ tài khoản tại Ngân hàng; Kê biên phần tài sản  có giá trị tương  ứng với số tiền phạt để  bán đấu giá; Biện pháp cưỡng chế  khác như  tịch thu tang vật, phương tiện  được sử  dụng để  vi phạm hành  chính… Cá nhân, đại diện tổ chức có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện về việc  áp dụng biện pháp này theo quy định của pháp luật. 2.4  Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng hoặc thi hành biện   pháp xử lý vi phạm hµnh chính bằng một trong c¸c hình thức gi¸o dục tại    Nguyễn Minh Tâm Trang : 15
  16. Tiểu Luận Cuối Khoá x·, phường, thị  trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ  sở  chữa   bệnh. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn áp dụng đối với người nhiều lần có  hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến møc đưa vào trường giáo dưỡng;  đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh. Đưa vào trêng giáo dưỡng là biện pháp được áp dụng đối với người   chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật. Đưa vào cơ sở giáo dục là biện pháp áp dụng đối với người có hành vi   vi phạm pháp luật xâm phạm tài sản của Nhà nước, của các tổ chức, tài sản,  sức khoẻ  danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài và vi  phạm trật tự an toàn xã hội có tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức   truy cứu trách nhiệm hình sự.   Đưa vào cơ  sở  chữa bệnh là biện pháp được áp dụng đoi với   người  nghiện mà tuý, người mại dâm có tính chất thường xuyên, đã được chính   quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu s÷a chữa. PLXLVPHC năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung năm 2008 đã quy  định chi tiết và chặt chẽ  về nguyên tắc, trình tự thủ  tục áp dụng, đối tượng   áp dụng, thời hiệu và thẩm quyền áp dụng đối với các biện pháp nêu trên.  Đồng thời cũng mở rộng thẩm quyền xét xử của Toµ hµnh chÝnh là quyết  định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc áp dụng biện pháp  đưa vào trường giáo dưỡng và cơ  sở  chữa bệnh mà Pháp lệnh năm 1995   không quy định. Như vậy khi có một QĐHC hay HVHC áp dụng biện pháp trên mà trái  pháp luật thì cá nhân có quyền khởi kiện ra Toµ hµnh chÝnh. 2.5 Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo   dỡ nhà ở, công trình vật kiến tróc kiªn cè kh¸c.  Nhà ở được phân thành bốn cấp 1,2,3,4 và để xác định được niên hạn   sử dụng của từng loại nhà người ta dựa trên các tiêu chuẩn về chất lượng sử  dụng, độ bền vững, độ chịu lửa …  Nguyễn Minh Tâm Trang : 16
  17. Tiểu Luận Cuối Khoá Công trình đó là các công trình được xây dựng trên đất được giao hoặc  được thuê để sử dụng vào mục đích phục vụ công cộng hoặc sản xuất kinh   doanh như nhà xưởng, cầu đường … Kiến trúc kiên cố  khác như  công trình gắn liền với nhµ  ở: nhµ  bếp,  nhµ tắm, hµng rµo x©y bảo vệ nhµ … Biện pháp buộc tháo dỡ  nhà  ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố  khác  được áp dụng trong trường hợp việc xây dựng này không có giấy phép hoặc  có giấy phép nhưng thực hiện không tuân thủ  quy định của giấy phép trong  một số  trường hợp. Cơ  quan Nhà nước ra quyết định hành chính buộc tháo  dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác không dựa trên căn cứ và thủ  tục pháp luật quy định nên ®· x©m phạm đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ  chức, đồng thời theo Điều 62 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền   xây dựng nhà ở  theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà  và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật”. Do đó khi quyền, lợi   ích hợp pháp bị xâm phạm thì c«ng d©n cã thể khởi kiện ra toµ vÒ những  QĐHC, HVHC mà họ cho là trái pháp luật trong việc  áp dụng biện pháp buộc  tháo dỡ  nhà  ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố  khác   để  bảo vệ  quyền lợi   của mình. 2.6  Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp, thu hồi giấy phép xây   dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nh ận đăng ký kinh doanh   vµ  chứng chỉ  hµnh  nghề  hoặc QĐHC, HVHC khác liên quan đến hoạt   động kinh doanh, tài chính của thương nhân. 2.7  Khiếu   kiện   QĐHC,   HVHC   liên   quan   đến   thương   mại   hàng   hoá   quốc tế hoặc trong nước (Nghị định 06/2008/NĐ­CP ngày 16/01/2008 về xử  lý vi phạm hµnh chính trong lĩnh vực thương mại). C¸ nh©n, tæ chøc cã hµnh vi cố  ý hoặc v« ý vi phạm c¸c quy định  quản lý nhà nước về  trong lĩnh vực thương mại mà không phải là tội phạm   hình sự vµ theo quy định phải bị xử phạt hành chính. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại bao gồm: ­ Hµnh vi vi phạm quy định về  Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh  của doanh nghiệp vµ hộ kinh doanh; ­ Hành vi vi phạm quy định về thành lập và hoạt động của Văn phòng  đại diện, Chi nhành của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam;  Nguyễn Minh Tâm Trang : 17
  18. Tiểu Luận Cuối Khoá ­ Hành vi vi phạm quy định về lưu thông, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ  trên thị trường; ­ Hành vi vi phạm quy định về xúc tiến thương mại; ­ Hành vi vi phạm quy định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và dịch   vụ liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá; ­ Hành vi vi phạm quy định về hoạt động thương mại, dịch vụ kh¸c. 2.8 Khiếu kiện QĐHC, HVHC liên quan đến chuyển giao tài chính trong   nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ. 2.9  Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch   thu tài sản. 2.10 Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy   thu thuế  (Nghị  định 100/2004/NĐ­CP ngày 25/02/2004 quy định về  việc xử  phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế).   Cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ  chức) có  hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về thuế mà không  phải là tội phạm và theo quy định của Nghị định này phải bị xử phạt vi phạm   hành chính, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham  gia có quy định khác. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế bao gồm: ­ Vi phạm quy định về đăng ký thuế; kê khai thuế; lập, nộp quyết toán  thuế; ­ Vi phạm quy định về thu, nộp tiền thuế, tiền phạt; ­ Vi phạm quy định về kiểm tra, thanh tra về thuế; ­ Các hành vi trốn thuế khác. 2.11  Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong áp dụng phí, thu phí, lệ  phí; thu   tiền sử dụng đất. a. Phí (Nghị định 106/2003/NĐ­CP ngày 23/9/2003 quy định về việc xử  phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phí, lệ phí).  Nguyễn Minh Tâm Trang : 18
  19. Tiểu Luận Cuối Khoá Cá nhân, cơ  quan, tổ  chức trong nước và nước ngoài có hành vi vô ý  hoặc cố ý vi phạm ph¸p luật về phí, lệ phí mµ kh«ng phải l tội phạm điều bị  xử  phạt vi phạm hành chính theo quy định theo Nghị  định 106/2003/NĐ­CP,   trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy  định khác. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phí bao gồm: Vi phạm quy   định về thẩm quyền quy định về phí, lệ phí; Mức thu phí, lệ phí; Đăng ký, k ª khai, nộp phí, lệ  phí; Quy trình, thủ  tục lập,  b¸o c¸o  phương  án thu phí;  Chứng từ  thu phí, lệ  phí; Miễn, giảm phí, lệ  phí; Kế  toán phí, lệ  phí; Công   khai chế độ thu phí, lệ phí. b. Thu tiền sử  dụng đất (Nghị  định 198/2004/NĐ­CP ngy 03/12/2004  về thu tiền sử dụng đất). Cá nhân, hộ  gia đình,tổ  chức kinh tế  trong nước và ngoài nước phải  nộp tiền sử  dụng đất khi được Nhà nước giao đất để  sử  dụng vào các mục  đích như:  Ở; Xây dựng nhà để  bán hoặc cho thuê; Làm mặt bằng xây dựng   kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê; Xây dựng công trình  c«ng céng  nh»m mục đích kinh doanh; Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi  trống thủy sản, làm muối; Thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời, Nhà nước thu   tiền sử  dụng đất trong các trường hợp: Nhà nước giao đất có thu tiền sử  dụng đất; Chuyển mục đích sử  dụng đất;Chuyển từ  thuê đất sang giao đất;  Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng phải nộp tiền sử  dụng đất theo quy định của pháp luật. 2.12 Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý Nhà nước về  sở  hữu trí   tuệ và chuyển giao công nghệ.  Quản lý nhµ nước về  sở  hữu trí tuệ  bao gồm: Cấp, từ  chối hoặc thu   hồi Văn bằng bảo hộ về kiểu dáng công nghiệp; Cấp, từ  chối hoặc thu hồi   Văn   bằng   bảo   hộ   về  nh·n hiÖu hµng hãa, nh·n hiÖu hµng hãa næi tiÕng... do đó khi không đồng ý với việc trả lời của Cục sở hữu công nghiệp   về   việc  cấp  Văn  bằng  bảo  hộ   thì   người   khiếu  nại   cã  quyền  khởi  kiện  VAHC tại Tßa ¸n (Nghị định số  06/2001/NĐ­CP ngày 24 tháng 10 năm 1996  của Chính phủ quy ®Þnh chi tiết về sở hữu công nghiệp).  Cá nhân, cơ quan, tổ  chức có hành vi cố  ý hoặc vô ý vi phạm các quy   định trong lĩnh vực quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ, nhưng chưa  đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự vµ theo quy định phải bị xử phạt hành   Nguyễn Minh Tâm Trang : 19
  20. Tiểu Luận Cuối Khoá chính thì bị xử phạt theo quy định của Nghị định này (Nghị định 16/2000/NĐ­ CP ngày 10/5/2000 quy định về  việc xử  phạt vi phạm hành chính trong lĩnh   vực quản lý Nhà nước về chuyển giao công nghệ). Vi phạm hành chính trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ bao gồm: ­ Các hành vi vi phạm quy định quản lý nhà nước về  quyền sở  hữu   trong chuyển giao công nghệ; vi phạm các quy định quản lý nhà nước về  chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực văn hóa, quốc phóng, an ninh quốc gia,   trật tự và an toàn xã hội; ­ Các hành vi vi phạm quy định quản lý nhà nước về: nội dung, hính  thức, thời hạn thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ; ­ Các hành vi vi phạm quy định quản lý nhà nước về: báo cáo quá trình   thực hiện hợp đồng với cơ  quan quản lý nhà nước, định mức giá thanh toán  hợp đồng, phê duyệt, đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ, nghĩa vụ  cung cấp thông tin; ­ Các hành vi cản trở hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý  nhà nước có thẩm quyền; ­ Các hành vi vi phạm các quy định quản lý nhà nước về  hoạt động   dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ. 2.13 Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý Nhà nước về đầu tư. 2.14  Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý Nhà nước của cơ  quan   hải quan, công chức hải quan  (Nghị  định 138/2004/NĐ­CP ngày 17/6/2004  quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan). Cá nhân, cơ quan, tổ  chức có hành vi cố  ý hoặc vô ý vi phạm các quy   định pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan mà không phải là   tội phạm và theo quy định của Nghị định này phải bị xử phạt hành chính. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan: ­ Vi phạm các quy định về thủ tục hải quan; ­ Vi phạm các quy định về kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan; ­ Vi phạm các quy định về  xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa,  hành lý, ngoại hối, vàng, tiền Việt Nam, đá quý, cổ  vật, văn hóa phẩm, bưu   phẩm, vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và    Nguyễn Minh Tâm Trang : 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2