intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường trung học phổ thông

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

33
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục "Thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường trung học phổ thông" được nghiên cứu với mục đích khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử, đề tài tập trung khai thác nguồn tư liệu, hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam. Trên cơ sở ứng dụng CNTT, tiến hành thiết kế bảo tàng số hóa theo các chủ đề với ý tưởng sư phạm cụ thể và đề xuất biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học bài nội khóa và tổ chức hoạt động trải nghiệm trong ngoại khóa cho học sinh ở trường THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường trung học phổ thông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI CHU NGỌC QUỲNH THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BẢO TÀNG SỐ HÓA TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XIX Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: LL & PPDH bộ môn Lịch sử Mã số: 9.14.01.11 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2022
  2. 2 Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. NGUYỄN VĂN NINH 2. TS. HOÀNG THANH TÚ Phản biện 1: PGS.TS. HÀ THỊ THU THỦY Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyêm Phản biện 2: TS. ĐOÀN NGUYỆT LINH Trường Đại học Giáo dục – ĐHQG Hà Nội Phản biện 3: PGS.TS. PHAN NGỌC HUYỀN Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2022 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
  3. 3 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Chu Ngọc Quỳnh (2019), Using “digitalized museum” in teaching History in China – lessons learned for Vietnam, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế “Đổi mới sáng tạo trong dạy học và đào tạo giáo viên” lần thứ nhất, chủ đề “Phát triển năng lực người học trong dạy học và đào tạo/bồi dưỡng giáo viên”, Đại học Sư phạm Hà Nội. 2. Chu Ngọc Quỳnh (2020), Sử dụng công cụ ThingLink hỗ trợ thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học “Việt Nam đổi mới và hội nhập quốc tế”, Nxb Thế giới. 3. Chu Ngọc Quỳnh – Nguyễn Văn Ninh – Hoàng Thanh Tú (2021), ThingLink in designing and using digital museums in high school history teaching (with the example of Vietnam museum of ethnology), Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế “Chuyển đổi số và giáo dục đại học: khi thách thức là cơ hội”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, p.121-135. 4. Chu Ngọc Quỳnh – Nguyễn Thùy Linh – Đặng Thị Thùy Dung (2021), Sử dụng Google Sites hỗ trợ số hóa học liệu giảng dạy chuyên đề Lịch sử Việt Nam hiện đại cho sinh viên Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế “Chuyển đổi số và giáo dục đại học: khi thách thức là cơ hội”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, p.312-329. 5. Chu Ngọc Quỳnh (2022), Thực trạng thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, Số Đặc biệt tháng 4, Kì 1. 6. Chu Ngọc Quỳnh (2022), Designing and Using Digital Museums to Organize Experiential Activities for Students in Teaching History at High Schools, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội 2. (Chưa xuất bản, đã phản biện và được nhận đăng). 7. Chu Ngọc Quỳnh (2022), Ứng dụng một số công cụ công nghệ thông tin thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông, Đề tài KH&CN cấp Cơ sở, mã số HPU2.CS-2021.15, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. MỞ ĐẦU
  4. 4 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghệ số hóa và tự động hóa ngày càng phổ biến trong đời sống hiện nay, tác động vào hầu hết các lĩnh vực, làm thay đổi sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là giáo dục và đào tạo. Cuộc cách mạng công nghệ số 4.0 đem lại những thuận lợi vô cùng lớn, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tương lai. Trong kỉ nguyên số, việc áp dụng công nghệ hiện đại vào giáo dục ngày càng được chú trọng. Đặc biệt, trước ảnh hưởng của dịch bệnh Covid- 19, quá trình đó được thúc đẩy nhanh hơn, mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho HS, không gian sáng tạo trong việc ứng dụng CNTT để xây dựng học liệu số hóa nói chung và thiết kế bảo tàng số hóa nói riêng trong dạy học. Một trong những ưu thế của bảo tàng số hóa là tạo điều kiện để các em được học ở mọi nơi, mọi lúc, hướng đến việc học cá nhân hóa, phù hợp với nhu cầu học tập và nghiên cứu trong thời đại giáo dục 4.0. Tuy nhiên, việc xây dựng bảo tàng số hóa của một số bảo tàng ở trong nước hiện nay chủ yếu nhằm mục đích triển lãm, phục vụ công tác lưu trữ, bảo tồn, quảng bá và nhu cầu tham quan trực tuyến của du khách. Còn việc thiết kế và sử dụng để hỗ trợ GV và HS ở các trường phổ thông dạy học rất hạn chế. Vì vậy, ứng dụng CNTT để thiết kế và định hướng cách thức sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học ở trường phổ thông trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng là một hướng đi mới và cần thiết. Trong các môn học ở trường phổ thông, Lịch sử là môn học mang tính đặc thù, đề cập đến các sự kiện đã diễn ra, có thật, tồn tại khách quan trong quá khứ. Do đó, người học không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử mà phải thông qua những “dấu tích” của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc đã diễn ra. Những “dấu tích” đó hiện đang được lưu giữ trong nhiều bảo tàng, di tích ở trung ương và địa phương. Do đó, việc thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa cung cấp các thông tin đa phương tiện cho GV và HS để DHLS như: văn bản, hình ảnh, video, âm thanh... góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng thêm trực quan, cụ thể, sinh động và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của HS. Bên cạnh đó, bảo tàng số hóa gắn với nội dung của bài, thể hiện
  5. 5 được ý tưởng sư phạm với các nhiệm vụ học tập cụ thể, hỗ trợ rất lớn trong quá trình hình thành tri thức lịch sử cho HS. Như vậy, bảo tàng số hóa có nhiều ưu điểm phù hợp với đặc trưng của môn Lịch sử ở trường phổ thông. Hiện nay, Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử năm 2018 đã ban hành và triển khai từ năm 2020 – 2021 đối với cấp Tiểu học và từ 2022 – 2023 đối với cấp THPT. Một trong những điểm mới của Chương trình là nội dung kiến thức lịch sử xây dựng theo hệ thống các chủ đề, chuyên đề. Qua đó, HS được tiếp cận tri thức lịch sử cơ bản trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, tư tưởng. Vì vậy, thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học các chủ đề, chuyên đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết trong DHLS ở trường phổ thông. Bởi mỗi bảo tàng có nội dung trưng bày khác nhau, phù hợp với nội dung kiến thức của nhiều chủ đề trong Chương trình. Ví dụ, những chủ đề lịch sử, quân sự phù hợp với nội dung của các bảo tàng như: Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày...; chủ đề nghệ thuật, văn hóa, xã hội có: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam... GV và HS có thể khai thác nguồn tư liệu của các bảo tàng để tổ chức dạy học, góp phần phát triển cho HS các năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn, đặc biệt là khả năng kết nối lịch sử với thực tiễn cuộc sống. Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX cung cấp các nội dung lịch sử quan trọng của đất nước về quá trình hình thành, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, nghệ thuật của các nhà nước phong kiến Việt Nam. Những nội dung đó được trình bày theo từng chủ đề, chuyên đề với yêu cầu cần đạt và nội dung trưng bày của nhiều bảo tàng lớn tại Hà Nội, trong đó phải kể đến Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam. Do đó, khai thác tư liệu, hiện vật của hai bảo tàng này để dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX là việc làm ý nghĩa, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề quan trọng của lịch sử dân tộc trong thời kì này, đồng thời tạo điều kiện cho HS có cơ hội tiếp cận sự thật lịch sử từ góc nhìn nghệ thuật, hội họa và truyền thống văn hóa của dân tộc. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Thiết kế
  6. 6 và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường trung học phổ thông” làm đề tài luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục, chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng Quy trình thiết kế và biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THPT trong Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử năm 2018. Trong đó, tập trung vào quá trình thiết kế và sử dụng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam số hóa để dạy học bài nội khóa và hoạt động trải nghiệm trong ngoại khóa. 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi lí luận và phương pháp dạy học: đề tài tập trung nghiên cứu lý luận dạy học bộ môn Lịch sử về sử dụng phương tiện trực quan nói chung, bảo tàng số hóa nói riêng và ứng dụng CNTT trong DHLS. - Phạm vi vận dụng: khai thác tư liệu cần và có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam để tổ chức dạy học bài nội khóa và hoạt động trải nghiệm trong ngoại khóa. - Về phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng và thực nghiệm sư phạm: Tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa tại 68 trường THPT thuộc 22 tỉnh, thành phố như: Quảng Ninh, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Phú Thọ, Hà Nội, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Bình Thuận... Tiến hành thực nghiệm sự phạm tại trường: THPT Văn Lãng (Lạng Sơn), THPT Hiền Đa (Phú Thọ), THPT Lương Tài 1 (Bắc Ninh), THPT Quế Võ 1 (Bắc Ninh), THPT Quốc Oai (Hà Nội). 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bảo tàng số hóa trong DHLS, đề tài tập trung khai thác nguồn tư liệu, hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam. Trên cơ sở ứng dụng CNTT, tiến hành thiết kế bảo tàng số hóa theo các chủ đề với ý tưởng sư phạm cụ thể và đề xuất biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học bài
  7. 7 nội khóa và tổ chức hoạt động trải nghiệm trong ngoại khóa cho HS ở trường THPT. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ cụ thể: - Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng số hóa nói riêng trong DHLS ở trường THPT. - Tìm hiểu cấu trúc, nội dung Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử năm 2018. - Điều tra, phân tích thực trạng sử dụng bảo tàng nói chung, bảo tàng số hóa nói riêng trong DHLS ở trường THPT. - Khai thác tư liệu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX và tiến hành số hóa những tư liệu đó. - Đề xuất một số biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học bài nội khóa và hoạt động trải nghiệm trong ngoại khóa. - Thực nghiệm sư phạm để bước đầu kiểm tra tính khả thi của các biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa đề xuất. Từ đó rút ra kết luận và ý nghĩa khoa học của đề tài. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, về nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đọc, sưu tầm và phân tích các tài liệu từ sách, báo, tạp chí, Internet… về tâm lý học, giáo dục học; lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử, đặc biệt là lí luận về sử dụng bảo tàng trong dạy học; ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng; nghiên cứu chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử năm 2018, tập trung nghiên cứu nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. - Phương pháp tiếp cận thực tiễn: điều tra, khảo sát, phỏng vấn để
  8. 8 tìm hiểu thực trạng sử dụng bảo tàng số hóa trong DHLS ở trường THPT. - Thực nghiệm sư phạm: tiến hành thực nghiệm các biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa dạy học môn Lịch sử ở trường THPT trên địa bàn một số tỉnh Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Nội. Sử dụng toán học thống kê để xử lý kết quả thực nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp do đề tài đưa ra. 5. Giả thuyết khoa học Thực tiễn DHLS ở trường THPT, vấn đề thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa còn nhiều bất cập. Vì vậy, nếu xác định được nội dung lịch sử và tư liệu, hiện vật của bảo tàng cần khai thác để thiết kế bảo tàng số hóa, từ đó đề xuất được quy trình thiết kế và các biện pháp sử dụng phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, hoàn thành mục tiêu môn học. 6. Đóng góp của đề tài Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, đề tài góp phần: - Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng số hóa nói riêng trong DHLS ở trường phổ thông. - Đánh giá được thực trạng việc sử dụng bảo tàng nói chung và bảo tàng số hóa nói riêng trong DHLS ở trường THPT. - Lựa chọn tư liệu, hiện vật và đề xuất được quy trình thiết kế, yêu cầu khi thiết kế bảo tàng số hóa trong DHLS ở trường phổ thông. - Đề xuất được một số biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THPT theo Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử năm 2018. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn: - Ý nghĩa lý luận: kết quả nghiên cứu góp phần làm phong phú thêm lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử, về việc sử dụng bảo tàng nói chung và thiết kế, sử dụng bảo tàng số hóa nói riêng trong DHLS ở trường THPT. - Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu góp phần giúp GV ở trường phổ thông có thể thiết kế và vận dụng bảo tàng số hóa vào thực tiễn dạy học để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đồng thời, kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh
  9. 9 chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử trong học tập và giảng dạy. 8. Cấu trúc của Luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án bố cục gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chương 2: Vấn đề thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT. Lý luận và thực tiễn Chương 3: Nội dung và quy trình thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THPT Chương 4: Một số biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THPT. Thực nghiệm sư phạm. Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu về sử dụng bảo tàng trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng 1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài Những nghiên cứu thu thập được cho thấy các tác giả đã tập trung làm rõ vai trò, ý nghĩa, mục đích của bảo tàng đối với giáo dục; mối quan hệ tương hỗ giữa bảo tàng và nhà trường; biện pháp hiệu quả để kết nối bảo tàng với công chúng và trường học; đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết của việc sử dụng bảo tàng trong DHLS. Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở lý luận quan trọng cho đề tài luận án và giúp chúng tôi có thể khát quát được thực tiễn phát triển và sử dụng bảo tàng trong dạy học ở một số nước trên thế giới. 1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến các vấn đề về cơ sở lý luận của việc sử dụng bảo tàng trong dạy học, đặc biệt đối với việc giảng dạy bộ môn LS. Trên thực tế, GV đã và đang tiếp tục tìm ra những giải pháp phù hợp để đưa bảo tàng đến với lớp học; ngược lại, một số
  10. 10 bảo tàng cũng đã nỗ lực thực hiện các chiến lược nhằm gắn kết bảo tàng với trường học. Bên cạnh đó, các tác giả đã khái quát thực tế sử dụng bảo tàng trong DHLS ở trường phổ thông hiện nay qua việc phân tích cách thức sử dụng, hoạt động dạy học tại bảo tàng và những khó khăn thường trực như: khoảng cách địa lý, kinh phí, cách thức tổ chức... Hiện nay, với sự hỗ trợ của công nghệ số hóa, bảo tàng và trường học nói chung, bảo tàng và môn LS nói riêng sẽ có thêm nhiều hơn những cơ hội để HS được khám phá và trải nghiệm. Đó là hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài luận án dựa trên cơ sở kế thừa những thành quả đạt được từ các nghiên cứu của các tác giả trong nước. 1.2. Các công trình nghiên cứu về sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng 1.2.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài Thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa nhằm phát huy chức năng bảo tồn, quảng bá và giáo dục đã được thực hiện hiệu quả ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, công nghệ thực tế ảo (AR, VR) và website 3D khẳng định ưu thế nổi trội trong việc góp phần tạo ra các bảo tàng số hóa. Những kinh nghiệm về lựa chọn phần mềm thiết kế, quy trình số hóa, ưu điểm và hạn chế, đặc biệt là ý tưởng nâng tầm trải nghiệm của người dùng của các nghiên cứu là bài học quan trọng giúp chúng tôi lựa chọn và thiết kế bảo tàng số hóa phù hợp với thực tiễn giáo dục ở Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển chung của các bảo tàng trên thế giới trong giai đoạn hiện nay. 1.2.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước Mặc dù các nghiên cứu về vấn đề xây dựng bảo tàng số hóa ở trong nước còn hạn chế, nhưng những hoạt động tiên phong trong công cuộc số hóa hiện vật để đưa bảo tàng tiếp cận gần hơn với công chúng, cho thấy các bảo tàng ở Việt Nam đang đi cùng với xu hướng phát triển của các bảo tàng trên thế giới. Tuy nhiên, việc thiết kế bảo tàng số hóa nhằm phục vụ mục đích lưu trữ hiện vật, quảng bá hình ảnh bảo tàng và nhu cầu tham quan trực tuyến của du khách. Việc sử dụng bảo tàng số hóa phục vụ mục đích dạy học nói chung và DHLS nói riêng rất hạn chế. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiếp tục tìm kiếm những phương án tối ưu để thiết kế và đề xuất biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa trong DHLS ở trường phổ thông. 1.3. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
  11. 11 học đã công bố và những vấn đề luận án kế thừa, tiếp tục giải quyết 1.3.1. Một số nhận xét chung về các công trình khoa học Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của bảo tàng trong giáo dục nói chung và DHLS nói riêng. Tư liệu, hiện vật của bảo tàng giúp HS được tìm hiểu LS một cách chân thực, cụ thể và sinh động. Thứ hai, việc sử dụng tư liệu, hiện vật của bảo tàng trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng đã và đang là một xu thế phổ biến ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, nhà trường phổ thông cùng phối hợp với các bảo tàng tổ chức nhiều hoạt động bổ ích cho HS. Đặc biệt, mỗi GV Lịch sử không ngừng cố gắng xây dựng kế hoạch dạy học đa dạng các hình thức nhằm kết nối bảo tàng với từng bài học lịch sử, bên cạnh các hình thức chủ yếu là tham quan, dã ngoại, kể chuyện lịch sử còn có những hình thức mới mẻ khác như tổ chức triển lãm, trò chơi lịch sử, dạ hội lịch sử, trải nghiệm với hiện vật… nhằm kích thích niềm đam mê tìm hiểu lịch sử và thu hút sự tham gia của HS. Tuy nhiên, việc sử dụng bảo tàng trong dạy học vẫn còn nhiều hạn chế, chưa được tổ chức thường xuyên, rộng khắp do khoảng cách địa lý, điều kiện của từng trường, lớp ở mỗi vùng, miền và đặc biệt là sự đầu tư nâng cao hiệu quả bài học LS của đội ngũ GV. Thứ ba, công nghệ và đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc nghiên cứu và ứng dụng bảo tàng số hóa. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển đó. Hiện nay, các bảo tàng trong nước liên tục đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong các triển lãm bảo tàng. Nhưng nhìn chung, ứng dụng kỹ thuật số tại các bảo tàng còn chậm so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong không gian trưng bày, một số bảo tàng đã bố trí thiết bị điện tử hỗ trợ khách tham quan tìm hiểu, nghiên cứu hiện vật, làm phong phú lượng thông tin và cách thức truyền tải tới du khách. Chương trình tương tác, trình chiếu 3D phục vụ trưng bày và các hoạt động công chúng của một số bảo tàng ở trung ương tạo cơ hội cho du khách được tiếp cận với bảo tàng ở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt, GV và HS ở trường phổ thông có thể khai thác những học liệu số hóa đó để dạy và học tập lịch sử. Tuy nhiên, các bảo tàng số hóa hiện nay chủ yếu phục vụ nhu cầu tham quan trực tuyến của du khách, còn định hướng sử dụng để học tập lịch sử rất hạn chế. Điều đó khiến cho GV và HS “ngại”
  12. 12 sử dụng bảo tàng số hóa để dạy và học. Các kết quả nghiên cứu nêu trên là cơ sở lý luận và định hướng cho chúng tôi thực hiện đề tài luận án. Mặc dù vấn đề sử dụng bảo tàng để DHLS ở trường phổ thông đã được đề cập ở những góc độ khác nhau, song chưa có một tài liệu nào đi sâu nghiên cứu để trả lời các câu hỏi sau một cách có hệ thống: Thứ nhất, bảo tàng số hóa là gì? Vì sao cần sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông? Thứ hai, thiết kế bảo tàng số hóa như thế nào để phù hợp với thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường phổ thông? Thứ ba, thực trạng sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT hiện nay như thế nào? Thứ tư, có những biện pháp sư phạm nào có thể định hướng cho GV, HS sử dụng bảo tàng số hóa để dạy và học Lịch sử? Thứ năm, các biện pháp sử dụng bảo tàng số hóa đề xuất trong luận án có khả thi và hiệu quả hay không? Trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận án sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau: Một là: làm rõ khái niệm bảo tàng số hóa; nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết tiến hành số hóa bảo tàng đối với sự phát triển của bảo tàng và việc dạy học Lịch sử. Hai là: cụ thể quy trình số hóa bảo tàng, lựa chọn và giới thiệu phần mềm CNTT phù hợp để số hóa bảo tàng phù hợp với thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Trong phạm vi luận án, chúng tôi sẽ tiến hành thiết kế hai bảo tàng số hóa: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam để dạy học nội dung lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ở trường THPT. Ba là: đánh giá chung về thực trạng sử dụng bảo tàng và bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT hiện nay. Từ đó, phân tích, làm rõ những vấn đề thực tiễn đặt ra cần giải quyết. Bốn là: nghiên cứu cấu trúc chương trình môn Lịch sử THPT năm 2018, cụ thể là phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX; xác định những nội dung kiến thức cơ bản cần và có thể sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học. Năm là: đề xuất một số biện pháp sư phạm sử dụng các bảo tàng số
  13. 13 hóa để dạy nội dung lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX trong bài nội khóa và hoạt động trải nghiệm ở trường THPT. Chương 2 VẤN ĐỀ THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BẢO TÀNG SỐ HÓA TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Quan niệm về thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử ở trường THPT 2.1.1.1. Số hóa 2.1.1.2. Bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Chúng tôi đã phân biệt điểm giống và khác nhau của một số khái niệm: số hóa bảo tàng, bảo tàng số hóa, bảo tàng ảo. Để phù hợp với đặc thù giảng dạy trong trường học nói chung, DHLS nói riêng, chúng tôi quan niệm bảo tàng số hóa là hệ thống hiện vật của bảo tàng thực được chuyển đổi thành những dữ liệu số hóa với nhiều định dạng khác nhau như: văn bản, hình ảnh, âm thanh, video... theo ý tưởng sư phạm cụ thể nhằm phục vụ việc dạy và học lịch sử với sự hỗ trợ của CNTT. Như vậy, bảo tàng số hóa không chỉ đơn thuần thể hiện chức năng trưng bày, giới thiệu hiện vật, mà với ý tưởng sư phạm gắn với nội dung kiến thức lịch sử cụ thể, bảo tàng số hóa gợi ý cho GV cách dạy và HS cách học lịch sử hiệu quả. 2.1.1.3. Thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Chúng tôi quan niệm thiết kế bảo tàng số hóa trong DHLS là quá trình GV tạo nên bảo tàng số hóa dựa trên hệ thống hiện vật sẵn có của các bảo tàng hoặc GV tái tạo theo mục đích sư phạm cụ thể. Có nghĩa, GV có thể sử dụng các hiện vật đã được số hóa của các bảo tàng số hóa hiện nay hoặc tự số hóa hiện vật theo nhiều cách khác nhau như tự chụp, tự quay video, tự mã hóa, chỉnh sửa,… bằng các công cụ, phần mềm CNTT phù hợp. Sau đó, GV sắp xếp, trưng bày các hiện vật theo ý tưởng sư phạm gắn với nội dung kiến thức lịch sử cụ thể, qua đó gợi ý cho GV cách dạy và HS cách sử dụng để học tập lịch sử hiệu quả. Trong quá trình thiết kế, GV cần
  14. 14 chú trọng đến yếu tố đơn giản, nhưng tạo nên được hiệu ứng tương tác tốt, có như vậy bảo tàng số hóa mới phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ HS học tập, nghiên cứu và phát huy tính tích cực, sáng tạo. 2.1.1.4. Sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Khi sử dụng, GV cần chú ý khai thác những ưu điểm của bảo tàng số hóa để dạy học lịch sử theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất của HS. Cụ thể, GV sử dụng bảo tàng số hóa trong các bài nội khóa và hoạt động trải nghiệm góp phần thực hiện các yêu cầu cần đạt của Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử 2018. Dù là sử dụng theo cách nào, GV cần chú ý vận dụng linh hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy được những tính năng ưu việt của bảo tàng số hóa, định hướng HS tìm hiểu, trải nghiệm với các hiện vật. Như trong nghiên cứu của mình, Francesca Albrezzi (2019) đã nhấn mạnh:“cho phép mọi người đưa ra lựa chọn và tạo ra sự trải nghiệm học tập của riêng họ là một thế mạnh” của việc sử dụng bảo tàng số hóa. 2.1.2. Đặc điểm của bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử ở trường THPT Thứ nhất, tính trực quan, sinh động. Hiện vật của bảo tàng thực được số hóa với nhiều định dạng khác nhau như văn bản, hình ảnh, video, âm thanh, đồ họa... cung cấp thông tin đa dạng, phong phú về hiện vật lịch sử. Điều đó kích thích các giác quan thu nhận thông tin của HS, giúp việc lĩnh hội các nội dung kiến thức lịch sử trở nên trực quan và dễ dàng hơn. Thứ hai, tính sư phạm, định hướng. Bảo tàng số hóa không chỉ trình bày thông tin hiện vật mà còn thể hiện được ý tưởng sư phạm gắn với nội dung kiến thức hoặc chủ đề lịch sử cụ thể. Việc kết nối hiện vật trưng bày với nội dung kiến thức lịch sử về bản chất đã thể hiện tính sư phạm của bảo tàng số hóa. Ngoài ra, GV có thể chủ động thiết kế các nhiệm vụ học tập cho HS như: trả lời câu hỏi trắc nghiệm, thảo luận, thực hành sáng tạo sản phẩm... định hướng HS khai thác thông tin hiện vật để đạt được mục tiêu của bài học hiệu quả và gợi ý những ý tưởng nghiên cứu mới cho HS. Thứ ba, tính tương tác. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của bảo tàng số hóa. Tính tương tác thể hiện ở chỗ: đối với hình ảnh, HS có thể bấm xoay chuyển hoặc lật mở nhiều bức ảnh khác nhau, giúp các em quan sát được hiện vật ở nhiều góc độ rõ ràng hơn; các video, ghi âm thuyết minh hoặc link liên kết giúp HS có thể so sánh, đối chiếu, cũng như tìm ra giá trị lịch
  15. 15 sử của các hiện vật thông qua bài báo, bài phóng sự hay không gian trưng bày cũng về hiện vật đó tại một bảo tàng khác; HS có thể chơi các trò chơi lịch sử, trả lời câu hỏi trắc nghiệm, thảo luận trên diễn đàn, sử dụng các đồ họa để thực hiện nhiệm vụ học tập... ở trên bảo tàng số hóa, và còn nhiều hoạt động tương tác khác nữa. Chung quy lại, các biển báo “Không chạm vào hiện vật” sẽ không là rào cản đối với HS khi sử dụng bảo tàng số hóa. Thứ tư, tính kĩ thuật, thẩm mĩ. Bảo tàng số hóa được tạo ra dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin. Mỗi hiện vật cũng như từng hoạt động tương tác trên bảo tàng số hóa đều là một sự kết hợp tỉ mỉ giữa các thao tác kĩ thuật, từ khâu căn chỉnh, sắp xếp bố cục đến việc tạo hiệu ứng sinh động, giao diện bắt mắt. Trong quá trình thiết kế, GV cần đảm bảo tính kĩ thuật và thẩm mĩ, làm sao để HS chỉ cần nhìn là muốn khám phá, và khi tham gia sẽ cảm thấy bị cuốn bởi sự thuận tiện, mới mẻ và hiện đại. Thứ năm, tính logic, hệ thống. Bảo tàng số hóa thể hiện đặc điểm này qua việc GV bố cục các hiện vật theo tiến trình phát triển của lịch sử hoặc tạo ra không gian đối chiếu, so sánh giữa các hiện vật. Điều đó giúp HS khái quát được các sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, việc sắp xếp các nhiệm vụ học tập, tương tác từ đơn giản đến phức tạp, từ việc tìm hiểu hiện vật đến nhận xét, đánh giá, thực hành sáng tạo sản phẩm cũng thể hiện tính logic, phù hợp với quá trình nhận thức lịch sử của HS. Thứ sáu, tính tích hợp. Bảo tàng số hóa trong DHLS là sự kết nối giữa nội dung kiến thức lịch sử với nội dung trưng bày của bảo tàng. Tính tích hợp được thể hiện qua việc bảo tàng số hóa hỗ trợ HS được tiếp cận sự thật lịch sử qua các lăng kính khác nhau ngoài cách học thông sử như: qua góc nhìn truyền thống văn hóa dân tộc với đặc trưng của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam; qua góc nhìn nghệ thuật, hội họa với Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam; hay qua cuộc đời, sự nghiệp của một vị lãnh tụ với Bảo tàng Hồ Chí Minh... Bản thân mỗi chủ đề trong Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử 2018 đã tích hợp về mặt nội dung. Do đó, sự kết nối nội dung trưng bày của bảo tàng số hóa với từng chủ đề của Chương trình góp phần giúp HS kết nối kiến thức lý thuyết với thực tiễn cuộc sống. Tóm lại, trong DHLS bảo tàng số hóa thể hiện các ưu thế nổi bật trong việc hỗ trợ HS được trải nghiệm đa phương tiện, tương tác với hiện vật của
  16. 16 bảo tàng ở mọi lúc, mọi nơi bằng các thiết bị khác nhau, với tốc độ học tập khác nhau. Bảo tàng số hóa không chỉ thể hiện ý tưởng trưng bày hiện vật mà qua đó GV biết cách tổ chức các hoạt động học tập cho HS; đồng thời, HS biết cách tìm hiểu hiện vật hiệu quả. 2.1.3. Cơ sở xuất phát của việc thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử 2.1.3.1. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường THPT 2.1.3.2. Đặc điểm của kiến thức lịch sử ở trường THPT 2.1.3.3. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh ở trường THPT 2.1.3.4. Yêu cầu đổi mới giáo dục môn Lịch sử ở trường THPT 2.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử ở trường THPT 2.1.4.1. Vai trò của việc thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử ở trường THPT - Cung cấp nguồn tư liệu phong phú, giúp mở mang hiểu biết, bổ sung kiến thức cho GV và HS. - Gợi ý cho GV ý tưởng tổ chức dạy học, hỗ trợ GV chuẩn bị bài dạy và hướng dẫn HS học lịch sử. - Hỗ trợ GV tổ chức dạy học tích hợp theo chủ đề, dạy học theo dự án, hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm cho HS khi không có điều kiện đến bảo tàng thực. 2.1.4.2. Ý nghĩa của việc thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử ở trường THPT Góp phần hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho HS. 2.1.5. Điều kiện triển khai sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Khái quát việc xây dựng bảo tàng số hóa ở một số nước trên thế giới và Việt Nam Nhận xét chung, việc triển khai ứng dụng CNTT trong hệ thống bảo tàng của nước ta còn rất chậm. Không những thế, sự triển khai ứng dụng tin học giữa các bảo tàng trung ương và các bảo tàng địa phương cũng có sự chênh lệch đáng kể. Đến năm 2021, trong bối cảnh đại dịch toàn cầu, nhiều bảo tàng trung ương và ở địa phương mới thực sự bắt đầu có những
  17. 17 động thái “chuyển mình” để có thể bắt nhịp với xu thế của thời đại và đáp ứng nhu cầu tham quan của du khách khi không trực tiếp đến được bảo tàng thực. Mặc dù việc xây dựng các bảo tàng số hóa ở Việt Nam đang từng bước triển khai thực hiện, nhưng so với các bảo tàng số hóa ở nước ngoài, vai trò của các bảo tàng số hóa ở nước ta chủ yếu vẫn là lưu trữ, trưng bày, giới thiệu hiện vật đến công chúng. Việc xây dựng và sử dụng bảo tàng số hóa như một cộng đồng học tập ảo, kết nối với trường học nhìn chung còn hạn chế. 2.2.2. Thực trạng sử dụng bảo tàng và bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Chúng tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của 120 GV và 531 HS đang giảng dạy và học tập tại 68 trường THPT thuộc 22 tỉnh, thành phố từ đồng bằng đến trung du, miền núi: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Hòa Bình, Phú Thọ, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Kiên Giang, Bình Thuận. Nội dung điều tra, khảo sát: tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: Đối với GV: nội dung chính của điều tra khảo sát tập trung ba vấn đề chính: quan niệm về bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử (khái niệm; vai trò, ý nghĩa); thực tế của việc sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử (các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng, tần suất, hình thức, khó khăn của GV khi sử dụng bảo tàng số hóa); mong muốn và đề xuất của GV về cách thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa. Đối với HS: nội dung điều tra, khảo sát tập trung vào thực tiễn và tác động của việc sử dụng bảo tàng số hóa đối với HS (khái niệm; vai trò, ý nghĩa; khó khăn, thuận lợi của HS khi sử dụng bảo tàng số hóa; mức độ hứng thú, tham gia vào bài học khi có sử dụng bảo tàng số hóa; mong muốn và đề xuất của HS để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng bảo tàng số hóa trong học tập Lịch sử). 2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng Thứ nhất, mặc dù GV và HS đều nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa quan trọng của việc sử dụng tư liệu, hiện vật của bảo tàng để dạy học Lịch sử, nhưng vẫn chỉ có rất ít GV quan tâm sử dụng bảo tàng khi xây dựng kế hoạch bài dạy. Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng trên, trong đó phải kể
  18. 18 đến việc GV và HS lúng túng khi tìm kiếm tư liệu, hiện vật của bảo tàng trên mạng. Hiện nay, mỗi bảo tàng đã có website riêng, nhưng việc cập nhật thông tin cho hiện vật còn khá hạn chế, đặc biệt là những bảo tàng ở địa phương. Thông thường, các bảo tàng tập trung cung cấp các thông tin cơ bản như tên gọi, niên đại, chất liệu, kích thước của những hiện vật tiêu biểu. Trong khi đó, những câu chuyện lịch sử đằng sau các hiện vật của bảo tàng là điều mà GV và HS quan tâm và mong muốn sử dụng lại tương đối hạn chế. Vì không hiểu hết được ý nghĩa, giá trị lịch sử của hiện vật hoặc có quá nhiều hiện vật trưng bày, khiến cho GV và HS tương đối “ngại” khi lựa chọn sử dụng bảo tàng để dạy học. Do đó, khi chủ động thiết kế bảo tàng số hóa, GV cũng chủ động hơn trong việc chọn lọc tư liệu, sắp xếp tư liệu theo ý tưởng sư phạm cụ thể, kết nối thông tin của từng hiện vật với nội dung kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, khiến cho việc sử dụng bảo tàng để dạy học phù hợp và hiệu quả hơn. Thứ hai, vấn đề thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng còn khá mới mẻ đối với GV và HS ở trường THPT. Nhưng không có nghĩa họ chưa từng thiết kế bảo tàng số hóa. Theo kết quả khảo sát, việc GV thu thập hình ảnh mỗi khi đến tham quan một bảo tàng nào đó và lựa chọn sử dụng phần mềm thân thiện như PowerPoint để trình chiếu hình ảnh và thông tin của hiện vật cho HS trong những bài học Lịch sử, là một cách thiết kế nhằm giúp HS tiếp cận với nguồn tư liệu gốc ở bảo tàng. Tuy nhiên, trở lại với một bảo tàng số hóa đúng nghĩa, khi HS được tương tác nhiều hơn với hiện vật thông qua nhiều giác quan hơn ngoài quan sát hình ảnh, đọc thông tin, thì GV và HS chưa thực hiện được nhiều và chưa tiếp cận nó một cách phổ biến. Vì vậy, lựa chọn và ứng dụng công cụ CNTT với thao tác thiết kế đơn giản, thuận tiện, phù hợp với năng lực thực hành của GV và HS để số hóa tư liệu, hiện vật của bảo tàng; đồng thời, có thể định hướng cho HS cách học và gợi ý cho GV cách dạy là điều mà nhiều GV và HS mong muốn có được đối với một thiết kế bảo tàng số hóa. Thứ ba, sự bó hẹp trong một khuôn khổ nhất định về ý tưởng sử dụng bảo tàng số hóa để dạy học Lịch sử. Theo kết quả điều tra khảo sát, phần lớn ý kiến GV và HS đánh giá bảo tàng số hóa phù hợp với đặc thù của một số biện pháp như: dạy học tích hợp theo chủ đề, dạy học dự án, tổ
  19. 19 chức hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm. Các biện pháp này không chỉ phát huy ưu thế của bảo tàng số hóa, mà còn phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học tập của HS. Nhưng vấn đề cần làm rõ ở đây là: bảo tàng số hóa không chỉ phù hợp với các biện pháp như trên, mà trong mỗi bài dạy, GV có thể sử dụng để cụ thể hóa, mở rộng nội dung kiến thức lịch sử cho HS hoặc hướng dẫn HS thiết kế câu hỏi, bài tập liên hệ, tổ chức trò chơi khám phá... Chính những biện pháp đó giúp cho việc sử dụng bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử trở nên thường xuyên và bớt áp lực hơn về mặt thời gian, công sức chuẩn bị cho cả GV và HS. Chương 3 NỘI DUNG VÀ QUY TRÌNH THIẾT KẾ BẢO TÀNG SỐ HÓA TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XIX Ở TRƯỜNG THPT 3.1. Nội dung bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX 3.1.1. Nội dung lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX trong Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử 2018 3.1.2. Nội dung bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Dựa theo yêu cầu cần đạt của Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử 2018, nội dung lịch sử Việt Nam (thế kỉ X - thế kỉ XIX) và nội dung trưng bày của hai bảo tàng: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam, chúng tôi xác định những nội dung kiến thức cơ bản sau có thể thiết kế và sử dụng bảo tàng số hóa để DHLS, thể hiện cụ thể trong sơ đồ 3.1 dưới đây:
  20. 20 Sơ đồ 3.1: Nội dung bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX 3.2. Thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX 3.2.1. Mục tiêu thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 3.2.2. Yêu cầu cơ bản khi thiết kế bảo tàng số hóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 3.2.3. Lựa chọn nguồn tư liệu thiết kế bảo tàng số hóa dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Khai thác nội dung trưng bày của Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam và Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam để thiết kế bảo tàng số hóa dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Bởi hai bảo tàng này đem đến cho HS một cách tiếp cận lịch sử mới mẻ: nhìn nhận lịch sử dân tộc thông qua góc nhìn mĩ thuật và bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1