Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Diễn ngôn về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (Khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu)
lượt xem 4
download
Tóm tắt "Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Diễn ngôn về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (Khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu)" có mục đích làm sáng tỏ cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và diễn giải mô hình nữ tính mới trong sáng tác của các tác giả nói trên. Chỉ ra tính đặc thù của hình tượng người phụ nữ trong mối quan hệ với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Diễn ngôn về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (Khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI PHAN THỊ TÂM THANH DIỄN NGÔN VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX (KHẢO SÁT QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN HÀ NỘI – 2022
- CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN VĂN TOÀN Phản biện 1: PGS.TS Phạm Xuân Thạch Trường Đại học KHXH&NV ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS.TS Bùi Thanh Truyền Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh Phản biện 3: PGS.TS Phùng Ngọc Kiên Viện Văn học Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Phan Thị Thanh Tâm (2018), “Masculinizing the feminine in Tu Luc Van Doan” (A case study Khai Hung’s Cock – Hen (Trống mái) (2018), HNUE Journal of Sciences, Volume 63, Issue 7. 2. Phan Thị Thanh Tâm (2018), “Xung đột của quan điểm truyền thống và quan điểm cá nhân trong Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách” (2018), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Đông Á: Những vấn đề nghiên cứu và dạy học Ngữ văn, Trường ĐHSP Thành Phố Hồ Chí Minh, 338-343. 3. Phan Thị Thanh Tâm (2018), “Diễn ngôn dân tộc và hình tượng người phụ nữ trong vở kịch Ông tây An Nam của Nam Xương” (2019), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Văn học và giới, Trường ĐHSP Huế, 591-597.
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Ngày nay, diễn ngôn đã trở thành một lí thuyết quan trọng, thúc đẩy khoa học xã hội và nhân văn phát triển thêm một hướng nghiên cứu mới giàu tiềm năng, mở rộng những giới hạn trước đó. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn diễn ngôn chủ yếu nghiên cứu tác phẩm trên phương diện tư tưởng, thế giới quan, nghiên cứu phương thức kiến tạo chân lí, kiến tạo bức tranh về thế giới, góp phần tăng thêm một chiều kích về hiện thực xã hội. Ở Việt Nam, cùng với việc giới thiệu lý thuyết diễn ngôn, nhiều nhà khoa học đã vận dụng lý thuyết diễn ngôn để phân tích thực tiễn văn học, và gặt hái được những thành tựu đáng kể, tiêu biểu như Trần Đình Sử, Lã Nguyên, Trần Văn Toàn,... Vì vậy, việc đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX được nảy sinh từ quá trình trình vận động và phát triển trong việc nghiên cứu và tiếp nhận lý thuyết nước ngoài ở Việt Nam. 1.2. Từ đầu thế kỷ XX đến 1945 là “thời kỳ vàng” của lịch sử văn học Việt Nam. Văn học xuất hiện nhiều khuynh hướng, trào lưu khác nhau, mà ở khuynh hướng, trào lưu nào cũng hiện diện những cây bút xuất sắc với những tác phẩm xứng đáng được gọi là danh tác, trong đó có nhiều tác phẩm đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề người phụ nữ. Đầu thế kỉ XX, các phong trào giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền và phong trào duy tân, giải phóng dân tộc ngày càng lan rộng trong xã hội, vấn đề phụ nữ trở thành vấn đề trung tâm của đời sống chính trị xã hội, văn hóa và giáo dục. Hình tượng người phụ nữ giờ đây, trở thành điểm quy chiếu cho các vấn đề giai cấp, dân tộc, được phản ánh trên bình diện xã hội, triết học, mĩ học, mang những đặc điểm mới mẻ so với người phụ nữ trong văn học trung đại. 1.3. Đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá hệ thống nhân vật nữ trong văn học với tư cách là những nhân vật chính, những nhân vật tạo nên sự thành công của tác phẩm, khẳng định sự sáng tạo độc đáo, góp phần làm sáng tỏ tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các nhà văn. Luận án của chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật nửa đầu thế kỉ XX. Kết quả nghiên cứu của luận án giúp nhận diện tính chất đặc thù và đa dạng của hình tượng người phụ nữ qua hệ thống các diễn ngôn, qua đó thấy được sự vận động của lịch sử tư tưởng về vấn đề người phụ nữ trong văn học qua các thời kỳ, góp phần đánh giá đóng góp của dòng văn xuôi nghệ thuật giai đoạn 1900 - 1945 trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và mô hình nữ tính mới trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu.
- 2 2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu chung của luận án là sáng tác của một số tác giả tiêu biểu trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Cụ thể, chúng tôi khảo sát các sáng tác đề cập trực tiếp đến vấn đề người phụ nữ trong mối quan hệ với các diễn ngôn thời đại và có chứa những nét biến đổi cơ bản trong quan niệm về nữ tính so với những sáng tác văn học trong quá khứ, đó là truyện ký và tiểu thuyết của Phan Bội Châu, truyện và ký sự của Tản Đà, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, truyện ngắn và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng. Phạm vi nghiên cứu tuy đã được giới hạn những vẫn đảm bảo tính phổ quát, tính hệ thống của đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận án hướng tới những mục đích cơ bản sau: - Làm sáng tỏ cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và diễn giải mô hình nữ tính mới trong sáng tác của các tác giả nói trên. - Chỉ ra tính đặc thù của hình tượng người phụ nữ trong mối quan hệ với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá. - Chỉ ra những đóng góp và cả hạn chế của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về các phương diện nói trên. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau: - Giới thuyết khái niệm diễn ngôn, đặc trưng của diễn ngôn văn học, các thao tác phân tích diễn ngôn văn học; làm rõ nội hàm của các khái niệm, thuật ngữ này và xem đó là công cụ then chốt trong quá trình nghiên cứu của luận án. - Chứng minh cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và diễn giải bản sắc nữ tính mới qua việc phân tích các tương quan quyền lực/tri thức và sự giao cắt phức tạp của các tương quan này trong đời sống tư tưởng, văn hóa nửa đầu thế kỉ XX, bằng hệ thống các luận điểm, luận chứng cụ thể. - Chỉ ra sự vận động trong tư tưởng của từng tác giả, khuynh hướng tư tưởng của thời đại đã tạo nên tính đặc thù, tính đa dạng của hình tượng người phụ nữ qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Trong công trình này, chúng tôi chủ yếu vận dụng lý thuyết diễn ngôn của M. Foucault làm công cụ để khảo sát tập trung và có hệ thống cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và mô hình nữ tính mới trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX qua sáng tác của một số tác giả tiêu biểu thuộc các trào lưu, khuynh hướng chính.
- 3 4.2. Cùng với việc tuân thủ các nguyên tắc nghiên cứu khoa học nói chung, do nội dung và tính chất của đề tài, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp cấu trúc – hệ thống: nhằm định hình những đặc trưng cơ bản của mô hình nữ tính mới thông qua hệ thống các diễn ngôn cũng như xem xét sự vận động của vấn đề phụ nữ trên cả hai bình diện đồng đại và lịch đại. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: dựa vào một số khái niệm của thi pháp để thấy được đặc điểm riêng về hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của từng tác giả, từng khuynh hướng, trào lưu là một việc làm cần thiết, bổ sung giá trị thẩm mĩ bên cạnh ý nghĩa xã hội học cho luận án khi nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Khi đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về người phụ nữ, chúng tôi không chỉ nghiên cứu chất liệu ngôn ngữ xây dựng nên hình tượng người phụ nữ mà chủ yếu nghiên cứu các quy tắc tư tưởng xã hội chìm sâu, hữu thức hoặc vô thức, đã chi phối quá trình sáng tác của nhà văn. Đây là kiểu nghiên cứu liên ngành cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng; giữa văn học và văn hóa; giữa tính xã hội và tính thẩm mĩ. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: để thấy được tính chất ổn định cũng như biến đổi của hình tượng người phụ nữ khi nhìn dưới góc độ diễn ngôn, không thể không tiến hành so sánh, đối chiếu các sáng tác của cùng một tác giả ở các giai đoạn khác nhau, sáng tác của các tác giả ở các trào lưu, khuynh hướng khác nhau ở cả hai bình diện đồng đại và lịch đại. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thao tác sau để bổ trợ cho các phương pháp nghiên cứu trên: - Thao tác phân tích – tổng hợp: dùng để phân tích các tương quan tri thức/quyền lực, sự biến đổi của khung tri thức thời đại, sự dịch chuyển của cơ cấu xã hội... Từ việc khảo sát các tác phẩm, thu thập các tài liệu liên quan, chúng tôi sẽ khái quát thành những nhận định chung về người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật nửa đầu thế kỉ XX. - Thao tác thống kê - phân loại: nhằm tập hợp các sáng tác, phân loại theo từng tác giả, khuynh hướng, trào lưu để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, phục vụ mục đích nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận án - Luận án là một trong những công trình chuyên biệt đầu tiên vận dụng lí thuyết diễn ngôn để nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của một số tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. - Luận án chỉ ra cơ chế tạo lập diễn ngôn về người phụ nữ và diễn giải bản sắc
- 4 nữ tính mới qua việc phân tích các tương quan quyền lực/tri thức và sự giao cắt phức tạp của các tương quan này trong đời sống tư tưởng, văn hóa nửa đầu thế kỉ XX. - Luận án cung cấp thêm tư liệu cũng như tiền đề để nghiên cứu vấn đề diễn ngôn về người phụ nữ trong văn học. 6. Ý nghĩa của đề tài 6.1. Ý nghĩa lí luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm hệ thống lí luận về vấn đề phụ nữ trong văn học nhìn từ lí thuyết diễn ngôn. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho giảng viên các trường Cao đẳng, Đại học ngành khoa học xã hội và nhân văn, tài liệu tham khảo cho học viên cao học, nghiên cứu sinh… chuyên ngành văn học Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan về đề tài nghiên cứu Chương 2. Quyền lực/ tri thức phương Tây và sự xuất hiện diễn ngôn mới về người phụ nữ Chương 3. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Phan Bội Châu và Nhất Linh, Khái Hưng Chương 4. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong sáng tác của nhà nho tài tử và trí thức Tây học Chương 5. Người phụ nữ và diễn ngôn về hiện đại hoá/Âu hoá trong sáng tác Vũ Trong Phụng và Nguyên Hồng Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Giới thuyết chung về lý thuyết diễn ngôn 1.1.1. Định nghĩa diễn ngôn Diễn ngôn (discourse) là một thuật ngữ được đề xuất bởi các nhà lí luận phương Tây thế kỉ XX. Dù có nhiều định nghĩa khác nhau, song hiểu một cách tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội, biểu hiện qua ngôn ngữ. Diễn ngôn được tạo nên từ tri thức và những quan hệ quyền lực đa dạng trong cuộc sống. Diễn ngôn đến lượt nó, cũng là phương cách tạo lập nên tri thức, cùng với những thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể và các mối quan hệ quyền lực. Bởi vậy sẽ không có tri thức nào là chân lý tuyệt đối và hoàn toàn khách quan. Xét đến cùng, mọi diễn ngôn đều là sản phẩm của văn hóa, xã hội.
- 5 1.1.2. Các khuynh hướng nghiên cứu diễn ngôn Trong lí luận hiện nay có 3 khuynh hướng nghiên cứu diễn ngôn: ngữ dụng học do các nhà ngữ dụng đề xuất, lí luận văn học do M.Bakhtin đề xuất và xã hội học do M.Foucault khởi xướng. Hướng thứ nhất là nghiên cứu diễn ngôn của các nhà ngôn ngữ học. Đối với họ, nghiên cứu diễn ngôn chính là nghiên cứu thực tiễn ngôn từ, tức là nghiên cứu ngôn từ trong giao tiếp, ngôn từ trong sử dụng, ngôn từ trong ngữ cảnh. Hướng thứ hai là nghiên cứu diễn ngôn của các nhà nghiên cứu văn học do M. Bakhtin đề xuất. Theo Bakhtin, diễn ngôn là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, ngôn ngữ trong sử dụng, có tư tưởng, có tính hoạt động xã hội, tính thực tiễn. M. Bakhtin đưa ra xu hướng nghiên cứu “siêu ngôn ngữ học”, tức là lấy diễn ngôn (lời nói, văn bản) làm đối tượng nghiên cứu, hình thành khuynh hướng “diễn ngôn học”, mở ra một hướng mới trong cách tiếp cận ngôn từ văn học. Hướng thứ ba là nghiên cứu diễn ngôn của các nhà xã hội học mà tiêu biểu là M. Foucault. Theo Foucault, thực tại dù có trước, song thực tại ấy chỉ có thể tái tạo thành diễn ngôn thì mới trở thành ý thức của con người, con người sẽ hành xử với thế giới theo nội dung của diễn ngôn chứ không phải theo bản chất tự nhiên, vốn có của nó. Mọi diễn ngôn đều là kết quả của các quan hệ tri thức/quyền lực trong một thời đại cụ thể. Foucault không nói diễn ngôn về mặt ngữ học, mà nói trên ý nghĩa triết học và tư tưởng hệ. Như vậy, cả Foucault và Bakhtin đều nhìn ngôn ngữ ở góc độ xã hội, ngôn ngữ là sản phẩm của tư tưởng hệ. Họ khẳng định rằng chính hình thái ý thức xã hội, trạng thái tri thức của con người và cơ chế quyền lực trong xã hội đã trở thành cái logic nội tại, cái cơ chế thầm kín chi phối cách sử dụng ngôn từ của con người. 1.1.3. Đặc điểm của diễn ngôn văn học Về cơ bản, diễn ngôn văn học cũng mang những đặc điểm của diễn ngôn nói chung, tuy nhiên, có một số đặc điểm thể hiện tập trung hơn, nổi bật hơn ở diễn ngôn văn học. Thứ nhất, diễn ngôn văn học là hình thức nghệ thuật của tư tưởng; nó là hình thức sử dụng ngôn từ để hình tượng hóa, tri thức hóa tư tưởng của thời đại. Qua diễn ngôn văn học, ta có thể thấy được sự phát triển của lịch sử tư tưởng. Thứ hai, diễn ngôn văn học là sự kiến tạo những thế giới quan mới. Việc nhà văn miêu tả thế giới không bao giờ là một hành động vô tư, chỉ thuần túy làm nhiệm vụ cung cấp thông tin mà nó luôn bị nhào nặn bởi những quan hệ quyền lực, ý thức hệ nhất định. Diễn ngôn văn học đem lại cho con người cách nhìn mới về thế giới và vũ trụ, giải phóng con người ra khỏi sự chuyên chế của thói quen. Thứ ba, diễn ngôn văn học là hình thái phủ định trạng thái vô thức xã hội để hướng tới một ý thức tự giác mới. Có thể nói với sứ mệnh phủ định trạng thái vô thức xã hội để hướng tới một ý thức tự giác mới, diễn ngôn văn học đã góp phần quan trọng vào việc làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nhân văn hơn.
- 6 Thứ tư, diễn ngôn văn học luôn tự phủ định mình, tạo ra cái khác mình, chống lại sự sáo mòn, khuôn mẫu. Sự vận động của văn học suy cho cùng là sự vận của diễn ngôn, hình thái diễn ngôn này phủ định hình thái diễn ngôn trước nó. 1.145. Quan niệm diễn ngôn của luận án Trên cơ sở lựa chọn, kết hợp những kiến giải về diễn ngôn của M. Bakhtin và M. Foucault, chúng tôi đưa ra quan niệm diễn ngôn của luận án, làm cơ sở lý thuyết cho việc triển khai đối tượng nghiên cứu của mình như sau: Thứ nhất, diễn ngôn là một cấu trúc liên văn bản, liên chủ thể. Diễn ngôn căn bản không phải là các văn bản cụ thể, các loại biểu đạt các nội dung cụ thể mà là cái cơ chế tạo thành các văn bản cụ thể ấy; nó chính là cái nguyên tắc ẩn chìm chi phối sự hình thành các văn bản như là sự kiện xã hội. Thứ hai, diễn ngôn là sản phẩm của môi trường sinh thái văn hóa. Diễn ngôn không chỉ chịu sự chi phối của quy luật ngôn ngữ mà còn chịu sự chi phối của đời sống, của quy ước xã hội. Mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền văn hóa, mỗi thể chế chính trị xã hội có một quy ước thực tiễn diễn ngôn nhất định. Mỗi khi môi trường sinh thái văn hóa thay đổi, diễn ngôn cũng sẽ thay đổi. Thứ ba, diễn ngôn là sự kiến tạo thế giới theo một quan niệm, tư tưởng hệ nhất định. Điều này có nghĩa là không có một trật tự nội tại nào của thế giới ngoài cái trật tự mà ta áp đặt lên thế giới thông qua sự miêu tả bằng ngôn ngữ về nó. Thứ tư, diễn ngôn là một cấu trúc biểu nghĩa khái quát mang nội hàm văn hóa, ý thức hệ. Diễn ngôn là một cấu trúc biểu nghĩa, nó có tầng bậc của nó, nó được tạo thành từ các cặp đối lập cơ bản. Tất cả các mô hình biểu nghĩa (nhỏ là một tác phẩm, lớn là một nền văn hóa) đều có thể phân tích dưới dạng cấu trúc này. 1.1.5. Những thao tác phân tích diễn ngôn Trong phạm vi luận án này, trên cơ sở tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu diễn ngôn đi trước, chúng tôi tạm đưa ra một số thao tác cơ bản sau: Thứ nhất, phân tích tương quan quyền lực/tri thức (power/knowledge). Bản chất của phân tích diễn ngôn là phân tích cơ chế tạo lập diễn ngôn, phân tích những tương quan quyền lực/tri thức đã tạo nên và vận hành diễn ngôn đó. Theo M.Foucault, từ sự bất bình đẳng của các tương quan quyền lực này mà các tri thức khoa học xã hội được tạo ra. Thứ hai, phân tích trật tự diễn ngôn. Trong lí thuyết diễn ngôn của Foucault, bên cạnh diễn ngôn mang tính thống trị, ông còn quan tâm đến những diễn ngôn bị loại trừ. Đối tượng của phân tích diễn ngôn thường có vị trí thấp hơn về quyền lực, vì đây là nơi để nhận diện tiếng nói của quyền lực. Do đó, khi phân tích diễn ngôn cần chú ý mối quan hệ của cả hai yếu tố ưu trội và thấp kém về quyền lực để thấy được rằng diễn ngôn không phải chỉ là kết quả
- 7 trực tiếp từ quan hệ quyền lực một chiều, mà là kết quả của quá trình pha trộn, lai ghép phức tạp. Thứ ba là phân tích trường tri thức thời đại chi phối sự hình thành và vận hành của diễn ngôn. Trong tác phẩm Từ ngữ và vật, Foucault đã đưa ra khái niệm “episteme” (trường tri thức/ khung tri thức). Trường tri thức theo cách hiểu của Foucault là cái khung tư tưởng, là nhận thức chung của cộng đồng trong một thời kỳ nhất định; là cái không gian tri thức quyết định từ ngữ được tồn tại như thế nào, vật được xem là cái gì. Phân tích diễn ngôn chính là đi tìm hệ hình tri thức, tìm những quy tắc vừa hữu thức vừa vô thức của một cộng đồng người trong thời đại nhất định quy định cách nói trong cộng đồng người đó. Thứ tư là phân tích nội hàm tư tưởng của các yếu tố trong cấu trúc diễn ngôn. Hệ thống nhân vật chính với khả năng biểu đạt tư tưởng của chúng cũng là một yếu tố của cấu trúc diễn ngôn. Bên cạnh đó, việc xác định chủ thể diễn ngôn cũng rất cần thiết. Cần trả lời cho câu hỏi ai là chủ thể của diễn ngôn, lập trường, quan điểm, giới tính, thẩm mĩ của chủ thể ra sao? Để trả lời cho câu hỏi một sự thật nào đó đã được nói lên bằng cách nào, chúng ta cần chú ý đến hệ thống phương thức biểu đạt như cách sử dụng từ ngữ, biểu tượng, giọng điệu, các biện pháp tu từ… Cuối cùng, vì tương quan quyền lực/tri thức tồn tại trên mọi phương diện xã hội, trong mọi hình thức diễn ngôn, mọi văn bản khác nhau, do đó, phân tích diễn ngôn cần gắn với sự phân tích liên văn bản, phát hiện mối liên hệ giữa các văn bản văn học, văn bản khoa học, văn bản báo chí,… 1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề người phụ nữ trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX 1.2.1. Những nghiên cứu chung về vấn đề người phụ nữ 1.2.1.1. Giai đoạn trước 1975 Trong đời sống phê bình văn học những năm trước 1945, đã xuất hiện hàng loạt công trình có đề cập đến vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của TLVĐ như Dưới mắt tôi của Trương Chính, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nhà văn Việt Nam hiện đại của Vũ Ngọc Phan trong... Các công trình này đều thống nhất trong việc khẳng định tiếng nói chống Nho giáo, giải phóng cá nhân và người phụ nữ của TLVĐ. Tiếp theo là sự xuất hiện các tác giả ở miền Nam lẫn miền Bắc trước 1975 như Phạm Thế Ngũ, Doãn Quốc Sỹ, Lê Hữu Mục, Thanh Lãng cũng như nhóm Lê Quý Đôn, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Mã Giang Lân... Từ các công trình nghiên cứu quy mô hay các bài viết đơn lẻ của các nhà nghiên cứu nói trên mà vấn đề người phụ nữ trong sáng tác của TLVĐ, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng
- 8 Phụng, Ngô Tất Tố… đã được bàn đến. Nhìn chung, các công trình này đã khái quát một số đặc điểm của hình tượng nhân vật nữ và khẳng định các hình tượng ấy đã đem lại thành công đáng kể cho các tác phẩm cũng như sự nghiệp sáng tác của các nhà văn. 1.2.1.2. Giai đoạn sau 1975 Đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, với công cuộc đổi mới tư duy nghệ thuật, các học giả Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Hoàng Dung, Trần Đăng Suyền… đã có dịp đánh giá lại một cách toàn diện hơn các hiện tượng phức tạp trước cách mạng, trong đó có tiểu thuyết TLVĐ. Các nhà văn TLVĐ được thừa nhận đã góp phần xây dựng nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỷ XX. Họ đã xây dựng thành công nhân vật người phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, đặc biệt ở lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền trong Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (2015), khi khái quát mô hình nhân vật trong tiểu thuyết TLVĐ, đã chú ý đến ảnh hưởng của văn minh phương Tây đối với tầng lớp thanh niên, trí thức thượng lưu. Ở họ, tư tưởng Âu hóa thấm nhuần, biến thành lối sống Âu hóa và được thể hiện trên nhiều phương diện của đời sống: ý thức sâu sắc về quyền cá nhân, đề cao luyến ái tự do và coi trọng vẻ đẹp hình thức của con người. Sự bùng nổ của vấn đề phụ nữ gắn liền với vấn đề dân tộc trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nhận được sự quan tâm của các học giả nước ngoài từ khá sớm. David Marr với cuốn Vietnamese tradition on Trial 1920 – 1945 (Truyền thống Việt Nam trong thử thách 1920 – 1945) (1984), Shawn McHale với tiểu luận “Printing and power: Vietnamese debates over women’s place in society, 1918 – 1934” in trong Essays into Vietnamese pasts (Những bài tiểu luận về Việt Nam xưa) và W. Wilcox với công trình “Women, westernization and the Origins of Modern Vietnamese Theatre” (Người phụ nữ, phương Tây hóa và nguồn gốc của kịch nghệ Việt Nam hiện đại) (2006) in trong Journal of Southeast Asian Studies đã cho thấy điều đó. Từ sự phân tích các dữ kiện, các tác giả đi đến nhận định rằng những ảnh hưởng của sách báo và các phong trào đấu tranh xã hội trên thế giới đã dẫn tới sự bùng nổ của vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trên các diễn đàn văn chương và báo chí, vấn đề phụ nữ đã trở thành tâm điểm của các cuộc thảo luận sôi nổi. Vai trò và vị thế của người phụ nữ đã được nhận thức lại, gắn với vấn đề dân tộc trong xã hội Việt Nam thời kỳ này. Trong công trình Phan Bội Châu về tác gia và tác phẩm (2001) do Chương Thâu và Trần Ngọc Vương tuyển chọn, với tiểu luận “Phan Bội Châu, người khai sáng tư tưởng tiến bộ về vấn đề phụ nữ trong Văn học Việt Nam”, nhà nghiên cứu Trịnh Thu Tiết đã chỉ ra một trong hai luận đề lớn nhất trong sáng tác của Phan Bội
- 9 Châu là luận đề về vấn đề phụ nữ. Hình tượng người nữ anh hùng cứu nước mang tính cách mạng của thời đại mới là một đóng góp đáng kể của cụ Phan cho văn học nước nhà. Thời gian qua, vấn đề người phụ nữ trong văn học Việt Nam vẫn tiếp tục nhân được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong cuốn Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại (2005), học giả Nguyễn Đăng Mạnh đã đi sâu đánh giá nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng trước cách mạng tháng Tám. Nguyên Hồng am hiểu hơn ai hết những nỗi khổ của người phụ nữ ở cả hai phương diện giai cấp và giới tính. Đức tính phổ biến ở họ là tình mẫu tử và tình hữu ái giữa những người nghèo khổ mà sau này sẽ được nâng lên thành ý thức giai cấp. Công trình Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại (2008), do Trần Thị Việt Trung chủ biên đã đưa ra cái nhìn có tính hệ thống về các nhân vật nữ trong tiểu thuyết TLVĐ. Các nhà tiểu thuyết của TLVĐ đã xây dựng thế giới nhân vật nữ theo hai tuyến khác nhau, đại diện cho hai luồng tư tưởng cũ - mới. Hệ thống nhân vật đại diện cho cái mới là thế hệ trẻ, nhờ tiếp xúc với văn minh phương Tây, ý thức cá nhân được thức tỉnh mạnh mẽ, đã kiên quyết đứng lên đấu tranh bênh vực con người cá nhân. Tác giả Đỗ Hồng Đức trong Luận án tiến sỹ Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng (2010) đánh giá cao đóng góp của TLVĐ trong việc đả phá những tư tưởng cổ hủ của đạo đức truyền thống, đem lại cái nhìn mới về giá trị và vẻ đẹp của người phụ nữ. Đỗ Hồng Đức bước đầu đã nêu ra sự ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố xã hội và thời đại đối với việc xây dựng hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết TLVĐ. 1.2.2. Những nghiên cứu về vấn đề người phụ nữ từ góc độ diễn ngôn 1.2.2.1. Về việc du nhập lý thuyết Ở Việt Nam, lý thuyết diễn ngôn được giới thiệu sớm nhất trong lĩnh vực ngôn ngữ học, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ Hữu Châu (2001)... Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài cũng đã được dịch sang tiếng Việt, như Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998)… Trong lĩnh vực khoa học văn học, các nhà nghiên cứu đã tiếp thu lý thuyết diễn ngôn có sáng tạo và chọn lọc, xây dựng nên một hệ thống lý thuyết phân tích diễn
- 10 ngôn đặc thù, làm cơ sở cho việc giải mã các tác phẩm văn học cụ thể. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu như Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (2002) của Trịnh Bá Đĩnh; Sự đỏng đảnh của phương pháp (2004) của Đỗ Lai Thuý … Giáo sư Trần Đình Sử là người đầu tiên giới thiệu lý thuyết diễn ngôn văn học với các bài tiểu luận đơn lẻ như “Bản chất xã hội, thẩm mĩ của diễn ngôn văn học” và “Bước ngoặt diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong nghiên cứu văn học” được in trong sách Trên đường biên của lý luận văn học (2014). 1.2.2.2. Về thực hành nghiên cứu diễn ngôn Trong những năm gần đây, cùng với việc giới thiệu lý thuyết diễn ngôn, nhiều nhà khoa học đã vận dụng lý thuyết này để phân tích thực tiễn văn học. Nhà nghiên cứu Lã Nguyên tiếp cận các hiện tượng văn học Việt Nam theo hướng kết hợp lý thuyết quyền lực và ký hiệu học với các công trình như “Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói (Về văn học Việt Nam thời đổi mới 1975 – 1991), “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài”, “Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống”, “Nguyễn Tuân – Nhà văn của hình dung từ”, “Tố Hữu – Lá cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Nghiên cứu vấn đề giới nữ từ góc nhìn diễn ngôn có luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Vân Anh với đề tài “Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2017). Trong số các nghiên cứu về vấn đề phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX theo hướng diễn ngôn gần đây, chúng tôi thấy nổi lên các tiểu luận của tác giả Trần Văn Toàn như “Nam tính hóa nữ tính – đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ góc nhìn giới tính” (2011); “Phương Tây và sự hình thành diễn ngôn về bản sắc Việt Nam” (2015), “Nam tính – Nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam” (2019) đã luận giải về vấn đề nam tính – nữ tính và cơ chế kiến tạo mô hình nữ tính mới trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Mô hình nữ tính mới được thiết lập từ những gợi ý của phương Tây, đồng thời nó lại được xây dựng từ vốn tư liệu truyền thống, thực chất đó là một sự lai ghép (hybrid) giữa truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây nhằm kiến tạo một bản sắc dân tộc mới bởi những trí thức bản địa. Luận văn thạc sỹ Diễn ngôn về người phụ nữ trong sáng tác của Phan Bội Châu (2017) của Đào Lê Tiến Sỹ đã có những khám phá về cơ chế kiến tạo mô hình nữ tính trong sáng tác của Phan Bội Châu. Ở đây, tác giả đã “nam tính hoá” người phụ nữ, mô tả họ theo chuẩn mực nam tính nhằm khẳng định vai trò không thể thiếu của chị em trong sự nghiệp cứu nước. Gần đây nhất, Bang Jeong Yun với luận án “Hình tượng người phụ nữ mới trong
- 11 một số tác phẩm tiêu biểu của TLVĐ và văn học Hàn Quốc thời Nhật thuộc” (2019), từ góc nhìn so sánh, tác giả đã chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản trong hình tượng người phụ nữ mới của hai nền văn học. Xã hội mới đã tạo nên ở họ một diện mạo mới, đời sống mới, tư tưởng mới… tất cả được gọi chung với cái tên “phụ nữ mới” ở Việt Nam hay “sin yosong” ở Hàn Quốc. Nhìn chung việc tiếp cận vấn đề người phụ nữ từ lý thuyết diễn ngôn chỉ mới xuất hiện ở một vài công trình rải rác, vẫn đang mở ra những triển vọng mới mẻ, mời gọi khám phá. Tiểu kết Ở chương này, chúng tôi đã đưa được ra phương án vận dụng lý thuyết diễn ngôn để nghiên cứu vấn đề người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX thông qua việc xác lập khái niệm diễn ngôn, làm sáng tỏ đặc điểm của diễn ngôn văn học và các thao tác phân tích diễn ngôn. Việc nhìn lại lịch sử nghiên cứu vấn đề người phụ nữ từ trước 1975 đến nay giúp chúng tôi bao quát được quá trình vận động của lịch sử tư tưởng về vấn đề phụ nữ. Phương án vận dụng này hứa hẹn mang cái nhìn mới, thú vị về văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX trong sự kết nối giữa văn học và bối cảnh văn hoá xã hội, thấy được cơ chế tác động qua lại giữa xã hội và văn học. Chương 2 QUYỀN LỰC, TRI THỨC PHƯƠNG TÂY VÀ SỰ XUẤT HIỆN DIỄN NGÔN MỚI VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ 2.1. Những điều kiện mới của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX gắn với chủ thể thuộc địa 2.1.1. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây với chủ nghĩa nhân văn và tinh thần tự do, dân chủ Văn minh phương Tây qua sự khúc xạ của hình ảnh kẻ xâm lược và qua tân thư, tân văn đã khai sáng cho tầng lớp trí thức Việt Nam, giúp cho họ hình thành những quan niệm mới về dân quyền, dân trí, dân chủ, tự do, văn minh. Cùng với những kinh nhiệm từ Nhật Bản và Trung Quốc, các trí thức bản địa nhanh chóng nhận thấy yêu cầu cải cách tư tưởng, cải cách xã hội và canh tân đất nước theo tinh thần khoa học, thực tiễn Âu Tây là điều kiện quyết định đối với vận mạng dân tộc. Họ bắt tay vào việc đề ra kế hoạch, chiến lược duy tân đất nước từ đó, dấy lên các phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân để phục vụ công cuộc cải cách xã hội và giải phóng dân tộc.
- 12 2.1.2. Ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới Phong trào nữ quyền là cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của người phụ nữ trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội và văn học, khởi nguồn ở phương Tây thế kỉ XIX. Phong trào nữ quyền ở phương Tây đã nhanh chóng lan sang các nước phương Đông, tạo nên phong trào nữ quyền ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ. Hoạt động nữ quyền sôi nổi trên thế giới nói chung và ở khu vực Á Đông nói riêng đã có tác động đến Việt Nam. Khi tờ Nữ giới chung, do Sương Nguyệt Anh làm chủ bút, xuất hiện vào năm 1918 tại Sài Gòn thì phong trào nữ quyền đã thực sự bùng phát và trở thành trào lưu rộng khắp Việt Nam. Vấn đề giáo dục dành cho phụ nữ và phụ nữ chức nghiệp được bàn luận rộng rãi, thậm chí có không ít những chủ trương và chiến lược cụ thể được đặt ra. Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Khôi, các nhà văn TLVĐ… là những trí thức ủng hộ việc giải phóng phụ nữ gắn với nhiệm vụ hiện đại hoá đất nước, giải phóng dân tộc. 2.1.3. Ảnh hưởng của môi trường giáo dục dưới chế độ thuộc địa Để tăng thêm ảnh hưởng về văn hóa, thực dân Pháp đã cải tạo hệ thống giáo dục cũ và ban hành chương trình giáo dục mới cùng với việc mở ra một hệ thống trường Pháp – Việt trên khắp cả nước; thay thế nền giáo dục Nho học lấy luân lý làm trọng tâm bằng nền giáo dục Pháp – Việt lấy khoa học là trụ cột. Theo đó, một loạt các trường học cho nữ sinh đã được thành lập từ Nam ra Bắc. Đây là một bước tiến quan trọng của giáo dục nữ giới, ảnh hưởng tới những thảo luận và các phong trào vận động phụ nữ trong thời kỳ này. Dù số người được đào tạo theo mô hình giáo dục phương Tây không quá lớn so với số dân toàn quốc, nhưng trên thực tế chính lớp người này đã tạo nên một sự đổi mới về văn hóa, tiêu biểu cho sự tiếp xúc văn hóa Pháp – Việt. Chương trình giáo dục tiến bộ của thực dân Pháp cũng đồng thời làm xuất hiện một tầng lớp nữ sinh được gọi là “tân học nữ lưu”. Sự phát triển của đội ngũ trí thức nói trên đã tạo nên một thay đổi lớn trong đời sống văn hóa của giới nữ, cũng như tạo nên một bước phát triển mới trong việc nhận thức vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ đã tham gia đấu tranh trên lĩnh xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi của nữ giới trên các mặt văn hóa, chính trị và kinh tế. 2.2. Sự xuất hiện diễn ngôn mới về người phụ nữ và mô hình nữ tính Việt Đầu thế kỷ XX, dưới tác động của tri thức, quyền lực phương Tây, mô hình nữ tính mới được phác họa bởi tầng lớp trí thức bản địa ra đời. Chúng ta có thể hình dung mô hình nữ tính mới ở bảng tổng hợp dưới đây của nhà nghiên cứu Trần Văn Toàn trong tiểu luận Nam tính hóa nữ tính và nghiên cứu văn học sử Việt Nam:
- 13 NHÀ TRƯỜNG THỰC DÂN (Colonizer) CHỦ THỂ THUỘC MÔ HÌNH NỮ TÍNH VIỆT (1913 – 1945) ĐỊA (colonized) Làm con – làm vợ - Làm người Làm người dân (Xã làm mẹ (gia đình/ (quyền sống hội/ Dân tộc) = bổn bổn phận) cá nhân) phận MỚI Nguyễn Văn Vĩnh – X (Trung lưu, Phạm Quỳnh thượng lưu) X (mọi tầng Phan Khôi X lớp) X (mọi tầng Phan Bội Châu X X lớp) X (tầng lớp Nguyễn Ái Quốc X dưới) Nhất Linh (Đoạn X (Trung lưu, X Tuyệt, 1935) thượng lưu) Khái Hưng (Trống X (trung lưu, X mái) thượng lưu) Nam Xương (vở X kịch Ông tây An (Trung lưu, X Nam) thượng lưu) Các nhà văn hiện thực (Vũ Trong X (tầng lớp Phụng, Nguyên dưới) Hồng) ẢNH HƯỞNG CỦA TRUNG QUỐC X (trung lưu, thượng lưu) Từ bảng tổng hợp trên có thể nhận thấy rằng: Những người có thiên hướng hoạt động cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Nhất Linh, Nam Xương thường có xu hướng đặt người phụ nữ trong không gian dân tộc. Hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của họ được sử dụng như một công cụ biểu đạt và truyền tải những ý hướng, những dự đồ về vấn đề quốc gia, dân tộc. Trong khi đó, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh lại có xu hướng duy trì người phụ nữ trong không gian gia đình truyền thống. Tuy vậy, đối tượng phụ nữ mà cả hai nhóm
- 14 chủ thể thuộc địa này cùng hướng đến là tầng lớp trung lưu, thượng lưu. Ở Phan Khôi, diễn ngôn giải phóng phụ nữ gắn với diễn ngôn cá nhân, đối tượng phụ nữ mà ông hướng đến là mọi tầng lớp nhân dân. Trong khi đó, các nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, những chủ thể hướng đến diễn ngôn giai cấp, thì đối tượng phụ nữ mà họ đề cập đến là tầng lớp dưới trong xã hội. 2.3. Mối quan hệ của diễn ngôn nữ quyền với diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá Hiện đại hóa dân tộc là diễn ngôn chủ đạo của thời đại, nó giao cắt với diễn ngôn nữ quyền và diễn ngôn cá nhân. Trong đó, người phụ nữ với những quan niệm mới về nữ tính và hiện đại hóa dân tộc là hai chủ đề gắn bó chặt chẽ, phản ánh và chuyển hóa lẫn nhau. Dấu hiệu của hiện đại hóa được nhận thấy từ sự đổi thay vai trò và vị thế của người phụ nữ trong xã hội: thoát khỏi vai truyền thống (làm mẹ, làm vợ) để tham gia vào vai trò mới (làm người dân) đối với sự phát triển của dân tộc. Mặt khác, giữa nữ tính và dân tộc tính có mối quan hệ đồng nhất với nhau. Trong hầu hết các nền văn hóa, khái niệm tổ quốc, dân tộc, đất nước được hình dung trong vai trò người mẹ: đất mẹ, mẹ tổ quốc (motherland). Dấu hiệu của hiện đại hóa còn thể hiện ở sự nghiệp giải phóng con người cá nhân khỏi sự ràng buộc của các thiết chế văn hóa phong kiến: chủ nghĩa đại gia đình, chế độ đẳng cấp, tôn ty trật tự và luân lí, đạo đức tông pháp. Trong vấn đề giải phóng cá nhân, trọng tâm là vấn đề giải phóng người phụ nữ. Bởi dưới chế độ chuyên chế, phụ nữ là đối tượng bị áp bức bởi cả thần quyền, phụ quyền và nam quyền, là nạn nhân đau khổ, bất hạnh nhất trong xã hội. Điều này cho thấy diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn dân tộc giao cắt và tương tác lẫn nhau. Nam tính/nữ tính là một tương quan quyền lực (bao hàm sự phân biệt tôn ti, trật tự) nên nó có thể được sử dụng như một công cụ văn hóa để nhận thức về những quan hệ quyền lực khác ở các cấp độ như cá nhân, giai cấp, chủng tộc,… Trong quan hệ với vấn đề chủng tộc, nam tính/nữ tính đã chuyển hóa thành “cái biểu đạt” khiến cho giới tính (gender) trở thành nơi giao cắt của diễn ngôn về người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc, chủng tộc. Đặc biệt ở một nước thuộc địa, nơi mà người phụ nữ mang vị thế “ngoại biên kép”, là đối tượng bị áp bức của cả chủ thể nam giới thuộc địa lẫn chủ thể thực dân, việc đấu tranh cho quyền lợi của người phụ nữ, giải phóng phụ nữ phản ánh rõ tương quan quyền lực nam tính/nữ tính, gia đình/cá nhân, thực dân/thuộc địa,… và như thế, trong trường hợp này, diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn cá nhân và diễn ngôn dân tộc không chỉ giao cắt mà còn hàm chứa và chuyển hóa lẫn nhau.
- 15 Tiểu kết Tóm lại, diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn cá nhân, diễn ngôn dân tộc và diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá có mối quan hệ gắn bó, vừa giao cắt vừa chuyển hóa lẫn nhau. Tùy thuộc chủ thể diễn ngôn và mục tiêu các tác giả hướng tới, mà người phụ nữ được đặt trong không gian dân tộc với vai trò làm chủ đất nước; hay trong không gian gia đình với nỗ lực đòi quyền tự do, bình đẳng, quyền được hưởng hạnh phúc của con người cá nhân. Diễn ngôn về mặt trái của hiện đại hoá/Âu hoá với vấn đề suy đồi và tha hoá của người phụ nữ đã khiến cho các diễn ngôn nói trên có tiếng nói đối thoại, bổ sung cho nhau để làm sáng tỏ vấn đề phụ nữ trong văn học nửa đầu thế kỷ XX. Chương 3 NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA PHAN BỘI CHÂU VÀ NHẤT LINH, KHÁI HƯNG 3.1. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Phan Bội Châu 3.1.1. Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX và nhận thức mới về vấn đề phụ nữ Trong bối cảnh phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi khoảng 20 năm đầu thế kỷ XX, với sự tiếp thu tinh thần tự do, dân chủ của giai cấp tư sản, Phan Bội Châu đã hình thành quan niệm mới về quốc gia, dân tộc, mối quan hệ giữa dân với nước và thấy được vai trò của người phụ nữ trong sự nghiệp cứu nước. Chính trong mối quan hệ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và canh tân đất nước, mà người phụ nữ trở thành hình tượng trung tâm trong các tác phẩm của Phan Bội Châu. Khẳng định vai trò làm chủ đất nước, đề cao phụ nữ lên hàng ngũ anh hùng với tinh thần tự nhiệm và hành động xả thân cứu nước ở Phan Bội Châu là một điều lớn lao tại thời điểm bấy giờ. 3.1.2. Anh hùng hóa nữ tính và sự kiến tạo người nữ anh hùng trong sáng tác của Phan Bội Châu 3.1.2.1. Từ mẫu hình nhân cách người anh hùng tự nhiệm đến người nữ anh hùng trong truyện kí Nhờ tiếp xúc với tân thư, Phan Bội Châu đã trở thành người hào kiệt tự nhiệm mà nét cốt lõi trong nhân cách là sự tiếp biến mẫu hình anh hùng thời loạn trong hoàn cảnh mới. Những nữ anh hùng tự nhiệm trong truyện kí của Phan Bội Châu đều là người có địa vị và tên tuổi, tuy nhiên, khi tham gia hoạt động cách mạng, họ không còn là người của đẳng cấp, gia tộc, mà đã trở thành người con của dân tộc, đất nước, đồng bào, đồng chủng, của “ức triệu người”. Từ nhân vật mẹ Lân (truyện Mẹ Lân) đến Đinh phu nhân (truyện Nữ liệt sỹ Đinh phu nhân), tinh thần tự nhiệm của các nữ anh hùng ngày càng phát triển: từ chỗ ký thác ý chí giết giặc vào người đàn ông đến chỗ tự thân hành động cứu nước. Với truyện kí, Phan Bội Châu đã đóng góp cho văn
- 16 chương cách mạng hình tượng người nữ anh hùng tự nhiệm; say mê hành động phi thường, mang ý nghĩa ra tay cứu nước, giúp đời; đoạn tuyệt với kiểu người trung nghĩa, khắc kỉ, phục lễ, an bần lạc đạo. 3.1.2.2. Từ quan niệm người quốc dân đến người nữ anh hùng trong tiểu thuyết “Trùng Quang tâm sử” Nhận thức tiến bộ về vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu gắn bó chặt chẽ với quan niệm người quốc dân và người anh hùng. Cũng như ở tuồng Trưng nữ vương, Phan Bội Châu đã hiện đại hóa lịch sử ở Trùng Quang tâm sử theo ý đồ của mình để cho cuộc khởi nghĩa cuối đời Trần mang dáng dấp một cuộc vận động duy tân đầu thế kỷ XX, nơi mà những tướng sĩ xưa kia được thay bằng những người phụ nữ anh hùng bình thường, vô danh. Tác giả đã lấy chuẩn mực nam tính làm thước đo để miêu tả các phẩm chất của người phụ nữ khiến cho các nhân vật nữ hiện lên khác với mô hình nữ tính truyền thống: bình đẳng với nam giới trong vai trò làm chủ đất nước, có đủ phẩm chất và bản lĩnh của người anh hùng. Chí, Triệu, Liên là ba gương mặt đẹp đẽ trong sáng tác của Phan Bội Châu đại diện cho truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầu thế kỷ XX. 3.2. Người phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng 3.2.1. Văn minh phương Tây và nỗ lực cải cách xã hội, hiện đại hóa dân tộc của Nhất Linh, Khái Hưng Sự tiếp xúc với phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã giúp Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Hán và nỗ lực hiện đại hóa để có thể hòa nhập vào dòng chảy của văn minh thế giới. Tình thế này đã làm xuất hiện một diễn ngôn mới về dân tộc bằng cách học tập tri thức phương Tây để hiện đại hóa đất nước. Đại diện cho tầng lớp trí thức Tây học, các nhà văn TLVĐ đề cao tinh thần dân tộc, có hoài bão về một nền văn hóa dân tộc phát triển theo hướng hiện đại hóa, trên cơ sở kết hợp truyền thống và hiện đại. Trong bối cảnh đó, vấn đề người phụ nữ trở thành điểm quy chiếu các vấn đề về quốc gia, dân tộc. Đây là lý do giải thích vì sao trong sáng tác của các trí thức Việt từ Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Nam Xương cho đến Nhất Linh, Khái Hưng đều xuất hiện một diễn ngôn dân tộc gắn với vấn đề phụ nữ. Các nhân vật nữ trong tiểu thuyết TLVĐ, tiêu biểu là Loan (Đoạn tuyệt - Nhất Linh), Hiền (Trống mái – Khái Hưng), Nhung (Lạnh lùng – Nhất Linh) đã biết đấu tranh giải phóng cá tính và tình cảm khỏi những trói buộc của tư tưởng phong kiến; lòng khao khát tự do, tự lập khiến họ muốn hành động để cho “đời mình và đời những kẻ khác có thể đẹp đẽ hơn, tươi sáng hơn". 3.2.3. Nam tính hóa nữ tính và sự kiến tạo mô hình nữ tính mới trong sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng Mô hình nam tính – nữ tính Đông Á truyền thống dựa trên thiết chế văn hóa và
- 17 thi cử của Nho giáo – một thiết chế hoàn toàn loại trừ sự hiện diện của người phụ nữ trong không gian xã hội, đến những năm 20 của thế kỷ XX đã bắt đầu khủng hoảng trong môi trường thuộc địa. Một mô hình nữ tính mới được kiến tạo dựa trên thiết chế giáo dục của người Pháp và những ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây. Với tất cả những phá cách so với truyền thống, Loan trong Đoạn tuyệt (Nhất Linh) và Hiền trong Trống mái (Khái Hưng) bằng học thức và khả năng thực nghiệp của mình, đã khẳng định mình như một nhân cách độc lập, bình đẳng với nam giới trong vai trò đối với sự phát triển xã hội. Mô hình nữ tính mới này là một đóng góp của TLVĐ cho văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Nó cho thấy phụ nữ Việt Nam đã thoát ra khỏi căn tính nữ truyền thống để hướng đến một tương lai mới, tượng trưng cho một dân tộc đang muốn đổi thay số phận mình. Tiểu kết Điểm cốt lõi trong hình tượng nhân vật nữ anh hùng của Phan Bội Châu là mẫu hình nhân cách của nhà chí sĩ cách mạng, người hào kiệt tự nhiệm, được khắc hoạ theo chuẩn mực của nam tính võ truyền thống: mưu trí, dũng cảm, hành động phi thường và có ý thức làm chủ đất nước. Ở Nhất Linh và Khái Hưng, vấn đề phụ nữ được gắn với vấn đề hiện đại hóa dân tộc, dựa vào tri thức và khả năng thực nghiệp, người phụ nữ đã thoát ra khỏi mô hình nữ tính truyền thống, để trở thành những nhân cách độc lập, tự do và bình đẳng với nam giới. Chương 4 NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ DIỄN NGÔN VỀ CÁ NHÂN TRONG SÁNG TÁC CỦA NHÀ NHO TÀI TỬ VÀ TRÍ THỨC TÂY HỌC 4.1. Người phụ nữ và diễn ngôn về cá nhân trong văn chương nhà nho tài tử (Trường hợp Tản Đà) 4.1.1. Tản Đà – sự giao cắt giữa mẫu hình nhân cách nhà nho tài tử và con người cá nhân tư sản 4.1.1.1. Cái tôi đa tình của nhà nho tài tử Do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và hiện thực xã hội Việt Nam mấy chục năm đầu thế kỷ XX, Tản Đà đã có quan niệm tiến bộ về tình yêu và vấn đề người phụ nữ. Tản Đà đã dám sống đời sống của trái tim, lấy bản thân mình làm nhân vật chính trong những mối tình ngoài hôn nhân với những người phụ nữ mà ông gọi là giai nhân, hồng nhan tri kỷ. Tình yêu ngoài hôn nhân và hình tượng người tri kỷ trong tác phẩm văn xuôi của Tản Đà chính là điểm gặp gỡ, giao cắt giữa mẫu hình nhân cách nhà nho tài tử và con người cá nhân tư sản nơi Tản Đà.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 312 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 187 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 277 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 272 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 156 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 183 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 60 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 207 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 185 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 137 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 21 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 124 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 9 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 28 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn