
4
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1. Giới thiệu chung
Nền kinh tế Việt Nam đã có những cải cách mạnh mẽ với mục tiêu xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kể từ sau quyết định Đổi Mới năm 1986 và đặc
biệt là đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu trong những năm 1990. Việt Nam
cũng đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức, hiệp định và chương trình hợp tác kinh
tế, thương mại khu vực và quốc tế. Quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và chuyển đổi kinh tế của Việt Nam có được sự đóng góp đáng kể của ngành nông
nghiệp. Mặc dù có nhiều lợi thế với vai trò quan trọng, nhưng ngành nông nghiệp của
Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách khác nhau. Những thách thức đó đòi
hỏi chính phủ, doanh nghiệp và người nông dân phải tái cấu trúc và quy hoạch tổng thể
ngành nông nghiệp.
Kiến thức kinh tế học phổ thông cho rằng, mỗi quốc gia nên tận dụng nguồn lực của
mình và tập trung vào sản xuất các loại hàng hóa nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh cao
hơn và tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn (Yu và cộng sự, 2010). Vấn đề cơ bản của kinh tế
học là phân bổ nguồn lực khan hiếm như thế nào để đảm bảo phúc lợi xã hội, bao gồm
đủ công ăn việc làm và mức sống cao cho người dân ở cả hiện tại và tương lai (Latruffe,
2010). Nguồn lực kinh tế khan hiếm buộc mọi người phải ra quyết định lựa chọn bằng
cách trả lời 3 câu hỏi là: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, và sản xuất cho ai (Begg
và cộng sự, 2005). Năng lực cạnh tranh là một khái niệm và thang đo trung tâm trong
việc thúc đẩy thảo luận chính sách và chiến lược kinh doanh của các nhà hoạch định
chính sách, nông dân, doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu trong việc phân bổ các nguồn
lực kinh tế (Latruffe, 2010).
1.2. Khoảng trống nghiên cứu
Theo lược khảo lý thuyết, có 6 cách tiếp cận khác nhau để đo lường năng lực cạnh
tranh như các chỉ số kinh tế & sản xuất, các chỉ số thương mại quốc tế, các yếu tố tác
động đến năng lực cạnh tranh, khung phân tích đa chiều, chuỗi giá trị và so sánh chuẩn.
Trong đó, các chỉ số kinh tế & sản xuất và các chỉ số thương mại quốc tế là hai cách tiếp
cận được sử dụng nhiều và hiệu quả nhất trong các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh
ngành nông nghiệp.
Nhiều chỉ số thương mại được phát triển để đo lường năng lực cạnh tranh như RCA
của Balassa (1965), RTA của Vollrath (1991), LFI của Lafay (1992), RSCA của Dalum
và cộng sự (1998), và NRCA của Yu và cộng sự (2009). Ở Việt Nam, các nghiên cứu
trước đây chủ yếu sử dụng chỉ số RCA để đánh giá lợi thế cạnh tranh của một hoặc tất cả
các ngành hàng nói chung. Chưa có nghiên cứu nào sử dụng nhiều chỉ số khác nhau như
RCA, RTA và NRCA cho đánh giá năng lực cạnh tranh ngành nông nghiệp theo góc độ
tĩnh cũng như biến động theo thời gian. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào kiểm định tính