Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
lượt xem 3
download
Luận án tái hiện tương đối đầy đủ, toàn diện quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở đó rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm có thể nghiên cứu vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM *** LÊ VĂN CỬ CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (19451954) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 62 22 03 13 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI 2015
- Công trình được hoàn thành tại: VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Đinh Quang Hải 2. TS Trần Văn Thức Phản biện 1: PGS, TS Hồ Khang Phản biện 2: PGS, TS Trần Đức Cường Phản biện 3: PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện tại………………………………………………………………… Vào hồi ………giờ……ngày……….tháng……..năm………….. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện quốc gia Việt Nam Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954), công tác địch vận là một trong những lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có vai trò quan trọng và những đóng góp to lớn. Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước trong lịch sử lâu dài chống ngoại xâm của dân tộc, với quan điểm, lập trường cách mạng, khoa học, Đảng Cộng sản Đông Dương* xác định đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính, trong đó, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng. Để địch vận có hiệu quả, phải dùng mọi hình thức, tận dụng mọi cơ hội tuyên truyền làm tan rã tinh thần binh lính đối phương, giúp họ thấy rằng nhân dân Việt Nam và họ có chung một kẻ thù là thực dân Pháp, từ đó họ phản đối chiến tranh xâm lược, ủng hộ và bỏ hàng ngũ địch chạy sang lực lượng kháng chiến. Theo chủ trương của Đảng, công tác địch vận được các cấp uỷ, chính quyền, các ngành, các đoàn thể cùng đông đảo nhân dân trên khắp cả nước hưởng ứng, triển khai thực hiện, trở thành nhiệm vụ mang tầm chiến lược và có tính chất quần chúng rộng rãi. Bộ máy địch vận được hình thành thống nhất từ Trung ương đến khu, liên khu, tỉnh, huyện và các đơn vị bộ đội chủ lực. Nhiều hình thức, biện pháp địch vận được tiến hành như: vận động binh lính đấu tranh, bỏ hàng ngũ địch chạy sang theo lực lượng kháng chiến, tổ chức nhân mối trong quân đội Pháp, chống bắt lính, đòi chồng, đòi con; đối xử nhân đạo với tù, hàng binh, tổ chức hồi hương cho tù, hàng binh, thực hiện thả tù binh, v.v. Kết quả là, công tác địch vận đã góp phần làm binh lính đối phương bị phân hoá sâu sắc, âm mưu thâm độc "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp bị thất bại một phần đáng kể, tinh thần chiến đấu của binh lính địch bị giảm sút, sức mạnh và uy tín cuộc kháng * Từ tháng 10.1930 lấy tên là Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3.1951 lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12.1976 trở lại tên Đảng Cộng sản Việt Nam.
- chiến của nhân dân Việt Nam ngày càng lên cao, nhiệm vụ tác chiến của bộ đội thêm nhiều thuận lợi, tạo sức mạnh tổng hợp tiến lên đánh bại thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, có lúc có nơi, việc tiến hành công tác địch vận vẫn còn hạn chế, khuyết điểm, nhưng những hạn chế, khuyết điểm đó đã nhanh chóng được tổng kết rút kinh nghiệm và tổ chức uốn nắn kịp thời, làm cho công tác này luôn đi đúng hướng và đạt nhiều thành tích, để lại những bài học kinh nghiệm có giá trị. Nghiên cứu quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm góp phần dựng lại cuộc đấu tranh anh dũng của Quân đội và Nhân dân Việt Nam trên một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, qua đó làm rõ hơn tính chất toàn dân, toàn diện và góp phần lý giải về một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi, rút ra những đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm cho hiện nay. Mặc dù nhiều năm qua, vấn đề công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được một số cơ quan, nhà khoa học đề cập, nghiên cứu ở một số khía cạnh, song cho đến nay vẫn chưa có công trình chuyên khảo nào có nội dung đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954)” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Tái hiện tương đối đầy đủ, toàn diện quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở đó rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm có thể nghiên cứu vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Làm rõ cơ sở tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Trình bày bối cảnh lịch sử, âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp; chủ trương của Đảng, Chính phủ và QĐND Việt Nam về công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trình bày có hệ thống quá trình thực hiện, các bước phát triển, kết quả và một số hạn chế của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nêu bật và phân tích làm rõ đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm được rút ra của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó làm sáng rõ truyền thống nhân văn, tính chất nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác địch vận do VNDCCH tiến hành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 1954), cụ thể là chủ trương, biện pháp, hình thức tiến hành, tổ chức bộ máy, lực lượng tham gia, quá trình triển khai thực hiện, kết quả… của công tác địch vận. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu: Công tác tuyên truyền, vận động sĩ quan, binh lính trong quân đội Liên hiệp Pháp, đấu tranh chống tuyển mộ, bắt lính, đòi chồng, đòi con; công tác tù, hàng binh. Về thời gian: Nghiên cứu công tác địch vận từ tháng 9.1945 đến tháng 7.1954, tức là từ khi Nam Bộ mở đầu kháng chiến đến khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, sau tháng 7.1954, công tác địch vận vẫn tiếp tục được tiến hành, do đó luận án có đề cập ở một mức độ nhất định để bảo đảm tính hệ thống, liên tục. Về không gian: Quá trình tiến hành công tác địch vận trên cả nước. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
- Các văn kiện của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy (Trung ương Quân ủy, Tổng Chính ủy), các Liên khu uỷ, Khu uỷ và các cấp uỷ địa phương từ năm 1945 đến năm 1954 về công tác địch vận. Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội viết về công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các công trình lịch sử kháng chiến, lịch sử Đảng bộ, lịch sử lực lượng vũ trang, lịch sử các tổ chức, đoàn thể, các địa phương, đơn vị trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Các công trình khoa học, bài báo, tạp chí, luận án, luận văn có nội dung liên quan đến đề tài. Đặc biệt chú trọng nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí từng trực tiếp tham gia công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp. Một số tư liệu nước ngoài về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, luận án sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, kết hợp với các phương pháp khác như phân tích, thống kê, so sánh đối chiếu, tổng hợp… để thu thập, xử lý và phân tích các nguồn tư liệu văn bản, các công trình nghiên cứu. Ngoài ra, để thẩm định và làm phong phú thêm nguồn tư liệu, tác giả luận án còn tiếp xúc, phỏng vấn một số nhân chứng lịch sử. 5. Đóng góp của luận án Cung cấp những tư liệu mới và hệ thống hóa các tư liệu, phục dựng lại toàn bộ quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Làm sáng rõ các chủ trương, quan điểm của ĐCSVN, Chính phủ và
- QĐNDVN về công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phân tích, rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm của công tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp có thể tham khảo, vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Công tác địch vận trong giai đoạn đầu kháng chiến (1945 1950). Chương 3: Công tác địch vận trong giai đoạn tiến công và phản công, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1951 1954). Chương 4: Đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm. Chương 1 TỔNG QUANTÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cùng với các hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế…, công tác địch vận được sử dụng là một mũi tiến công sắc bén vào hàng ngũ kẻ thù. Tùy vào từng thời kỳ, công tác này có những tên gọi khác nhau như: tâm công, binh vận, địch vận, binh địch vận và tuyên truyền đặc biệt. Riêng trong kháng chiến chống Pháp, Công tác địch vận là một bộ phận công tác vận động cách mạng của Đảng, một mũi tiến công của cách mạng, của nghệ thuật quân sự Việt Nam, một mặt của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, giáo dục, giác ngộ và tổ chức sĩ quan
- và binh sĩ quân đội Pháp ủng hộ chính nghĩa, đứng về phía cách mạng, chống lại chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa, làm cho quân đội Pháp tan rã về chính trị, tư tưởng, tinh thần và tổ chức. Lực lượng tham gia công tác địch vận gồm cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và đông đảo quần chúng nhân dân. 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có liên quan gián tiếp đề tài luận án Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Trung ương và của các địa phương Có thể kể đến 2 bộ (bộ 2 tập và bộ 7 tập) Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954; Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 10, do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn; Lịch sử Việt Nam, tập 10 và 11 do Viện Sử học biên soạn, v.v.. Ngoài ra còn có một số luận án nghiên cứu về chính sách quân sự, chính trị của Pháp ở Việt Nam, v.v. Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở Trung ương, còn có các công trình nghiên cứu về lịch sử kháng chiến chống Pháp của các khu, liên khu, các tỉnh trong nước, trong đó có đề cập đến công tác địch vận, nhất là công tác tuyên truyền, phong trào chống bắt lính, kêu gọi chồng con bỏ ngũ trở về nhà trong các vùng tạm chiếm, v.v. Tuy nhiên, nội dung về công tác địch vận còn sơ lược, chỉ được đề cập lẻ tẻ, thiếu hệ thống và toàn diện, chủ yếu là các ví dụ cụ thể, điển hình. Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử của các đơn vị, các ngành, các đoàn thể Đây là các công trình lịch sử của các đơn vị, các ngành trong quân đội, lịch sử đoàn thanh niên, hội phụ nữ, v.v.. Trong đó, công tác địch vận có được đề cập trong một số chiến dịch, một số trận đánh hay việc truyền truyền, vận động binh lính đối phương của thanh niên, phụ nữ ở các địa phương. Tuy nhiên, công tác địch vận chỉ là một mặt hoạt động của công tác chính trị trong quân đội, một nội dung trong các hoạt động phong phú của thanh niên, phụ nữ, nên chỉ được đề cập sơ lược, chỉ là những ví dụ
- cụ thể, mang tính điển hình. Nhóm các công trình nghiên cứu của người nước ngoài về lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài (chủ yếu của các tác giả Pháp) cũng có nội dung liên quan đến đề tài như bối cảnh, tình hình và tâm lý quân đội Pháp, một số chính sách của Pháp để đối phó với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, âm mưu xây dựng “Quân đội quốc gia”, dùng “người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Mặc dù cung cấp nhiều tư liệu có giá trị, nhưng các công trình này có nhiều chỗ thể hiện những quan điểm, cách nhìn chưa thật khách quan, cần có sự phân tích, chọn lọc. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trực tiếp công tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp Nhóm các công trình nghiên cứu trong nước Ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra và công tác địch vận đang được tiến hành, đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận và tổng kết về công tác địch vận được xuất bản như Công tác địch vận, Kinh nghiệm địch vận, Công tác địch vận của Đảng ta, v.v. Sau này, còn có nhiều công trình khác, như lịch sử của Cục Dân vận và tuyên truyền đặc biệt, v.v. Bên cạnh đó, có một số cuốn hồi ký của những người từng trực tiếp tham gia công tác địch vận, quản lý tù hàng binh như Khép lại quá khứ đau thương, Hỏi cung tù binh Điện Biên Phủ, v.v.. Bên cạnh đó, còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Xưa và Nay cũng đề cập trực tiếp đến công tác địch vận . Nhóm các công trình nghiên cứu của người nước ngoài Công tác địch vận của Việt Nam DCCH trong kháng chiến chống Pháp cũng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của một số người nước ngoài với những khảo cứu chuyên sâu về một khía cạnh nào đó. Nhiều nghiên cứu trong số đó đã được công bố rộng rãi trên các Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí Xưa và Nay, v.v. Ngoài ra, còn có một số hồi ký của những
- “người Việt Nam mới” như Kostas Sarantidis Nguy ễn Văn Lập, Enxtơ Phrây. 1.2. Một số nhận xét về những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Trong các công trình nói trên, công tác địch vận được phản ánh ở những mức độ và khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và đầy đủ về các vấn đề như: những chủ trương, quan điểm của ĐCSVN, Chính phủ và QĐNDVN về công tác địch vận; bối cảnh tình hình trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến và tác động của nó tới công tác địch vận; quá trình tiến hành, những thành tựu, hạn chế của công tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là những đặc điểm, ý nghĩa và kinh nghiệm lịch sử của công tác này. 1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết Trình bày một cách có hệ thống những chủ trương, quan điểm, chính sách của ĐCSVN, Chính phủ và QĐND Việt Nam về công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Làm rõ bối cảnh tình hình trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự tác động của nó tới công tác địch vận. Trình bày đầy đủ quá trình tiến hành công tác địch vận, làm rõ những thành tựu, nêu lên một số hạn chế trong nhận thức và trong quá trình tiến hành công tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chương 2 CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU KHÁNG CHIẾN (1945 1950) 2.1. Khái quát công tác địch vận trước cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Trong các cuộc chiến tranh giữ nước, cùng với sử dụng sức mạnh
- quân sự, dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã coi trọng và tiến hành công tác địch vận, thực hiện chính sách “tâm công” có hiệu quả. Từ cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (938), trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Tây Sơn, công tác địch vận đều được sử dụng. Đến Khởi nghĩa Lam Sơn, sách lược “tâm công” được Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn phát triển đến đỉnh cao, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, lãnh tụ một số cuộc khởi nghĩa cũng như một số nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản tiếp tục chú ý đến công tác địch vận. Tiêu biểu có thể kể đến Phan Bội Châu hay Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngay từ khi mới thành lập, ĐCSVN đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác vận động binh lính trong đội quân xâm lược Pháp. Trong phong trào cách mạng 19301931 và 19361939, cùng với kêu gọi nhân dân cả nước vùng dậy chống đế quốc và tay sai, ĐCSĐD nhắc nhở phải hết sức chú ý đến việc vận động binh lính, vì vậy, nhiều cuộc đấu tranh đã diễn ra, một số cơ sở trung kiên trong hàng ngũ địch đã được gây dựng. Trong Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, công tác địch vận đã đạt được nhiều thành tích quan trọng, nhiều chỉ huy binh lính, bảo an binh đã ngả về phía cách mạng; nhiều người ngoại quốc trong quân đội Pháp đã chạy sang theo Việt Minh. Sự hoạt động mạnh mẽ và những thành tích của công tác địch vận đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong Tổng khởi nghĩa, để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, là cơ sở cho công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 2.2. Bước đầu tiến hành công tác địch vận (1945 1947) Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, công tác địch vận được Hội nghị cán bộ Trung ương (7.1947) xác định: “Tác chiến quan trọng thế nào thì địch vận cũng cần như thế”. Quay trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp huy động một lực
- lượng lớn binh lính ÂuPhi gồm 24 quốc tịch khác nhau. Bên cạnh đó là lực lượng binh lính người Việt với số lượng ngày càng tăng. Khi cuộc kháng chiến mới nổ ra, lực lượng ÂuPhi là chủ yếu, nên trọng tâm công tác địch vận lúc đầu tập trung vào đối tượng này với các hình thức như rải truyền đơn (chú trọng truyền đơn tiếng Pháp, tiếng Đức); gọi loa; kẻ, vẽ khẩu hiệu; phát hành báo chí. Nội dung tuyên truyền vạch rõ âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, khẳng định cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam nhất định thắng lợi, kêu gọi binh lính địch phản chiến, đòi hồi hương, đào ngũ tập thể, v.v. Những ngày đầu kháng chiến, công tác địch vận chưa có cơ quan chuyên trách lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất. Sau khi Phòng Địch vận thuộc Cục Chính trịBộ Quốc phòng được thành lập, tháng 6.1947, Nha Thông tin và Cục Chính trịBộ Quốc phòng thống nhất giao hẳn công tác địch vận cho quân đội phụ trách. Từ đây, hệ thống chỉ huy địch vận được hình thành trong toàn quân và cả nước. Trong Chiến dịch Việt BắcThu Đông 1947, các khu 1, 12 và 10 chưa thành lập xong cơ quan địch vận, khiến công tác này trong chiến dịch chưa hiệu quả. Cùng với công tác tuyên truyền, vận động và kiện toàn cơ quan địch vận các cấp, công tác tù, hàng binh cũng được chú trọng. Việt Nam DCCH thực hiện chính sách đối xử nhân đạo, khoan hồng với tù, hàng binh. Điều đó được thể hiện trong hàng loạt các văn kiện chỉ đạo kháng chiến của Đảng, Chính phủ và Quân đội. Việc đối xử tệ bạc, bạc đãi tù, hàng binh bị tuyệt đối nghiêm cấm. Bộ Tổng chỉ huy còn chỉ thị cho các đơn vị thực hiện việc thả tù binh. Điều đó đã gây được dư luận tốt trong binh lính và nhân dân Pháp, giúp họ hiểu rõ hơn chính sách nhân đạo và sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tuy đạt được những thành tích bước đầu nhưng công tác địch vận trong giai đoạn này vẫn tồn tại một số khuyết điểm, hạn chế như: chưa tận dụng hết mọi khả năng tiến hành công tác của các lực lượng; một số nội dung, hình thức tuyên truyền chưa sát thực tế; công tác địch vận chưa được quan tâm đúng mức, bộ máy cơ quan địch vận chưa hình thành đầy
- đủ, có hệ thống thống nhất, v.v. 2.3. Công tác địch vận (1948 1950) Thất bại trong cuộc tiến công lên Việt Bắc, thực dân Pháp phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, củng cố, bình định những vùng đã chiếm đóng, xúc tiến mạnh việc lập tề, đẩy mạnh xây dựng chính quyền thân Pháp và phát triển nhanh đội quân người Việt. Đầu năm 1948, tổng quân số Pháp là 118.000 người, trong đó có 54.000 binh lính người Việt (chiếm 45%), đến cuối năm 1948, quân số tương ứng là 160.000 người và 75.000 người (chiếm 47%). Trong khi đó, Việt Nam DCCH ngày càng lớn mạnh về mọi mặt. Căn cứ vào thành phần đội quân xâm lược Pháp, phương châm địch vận được đề ra đối với binh sĩ Âu Phi là: tiếp tục nêu cao khẩu hiệu “ưu đãi tù binh, hàng binh, thương binh, thả tù binh”. Với binh lính người Việt, ngày 5.11.1948, Cục Chính trịBộ Quốc phòng ra Chỉ thị về cuộc Tổng phá ngụy binh, xác định công tác tuyên truyền, vận động đối tượng này là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong giai đoạn mới. Hình thức, biện pháp tuyên truyền là gọi loa, rải truyền đơn, phát hành các báo, trực tiếp gặp gỡ gây nhân mối, v.v. Ngày 22.8.1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về việc thống nhất công tác địch vận, nêu rõ vai trò, những khuyết điểm và kinh nghiệm của công tác địch vận trong thời gian qua và khẳng định: Đảng phải lãnh đạo công tác địch vận. Ngày 13.6.1950, Hội nghị thống nhất địch vận miền Bắc lần thứ ba được tổ chức, chỉ rõ ba nguyên tắc cơ bản về tổ chức và cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác địch vận là: 1 Tổ chức địch vận phải đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng; 2 Người chỉ huy quân sự của Đảng ở mỗi cấp phụ trách luôn công tác địch vận; hệ thống chỉ huy địch vận nằm trong hệ thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự của Đảng, quân đội là tổ chức chính phát động và tiến hành công tác địch vận; 3 Tổ chức địch vận quân đội hướng dẫn và giúp đỡ các cơ quan, đoàn thể tham gia công tác địch vận.
- Chủ trương thống nhất địch vận của Đảng đã kịp thời làm cho công tác địch vận được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, hoạt động ngày càng có hiệu quả, không chỉ là ở các vùng địch hậu mà còn trong cả các chiến dịch, tiêu biểu như Chiến dịch Biên Giới 1950. Cùng với vận động binh lính, ta còn vận động cả nhân viên trong chính quyền địch, đặc biệt là vận động hội tề, với các phong trào phá tề, trừ gian, tranh thu hội tề hoặc ủng hộ kháng chiến hoặc có thái độ trung lập, v.v. Về công tác tù, hàng binh, tháng 5.1948, Chính phủ VNDCCH ra Sắc lệnh Quy chế người Âu; BTTL ra Chỉ thị về nguyên tắc dùng người ngoại quốc, với nội dung quy định từ khâu đón tiếp, sử dụng đào binh, hàng binh đến phân phối vũ khí của họ mang theo khi ra hàng, mở lớp huấn luyện, v.v.. Hàng binh Âu Phi khi chạy sang hàng ngũ kháng chiến được lĩnh tiền thưởng, sau đó được đưa về chiêu đãi sở, được tổ chức sinh hoạt hàng ngày đều đặn, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, được chăm sóc sức khỏe. Bộ Quốc phòng còn thành lập các đội Commandos, đội Tell, đội Dina độc lập để quản lý và tổ chức cho hàng binh, đào binh hoạt động. Một số hội quần chúng ÂuPhi được thành lập để tuyên truyền, vận động và tập hợp binh sĩ như “Hội những chiến sĩ ngoại quốc tự do ở Việt Nam”, “Ủy ban hoạt động bắt tay huynh đệ với Quân đội Việt Minh”, “Chi đội hồi hương”, “Binh sĩ ÂuPhi giải phóng đoàn”, v.v. Hệ thống các trại tù, hàng binh do Cục Địch vận quản lý cũng từng bước được hình thành. Trong các trại, vấn đề đãi ngộ, giáo dục, hồi hương tiếp tục được triển khai. Trước những tác động của công tác địch vận, thực dân Pháp tìm mọi cách đối phó, tiến hành nhiều nội dung phản tuyên truyền, tiếp tục những luận điệu nói xấu, vu khống và xuyên tạc trắng trợn Việt Minh. Mặt khác, công tác địch vận vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Điều đó đã gây không ít khó khăn, làm hạn chế kết quả. Tuy nhiên, có thể thấy công tác địch vận vẫn phát triển, bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, hình thức, nội dung, phương pháp tiến hành ngày càng phong phú, phù hợp, góp phần
- chống phá chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực dân Pháp. Chương 3 CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG GIAI ĐOẠN TIẾN CÔNG VÀ PHẢN CÔNG, KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN (1951 1954) 3.1. Công tác địch vận kết hợp với các hoạt động quân sự, phát triển thế tiến công chiến lược (1951 giữa 1953) Sau thất bại Biên Giới Thu Đông 1950, thực dân Pháp buộc phải dựa vào viện trợ Mỹ để tiếp tục chiến tranh; thực hiện Kế hoạch Đờlát, tăng cường bắt thanh niên người Việt vào lính nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường. Vì vậy, bên cạnh đội quân viễn chinh Âu Phi, binh lính người Việt tăng lên nhanh chóng (cuối năm 1951 có 210.000 người, chiếm 62% tổng quân số Pháp). Trong khi đó, Việt Nam DCCH ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, được nhiều nước XHCN công nhận và giúp đỡ. Từ ngày 11 đến 19.2.1951, Đại hội lần thứ II ĐCS Đông Dương được triệu tập, nhằm đẩy mạnh hơn nữa cuộc kháng chiến chống Pháp. Trên đà phát triển mạnh mẽ của cuộc kháng chiến, công tác địch vận tiếp tục phát triển và giành nhiều thành tích. Trước sự gia tăng nhanh chóng binh lính người Việt trong quân đội Liên hiệp Pháp, Hội nghị địch vận toàn quốc (8.1951) ra Nghị quyết xác định công tác vận động binh lính người Việt là nhiệm vụ trọng yếu nhất. Chủ trương của Việt Nam DCCH và Chủ tịch Hồ Chí Minh là sẽ khoan hồng với những người sớm quay về với Tổ quốc, trọng thưởng những người lập công. Trong các chiến dịch, công tác địch vận xác định phải tập trung đẩy mạnh tuyên truyền binh lính đối phương, phối hợp chặt chẽ với tác chiến; tổ chức quản lý, sử dụng tù binh, hàng binh, mạnh dạn thả tù binh. Trong các chiến dịch Quang Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, công tác địch vận
- đã được chú trọng và tiến hành có hiệu quả, kể cả việc tuyên truyền và việc thực hiện chính sách tù, hàng binh. Tại các vùng tạm chiếm và vùng tranh chấp ở đồng bằng Bắc Bộ, BìnhTrịThiên, Liên khu 5, Nam Bộ, công tác địch vận cũng phát triển mạnh mẽ. Ngành địch vận thông qua cấp ủy, chính quyền các địa phương vận động nhân dân tham gia công tác, tiến hành gọi loa, rải truyền đơn, gặp gỡ, gây nhân mối trong binh lính người Việt; nêu cao các khẩu hiệu tuyên truyền. Phong trào đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng, đòi con phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó, công tác Âu Phi vận tiếp tục đề cao khẩu hiệu “Hồi hương quân đội viễn chinh Pháp và hòa bình ở Việt Nam” nhằm đánh mạnh vào tâm lý chán ghét chiến tranh và nguyện vọng được trở về Tổ quốc của họ. Công tác vận động nhân viên trong chính quyền địch, đặc biệt là chính quyền cơ sở hội tề tiếp tục được đẩy mạnh. Các phong trào đấu tranh chính trị ở cả nông thôn và thành thị với sự tham gia của đông đảo nhân dân liên tiếp diễn ra làm cho chính quyền địch lúng túng, nhiều hội tề bị phá rã hoặc bị vô hiệu hóa, nhiều người ủng hộ kháng chiến. Về công tác tù, hàng binh, Việt Nam DCCH tiếp tục thực hiện chính sách nhân đạo, tăng cường nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong các trại tù, hàng binh, thực hiện thả tù binh, tổ chức cho hàng binh ÂuPhi hồi hương về các nước dân chủ mới ở châu Âu. Đối với tù, hàng binh người Việt, ngày 5.10.1952, Chính phủ Việt Nam DCCH ban hành Thông tư số 208/TTg Về cách đối xử và quản trị đối với tù binh và hàng binh ngụy, nêu rõ thái độ đối với họ là hoan nghênh, săn sóc chu đáo và giải phóng sớm cho họ về quê hương. Khi được thả về địa phương, họ được hưởng mọi quyền công dân, như quyền tự do dân chủ, quyền ruộng đất do Chính phủ tạm cấp chia cho, v.v… Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách tù, hàng binh, vẫn còn một số hiện tượng chấp hành chưa tốt, gây khó khăn cho công tác tuyên truyền địch vận. Mặc dù vậy thành tích vẫn là căn bản, là nền móng cho công tác địch vận giai đoạn tiếp sau. 3.2. Đẩy mạnh công tác địch vận, góp phần kết thúc thắng lợi
- cuộc kháng chiến (giữa 1953 7.1954) Mùa Hè năm 1953, thực dân Pháp thực hiện Kế hoạch Nava, tăng viện quân viễn chinh, mở rộng khối quân cơ động, ráo riết bắt thanh niên người Việt vào lính, phát triển phỉ ở vùng rừng núi, càn quét, đánh phá căn cứ kháng chiến; đẩy mạnh tuyên truyền lừa phỉnh và phản tuyên truyền nhằm cứu vãn tình thế thất bại đang đến gần. Cuối tháng 9.1953, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 19531954, xác định phương hướng chiến lược và chủ trương tác chiến. Cùng với đó, công tác địch vận tiếp tục được đẩy mạnh. Đối với binh lính người Việt, chủ trương của Việt Nam DCCH được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 45/CTTW của BCH Trung ương Đảng Về chính sách đối với ngụy binh và Nghị quyết Hội nghị địch vận toàn quốc (4 13.10.1953). Nhiệm vụ năm 1954 là phải đẩy mạnh công tác địch vận lên một bước, chủ yếu là ngụy vận, đồng thời phải chú trọng Âu Phi vận. Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết nêu trên, công tác địch vận được đẩy mạnh ở khắp các địa phương trên cả nước, từ Liên khu 3, Khu Tả Ngạn sông Hồng, đến Binh Trị Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng và triển khai có hiệu quả, kể cả công tác tuyên truyền, vận động và thực hiện chính sách tù, hàng binh. Trên chiến trường toàn quốc, từ tháng 12.1953 đến tháng 5.1954, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có 35.873 binh lính người Việt bỏ ngũ trở về quê. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, công tác địch vận tiếp tục được tiến hành, đặc biệt là việc tuyên truyền, thực hiện chính sách đối với binh lính và nhân viên chính quyền Bảo Đại bỏ hàng ngũ trở về quê. Trừ bọn phản động gây nhiều tội ác, tất cả đối tượng này đều được hưởng chính sách khoan hồng, được hưởng quyền công dân, được chia ruộng đất và tạo điều kiện ổn định cuộc sống. Toàn bộ tù binh bị bắt trong cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung và chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng, sau một thời gian tập trung ở các trại, tùy theo điều
- kiện, hoàn cảnh khác nhau, đã được trao trả cho phía Pháp hoặc tổ chức cho hồi hương hay ở lại Việt Nam làm ăn, sinh sống theo nguyện vọng. Chương 4 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 4. 1. Đặc điểm 4.1.1. Công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp là sự tiếp nối truyền thống lịch sử dân tộc, được phát triển lên tầm cao mới Công tác địch vận được dân tộc Việt Nam tiến hành từ rất sớm trong các cuộc đấu tranh chống ngoại của dân tộc, trải qua các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Tây Sơn đến các cuộc đấu tranh chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930), cách mạng Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt quan trọng dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng vô sản. Ngay sau khi Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng phải tiếp tục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Cùng với đấu tranh trên mặt trận quân sự, công tác địch vận được ĐCS Việt Nam đặc biệt chú trọng và phát triển lên tầm cao mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống bộ máy chỉ huy công tác địch vận được hình thành do Quân đội phụ trách. Công tác địch vận trở thành công tác có tính chất quần chúng rộng rãi với sự tham gia của toàn quân, toàn dân; hình thức, biện pháp địch vận hết sức phong phú. 4.1.2. Công tác địch vận do Quân đội phụ trách, có sự tham gia ngày càng đông đảo của nhiều lực lượng và quần chúng nhân dân, với nhiều hình thức địch vận phong phú, sáng tạo Khi mới bước vào cuộc kháng chiến, công tác địch vận còn sơ khai, tổ chức và lề lối công tác chưa được chấn chỉnh. Cùng với sự lớn mạnh của cuộc kháng chiến, công tác địch vận ngày càng được chú trọng và phát triển, được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và có tổ chức địch vận thống nhất (từ 1949). Người chỉ huy quân sự của Đảng ở mỗi cấp phụ
- trách luôn công tác địch vận; hệ thống chỉ huy địch vận nằm trong hệ thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự của Đảng, quân đội là tổ chức chính phát động và tiến hành công tác địch vận, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các ngành khác làm địch vận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng do Quân đội trực tiếp phụ trách, càng về cuối cuộc kháng chiến, công tác địch vận ngày càng có sự tham gia của đông đảo nhân dân với nhiều nội dung, hình thức phong phú, kết quả ngày càng lớn. 4.1.3. Công tác địch vận phải tiến hành với nhiều đối tượng phức tạp thuộc nhiều quốc tịch khác nhau Tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đạo quân xâm lược Pháp có thành phần phức tạp, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau (thành phần binh sĩ Âu Phi có đến 24 quốc tịch). Vì vậy, trong công tác tuyên truyền vận động, ngành địch vận phải sử dụng đến 13 thứ tiếng, trong đó chú trọng đối tượng lính Pháp, Đức. Ngoài ra còn đối tượng đông đảo là binh lính người Việt trong quân đội Pháp, trong đó có một bộ phận không nhỏ là người dân tộc thiểu số, người thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Vì vậy, để tiến hành tuyên truyền địch vận có hiệu quả, phải nghiên cứu kỹ đối tượng, từ đó đề ra những nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp. Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, nhân lực, vật lực để tiến hành công tác ngày càng có hiệu quả. 4.1.4. Công tác địch vận có sự tham gia của nhiều người từ hàng ngũ đối phương sang theo kháng chiến Với chính sách khoan hồng, nhân đạo cao cả của Việt Nam, nhiều người từ hàng ngũ đối phương đã chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Họ được đối đãi tử tế và được trọng dụng vào những công việc thích hợp tùy vào khả năng của họ. Trong số đó, nhiều người đã trở thành cán bộ Việt Minh, trực tiếp tham gia công tác địch vận, được tin tưởng giao những trọng trách quan trọng. Sự tham gia của họ vào công tác địch vận đã có tác động lớn đến việc tuyên truyền, lôi kéo binh lính địch ngả về phía kháng chiến. Tiêu biểu trong các “chiến sĩ quốc tế”, “người Việt Nam mới” tham gia công tác địch vận, đó là: người Đức có Lê Đức Nhân (Rudy
- Schroder), Chiến Sĩ (Erwin Borchers); người Hy Lạp có Nguyễn Văn Lập (Kostas Sarantidis); người Pháp có Lê Thành (Tarrago Jean), v.v… Trong số họ, có người trở thành đảng viên, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. 4.2. Ý nghĩa 4.2.1. Công tác địch vận làm cho tinh thần binh lính quân đội đối phương sa sút, góp phần cùng tác chiến giành thắng lợi nhanh hơn và đỡ tốn xương máu Đại đa số binh lính địch đều là con em nhân dân lao động, nhiều người vì bị bắt buộc mà phải cầm súng cho địch, tinh thần dễ bị dao động nên có thể tuyên truyền giác ngộ họ. Bên cạnh đó, nội bộ chúng có nhiều mâu thuẫn, tinh thần chiến đấu dễ bị dao động, khi đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt, nếu được tuyên truyền kịp thời kết hợp cùng tác chiến, chúng sẽ nhanh chóng đầu hàng, tan rã. Đặc biệt, khi có áp lực quân sự, việc tuyên truyền càng mang lại hiệu quả cao vì đó là lúc tinh thần binh lính đối phương dễ bị sa sút nhất.Các trận Nghĩa Lộ, Ba Khe trong Chiến dịch Tây Bắc hay trận Bản Kéo trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là những ví dụ tiêu biểu. 4.2.2. Công tác địch vận góp phần làm sáng tỏ và nêu cao chính nghĩa của cuộc kháng chiến, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp chính nghĩa. Chủ trương, chính sách địch vận của Đảng đúng đắn, nhân đạo. Vì vậy, thông qua công tác địch vận, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp hiểu được sự nghiệp chính nghĩa và chính sách nhân đạo của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam kháng chiến. 4.2.3. Công tác địch vận góp phần quan trọng làm thất bại âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp Thực dân Pháp thực hiện âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, ra sức xây dựng “quân đội
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 306 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 268 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn