intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

88
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án tái hiện tương đối đầy đủ, toàn diện quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở đó rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm có thể nghiên cứu vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO              BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM *** LÊ VĂN CỬ CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945­1954) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam                          Mã số:                62 22 03 13 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI ­ 2015
  2. Công trình được hoàn thành tại: VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Đinh Quang Hải                                                  2. TS Trần Văn Thức Phản biện 1: PGS, TS Hồ Khang Phản biện 2: PGS, TS Trần Đức Cường Phản biện 3: PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện  tại………………………………………………………………… Vào hồi ………giờ……ngày……….tháng……..năm………….. Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ ­ Thư viện quốc gia Việt Nam  ­ ­ Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam 
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945­1954), công tác  địch vận là một trong những lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có vai trò quan  trọng và những đóng góp to lớn. Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước trong lịch sử lâu dài chống   ngoại xâm của dân tộc, với quan điểm, lập trường cách mạng, khoa học,   Đảng Cộng sản  Đông Dương*  xác định đường lối kháng chiến chống  thực dân Pháp là toàn dân, toàn diện, trường kỳ  và dựa vào sức mình là  chính, trong đó, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng. Để  địch vận   có hiệu quả, phải dùng mọi hình thức, tận dụng mọi cơ hội tuyên truyền  làm tan rã tinh thần binh lính đối phương, giúp họ  thấy rằng nhân dân  Việt Nam và họ có chung một kẻ thù là thực dân Pháp, từ đó họ phản đối   chiến tranh xâm lược,  ủng hộ  và bỏ  hàng ngũ địch chạy sang lực lượng   kháng chiến.  Theo chủ  trương của  Đảng,  công tác địch vận  được  các  cấp uỷ,  chính quyền, các ngành, các đoàn thể  cùng đông đảo nhân dân trên khắp  cả nước hưởng ứng, triển khai thực hiện, trở thành nhiệm vụ mang tầm   chiến lược và có tính chất quần chúng rộng rãi. Bộ  máy địch vận được   hình thành thống nhất từ Trung ương đến khu, liên khu, tỉnh, huyện và các  đơn vị  bộ  đội chủ  lực. Nhiều hình thức, biện pháp địch vận được tiến  hành như: vận động binh lính đấu tranh, bỏ hàng ngũ địch chạy sang theo   lực lượng kháng chiến, tổ chức nhân mối trong quân đội Pháp, chống bắt  lính, đòi chồng, đòi con; đối xử  nhân đạo với tù, hàng binh, tổ  chức hồi  hương cho tù, hàng binh, thực hiện thả tù binh, v.v. Kết quả là, công tác  địch vận đã góp phần làm binh lính đối phương bị phân hoá sâu sắc, âm   mưu thâm độc "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi  chiến tranh" của thực dân Pháp bị  thất bại một phần đáng kể, tinh thần   chiến đấu của binh lính địch bị giảm sút, sức mạnh và uy tín cuộc kháng   *   Từ  tháng 10.1930 lấy tên là Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3.1951 lấy tên là   Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12.1976 trở lại tên Đảng Cộng sản Việt Nam.
  4. chiến của nhân dân Việt Nam ngày càng lên cao, nhiệm vụ tác chiến của  bộ  đội thêm nhiều thuận lợi, tạo sức mạnh tổng hợp tiến lên đánh bại  thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, có lúc có nơi, việc tiến hành công tác   địch vận vẫn còn hạn chế, khuyết điểm, nhưng những hạn chế, khuyết   điểm đó đã nhanh chóng được tổng kết rút kinh nghiệm và tổ  chức uốn  nắn kịp thời, làm cho công tác này luôn đi đúng hướng và đạt nhiều thành   tích, để lại những bài học kinh nghiệm có giá trị. Nghiên cứu quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng  chiến chống thực dân Pháp nhằm góp phần dựng lại cuộc đấu tranh anh   dũng của Quân đội và Nhân dân Việt Nam trên một lĩnh vực hoạt động   đặc biệt, qua đó làm rõ hơn tính chất toàn dân, toàn diện và góp phần lý  giải về  một trong những nhân tố  tạo nên thắng lợi, rút ra những đặc   điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm cho hiện nay.  Mặc dù nhiều năm qua, vấn đề  công tác địch vận trong cuộc kháng   chiến chống thực dân Pháp đã được một số  cơ  quan, nhà khoa học đề  cập, nghiên cứu ở một số khía cạnh, song cho đến nay vẫn chưa có công   trình chuyên khảo nào có nội dung đầy đủ, toàn diện và có hệ  thống về  vấn đề này. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác địch vận trong cuộc   kháng chiến chống thực dân Pháp (1945­1954)” làm đề tài luận án tiến sĩ,  chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án  Tái hiện tương đối đầy đủ, toàn diện quá trình tiến hành công tác  địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên cơ sở đó rút ra   đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm có thể nghiên cứu vận dụng và  phát huy trong công cuộc xây dựng, bảo vệ  và phát triển đất nước hiện   nay.  2.2. Nhiệm vụ của luận án ­ Làm rõ cơ  sở  tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng chiến   chống thực dân Pháp.
  5. ­ Trình bày bối cảnh lịch sử, âm mưu, thủ  đoạn xâm lược của thực   dân Pháp; chủ trương của Đảng, Chính phủ và QĐND Việt Nam về công  tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. ­ Trình bày có hệ thống quá trình thực hiện, các bước phát triển, kết   quả  và một số  hạn chế  của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến   chống thực dân Pháp.  ­ Nêu  bật và phân tích làm rõ  đặc điểm, ý nghĩa và một số   kinh   nghiệm được rút ra của công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống  thực dân Pháp, qua đó làm sáng rõ truyền thống nhân văn, tính chất nhân   đạo cao cả của dân tộc Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác địch vận do VNDCCH  tiến hành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 ­ 1954), cụ  thể  là chủ  trương, biện pháp, hình thức tiến hành, tổ  chức bộ  máy, lực  lượng tham gia, quá trình triển khai thực hiện, kết quả… của công tác   địch vận. 3.2. Phạm vi nghiên cứu ­ Về  nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các nội  dung chủ  yếu: Công tác tuyên truyền, vận động sĩ quan, binh lính trong  quân đội Liên hiệp Pháp, đấu tranh chống tuyển mộ, bắt lính, đòi chồng,  đòi con; công tác tù, hàng binh.  ­ Về  thời gian: Nghiên cứu công tác địch vận từ  tháng 9.1945 đến  tháng  7.1954, tức là từ  khi Nam Bộ  mở  đầu kháng chiến đến khi Hiệp   định Giơnevơ  được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống  thực dân Pháp. Tuy nhiên, sau tháng 7.1954, công tác địch vận vẫn tiếp tục  được tiến hành, do đó luận án có đề cập ở một mức độ nhất định để bảo   đảm tính hệ thống, liên tục. ­ Về không gian: Quá trình tiến hành công tác địch vận trên cả nước. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
  6. ­ Các văn kiện của Bộ  Chính trị, Trung  ương Đảng, Tổng Quân  ủy   (Trung  ương Quân  ủy, Tổng Chính  ủy), các Liên khu uỷ, Khu uỷ  và các  cấp uỷ địa phương từ năm 1945 đến năm 1954 về công tác địch vận. ­ Các tác phẩm của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo   Đảng, Nhà nước và Quân đội viết về công tác địch vận trong cuộc kháng  chiến chống thực dân Pháp. ­ Các công trình lịch sử  kháng chiến, lịch sử  Đảng bộ, lịch sử  lực  lượng vũ trang, lịch sử các tổ chức, đoàn thể, các địa phương, đơn vị trong   kháng chiến chống thực dân Pháp.  ­ Các công trình khoa học, bài báo, tạp chí, luận án, luận văn có nội  dung liên quan đến đề tài. ­ Đặc biệt chú trọng nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ  Quốc phòng, Cục Lưu trữ  Văn phòng Trung  ương Đảng, Trung tâm Lưu   trữ quốc gia III.  ­ Hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí từng   trực tiếp tham gia công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp. ­ Một số tư liệu nước ngoài về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam   của thực dân Pháp. 4.2. Phương pháp nghiên cứu  Trên cơ  sở  lý luận của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí  Minh và đường lối quân sự  của Đảng, luận án sử dụng hai phương pháp   chủ  yếu là phương pháp lịch sử  và phương pháp lôgic, kết hợp với các  phương pháp khác như phân tích, thống kê, so sánh đối chiếu, tổng hợp…   để thu thập, xử lý và phân tích các nguồn tư  liệu văn bản, các công trình   nghiên cứu. Ngoài ra, để thẩm định và làm phong phú thêm nguồn tư liệu,   tác giả luận án còn tiếp xúc, phỏng vấn một số nhân chứng lịch sử.  5. Đóng góp của luận án  ­ Cung cấp những tư  liệu mới và hệ  thống hóa các tư  liệu, phục   dựng lại toàn bộ  quá trình tiến hành công tác địch vận trong cuộc kháng  chiến chống thực dân Pháp. ­ Làm sáng rõ các chủ trương, quan điểm của ĐCSVN, Chính phủ và  
  7. QĐNDVN về  công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân  Pháp. ­ Phân tích, rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm của công  tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp có thể  tham khảo,   vận dụng và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện  nay. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục, luận án được kết cấu thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề  tài luận  án. Chương 2: Công tác địch vận trong giai đoạn đầu kháng chiến (1945 ­   1950). Chương 3: Công tác địch vận trong giai đoạn tiến công và phản công,   kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1951 ­ 1954). Chương 4: Đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm.     Chương 1 TỔNG QUANTÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU  LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cùng với các  hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế…, công tác địch vận   được sử dụng là một mũi tiến công sắc bén vào hàng ngũ kẻ thù. Tùy vào  từng thời kỳ, công tác này có những tên gọi khác nhau như:  tâm công, binh   vận, địch vận, binh ­ địch vận và tuyên truyền đặc biệt. Riêng trong kháng chiến chống Pháp,  Công tác địch vận là một bộ   phận công tác vận động cách mạng của Đảng, một mũi tiến công của   cách mạng, của nghệ  thuật quân sự  Việt Nam, một mặt của hoạt động   công tác Đảng, công tác chính trị  của Quân đội nhân dân Việt Nam, có   nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, giáo dục, giác ngộ  và tổ  chức sĩ quan  
  8. và binh sĩ quân đội Pháp  ủng hộ  chính nghĩa, đứng về  phía cách mạng,   chống lại chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa, làm cho quân đội   Pháp tan rã về chính trị, tư tưởng, tinh thần và tổ  chức. Lực lượng tham   gia công tác địch vận gồm cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang   nhân dân Việt Nam và đông đảo quần chúng nhân dân. 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực   dân Pháp có liên quan gián tiếp đề tài luận án Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử cuộc kháng chiến chống thực   dân Pháp ở Trung ương và của các địa phương Có thể kể đến 2 bộ (bộ 2 tập và bộ 7 tập)  Lịch sử cuộc kháng chiến   chống thực dân Pháp (1945­1954; Lịch sử  quân sự  Việt Nam, tập 10, do  Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn; Lịch sử Việt Nam,  tập 10 và 11 do Viện Sử học biên soạn, v.v.. Ngoài ra còn có một số luận   án nghiên cứu về chính sách quân sự, chính trị của Pháp ở Việt Nam, v.v. Bên cạnh các công trình nghiên cứu  ở  Trung  ương, còn có các công   trình nghiên cứu về lịch sử kháng chiến chống Pháp của các khu, liên khu,  các tỉnh trong nước, trong đó có đề  cập đến công tác địch vận, nhất là  công tác tuyên truyền, phong trào chống bắt lính, kêu gọi chồng con bỏ  ngũ trở  về  nhà trong các vùng tạm chiếm, v.v. Tuy nhiên, nội dung về  công tác địch vận còn sơ lược, chỉ được đề  cập lẻ  tẻ, thiếu hệ  thống và  toàn diện, chủ yếu là các ví dụ cụ thể, điển hình.  Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử  của các đơn vị, các ngành,   các đoàn thể  Đây là các công trình lịch sử của các đơn vị, các ngành trong quân đội,  lịch sử  đoàn thanh niên, hội phụ nữ, v.v.. Trong đó, công tác địch vận có   được đề  cập trong một số  chiến dịch, một số trận đánh hay việc truyền   truyền, vận động binh lính đối phương của thanh niên, phụ  nữ   ở  các địa   phương. Tuy nhiên, công tác địch vận chỉ là một mặt hoạt động của công   tác chính trị  trong quân đội, một nội dung trong các hoạt động phong phú  của thanh niên, phụ nữ, nên chỉ được đề  cập sơ lược, chỉ là những ví dụ 
  9. cụ thể, mang tính điển hình. Nhóm các công trình nghiên cứu của người nước ngoài về  lịch sử   cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp  Nhiều công trình nghiên cứu  ở  nước ngoài (chủ  yếu của các tác giả  Pháp) cũng có nội dung liên quan đến đề  tài như  bối cảnh, tình hình và   tâm lý quân đội Pháp, một số  chính sách của Pháp để  đối phó với cuộc  kháng chiến của nhân dân Việt Nam, âm mưu xây dựng “Quân đội quốc  gia”, dùng “người Việt  đánh người Việt” của thực dân Pháp. Mặc dù  cung cấp nhiều tư  liệu có giá trị, nhưng các công trình này có nhiều chỗ  thể  hiện những quan điểm, cách nhìn chưa thật khách quan, cần có sự  phân tích, chọn lọc. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trực tiếp công tác địch vận trong   kháng chiến chống thực dân Pháp  Nhóm các công trình nghiên cứu trong nước Ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra và công  tác địch vận đang được tiến hành, đã có nhiều công trình nghiên cứu lý   luận và tổng kết về công tác địch vận được xuất bản như   Công tác địch   vận, Kinh nghiệm địch vận, Công tác địch vận của Đảng ta, v.v. Sau này,  còn có nhiều công trình khác,  như  lịch  sử  của Cục Dân vận và tuyên  truyền đặc biệt, v.v. Bên cạnh đó, có một số  cuốn hồi ký của những   người từng trực tiếp tham gia công tác địch vận, quản lý tù hàng binh như  Khép lại quá khứ đau thương, Hỏi cung tù binh Điện Biên Phủ, v.v.. Bên cạnh đó, còn có một số  bài viết trên các tạp chí chuyên ngành  như Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Xưa và   Nay cũng đề cập trực tiếp đến công tác địch vận .  Nhóm các công trình nghiên cứu của người nước ngoài Công tác địch vận của Việt Nam DCCH trong kháng chiến chống  Pháp cũng thu hút sự  quan tâm nghiên cứu của một số người nước ngoài  với những khảo cứu chuyên sâu về  một khía cạnh nào đó. Nhiều nghiên  cứu trong số  đó đã được công bố  rộng rãi trên các Tạp chí Lịch sử  quân   sự, Tạp chí Xưa và Nay, v.v. Ngoài ra, còn có một số  hồi ký của những  
  10. “người Việt Nam mới” như  Kostas Sarantidis ­ Nguy ễn Văn Lập, Enxtơ  Phrây.  1.2. Một số  nhận xét về  những công trình nghiên cứu liên quan   đến đề tài luận án Trong các công trình nói trên, công tác địch vận được phản ánh  ở  những mức độ  và khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung cho đến nay   chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ  thống và đầy đủ  về  các vấn đề  như: những chủ  trương, quan điểm của ĐCSVN, Chính phủ  và QĐNDVN về  công tác địch vận; bối cảnh tình hình trong từng giai  đoạn của cuộc kháng chiến và tác động của nó tới công tác địch vận; quá   trình tiến hành, những thành tựu, hạn chế  của công tác địch vận trong   kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là những đặc điểm, ý nghĩa và   kinh nghiệm lịch sử của công tác này.  1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết ­  Trình  bày một cách có  hệ   thống những  chủ  trương, quan  điểm,  chính sách của ĐCSVN, Chính phủ và QĐND Việt Nam về công tác địch   vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. ­ Làm rõ bối cảnh tình hình trong từng giai đoạn của cuộc kháng   chiến chống thực dân Pháp và sự tác động của nó tới công tác địch vận. ­ Trình  bày đầy đủ  quá trình  tiến hành công tác  địch vận,  làm rõ  những thành tựu, nêu lên một số  hạn chế  trong nhận thức và trong quá  trình tiến hành công tác địch vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp.   ­ Rút ra đặc điểm, ý nghĩa và một số kinh nghiệm của công tác địch   vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.   Chương 2 CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU KHÁNG CHIẾN (1945 ­ 1950) 2.1. Khái quát công tác địch vận trước cuộc kháng chiến chống  thực dân Pháp  Trong các cuộc chiến tranh giữ  nước, cùng với sử  dụng sức mạnh  
  11. quân sự, dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã coi trọng và tiến hành công tác  địch vận, thực hiện chính sách “tâm công” có hiệu quả. Từ  cuộc kháng   chiến chống Tống lần thứ nhất (938), trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Tây   Sơn, công tác địch vận đều được sử dụng. Đến Khởi nghĩa Lam Sơn, sách  lược “tâm công” được Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn phát   triển đến đỉnh cao, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.  Cuối thế  kỷ  XIX đầu thế  kỷ  XX, trong phong trào đấu tranh chống   thực dân Pháp, lãnh tụ  một số  cuộc khởi nghĩa cũng như  một số  nhà yêu  nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản tiếp tục chú ý đến công tác địch  vận. Tiêu biểu có thể  kể  đến Phan Bội Châu hay Việt Nam Quốc dân  Đảng. Ngay từ  khi mới thành lập, ĐCSVN đã nhấn mạnh tầm quan trọng   của công tác vận động binh lính trong đội quân xâm lược Pháp. Trong   phong trào cách mạng 1930­1931 và 1936­1939, cùng với kêu gọi nhân dân   cả nước vùng dậy chống đế quốc và tay sai, ĐCSĐD nhắc nhở phải hết   sức chú ý đến việc vận động binh lính, vì vậy, nhiều cuộc đấu tranh đã  diễn ra, một số cơ sở trung kiên trong hàng ngũ địch đã được gây dựng.  Trong Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám  1945, công tác địch vận đã đạt được nhiều thành tích quan trọng, nhiều   chỉ  huy binh lính, bảo an binh đã ngả  về  phía cách mạng; nhiều người   ngoại quốc trong quân đội Pháp đã chạy sang theo Việt Minh. Sự  hoạt   động mạnh mẽ  và những thành tích của công tác địch vận đã góp phần   quan   trọng   giành   thắng   lợi   trong   Tổng   khởi   nghĩa,   để   lại   nhiều   kinh   nghiệm quý báu, là cơ  sở  cho công tác địch vận trong cuộc kháng chiến  chống thực dân Pháp.   2.2. Bước đầu tiến hành công tác địch vận (1945 ­ 1947)  Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ  và gian khổ  chống thực dân Pháp xâm lược, công tác địch vận được Hội nghị  cán bộ  Trung ương (7.1947) xác định: “Tác chiến quan trọng thế nào thì địch vận   cũng cần như thế”. Quay trở  lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp huy động một lực 
  12. lượng lớn binh lính Âu­Phi gồm 24 quốc tịch khác nhau. Bên cạnh đó là   lực lượng binh lính người Việt với số  lượng ngày càng tăng. Khi cuộc  kháng chiến mới nổ ra, lực lượng Âu­Phi là chủ yếu, nên trọng tâm công   tác địch vận lúc đầu tập trung vào đối tượng này với các hình thức như  rải truyền đơn (chú trọng truyền đơn tiếng Pháp, tiếng Đức); gọi loa; kẻ,  vẽ khẩu hiệu; phát hành báo chí. Nội dung tuyên truyền vạch rõ âm mưu   xâm lược của thực dân Pháp, khẳng định cuộc kháng chiến chính nghĩa   của dân tộc Việt Nam nhất định thắng lợi, kêu gọi binh lính địch phản  chiến, đòi hồi hương, đào ngũ tập thể, v.v.  Những ngày đầu kháng chiến, công tác địch vận chưa có cơ  quan   chuyên trách lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất. Sau khi Phòng Địch vận thuộc   Cục Chính trị­Bộ  Quốc phòng được thành lập, tháng 6.1947, Nha Thông  tin và Cục Chính trị­Bộ  Quốc phòng thống nhất giao hẳn công tác địch  vận cho quân đội phụ trách. Từ đây, hệ thống chỉ huy địch vận được hình  thành trong toàn quân và cả  nước. Trong Chiến dịch Việt Bắc­Thu Đông   1947, các khu 1, 12 và 10 chưa thành lập xong cơ  quan địch vận, khiến  công tác này trong chiến dịch chưa hiệu quả. Cùng với công tác tuyên truyền, vận động và kiện toàn cơ quan địch   vận   các   cấp,  công   tác   tù,   hàng   binh  cũng   được   chú   trọng.   Việt   Nam  DCCH thực hiện chính sách đối xử  nhân đạo, khoan hồng với tù, hàng  binh. Điều đó được thể  hiện trong hàng loạt các văn kiện chỉ đạo kháng   chiến của Đảng, Chính phủ và Quân đội. Việc đối xử tệ bạc, bạc đãi tù,  hàng binh bị tuyệt đối nghiêm cấm. Bộ  Tổng chỉ  huy còn chỉ  thị  cho các  đơn vị thực hiện việc thả tù binh. Điều đó đã gây được dư  luận tốt trong  binh lính và nhân dân Pháp, giúp họ hiểu rõ hơn chính sách nhân đạo và sự  nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tuy đạt được những thành tích bước đầu nhưng công tác địch vận   trong giai đoạn này vẫn tồn tại một số khuyết điểm, hạn chế  như: chưa   tận dụng hết mọi khả năng tiến hành công tác của các lực lượng; một số  nội dung, hình thức tuyên truyền chưa sát thực tế; công tác địch vận chưa   được quan tâm đúng mức, bộ máy cơ quan địch vận chưa hình thành đầy 
  13. đủ, có hệ thống thống nhất, v.v. 2.3. Công tác địch vận (1948 ­ 1950) Thất   bại  trong   cuộc  tiến   công  lên  Việt   Bắc,   thực  dân  Pháp   phải   chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh  người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, củng cố, bình định những   vùng đã chiếm đóng, xúc tiến mạnh việc lập tề,  đẩy mạnh xây dựng   chính quyền thân Pháp và phát triển nhanh đội quân người Việt. Đầu năm   1948, tổng quân số  Pháp là 118.000 người, trong đó có 54.000 binh lính  người   Việt   (chiếm   45%),   đến   cuối   năm   1948,   quân   số   tương   ứng   là  160.000 người và 75.000 người (chiếm 47%). Trong khi  đó, Việt Nam   DCCH ngày càng lớn mạnh về mọi mặt. Căn cứ  vào thành phần đội quân xâm lược Pháp, phương châm địch   vận được đề ra đối với binh sĩ Âu ­ Phi là: tiếp tục nêu cao khẩu hiệu “ưu   đãi tù binh, hàng binh, thương binh, thả  tù  binh”. Với binh lính người  Việt, ngày 5.11.1948, Cục Chính trị­Bộ  Quốc phòng ra Chỉ  thị  về  cuộc   Tổng phá ngụy binh, xác định công tác tuyên truyền, vận động đối tượng  này là một trong những nhiệm vụ  quan trọng bậc nhất trong giai  đoạn  mới. Hình thức, biện pháp tuyên truyền là gọi loa, rải truyền đơn, phát   hành các báo, trực tiếp gặp gỡ gây nhân mối, v.v. Ngày 22.8.1949, Ban Thường vụ Trung  ương Đảng Cộng sản Đông   Dương ra  Chỉ  thị  về  việc thống nhất công tác địch vận, nêu rõ vai trò,  những khuyết điểm và kinh nghiệm của công tác địch vận trong thời gian   qua   và   khẳng   định:   Đảng   phải   lãnh   đạo   công   tác   địch   vận.   Ngày  13.6.1950, Hội nghị  thống nhất địch vận miền Bắc lần thứ  ba được tổ  chức, chỉ rõ ba nguyên tắc cơ bản về tổ chức và cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo   đối với công tác địch vận là: 1­ Tổ  chức địch vận phải đặt dưới quyền   lãnh đạo của Đảng; 2­ Người chỉ huy quân sự  của Đảng ở  mỗi cấp phụ  trách luôn công tác địch vận; hệ  thống chỉ  huy địch vận nằm trong hệ  thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự của Đảng, quân đội là tổ chức chính phát   động và tiến hành công tác địch vận; 3­ Tổ chức địch vận quân đội hướng  dẫn và giúp đỡ các cơ quan, đoàn thể tham gia công tác địch vận. 
  14. Chủ trương thống nhất địch vận của Đảng đã kịp thời làm cho công   tác địch vận được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, hoạt động ngày càng có  hiệu quả, không chỉ  là  ở  các vùng địch hậu mà còn trong cả  các chiến   dịch, tiêu biểu như Chiến dịch Biên Giới 1950.  Cùng với vận động binh lính, ta còn vận động cả  nhân viên trong  chính quyền địch, đặc biệt là vận động hội tề, với các phong trào phá tề,  trừ  gian, tranh thu hội tề hoặc  ủng hộ kháng chiến hoặc có thái độ  trung   lập, v.v. Về công tác tù, hàng binh, tháng 5.1948, Chính phủ VNDCCH ra Sắc  lệnh Quy chế  người  Âu; BTTL ra   Chỉ  thị  về  nguyên tắc dùng người   ngoại quốc, với nội dung quy định từ  khâu đón tiếp, sử  dụng đào binh,  hàng binh đến phân phối vũ khí của họ  mang theo khi ra hàng, mở  lớp   huấn luyện, v.v.. Hàng binh Âu ­ Phi khi chạy sang hàng ngũ kháng chiến  được lĩnh tiền thưởng, sau đó được đưa về  chiêu đãi sở, được tổ  chức   sinh hoạt hàng ngày đều đặn, văn hóa văn nghệ, thể  dục thể  thao, được  chăm sóc sức khỏe. Bộ  Quốc phòng còn thành lập các đội Commandos,  đội Tell, đội Dina độc lập để quản lý và tổ  chức cho hàng binh, đào binh   hoạt   động.   Một   số   hội   quần   chúng   Âu­Phi   được   thành   lập   để   tuyên   truyền, vận động và tập hợp binh sĩ như “Hội những chiến sĩ ngoại quốc  tự  do  ở  Việt Nam”, “Ủy ban hoạt động bắt tay huynh đệ  với Quân đội   Việt Minh”, “Chi đội hồi hương”, “Binh sĩ Âu­Phi giải phóng đoàn”, v.v.   Hệ thống các trại tù, hàng binh do Cục Địch vận quản lý cũng từng bước   được hình thành. Trong các trại, vấn đề đãi ngộ, giáo dục, hồi hương tiếp  tục được triển khai. Trước những tác động của công tác địch vận, thực dân Pháp tìm mọi  cách đối phó, tiến hành nhiều nội dung phản tuyên truyền, tiếp tục những  luận điệu nói xấu, vu khống và xuyên tạc trắng trợn Việt Minh. Mặt  khác, công tác địch vận vẫn còn một số  hạn chế, khuyết điểm. Điều đó   đã gây không ít khó khăn, làm hạn chế  kết quả. Tuy nhiên, có thể  thấy  công tác địch vận vẫn phát triển, bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, hình thức, nội  dung, phương pháp tiến hành ngày càng phong phú, phù hợp, góp phần 
  15. chống phá chiến lược  “đánh nhanh, thắng nhanh”  và chính sách  “dùng   người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực  dân Pháp.  Chương 3 CÔNG TÁC ĐỊCH VẬN TRONG GIAI ĐOẠN TIẾN CÔNG VÀ  PHẢN CÔNG, KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN  (1951 ­ 1954) 3.1. Công tác địch vận kết hợp với các hoạt động quân sự, phát   triển thế tiến công chiến lược (1951 ­ giữa 1953) Sau thất bại Biên Giới ­ Thu Đông 1950, thực dân Pháp buộc phải   dựa vào viện trợ Mỹ để tiếp tục chiến tranh; thực hiện Kế hoạch Đờlát,  tăng cường bắt thanh niên người Việt vào lính nhằm giành lại thế  chủ  động trên chiến trường. Vì vậy, bên cạnh đội quân viễn chinh Âu ­ Phi,  binh lính người Việt tăng lên nhanh chóng (cuối năm 1951 có 210.000  người, chiếm 62% tổng quân số Pháp). Trong khi đó, Việt Nam DCCH ngày càng lớn mạnh về  mọi mặt,   được   nhiều   nước   XHCN   công   nhận   và   giúp   đỡ.   Từ   ngày   11   đến  19.2.1951, Đại hội lần thứ  II ĐCS Đông Dương được triệu tập, nhằm   đẩy  mạnh  hơn   nữa  cuộc  kháng  chiến  chống  Pháp.  Trên  đà  phát  triển   mạnh mẽ của cuộc kháng chiến, công tác địch vận tiếp tục phát triển và  giành nhiều thành tích. Trước sự  gia tăng nhanh chóng binh lính người  Việt trong quân đội Liên hiệp Pháp, Hội nghị địch vận toàn quốc (8.1951)  ra Nghị  quyết xác định công tác vận động binh lính người Việt là nhiệm   vụ trọng yếu nhất. Chủ trương của Việt Nam DCCH và Chủ tịch Hồ Chí  Minh là sẽ khoan hồng với những người sớm quay về với Tổ quốc, trọng   thưởng những người lập công. Trong các chiến dịch, công tác địch vận xác định phải tập trung đẩy  mạnh   tuyên   truyền   binh   lính   đối   phương,   phối   hợp   chặt   chẽ   với   tác   chiến; tổ chức quản lý, sử dụng tù binh, hàng binh, mạnh dạn thả tù binh.  Trong các chiến dịch Quang Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, công tác địch vận 
  16. đã được chú trọng và tiến hành có hiệu quả, kể  cả việc tuyên truyền và  việc thực hiện chính sách tù, hàng binh. Tại các vùng tạm chiếm và vùng tranh chấp  ở  đồng bằng Bắc Bộ,  Bình­Trị­Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ, công tác địch vận cũng phát triển   mạnh mẽ. Ngành địch vận thông qua cấp ủy, chính quyền các địa phương  vận động nhân dân tham gia công tác, tiến hành gọi loa, rải truyền đơn,   gặp gỡ, gây  nhân mối trong binh lính người Việt; nêu cao các khẩu hiệu   tuyên truyền. Phong trào đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng, đòi con phát  triển mạnh mẽ. Cùng với đó, công tác Âu ­ Phi vận tiếp tục đề  cao khẩu   hiệu “Hồi hương quân đội viễn chinh Pháp và hòa bình  ở  Việt Nam”   nhằm đánh mạnh vào tâm lý chán ghét chiến tranh và nguyện vọng được   trở về Tổ quốc của họ. Công  tác vận  động  nhân viên trong chính quyền địch,  đặc biệt là  chính quyền cơ sở ­ hội tề tiếp tục được đẩy mạnh. Các phong trào đấu   tranh chính trị   ở  cả nông thôn và thành thị  với sự  tham gia của đông đảo   nhân dân liên tiếp diễn ra làm cho chính quyền địch lúng túng, nhiều hội   tề bị phá rã hoặc bị vô hiệu hóa, nhiều người ủng hộ kháng chiến. Về công tác tù, hàng binh, Việt Nam DCCH tiếp tục thực hiện chính  sách nhân đạo, tăng cường nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong   các trại tù, hàng binh, thực hiện thả tù binh, tổ chức cho hàng binh Âu­Phi  hồi hương về  các nước dân chủ  mới  ở  châu Âu. Đối với tù, hàng binh   người Việt, ngày 5.10.1952, Chính phủ Việt Nam DCCH ban hành Thông  tư  số  208/TTg  Về  cách đối xử  và quản trị  đối với tù binh và hàng binh   ngụy, nêu rõ thái độ  đối với họ  là hoan nghênh, săn sóc chu đáo và giải   phóng sớm cho họ về quê hương. Khi được thả về địa phương, họ được  hưởng mọi quyền công dân, như  quyền tự  do dân chủ, quyền ruộng đất   do Chính phủ tạm cấp chia cho, v.v… Tuy nhiên trong quá trình thực hiện  chính sách tù, hàng binh, vẫn còn một số  hiện tượng chấp hành chưa tốt,   gây khó khăn cho công tác tuyên truyền địch vận. Mặc dù vậy thành tích   vẫn là căn bản, là nền móng cho công tác địch vận giai đoạn tiếp sau. 3.2. Đẩy mạnh công tác địch vận, góp phần kết thúc thắng lợi 
  17. cuộc kháng chiến (giữa 1953 ­ 7.1954) Mùa Hè năm 1953, thực dân Pháp thực hiện Kế  hoạch Nava, tăng  viện quân viễn chinh, mở rộng khối quân cơ động, ráo riết bắt thanh niên   người Việt vào lính, phát triển phỉ ở vùng rừng núi, càn quét, đánh phá căn   cứ  kháng chiến; đẩy mạnh tuyên truyền lừa phỉnh và phản tuyên truyền  nhằm cứu vãn tình thế thất bại đang đến gần. Cuối tháng 9.1953, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ  Chí Minh, bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953­1954, xác định phương   hướng chiến lược và chủ  trương tác chiến. Cùng với đó, công tác địch   vận tiếp tục được đẩy mạnh.  Đối với binh lính người Việt, chủ trương của Việt Nam DCCH được  thể  hiện rõ trong Chỉ  thị  số  45/CT­TW của BCH Trung  ương Đảng  Về  chính sách đối với ngụy binh  và Nghị quyết Hội nghị địch vận toàn quốc  (4 ­ 13.10.1953). Nhiệm vụ năm 1954 là phải đẩy mạnh công tác địch vận  lên một bước, chủ  yếu là ngụy vận, đồng thời phải chú trọng Âu ­ Phi   vận. Thực hiện các chỉ  thị, nghị  quyết nêu trên, công tác địch vận được   đẩy mạnh  ở  khắp các địa phương trên cả  nước, từ  Liên khu 3, Khu Tả  Ngạn sông Hồng, đến Binh Trị  Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ. Trong chiến   dịch Điện Biên Phủ, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng và triển  khai có hiệu quả, kể  cả  công tác tuyên truyền, vận động và thực hiện   chính sách tù, hàng binh. Trên chiến trường toàn quốc, từ  tháng 12.1953   đến  tháng   5.1954,   theo  thống  kê chưa  đầy   đủ,  đã có   35.873   binh   lính   người Việt bỏ  ngũ trở  về  quê. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, công tác  địch vận tiếp tục được tiến hành, đặc biệt là việc tuyên truyền, thực hiện   chính sách đối với binh lính và nhân viên chính quyền Bảo Đại bỏ  hàng  ngũ trở về quê. Trừ bọn phản động gây nhiều tội ác, tất cả đối tượng này   đều được hưởng chính sách khoan hồng, được hưởng quyền công dân,  được chia ruộng đất và tạo điều kiện ổn định cuộc sống. Toàn bộ tù binh  bị  bắt trong cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung và chiến dịch Điện  Biên Phủ  nói riêng, sau một thời gian tập trung  ở các trại, tùy theo điều  
  18. kiện, hoàn cảnh khác nhau, đã được trao trả  cho phía Pháp hoặc tổ  chức  cho hồi hương hay ở lại Việt Nam làm ăn, sinh sống theo nguyện vọng.  Chương 4 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM  4. 1. Đặc điểm 4.1.1. Công tác địch vận trong kháng chiến chống Pháp là sự  tiếp   nối truyền thống lịch sử dân tộc, được phát triển lên tầm cao mới  Công tác địch vận được dân tộc Việt Nam tiến hành từ rất sớm trong  các cuộc đấu tranh chống ngoại của dân tộc, trải qua các triều đại phong  kiến Lý, Trần, Lê, Tây Sơn đến các cuộc đấu tranh chống Pháp cuối thế  kỷ  XIX đầu thế  kỷ  XX. Với sự  ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam   (3.2.1930), cách mạng Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt quan trọng   dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng vô sản.  Ngay sau khi Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công, dân tộc   Việt Nam dưới sự  lãnh đạo của Đảng phải tiếp tục cuộc kháng chiến   chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Cùng với đấu tranh trên mặt trận   quân sự, công tác địch vận được ĐCS Việt Nam đặc biệt chú trọng và  phát triển lên tầm cao mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống bộ máy   chỉ  huy công tác địch vận được hình thành do Quân đội phụ  trách. Công   tác địch vận trở  thành công tác có tính chất quần chúng rộng rãi với sự  tham gia của toàn quân, toàn dân; hình thức, biện pháp địch vận hết sức  phong phú.  4.1.2. Công tác địch vận do Quân đội phụ  trách, có sự  tham gia   ngày càng đông đảo của nhiều lực lượng và quần chúng nhân dân, với   nhiều hình thức địch vận phong phú, sáng tạo  Khi mới bước vào cuộc kháng chiến, công tác địch vận còn sơ  khai,  tổ  chức và lề  lối công tác chưa được chấn chỉnh. Cùng với sự  lớn mạnh   của cuộc kháng chiến, công tác địch vận ngày càng được chú trọng và   phát triển, được đặt dưới sự  lãnh đạo của Đảng và có tổ  chức địch vận   thống nhất (từ  1949). Người chỉ  huy quân sự  của Đảng  ở  mỗi cấp phụ 
  19. trách luôn công tác địch vận; hệ  thống chỉ  huy địch vận nằm trong hệ  thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự của Đảng, quân đội là tổ chức chính phát   động và tiến hành công tác địch vận, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ  các   ngành khác làm địch vận. Dưới sự  lãnh đạo của Đảng do Quân đội trực   tiếp phụ  trách, càng về  cuối cuộc kháng chiến, công tác địch vận ngày   càng có sự tham gia của đông đảo nhân dân với nhiều nội dung, hình thức  phong phú, kết quả ngày càng lớn. 4.1.3. Công tác địch vận phải tiến hành với nhiều đối tượng phức   tạp thuộc nhiều quốc tịch khác nhau Tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đạo quân xâm lược Pháp  có thành phần phức tạp, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau (thành phần  binh sĩ Âu ­ Phi có đến 24 quốc tịch). Vì vậy, trong công tác tuyên truyền   vận động, ngành địch vận phải sử  dụng đến 13 thứ  tiếng, trong đó chú  trọng đối tượng lính Pháp, Đức. Ngoài ra còn đối tượng đông đảo là binh  lính người Việt trong quân đội Pháp, trong đó có một bộ phận không nhỏ  là người dân tộc thiểu số, người thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.  Vì vậy, để tiến hành tuyên truyền địch vận có hiệu quả, phải nghiên cứu   kỹ đối tượng, từ đó đề ra những nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp.   Đây là nhiệm vụ  hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian,   nhân lực, vật lực để tiến hành công tác ngày càng có hiệu quả. 4.1.4. Công tác địch vận có sự  tham gia của nhiều người từ hàng   ngũ đối phương sang theo kháng chiến  Với chính sách khoan hồng, nhân đạo cao cả  của Việt Nam, nhiều   người từ  hàng ngũ đối phương đã chạy sang hàng ngũ Việt Minh. Họ  được đối đãi tử tế và được trọng dụng vào những công việc thích hợp tùy   vào khả năng của họ. Trong số đó, nhiều người đã trở  thành cán bộ Việt   Minh, trực tiếp tham gia công tác địch vận, được tin tưởng giao những   trọng trách quan trọng. Sự tham gia của họ vào công tác địch vận đã có tác  động lớn đến việc tuyên truyền, lôi kéo binh lính địch ngả về  phía kháng  chiến. Tiêu biểu trong các “chiến sĩ quốc tế”, “người Việt Nam mới”   tham gia công tác địch vận, đó là: người Đức có Lê Đức Nhân (Rudy  
  20. Schroder), Chiến Sĩ (Erwin Borchers); người Hy Lạp có Nguyễn Văn Lập   (Kostas Sarantidis); người Pháp có Lê Thành (Tarrago Jean),  v.v… Trong  số  họ, có người trở  thành đảng viên, được phong tặng danh hiệu Anh   hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. 4.2. Ý nghĩa  4.2.1. Công tác địch vận làm cho tinh thần binh lính quân đội đối   phương sa sút, góp phần cùng tác chiến giành thắng lợi nhanh hơn và   đỡ tốn xương máu Đại đa số  binh lính địch đều là con em nhân dân lao động, nhiều  người vì bị bắt buộc mà phải cầm súng cho địch, tinh thần dễ bị dao động  nên có thể tuyên truyền giác ngộ họ. Bên cạnh đó, nội bộ chúng có nhiều   mâu thuẫn, tinh thần chiến đấu dễ bị dao động, khi đứng trước nguy cơ bị  tiêu diệt, nếu được tuyên truyền kịp thời kết hợp cùng tác chiến, chúng sẽ  nhanh chóng đầu hàng, tan rã. Đặc biệt, khi có áp lực quân sự, việc tuyên  truyền càng mang lại hiệu quả  cao vì đó là lúc tinh thần binh lính đối  phương dễ bị sa sút nhất.Các trận Nghĩa Lộ, Ba Khe trong Chiến dịch Tây  Bắc hay trận Bản Kéo trong Chiến dịch Điện Biên Phủ  là những ví dụ  tiêu biểu. 4.2.2. Công tác địch vận góp phần làm sáng tỏ  và nêu cao chính   nghĩa của cuộc kháng chiến, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân   dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp  Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là sự  nghiệp chính nghĩa. Chủ trương, chính sách địch vận của Đảng đúng đắn,  nhân đạo. Vì vậy, thông qua công tác địch vận, nhân dân yêu chuộng hòa  bình trên thế  giới, trong đó có nhân dân Pháp hiểu được sự  nghiệp chính   nghĩa và chính sách nhân đạo của Việt Nam,  ủng hộ  Việt Nam kháng  chiến. 4.2.3. Công tác địch vận góp phần quan trọng làm thất  bại  âm   mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp Thực dân Pháp thực hiện âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh   người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, ra sức xây dựng “quân đội 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2