intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh duyên hải miền Trung

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

13
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh duyên hải miền Trung" được nghiên cứu với mục tiêu: Nhận thức về lý luận đối với nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh duyên hải miền Trung

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --o0o-- PHÙNG ANH DŨNG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 TOM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2023
  2. Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ Phản biện 1: PGS.TS. Trần Đình Nhã Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Công Nguyên Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện: Họp tại: Học viện Khoa học xã hội, số 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 202 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Học viện Khoa học xã hội - Thư viện Quốc gia Việt Nam
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, tình hình các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở nước ta diễn biến phức tạp khi số vụ phạm tội gia tăng theo từng năm, nhất là tại các tỉnh duyên hải miền Trung đã xảy ra nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với niềm tin của người dân vào hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp. Nhiều vụ án liên quan đến hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp tại các tỉnh duyên hải miền Trung như vụ án dùng nhục hình dẫn đến hậu quả nạn nhân Ngô Thanh Kiều bị chết tại Phú Yên; vụ án ông Huỳnh Văn Nén bị bức cung, dùng nhục hình dẫn đến chấp hành hình phạt tù oan sai gần 17 năm… đã gây xôn xao dư luận trong cả nước. Theo báo cáo công tác năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố khu vực duyên hải miền Trung thì số lượng vụ án khởi tố tăng 4,7% về số vụ so với cùng kỳ năm 2020, tăng cao hơn tỷ lệ toàn quốc là 3,1%; chức vụ, xâm phạm hoạt động tư pháp tăng 8,5% cùng kỳ năm trước (trong khi trên toàn quốc, tỷ lệ này chỉ là 6,1%). Dự báo trong giai đoạn sắp tới, tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trên phạm vi cả nước nói chung và tại địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung nói riêng sẽ còn diễn biến phức tạp với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và gây khó khăn hơn trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm. Từ khi được ban hành lần đầu tiên vào năm 1985, BLHS Việt Nam đã liên tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta qua mỗi thời kỳ. Qua nghiên cứu cho thấy, một số hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến hoạt động tư pháp, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội nhưng chưa được luật hình sự quy định là tội phạm nên không thể truy cứu TNHS. Đồng thời, hệ thống hình phạt quy định trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung đã nghiêm khắc và đáp ứng được mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội nhưng quy định về hình phạt trong một số tội phạm cụ thể còn mâu thuẫn với phần chung. Mức chế tài quy định trong một số điều luật còn thể hiện sự bất hợp lý khi so sánh trong mối tương quan chung, chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đồng thời, quy định pháp luật hình sự hiện hành về dấu hiệu pháp lý của một số tội phạm hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều điểm bất cập, không hợp lý nên 1
  4. dẫn đến những khó khăn, trong việc áp dụng thực tế xử lý TNHS đối với các tội phạm này. Bên cạnh đó, việc nhận thức về lý luận đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của những người tiến hành tố tụng chưa được đầy đủ nên dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, bỏ lọt tội phạm hoặc nhầm lẫn giữa tội danh trong nhóm tội phạm này với các tội danh thuộc nhóm tội phạm khác trong BLHS. Trong những năm qua, công tác nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chưa được quan tâm, chú trọng triển khai nên việc áp dụng pháp luật về nhóm tội phạm này phát sinh nhiều sai sót trên thực tế và chưa có phương hướng giải quyết kịp thời, ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này. Ở giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục tiến hành công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống tư pháp minh bạch, hiệu quả, bảo vệ công lý, vì con người. Chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra một trong những phương hướng quan trọng, đó là hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, qua nghiên cứu quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành về TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tác giả nhận thấy vẫn còn những khoảng trống, bất cập về lý luận, pháp luật cũng như hạn chế trong việc áp dụng những quy định này trên thực tế. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với khoa học pháp lý là phải định hướng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phát triển theo xu thế chung của thời đại thông qua việc nghiên cứu rà soát pháp luật, chính sách đối chiếu, so sánh với thông lệ quốc tế và các tiêu chuẩn về quyền con người cũng như mô hình hoạt động ưu việt trên thế giới để tham khảo đánh giá tìm giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam; xây dựng lại các quy phạm pháp luật có tính khả thi hơn, minh bạch hơn. Việc nghiên cứu về TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp hiện nay vẫn chưa được các chuyên gia pháp lý hình sự quan tâm. Số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến nhóm tội phạm này hiện tại rất ít các 2
  5. tác giả thường đi sâu nghiên cứu về TNHS của một tội phạm cụ thể chứ không nghiên cứu về TNHS của nhóm tội phạm. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp sẽ làm phong phú thêm về lý luận và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật; góp phần vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự trong thời gian tới. Như đã phân tích ở trên, tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp tại địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung trong những năm qua diễn biến phức tạp với số vụ phạm tội và tính chất nguy hiểm luôn ở mức cao hơn những địa phương khác trên cả nước. Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp tại địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung cũng phát sinh nhiều hạn chế, vướng mắc. Vì lý do đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh duyên hải miền Trung” làm luận án Tiến sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án đưa ra nhận thức về lý luận đối với nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định cụ thể như sau:  Nghiên cứu cơ sở lý luận về tội xâm phạm hoạt động tư pháp và cơ sở lý luận của việc ban hành các quy định về TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp;  Nghiên cứu so sánh quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới và từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam;  Khái quát lịch sử và phân tích thực trạng quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; 3
  6.  Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung, làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân dẫn đến những bất cập, hạn chế, vướng mắc đó;  Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu  Các quan điểm khoa học về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp;  Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật một số nước về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp;  Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định như sau:  Về nội dung, đề tài nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý và TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự để xử lý hình sự đối với nhóm tội phạm này;  Về thời gian, đề tài nghiên cứu việc áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam để xử lý TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2010 đến nay;  Về không gian, đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam để xử lý TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung, bao gồm các tỉnh thành: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá khách quan về TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam. 4
  7. Theo đó, luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát, phương pháp lịch sử cụ thể…Để hoàn thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết hợp các phương pháp trong từng phần của luận án, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận án. 5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án Điểm mới của Luận án thể hiện ở chỗ đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ luận án tiến sỹ nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự hiện hành và chính sách hình sự đổi mới. Luận án đã hệ thống và phát triển hệ thống lý luận mới; phân tích có so sánh các quy định của pháp luật hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; đánh giá thực tiễn và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án Luận án có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. - Về lý luận, Luận án góp phần bổ sung, làm giàu, cụ thể hóa lý luận luật hình sự, lý luận áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; - Về thực tiễn, Luận án là tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS; cho các cơ quan có thẩm quyền trong hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; - Luận án cũng có thể được sử dụng trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về Luật hình sự nói chung, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, các công trình nghiên cứu đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự một số quốc gia quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Chương 3. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và pháp luật một số quốc gia Chương 4. Thực tiễn và các yêu cầu, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp từ các tỉnh duyên hải miền Trung 5
  8. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được các học giả nước ngoài chú trọng nghiên cứu trong những năm gần đây. Những quan điểm về nhóm tội phạm này được phản ánh rõ nét bởi điều kiện kinh tế, yếu tố văn hóa - lịch sử, truyền thống pháp luật có tính chất đặc trưng của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực và phổ quát trên bình diện toàn cầu. Trên thế giới hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến như: - Bài viết “Crimes against Justice under the Legislation of the States of the European Union” (Các tội phạm chống lại công lý theo luật của các quốc gia Liên minh Châu Âu), của nhóm tác giả Andrii R. Vorobchak, Viktor V. Nalutsyshyn, Olena V. Popovych, tạp chí International Journal of Criminology and Sociology, tháng 9/2020. - Bài viết “Neveda Defense lawyer explains crimes against public justice” (Luật sư bào chữa bang Neveda giải thích các tội phạm chống lại công lý) của nhóm luật sư bào chữa bang Neveda, Hoa Kỳ. - Bài viết “Criminological aspects of crimes against public justice committed by prosecution authorities office holders” (Khía cạnh tội phạm của tội phạm chống lại công lý được thực hiện bởi người có thẩm quyền công tố) của tác giả Sinelnikov. - Bài viết “The Scottish Criminal Justice System” (Hệ thống tư pháp hình sự Scotland), University of Glasgow, 2019. - Bài viết “Offences against Public Justice” (Các tội chống lại Công lý) của tác giả Srishti John, 9/2020. - Bài viết “Trends in offences against the administration of justice” (Các xu hướng vi phạm chống lại sự quản lý của tư pháp) của tác giả Marta Burczycka và Christopher Munch, Nxb Juristat, 2015. Bài viết “Public justice offences” (Xâm phạm Công lý), Australian Law Reform Commission, 2010. Sách chuyên khảo “Blackstone's Commentaries on the Laws of England” (Các bình luận của Blackstone về luật pháp của nước Anh), Yale Law School, 2008. 6
  9. Sách chuyên khảo“Criminal Law” (Luật hình sự) của các tác giả Stephen A. Saltzbufg, John L.Diamond, Kit Kinports và Thomas H.Morawetz (xuất bản bởi The Michie Company, Law Publishers, 1994) - Giáo trình Расследование преступления (Điều tra hình sự) của GS,TSKH. Iablokova N.P (chủ biên), trường Đại học tổng hợp Lômônôxôp thuộc Đại học tổng hợp quốc gia Mátxcơva, xuất bản năm 2005 Bên cạnh đó còn có một số bài viết có liên quan đến các khía cạnh của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp như: International Criminal Justice, Critical Perspectives and New Challenges, Publisher: Springer Verlag, 2012; Siegel, Larry J. Criminology: The Core. Belmont, CA: Wadsworth/Thomson Learning, 2002; Public Order and Morality-Based Crimes, John Pearson, 2011; Umbreit, M.S., Vos B., Coates R.B., Lightfoot E. (2005), “Restorative justice in the twenty first century: A social movement full of opportunities and pitfalls”, Marquette Law Review, 89(2); Augustine Brannigan and Zhiqiu Lin, The Canadian Journal of Sociology, 1999… Như vậy, đã có một số công trình ở ngoài nước nghiên cứu về khái niệm, dấu hiệu pháp lý, nguyên nhân phát sinh và phương pháp điều tra các tội phạm xâm phạm đến hoạt động tư pháp. Tuy các công trình này còn khá sơ sài, chưa nghiên cứu tổng thể, chi tiết về các tội xâm phạm đến hoạt động tư pháp nhưng đây là cơ sở, là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo để nghiên cứu sinh triển khai thực hiện đề tài của mình. 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở nước ta hiện nay, vấn đề nghiên cứu về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo luật hình sự Việt Nam mới chỉ có một số công trình được công bố ở các mức độ khác nhau. Thứ nhất, đối với cấp độ các công trình nghiên cứu khoa học các cấp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, có một số công trình nghiên cứu một cách khái quát về nhóm tội phạm này cũng như nghiên cứu chi tiết về một hoặc một số tội phạm cụ thể xâm phạm hoạt động tư pháp, đó là: - Nguyễn Tất Viễn (1996), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Luật học - Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học, “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, năm 2005. - Nguyễn Thị Diệu Trang (2015), “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. 7
  10. - Nguyễn Thị Thu Trang (2012), “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), “Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Trần Mạnh Đạt (chủ nhiệm đề tài) – Bộ Tư Pháp (2012), Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp,đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội. - Lê Chí Trung (2018), Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. - Bùi Đức Bằng (2013), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội ra bản án trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Phạm Thị Mai Anh (2015), "Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), Tội không chấp hành án theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Trần Thị Hồng Thái (2015), Tội không thi hành án theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Hồ Hữu Thành (2016), Tội cản trở việc thi hành án theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Hồ Mạnh Hà (2016), TNHS đối với tội không tố giác tội phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Đỗ Thị Thanh Giang (2014), Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Văn Sơn (2020), “Điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc từ thực tiễn Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. - Thứ hai, các sách chuyên khảo, bình luận khoa học Luật hình sự, giáo trình có các công trình tiêu biểu nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, cụ thể 8
  11. như sau: - Nguyễn Tất Viễn (2016), Sách chuyên khảo Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội. - Đinh Văn Quế (2021), Sách chuyên khảo Bình luận khoa học chuyên sâu BLHS: Phần các tội phạm, tập 5, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. - Trần Minh Hưởng, Đặng Thu Hiền (2002), Sách chuyên khảo Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. - Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Hồng Đức, TPHCM. - Các giáo trình của các trường đại học, các nhà nghiên cứu như: Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm – Quyển 2), NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019; Trường đại học Luật TPHCM, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB. Hồng Đức, TPHCM, 2020; Trường đại học kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm – Quyển 2), NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2020; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014; TS. Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2 (Phần các tội phạm), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2020... Thứ ba, một số bài báo khoa học đề cập đến một số nội dung của đề tài được công bố trên các tạp chí chuyên ngành luật, bao gồm: - Bài viết Một số điểm mới cơ bản đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS năm 2015, Lại Viết Quang, Tạp chí kiểm sát, số 08/2016 - Bài viết Những điểm mới về tội “Bức cung”, “Dùng nhục hình” quy định tại Điều 374, 373 BLHS năm 2015, Nguyễn Đức Việt, Cơ quan Điều tra VKSNDTC, tháng 11/2017. - Bài viết Hoàn thiện quy định của Điều 373 BLHS năm 2015 về tội dùng nhục hình, Hoàng Ngọc Anh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 10/2021 - Bài viết Bàn về tội bức cung quy định tại Điều 374 BLHS năm 2015, Hoàng Ngọc Anh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 9-202. - Bài viết Tội truy cứu TNHS người không có tội, Mai Bộ, Tạp chí 9
  12. Tòa án nhân dân, số 02/2022. - Bài viết Xử lý nghiêm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp để đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền tư pháp, Đặng Văn Cường, Tạp chí Luật sư, số 02/2021. Bên cạnh đó, còn có một số bài viết khác cũng phân tích về các tội xâm phạm đến hoạt động tư pháp, bao gồm: Thực tiễn thi hành và những kiến nghị sửa đổi chương XXII BLHS về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, Lại Viết Quang, Tạp chí kiểm sát, Số 16/2014; Những vấn đề bất cập trong quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của BLHS, Hoàng Minh Đức, tạp chí Nghề luật, số 02/2014; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng thực hiện tốt công tác phối hợp với cục điều tra trong việc phát hiện và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, Trần Thanh Vân, tạp chí Kiểm sát, số 11/2012; Một số kinh nghiệm điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp, Nguyễn Văn Hải, tạp chí Kiểm sát, số 11/2012; Tìm hiểu về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp, Nguyễn Thị Thu Trang, tạp chí Kiểm sát, số 08/2013; Một số ý kiến về Chương XXIV Dự thảo BLHS (sửa đổi) - các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Nguyễn Quang Lộc, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề sửa đổi, bổ sung BLHS, 2015;… 1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu 1.3.1. Những thành tựu trong nghiên cứu mà Luận án kế thừa, tiếp tục phát triển - Các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích phần nào cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của việc quy định TNHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Khái niệm chung các tội xâm phạm hoạt động tư pháp cũng đã được một số công trình nghiên cứu đưa ra và phân tích; một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nhóm tội phạm này cũng đã được các công trình nghiên cứu chỉ rõ. Đây là cơ sở xuất phát điểm để nghiên cứu sinh tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. 1.3.2. Những vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết thấu đáo cần phải tiếp tục nghiên cứu - Hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ta hiện nay hoặc đã lâu (trên cơ sở quy định của BLHS 1985, BLHS năm 1999) hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý và TNHS đối với các tội phạm cụ thể 10
  13. thuộc nhóm tội phạm này; còn thiếu các công trình nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về dấu hiệu pháp lý và TNHS của cả nhóm tội phạm. Do chỉ là các công trình nghiên cứu về từng tội phạm riêng nên những kiến nghị, giải pháp mà các tác giả đưa ra chỉ có giá trị áp dụng cho từng tội phạm cụ thể chứ không thể áp dụng bao quát cho cả nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. 1.4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 1.4.1. Cơ sở lý thuyết Luận án dự kiến sử dụng một số học thuyết, quan điểm làm quan điểm tiếp cận trong quá trình nghiên cứu, cụ thể:  Phương pháp luận biện chứng duy vật được cung cấp bởi Học thuyết Mác – Lênin.  Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.  Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách bảo vệ quyền con người, bảo vệ sự đúng đắn của hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay;  Các quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 48 và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp và Kết luận số 92- KL/TW ngày 12/3/2014 về việc thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW.  Luận án tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng tinh hoa của nhân loại về nhà nước, pháp luật và quyền con người, như: Thuyết phân quyền của Montesquieu (1689-1715), thuyết “Giới hạn quyền lực” của John Locke… 1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu Luận án được triển khai với hàng loạt câu hỏi như sau: 1. Khái niệm các cơ quan tư pháp? Theo quy định hiện nay thì các cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan nào? 2. Khái niệm, đặc điểm của quyền tư pháp? 3. Khái niệm các hoạt động tư pháp? Các đặc điểm của hoạt động tư pháp? 4. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp? 5. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp? 6. Ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS? 7. Đặc trưng của việc định tội danh và quyết định hình phạt về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp? 11
  14. 8. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trước khi ban hành BLHS năm 2015 như thế nào? 9. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như thế nào? 10. Quy định về dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS năm 2015 hiện nay như thế nào? 11. Quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã hợp lý chưa, còn những bất cập gì? 12. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam trong việc xử lý các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trên địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung từ năm 2010 đến nay như thế nào, có những vướng mắc, hạn chế gì trên thực tế? 13. Nguyên nhân những bất cập trong quy định của BLHS; của những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng BLHS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp? 14. Việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp cần đáp ứng những yêu cầu gì? 15. Cần có những kiến nghị gì để hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp? 16. Cần có những giải pháp nhằm nào để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong thực tiễn? 1.4.3. Giả thuyết nghiên cứu Việc xử lý hình sự các hành vi phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại các tỉnh duyên hải miền Trung chưa đạt hiệu quả cao, còn tồn tại nhiều bất cập nên dẫn đến tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ngày càng gia tăng về số lượng vụ việc và tính chất nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng là do những quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều bất cập cả từ góc độ lý luận lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật. Kết luận chương 1 12
  15. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ QUỐC GIA QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 2.1. Những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp 2.1.1 Khái niệm hoạt động tư pháp Có thể hiểu: Hoạt động tư pháp là hoạt động pháp luật do Tòa án và các cơ quan khác thực hiện trong phạm vi quyền tư pháp, là cơ sở và điều kiện để tòa án thực hiện các nội dung của quyền lực tư pháp dựa trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và có trình tự chặt chẽ nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 2.1.2. Khái niệm cơ quan tư pháp Khái niệm: Cơ quan tư pháp là Tòa án và các cơ quan khác thực hiện các hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo tòa án thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, khái niệm cơ quan tư pháp là khái niệm khoa học để nhận thức, về mặt chính sách, pháp luật thì có thể không sử dụng thuật ngữ “cơ quan tư pháp” mà chỉ rõ: Cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan Điều tra và Thi hành án. 2.1.3. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp theo qui định của pháp luật hình sự. Theo quy định tại BLHS năm 1985 thì: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân”. Khái niệm này được kế thừa bởi BLHS năm 1999, theo đó:“Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. 2.2. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Cũng giống như các tội phạm khác, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có các dấu hiệu pháp lý chung theo quy định tại Điều 8 BLHS. Bên cạnh đó, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng của nhóm tội phạm này, cụ thể như sau: 2.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử và hoạt động thi hành án) được pháp luật hình sự bảo vệ; xâm phạm đến tính đúng đắn, uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt động tư pháp và quyền lợi, uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 13
  16. 2.2.2. Chủ thể của tội xâm phạm hoạt động tư pháp Chủ thể của các tội phạm này nói chung là chủ thể đặc biệt, họ là những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng tư pháp, có thể là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tư pháp hoặc các cơ quan, tổ chức hoặc những người tham gia tố tụng như bị can, bị cáo, người làm chứng, người bào chữa, người giám định, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; những người có nghĩa vụ phải chấp hành các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân; những người bị tạm giam hay những người đang phải chấp hành án tù giam... 2.2.3. Mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện chủ yếu dưới dạng hành động (nhục hình, bức cung, trốn khỏi nơi giam, giữ…) hoặc không hành động (không chấp hành án…). Nhìn chung những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp bao gồm hai dạng: + Dạng hành vi thứ nhất biểu hiện dưới dạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn (tức tranh thủ điều kiện thuận lợi do chức vụ, quyền hạn tạo ra để làm một việc có lợi cho mình) hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn (tức là làm quá phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho phép, nhằm đạt được mục đích riêng). + Dạng hành vi thứ hai biểu hiện dưới dạng làm cản trở sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp do những người có chức vụ quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, những người tham gia tố tụng như bị can, bị cáo, người làm chứng, giám định viên, người có trách nhiệm bồi thường... hoặc những người khác thực hiện. 2.2.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Mặt chủ quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đều có lỗi cố ý (hầu hết các tội là lỗi cố ý trực tiếp, một số trường hợp là cố ý gián tiếp), trừ tội Thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376 BLHS năm 2015) là lỗi vô ý; động cơ mục đích phạm tội rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. 2.3. Cơ sở của việc quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Bộ luật Hình sự Thứ nhất, việc quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Thứ hai, việc quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp sẽ góp phần bảo vệ tính đúng đắn của hoạt động tư pháp đồng thời bảo đảm quyền uy của quyền tư pháp. Thứ ba, việc quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS sẽ góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tư pháp cũng như bảo vệ công lý và chế độ nhà nước. 14
  17. 2.4. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong pháp luật hình sự một số quốc gia 2.4.1. Trong pháp luật hình sự Liên bang Nga 2.4.2. Trong pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 2.4.3. Trong pháp luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức 2.4.4. Trong pháp luật hình sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 2.5. Một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Định tội danh có thể được hiểu là việc: Xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự. Theo quan điểm của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí thì “Quyết định hình phạt là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự”. Kết luận Chương 2 Chương 3 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 3.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 1945 đến khi có bộ luạt hình sự 2015 3.1.1. Quy định trong pháp luật hình sự từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 Trước khi ban hành BLHS năm 2015, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bộ Luật hình An Nam, Bộ Hoàng Việt hình luật và Bộ Hình luật pháp tu chính. Tại Điều 1 của Sắc lệnh có quy định: “Cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên như cũ”1 với điều kiện “Những điều khoản trong luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này chỉ thi hành khi nào không trái với 1 Điều 1 Sắc lệnh 47-SL ngày 10/10/1945 về tạm thời giữ các luật lệ cũ ở Bắc, Trung, Nam bộ. 15
  18. nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”2. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã ghi nhận một số nguyên tắc trong hoạt động của cơ quan tư pháp như: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ, giam cầm công dân Việt Nam” [Error! Reference source not found.]. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1946 cũng quy định: “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân” [Error! Reference source not found.]. Điều 3 Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 cho phép bị can có thể nhờ công dân không phải là luật sư bênh vực trước tòa án, nhưng có quy định: “Người nào để lộ những bí mật đã biết trong khi xem hồ sơ, hoặc trong cuộc thẩm vấn tại phiên tòa... sẽ bị phạt từ 1 đến 5 năm tù và phạt từ 1.000 đồng đến 1.900 đồng”. Điều 6 Sắc lệnh số 150-SL ngày 12/4/1953 về việc thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt quy định: “Khi hỏi tuyệt đối không được đánh đập, tra tấn”. Như vậy, quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chưa có tính hệ thống, thiếu cụ thể, còn thiếu nhiều, tản mạn và chưa đề cập được hết các khía cạnh và sự phức tạp của các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các tội phạm này. 3.1.2. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS năm 1985 Tại kỳ họp thứ 9, ngày 27/6/1985, Quốc hội khóa VII đã thông qua BLHS, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đánh dấu bước phát triển cao của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. BLHS năm 1985 được ban hành là một sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. BLHS này có sự kế thừa và phát triển luật hình sự của nhà nước ta từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian trước năm 1985, kế thừa những tinh hoa của pháp luật hình sự tiến bộ, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo xã hội chủ nghĩa, BLHS ghi nhận được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự xã hội chủ nghĩa như nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, dân chủ, cá thể hóa TNHS và hình phạt. 3.1.3. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong BLHS năm 1999 So với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã bổ sung thêm 4 tội. Đó là các tội: Tội không truy cứu TNHS người có tội (Điều 294), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), Tội không thi hành án (Điều 305), Tội đánh tháo người bị giam giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312). Những quy định này được bổ sung là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn vi phạm pháp luật trên thực tế. Bên cạnh đó, các điều luật tại 2 Điều 12 Sắc lệnh 47-SL ngày 10/10/1945 về tạm thời giữ các luật lệ cũ ở Bắc, Trung, Nam bộ. 16
  19. chương XXII không được chia thành các mục như một số chương khác. 3.2. Quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Bộ luật hình sự 2015 3.2.1. Quy định về các tội xâm phạm 3.2.1.1. ệ 3.2.1.2. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp (hay còn gọi là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp) thực hiện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; 3.2.1.3. C d ữ ờ ố ụ ự ệ 3.2.1.4. C d ữ ờ ó ĩ ụ ả ấ à bả quyế ị ố ụ ặ ờ ự ệ 3.2.2. Quy định về hình phạt đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Hình phạt có thể áp dụng đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Quy định về hình phạt chính đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp từ Điều 368 đến Điều 391 BLHS Việt Nam bao gồm năm loại hình phạt, đó là: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn và tù chung thân. Hình phạt chính có thể áp dụng đối với các các tội xâm phạm hoạt động tư pháp cụ thể được thể hiện qua bảng thống kê sau: Bảng 3.1. Các hình phạt chính đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định trong BLHS năm 2015 Các loại hình phạt Số lượng các Điều luật tội có quy định hình phạt Cảnh cáo 03 Điều 382, Điều 383, Điều 390 Phạt tiền 01 Điều 391 Cải tạo không giam giữ 12 Điều 371, Điều 376, Điều 378, Điều 379, Điều 381, Điều 382, Điều 383, Điều 384, Điều 385, Điều 389, Điều 390, Điều 391. Tù có thời hạn 24 Từ Điều 368 đến Điều 391 Tù chung thân 02 Điều 372, Điều 374 Kết luận Chương 3 17
  20. Chương 4 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP VÀ CÁC YÊU CẦU GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY. 4.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại các tỉnh duyên hải miền Trung 4.1.1. Tình hình điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại các tỉnh duyên hải miền Trung giai đoạn 2010 - 2021 Từ năm 2010 đến năm 2021, diễn biến của tình hình các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trên điạ bàn các tỉnh duyên hải miền Trung được thể hiện cụ thể qua bảng thống kê sau đây: Bảng 4.1. Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp trên địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung giai đoạn 2010 - 2021 Khởi tố, điều tra Truy tố Xét xử Năm Vụ án Bị Vụ án Bị Vụ án Bị 2010 17 29 can 11 20 can 09 17 cáo 2011 26 39 18 29 16 26 2012 32 47 25 38 21 32 2013 28 41 20 28 17 24 2014 35 50 28 41 23 34 2015 43 55 32 42 27 36 2016 49 52 34 45 31 41 2017 42 54 38 47 33 40 2018 41 56 37 48 35 44 2019 45 59 40 53 36 47 2020 51 67 46 60 41 52 2021 55 72 51 66 48 61 Tổng cộng 464 621 433 517 337 454 Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin – VKSND Tối cao Như vậy, trong giai đoạn 2010 – 2021, trên địa bàn các tỉnh duyên hải miền Trung, đã có tổng cộng 384 vụ án liên quan đến các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã được đưa ra xét xử với tổng số bị cáo là 454 người. Xem xét mối tương quan giữa số lượng các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đã qua xét xử với tổng số tội phạm nói chung trong giai đoạn 2010 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1