Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam
lượt xem 24
download
Luận án góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền lợi NTD nói chung cũng như pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra nói riêng; đề xuất những kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện các quy định của Luật BVQLNTD Việt Nam 2010 và các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN MINH THƯ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SẢN PHẨM CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ MÃ SỐ: 62 38 01 03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐINH VĂN THANH TS. NGUYỄN MINH TUẤN Phản biện 1: TS. Hoàng Ngọc Thỉnh Phản biện 2: TS. Trần Văn Trung Phản biện 3: TS. Nguyễn Minh Hằng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Vào hồi giờ ngày tháng năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội
- DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. “Pháp nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?”, Bài viết hội thảo khoa học Khoa Quản trị kinh doanh tháng 10/2009; 2. “Một số hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 5/2011; 3. “Luật cạnh tranh và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” Hội thảo khoa học quốc tế: “Chế độ cạnh tranh kinh tế: những vấn đề đặt ra và bài học kinh nghiệm từ CHLB đức - Economic Competition Regime: Raising Issues and Lessons from Germany” tháng 10/2013 (đồng tác giả với Ths. Nguyễn Thị Lan); 4. “Nghiên cứu pháp luật thế giới về phạm vi chủ thể trong trách nhiệm sản phẩm và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ pháp luật tháng 1/2013; 5. “Kiến nghị xây dựng khái niệm sản phẩm trong luật trách nhiệm sản phẩm Việt Nam”, Tạp chí Luật học tháng 8/2013; 6. “Nghiên cứu quy định về miễn trừ trách nhiệm của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng tại một số quốc gia trên thế giới – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Bài viết hội thảo khoa học Khoa Quản trị kinh doanh tháng 5/2013.
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ những năm 1990, nền kinh tế Việt Nam chuyển từ giai đoạn kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này đã làm cho kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu nổi bật như tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Trong lĩnh vực tiêu dùng, SP hàng hóa và dịch vụ tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, phong phú đa dạng về chủng loại, tạo điều kiện cho người tiêu dùng (NTD) có quyền tự do lựa chọn theo nhu cầu. SP, hàng hóa được sản xuất ra ngày càng nhiều thì NTD càng quan tâm hơn tới chất lượng SP, mẫu mã và các giá trị sử dụng. Cuộc chay đua thương trường đã khiến cho những nhà sản xuất, nhà phân phối (NSX, NPP) phải liên tục đưa ra thị trường các loại sản phẩm (SP) mới với các thiết kế, tính năng và vật liệu đa dạng phù hợp với các xu thế của thị trường. Việc sản xuất liên tục các SP mới này một mặt đã đáp ứng được nhu cầu luôn thay đổi của NTD và mang lại lợi nhuận cho NSX, NPP, nhưng mặt khác, áp lực cạnh trạnh về giá cả cũng khiến các thiết kế hoặc việc thử nghiệm trên những SP đó đôi khi thiếu hoàn hảo và gây ra thiệt hại hoặc tai nạn không mong muốn cho người sử dụng SP. Đặc biệt, từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bên cạnh những lợi ích là NTD Việt Nam được tiếp cận và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ chất lượng đến từ các nước khác nhau với công nghệ sản xuất hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, vẫn còn tồn tại hiện tượng nhiều NSX, NPP nước ngoài, đặc biệt là ở các nước phát triển coi Việt Nam là một “bãi rác thải” để lắp đặt những dây chuyền sản xuất lạc hậu, tiêu thụ những hàng hóa lỗi, hết hạn sử dụng, SP có khuyết tật gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ vi phạm với tính chất ngày càng tinh vi, phức tạp. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) được đề cập khá nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và đang được công luận coi là một vấn đề nóng bỏng trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Không chỉ tại Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác này bởi lẽ bảo vệ NTD chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật của các nước. Do đó, nhiều quốc gia đã sớm ban hành các đạo luật với mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD. Tại Việt Nam, ngày 27 tháng 4 năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 1
- BVQLNTD, cụ thể hóa các yêu cầu của nguyên tắc bảo vệ NTD nói chung trong Hiến pháp 1992 bằng việc quy định rõ các quyền cơ bản của NTD Việt Nam như quyền được an toàn, quyền được lựa chọn hàng hóa dịch vụ, quyền được cung cấp thông tin (Điều 8), quyền được bồi thường thiệt hại (Điều 4), quyền được khiếu kiện (Điều 9)… Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng trong công tác bảo vệ NTD ở nước ta cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác này, là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Luật BVQLNTD 2010. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD Việt Nam hiện nay còn được quy định bởi rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: Bộ luật Dân sự (BLDS); Bộ luật Hình sự; Luật Thương mại; Luật Cạnh tranh; Luật Chất lượng SP, hàng hóa, Luật An toàn SP… Trong việc thực thi và áp dụng các quy định này, pháp luật Việt Nam đã có cả ba loại chế tài được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm hại quyền lợi của NTD: (i) Chế tài về hành chính được áp dụng khi có hành vi của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh vi phạm pháp luật về bảo vệ NTD và không nhất thiết là đã có thiệt hại xảy ra hay chưa; (ii) Chế tài dân sự được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc SP có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD thông qua thỏa thuận hợp đồng, giải quyết khiếu kiện, khiếu nại vụ án dân sự; (iii) Chế tài hình sự được áp dụng khi hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cao và gây thiệt hại nghiêm trọng cho NTD. Trong ba loại chế tài trên, khi có hành vi vi phạm quyền lợi NTD của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh thì việc trừng phạt những cá nhân, tổ chức đó bằng chế tài hình sự, chế tài hành chính vẫn chưa đủ và không phải lúc nào cũng làm được. Điều có ý nghĩa thiết thực hơn đối với NTD là làm thế nào để khắc phục được những thiệt hại mà họ phải gánh chịu, giúp đền bù tổn thất cho NTD, đó là sử dụng những chế tài dân sự, đặc biệt là việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TNBTTH) do SP có khuyết tật gây ra có thể coi là loại chế tài đặc trưng, có ý nghĩa trực tiếp đối với NTD khi bị thiệt hại. Tuy nhiên, trên thực tế nó lại không phát huy và được thực thi một cách hiệu quả, công tác bảo vệ NTD hiện nay chủ yếu mới áp dụng phổ biến các chế tài hành chính. Thực trạng này đã phản ảnh sự mất cân bằng trong việc sử dụng biện pháp dân sự để giải quyết khiếu kiện, khiếu nại của NTD trong khi biện pháp này mới chính là mong muốn của NTD khi bị xâm phạm quyền và lợi ích. Ngoài việc phải đền bù thiệt hại một khoản tiền có thể rất lớn cho NTD, biện pháp này còn có một sức răn đe vô hình khiến các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh luôn phải lo sợ, dè chừng và cố gắng tránh những hành vi vi phạm vì 2
- nếu bị áp dụng trách nhiệm này sẽ làm ảnh hưởng xấu đến danh tiếng, uy tín của cá nhân, tổ chức đó cũng như thương hiệu của hàng hóa, dịch vụ sẽ bị NTD tẩy chay, trực tiếp suy giảm lợi nhuận. Vì thế, NSX, NPP khi đưa SP ra thị trường sẽ phải nỗ lực để loại trừ những khiếm khuyết của SP, từ đó đem lại cho NTD những SP đảm bảo an toàn. TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là một phần quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD nói chung, đã ra đời từ những năm 1970 và được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU), Nhật Bản... Sau này, kế thừa kinh nghiệm các nước phát triển, hầu hết các quốc gia đều ban hành một đạo luật để điều chỉnh đối với loại trách nhiệm này: Luật TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra hay còn gọi là Luật Trách nhiệm sản phẩm (TNSP) quy định về TNBTTH của NSX, người nhập khẩu, người bán hàng… đối với SP mà mình sản xuất, lưu thông có khuyết tật và gây nguy hiểm, thiệt hại về tài sản hoặc sức khỏe cho NTD, tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi cho NTD, nâng cao ý thức kinh doanh chân chính cho những NSX, NPP SP. Tại Việt Nam những năm gần đây, trước hàng loạt các vụ việc xâm phạm nặng nề1, gây thiệt hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng của NTD gia tăng cả về số lượng và mức độ nhưng chưa có trường hợp nào NSX, NPP phải bồi thường cho những SP có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD và cũng chưa có trường hợp nào NTD lên tiếng khiếu kiện, khiếu nại bồi thường mà được chấp nhận khiến vấn đề TNSP ở Việt Nam chưa bao giờ thu hút được nhiều sự quan tâm của xã hội như hiện nay. Tuy đã được Luật BVQLNTD 2010 quy định các quyền được khiếu nại, khởi kiện, quyền được bồi thường thiệt hại của NTD đối với các hành vi vi phạm của NSX, NPP SP2 cũng đã phần nào chứng minh cho sự tồn tại của pháp luật về TNSP được thừa nhận ở Việt Nam nhưng có vẻ những nỗ lực luật hóa để những quy định này thực sự đi vào cuộc sống là điều không hề đơn giản. Vì không được ban hành một cách trực tiếp trong một đạo luật cụ thể như các nước trên thế giới nên khi xảy ra thiệt hại, NTD không đủ cơ sở pháp lí để đòi bồi thường thiệt hại hoặc có được bồi thường thì cũng không thỏa đáng, rất nhiều nội dung quan trọng liên quan đến loại trách nhiệm này thì lại không được luật quy định chi tiết như cách tính thiệt hại, các 1 Trường hợp nước tương vượt quá hàm lượng chất 3-MCPD; sử dụng hàn the, formole trong bún phở và các thực phẩm khác; pha chế sữa bột bán sữa tươi… 2 Điều 23, 24 Luật BVQLNTD 2010 3
- trường hợp miễn trừ, miễn giảm thiệt hại, chủ thể có trách nhiệm bồi thường, chủ thể được yêu cầu bồi thường… đều được quy định một cách chung chung, máy móc, “tuyên ngôn”, “hô khẩu hiệu”, thêm bớt quá nhiều theo pháp luật bảo vệ NTD nước ngoài nên không khả thi trên thực tế. Ngoài Luật BVQLNTD 2010, vấn đề TNSP cũng chỉ được BLDS 2005 quy định một cách chung chung, vẻn vẹn trong một điều luật: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không đảm bảo chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho NTD thì phải bồi thường”3 và được áp dụng theo nguyên tắc về TNBTTH nói chung nên chưa thể hiện được tính đặc thù của loại trách nhiệm này. Trong các văn bản quy phạm pháp luật khác thì mới “nhắc tới” một cách tản mát, rời rạc, không hệ thống, chồng chéo và mẫu thuẫn. Vì vậy, trên thực tế, TNBTTH do SP có khuyết tật của NSX, NPP gây ra đối với NTD bị “phớt lờ”, tình trạng xâm phạm quyền lợi NTD chẳng những không giảm mà ngày càng có xu hướng gia tăng nhiều và nghiêm trọng hơn, trắng trợn ngang nhiên hơn cho thấy những quy định pháp luật mà Nhà nước ban hành trong thời gian qua vẫn chưa phát huy đầy đủ tác dụng mong muốn và còn rất nhiều lúng túng trong việc áp dụng, thực thi. Sự gia tăng các vụ kiện đòi bồi thường thịêt hại liên quan đến TNSP vẫn tạo ra những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp sản xuất và cả các cơ quan nhà nước (CQNN), đặc biệt là trong các vụ kiện TNBTTH do SP khuyết tật gây ra có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật BVQLNTD nói chung cũng như TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra nói riêng là một đòi hỏi cấp thiết, đáp ứng nhu cầu cấp bách và tầm quan trọng trước thực tế xã hội hiện nay. Việc tập hợp và tìm hiểu, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của loại trách nhiệm này một cách có hệ thống là điều rất cần thiết. Đó là lý do để đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam” được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của luận án tiến sĩ luật học – chuyên ngành dân sự. Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, không thể tránh được những sai sót nhất định, tác giả rất mong được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu và bạn đọc quan tâm. Xin chân thành cảm ơn! 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3 Điều 630 BLDS 2005 4
- 2.1. Các công trình khoa học ở trong nước có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài 2.2. Các công trình khoa học ở ngoài nước có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài 2.3. Nhận xét và đánh giá những vấn đề có liên quan đến nội dung của đề tài luận án Có thể nói rằng, TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là một trong những phần quan trọng trong pháp luật BVQLNTD tại nhiều quốc gia. Tầm quan trọng của việc quy định loại trách nhiệm này đã ảnh hưởng trực tiếp tới cách ứng xử của các NSX, NPP, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong nền kinh tế xã hội. Không ít các doanh nghiệp đã phải thận trọng và đầu tư kỹ lưỡng hơn trước khi đưa một SP mới ra thị trường, thậm chí có những doanh nghiệp còn phải từ bỏ việc đưa SP mới ra thị trường chỉ vì nỗi e ngại khả năng gặp rắc rối với những quy định về loại trách nhiệm này. Điểm lại các công trình nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành xuất bản ở Anh, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc…và những công trình nghiên cứu trong nước, ta có thể thấy chủ đề này luôn được coi là một trong những chủ đề được quan tâm của các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới. Mặc dù các công trình khoa học trên không trùng với tên đề tài luận án của tác giả nhưng cũng có chứa đựng những vấn đề có liên quan đến nội dung của đề tài. Nội dung của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được tác giả tổng hợp phía trên thực sự là những gợi mở quan trọng để tác giả tiếp tục triển khai, nghiên cứu về các vấn đề quan trọng trong luận án. . M c đ ch nhiệm nghi n cứu 3.1. c đ ch nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về TNBTTH nói chung và TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra; và thực tiễn thực hiện pháp luật về loại trách nhiệm này tại các CQNN; các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh SP; NTD, các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (TCBVQLNTD) ở Việt Nam trong thời gian qua, luận án đề xuất những kiến nghị nhằm: Góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền lợi NTD nói chung cũng như pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra nói riêng; 5
- Đề xuất những kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện các quy định của Luật BVQLNTD Việt Nam 2010 và các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra. 3.2. Nhiệ v nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Nêu rõ khái niệm, đặc điểm, những vấn đề lý luận pháp luật về TNBTTH nói chung và TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra nói riêng; Phân tích những yếu tố cơ bản của TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra, trong đó có sự nghiên cứu, so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…; Phân tích thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành về BVQLNTD ở Việt Nam và các văn bản pháp luật khác quy định cụ thể về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra, để từ đó có sự đánh giá tổng quan nhất những ưu điểm và hạn chế, bất cập của hệ thống những văn bản pháp luật này, là cơ sở quan trọng để đưa ra những kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra; Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra ở Việt Nam; trong đó nêu bật những thuận lợi, khó khăn, bất cập và nguyên nhân của bất cập trong công tác áp dụng và thực thi pháp luật về loại trách nhiệm này trong thời gian qua tại các CQNN; các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh SP; NTD; các TCBVQLNTD ở Việt Nam; Đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra trong thời gian tới; Đề xuất những kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra để từ đó quyền lợi của NTD cũng như những tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh SP được bảo vệ tốt nhất, các CQNN cũng như các TCBVQLNTD có thể phát huy tối đa vai trò và năng lực của mình trong việc thực thi pháp luật về loại trách nhiệm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề liên quan tới pháp luật Việt Nam về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra. Đây là phần trọng tâm mà đề tài luận án cần phải làm rõ trên cơ sở nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của 6
- những nước tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, các nước EU, Nhật Bản, Trung Quốc... 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án chủ yếu phân tích các yếu tố của TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra (Chương 1) theo nghĩa hẹp của khái niệm TNSP các nước trên thế giới. Bởi, theo nghĩa rộng thì phạm vi khái niệm TNSP có thể được hiểu là mọi trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh liên quan đến SP hàng hóa, dịch vụ; nó có thể là trách nhiệm trong hợp đồng nhưng cũng có thể là trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, có thể phát sinh từ trước, trong và sau quá trình sản xuất, phân phối SP cho NTD, bao gồm: trách nhiệm cung cấp thông tin chính xác về SP; trách nhiệm giao SP đúng chất lượng cam kết; trách nhiệm hướng dẫn sử dụng SP đúng cách; trách nhiệm sửa chữa, bảo hành; trách nhiệm thu hồi SP có khuyết tật; trách nhiệm thay thế SP mới; trách nhiệm hoàn tiền, trách nhiệm bồi thường do SP có khuyết tật gây ra thiệt hại… Trong phạm vi nghiên cứu có hạn của luận án, tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu TNSP theo nghĩa hẹp dưới góc độ là TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra. Theo đó, đây chỉ là một loại trách nhiệm bồi thường dân sự của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh SP đối với NTD bị thiệt hại do khuyết tật của chính SP đó gây ra. Các loại TNSP khác xin phép được trình bày trong các công trình nghiên cứu tiếp theo. Về thời gian: Khi nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra ở Việt Nam (Chương 2), tác giả chủ yếu tập trung vào hai mốc thời gian chính là kể từ khi BLDS 2005 và Luật BVQLNTD 2010 có hiệu lực thi hành. Khi đề xuất định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật (Chương 3), luận án đã đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra trong thời gian tới đến những năm 2020, thậm chí xa hơn nữa khi hoạt động xuất nhập khẩu SP tại Việt Nam ngày càng phát triển và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nước phải đối mặt với những vụ kiện quốc tế yêu cầu TNBTTH có giá trị rất lớn so với giá trị thực tế của SP hàng hóa xuất khẩu… Về không gian: Những nội dung liên quan đến thực tiễn thực hiện pháp luật (Chương 2), luận án nghiên cứu giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Việc điều tra, khảo sát thực tế ở Việt Nam sẽ không bị giới hạn chủ thể NTD nhưng tuân thủ những nguyên tắc xã hội học trong lấy mẫu và điều tra điển hình. Ngoài ra có sự đan xen, học hỏi những kinh nghiệm pháp luật quốc tế như Hàn Quốc, 7
- EU, Hoa Kỳ, Thái Lan… nhằm giải quyết triệt để những điểm khuyết, bất cập trong các vấn đề lý luận (Chương 1) cũng như trong thực tiễn thực hiện pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra ở Việt Nam. . Phư ng há nghi n cứu .1. hư ng pháp luận nghiên cứu của đề tài Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là Chủ nghĩa Mác Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường, về chính sách BVQLNTD… là kim chỉ nam cho phương pháp luận nghiên cứu của đề tài luận án. .2. Các phư ng pháp nghiên cứu c thể của đề tài Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện luận án, tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp diễn giải, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp phân tích tình huống, phương pháp tập hợp ý kiến chuyên gia… 6. Những đóng gó mới của đề tài luận án Luận án đã hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận liên quan đến TNBTTH nói chung và TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra như chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, NTD, chủ thể được bồi thường thiệt hại, khái niệm khuyết tật, mức độ an toàn hợp lý, phạm vi khái niệm SP, thời hiệu khởi kiện yêu cầu TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra... Từ đó, có thể giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề mang tính lý luận của pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra, làm rõ nhu cầu cần thiết của việc tác động từ pháp luật tới hoạt động thi hành và áp dụng trên thực tế, đồng thời xác định được những yếu tố không thể thiếu được coi là nội hàm mà lĩnh vực pháp luật này cần phải xây dựng và hoàn thiện; Luận án đã tổng hợp quá trình hình thành và phát triển của TNSP tại các nước trên thế giới và Việt Nam, nền tảng của các học thuyết lý luận hình thành chế định pháp luật này, từ đó có cách nghiên cứu khách quan, đầy đủ và toàn diện nhất về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra; Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách có hệ thống thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra. Trên cơ sở đó chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung của hệ 8
- thống pháp luật sao cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường cũng như phù hợp với điều kiện văn hóa, xã hội và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; Luận án đã thực hiện bảng khảo sát để sử dụng cho việc phân tích thực tiễn áp dụng và thi hành pháp luật Việt Nam về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra tại các CQNN, TCBVQLNTD, các cá nhân, tổ chức sản xuất và kinh doanh, NTD. Từ đó rút ra những khó khăn vướng mắc cần giải quyết để đưa ra những định hướng và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra, nâng cao hoạt động thực thi loại trách nhiệm này trong thời gian tới. Luận án đã sưu tầm, thu thập một cách công phu những kết quả, số liệu tổng kết tại các cơ quan quản lý nhà nước (CQQLNN); tòa án; các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh SP; các TCBVQLNTD… để làm cơ sở cho những kết luận, lập luận chính xác, luận án không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về mặt thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu bảo vệ hữu hiệu cho NTD khi quyền lợi của họ bị xâm phạm khá nghiêm trọng như trong bối cảnh hiện nay. Những kiến nghị, giải pháp mà luận án đưa ra góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật BVQLNTD nói chung cũng như pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra nói riêng ở Việt Nam, những nghiên cứu trong luận án có thể làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật này. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục hình sử dụng trong luận án, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài, các phụ lục, nội dung của luận án bao gồm 3 chương: Chư ng 1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Chư ng 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra ở Việt Nam Chư ng . Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra ở Việt Nam 9
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SẢN PHẨM CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA 1.1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại Sau một quá trình nghiên cứu, tác giả xin được mạnh dạn đưa ra định nghĩa về TNBTTH như sau: “TNBTTH là một loại trách nhiệm dân sự bao gồm TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần, phát sinh khi người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạ đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường cho bên bị thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng”. 1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại TNBTTH là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do CQNN có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước… thì TNBTTH còn có những đặc điểm riêng sau đây: Thứ nhất, về c s pháp lý: TNBTTH là một loại trách nhiệm dân sự độc lập, không phụ thuộc hay thay thế trách nhiệm hình sự hay các loại trách nhiệm pháp lý khác. Thứ hai, về c sở hình thành: TNBTTH được hình thành dựa trên sự thỏa thuận hợp pháp giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Thứ ba, về khách thể của quan hệ bồi thường thiệt hại: Lợi ích mà các bên hướng tới trong quan hệ bồi thường bao giờ cũng mang tính chất tài sản, là “hành động” bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại. Thứ tư, về chủ thể có nghĩa v bồi thường: Chủ thể bị áp dụng TNBTTH thông thường là người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại, trong một số trường hợp TNBTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác có mối liên hệ nhất định với người gây ra thiệt hại. Thứ nă , về phư ng thức giải quyết tranh chấp: Mềm dẻo, linh hoạt, tôn trọng ý chí thỏa thuận và tự định đoạt bình đẳng và tự nguyện giữa các chủ thể. Thứ sáu, về hậu quả pháp lý: Luôn là sự gánh chịu những bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại, qua đó để khắc phục những thiệt hại cho bên bị vi phạm. 10
- 1.1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1.1.3.1. Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại Hành vi trái pháp luật trong TNBTTH là hoạt động có ý thức và ý chí của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hay vi phạm quy định pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 1.1.3.2. Thiệt hại xảy ra Thiệt hại là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cần được xác định cụ thể trong cấu thành loại trách nhiệm này, nếu không có thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường không thể phát sinh và mục đích khôi phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại sẽ không đạt được. 1.1.3.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra Thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại, nó không chỉ là sự tiếp nối về mặt thời gian nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả và kết quả chỉ xuất hiện sau nguyên nhân mà còn là mối quan hệ sản sinh, đó là nguyên nhân sinh ra kết quả. 1.1.3.4. Lỗi của người gây thiệt hại Lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý của con người mang tính phủ nhận đối với những nguyên tắc xử sự chung được pháp luật quy định hoặc thừa nhận, là khía cạnh chủ quan của người thực hiện hành vi, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. 1.1.4. So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Ngoài điểm giống nhau là cùng phát sinh dựa trên bốn điều kiện của trách nhiệm bồi thường nói chung, TNBTTH trong hợp đồng và TNBTTH ngoài hợp đồng còn có những điểm khác biệt về yếu tố lỗi, về căn cứ xử lý, thẩm quyền xử lý... Thứ nhất, về căn cứ phát sinh: (i) TNBTTH trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh trong trường hợp một bên do không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các điều khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia. (ii) TNBTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh khi người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường cho những thiệt hại do mình gây ra. 11
- Thứ hai, về điều kiện phát sinh trách nhiệm: TNBTTH ngoài hợp đồng vì không có sự thỏa thuận trước các bên nên về nguyên tắc chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định gồm bốn điều kiện, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, TNBTTH trong hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm có thể là dựa trên sự thoả thuận nên các bên cũng có thể tự đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải bồi thường. Thứ ba, về chủ thể chịu trách nhiệm: TNBTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn có thể áp dụng đối với người thứ ba. Tuy nhiên, TNBTTH trong hợp đồng thì chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không áp dụng đối với người thứ ba, trừ trường hợp họ có thỏa thuận khác. Thứ tư, về mức bồi thường: TNBTTH ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Còn đối với TNBTTH trong hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh TNBTTH thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận. Thứ nă , về thời điểm phát sinh và chấm dứt trách nhiệm bồi thường: (i) TNBTTH trong hợp đồng, thời điểm xác định nghĩa vụ và thời điểm xác định trách nhiệm bồi thường là khác nhau. (ii) TNBTTH ngoài hợp đồng, thời điểm xác định nghĩa vụ và phát sinh trách nhiệm bồi thường thì xuất hiện đồng thời. Thứ sáu, về trách nhiệm liên đới: Những người gây thiệt hại ngoài hợp đồng đương nhiên phải chịu trách nhiệm liên đới, nhưng trong hợp đồng thì vấn đề trách nhiệm liên đới chỉ được đặt ra nếu được các bên trong hợp đồng có thỏa thuận trước. 1.2. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Tại Việt Nam, để có một cách nhìn nhận cụ thể và rõ ràng về loại trách nhiệm này thì vẫn còn là một điều khá mới mẻ hiện nay. Nhằm khắc phục những bất cập đó, theo quan điểm của tác giả, khái niệm TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra (TNSP) nên xây dựng theo hướng: “TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là một loại trách nhiệm bồi thường dân sự đặc thù phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh là NSX, N , trung gian S … với NTD khi SP của họ 12
- sản xuất, lưu thông có khuyết tật gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng và sức khỏe cho NTD”. Với định nghĩa này, phạm vi khái niệm TNSP, điều kiện phát sinh TNSP, đối tượng áp dụng TNSP… đều được quy định rõ ràng và phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam. 1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra (TNSP) cũng là một loại TNBTTH nên nó mang những đặc điểm của TNBTTH nói chung như: tính tương đối ổn định, tồn tại theo những quy luật khách quan, mục đích bảo vệ sự phát triển của các quan hệ về tài sản và nhân thân trong lĩnh vực dân sự, chỉ phát sinh dựa trên các điều kiện nhất định, được đảm bảo bằng sự cưỡng chế Nhà nước… Bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng như: Thứ nhất, TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là một loại TNBTTH dân sự đặc thù mà pháp luật quy định, có thể xuất hiện với tư cách là TNBTTH ngoài hợp đồng hay với tư cách là TNBTTH trong hợp đồng tùy vào từng trường hợp cụ thể. Thứ hai, TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra khác với nghĩa vụ đảm bảo chất lượng hàng hóa trong hợp đồng. Thứ ba, chủ thể chịu TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là NSX, NPP hay bất cứ chủ thể nào tham gia vào quá trình đưa một SP đến tay NTD. Thứ tư, cơ sở để xác định TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là mối quan hệ nhân quả giữa SP bị khuyết tật và thiệt hại NTD phải gánh chịu khi sử dụng SP. Thứ nă , TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra là một loại trách nhiệm bồi thường đặc biệt, có thể được áp dụng ngay cả khi không có đầy đủ các điều kiện phát sinh TNBTTH thông thường (chỉ cần ba điều kiện). Thứ sáu, TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra có thể là loại trách nhiệm do hành vi hay do tài sản phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. 1.2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Có thể nói rằng, chế định TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra (TNSP) là một trong những phần quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật BVQLNTD tại nhiều quốc gia trên thế giới. Phong trào BVQLNTD từ lâu đã trở thành một trong những chủ điểm kinh tế, chính trị quan trọng, với những cách quy định đa dạng khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng đều chung một mục đích là bảo vệ quyền lợi cho NTD và thiết lập một trật tự kinh tế bình đẳng, lành mạnh. Có những quốc gia và vùng lãnh thổ ban hành đạo luật riêng quy định về TNBTTH do SP có khuyết tật 13
- gây ra – Luật TNSP như Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Hồng Kông, Ấn Độ, Nga, Nauy, Đài Loan, Malaysia, Anh…nhưng cũng có những quốc gia không ban hành đạo luật riêng điều chỉnh vấn đề này mà quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau như Việt Nam, Trung Quốc… Có những nước ban hành luật mới nhưng cũng có những nước bổ sung thêm những quy định về vấn đề này nhằm hoàn thiện luật cũ như bổ sung vào BLDS (Pháp), bổ sung vào Luật Bảo vệ NTD (Anh) hoặc Luật Chất lượng SP (Trung Quốc)… 1.2.4. Các học thuyết xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Nền tảng xây dựng chế định TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra dù ở quốc gia nào trên thế giới cũng đều được xem xét và bắt nguồn từ ba học thuyết cơ bản gồm: học thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm, học thuyết về sự cẩu thả và lỗi bất cẩn và học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt. Pháp luật về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra của các nước trên thế giới hiện nay dù được quy định phạm vi và chi tiết có khác nhau nhưng nhìn chung đều có quan điểm thừa nhận và áp dụng học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt (cấp độ 2), trừ Canada. 1.2. . Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra 1.2.5.1. Sản phẩm có khuyết tật Nhìn chung các nước trên thế giới có những quan điểm khác nhau về SP có khuyết tật, phụ thuộc vào tùy từng điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia. Có nước đưa ra khái niệm này theo nghĩa rộng (như Pháp) nhưng cũng có nước theo nghĩa hẹp (như Hoa Kỳ) nhưng đều có điểm chung cho rằng khuyết tật SP không chỉ đơn thuần là việc có sai sót về chất lượng SP mà còn là việc thiếu sót về độ an toàn của SP, vì vậy một SP bị coi là có khuyết tật có thể được hiểu là khi nó “nguy hiểm một cách bất hợp lý” và gây ra những rủi ro về tài sản và tính mạng, sức khỏe cho người sử dụng SP đó. 1.2.5.2. Thiệt hại xảy ra Cũng giống như TNBTTH nói chung, khi xác định TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra, thiệt hại luôn được coi là điều kiện tiền đề, điều kiện cơ sở không thể thiếu. Tuy nhiên, những quy định này trong BLDS điều chỉnh về TNBTTH nói chung nên không thể cụ thể hết các loại thiệt hại đặc thù của TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra, thậm chí quy định này còn mâu thuẫn với 14
- các đạo luật khác cũng điều chỉnh trong cùng lĩnh vực như Luật Chất lượng SP, hàng hóa 2007, Điều 60 thì lại xác định thiệt hại được bồi thường cho NTD chỉ là những thiệt hại vật chất. Chính vì lẽ đó, việc rà soát, thống nhất và ban hành một đạo luật cụ thể chuyên ngành về loại TNBTTH này là điều rất cần thiết. 1.2.5.3. Mối quan hệ nhân quả giữa SP có khuyết tật và thiệt hại xảy ra Khi có thiệt hại xảy ra và xác định trách nhiệm thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra? Nguyên nhân đó do đâu mà có? Nếu không xác định chính xác mối quan hệ nhân quả này thì sẽ dẫn đến những sai lầm khi xác định trách nhiệm bồi thường. Yếu tố lỗi của cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh Nghiên cứu các quy định về yếu tố “lỗi” từ những văn bản pháp luật dân sự đầu tiên như Thông tư 173/1972 của TANDTC, BLDS 1995, Luật Thương mại 1997 cho tới Nghị quyết số 01/2004/NQ – HĐTP của TANDTC, Luật Thương mại 2005, BLDS 2005, Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP của TANDTC… chúng ta thấy vai trò của yếu tố “lỗi” trong việc xem xét TNBTTH ngày càng được “cách tân” và “giảm nhẹ”, từ việc quy định bắt buộc yếu tố “lỗi” trong cấu thành TNBTTH tới việc thừa nhận các trường hợp cấu thành trách nhiệm bồi thường ngay cả khi không có “lỗi”. Tuy nhiên, trên thực tế mặc dù được luật quy định như vậy nhưng NTD Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn khi khiếu nại, khởi kiện và chưa vụ việc nào yêu cầu TNBTTH của NSX, NPP thành công bởi những quy định này còn chung chung, chỉ mang tính hình thức, vì thế quyền lợi chính đáng của NTD vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng. 1.2.6. Những yếu tố c bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra 1.2.6.1. Khái niệm sản phẩm Có thể thấy rằng, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia, danh mục các loại SP chịu sự áp dụng của chế định TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra được mở rộng (như Hoa Kỳ) hay thu hẹp (như Nhật Bản). Cho đến nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới mới dừng ở việc áp dụng chế định TNSP đối với hàng hóa hữu hình và chỉ có một ngoại lệ duy nhất là Philippines và Indonexia áp dụng TNSP đối với hàng hóa vô hình, đó là dịch vụ. 1.2.6.2. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra 15
- Chủ thể chịu TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra phải là một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một SP hàng hóa hoặc dịch vụ từ lúc được sản xuất đến tay NTD. Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với NTD thông qua một hợp đồng cụ thể hoặc không có mối liên hệ trực tiếp với NTD mà chỉ cần có mối liên hệ bất kỳ với SP có khuyết tật. 1.2.6.3. Chủ thể được bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Về nguyên tắc, chủ thể được bồi thường thiệt hại do SP có khuyết tật gây ra chính là người bị thiệt hại khi trực tiếp mua, sử dụng cuối cùng hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân, của gia đình… nhưng cũng có thể là những chủ thể thứ ba có quyền lợi liên quan (như các trường hợp những người thân trực tiếp của người bị thiệt hại bị suy sụp tinh thần do người bị thiệt hại chết…) hoặc những chủ thể gián tiếp bị thiệt hại từ khuyết tật của SP (như các trường hợp bị thiệt hại bị động). Như vậy, người được bồi thường thiệt hại do SP có khuyết tật gây ra không bắt buộc họ phải có một thỏa thuận hợp đồng với NSX, NPP SP hay không có thỏa thuận hợp đồng thì đều được quyền yêu cầu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Đó chính là một trong những nét đặc thù của chế định TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra. 1.2.6.4. Các trường hợp miễn, giảm trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Bên cạnh việc bảo vệ quyền lợi của NTD, cũng giống như đối với các loại trách nhiệm khác, cũng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của những cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh và tạo môi trường kinh doanh công bằng và lành mạnh cho các NSX, NPP chân chính, pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều có quy định những trường hợp mà NSX, NPP SP được giảm trừ TNBTTH hoặc miễn trừ không phải bồi thường cho người bị thiệt hại dù SP của họ có khuyết tật và gây thiệt hại cho NTD và người thứ ba có liên quan. 1.2.6.5. Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện yêu cầu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Giống như các loại trách nhiệm pháp lý khác, TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra cũng được quy định về khoảng thời gian hợp lý để NTD bị thiệt hại có thể khiếu nại, khiếu kiện yêu cầu TNBTTH từ NSX, NPP SP, khoảng thời gian đó gọi là thời hiệu khởi kiện, thời hiệu khiếu nại. Nếu không có những quy định về thời hiệu khởi kiện, khiếu nại, việc giải quyết các vụ án nói chung cũng như những vụ án về TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra tại các tòa án hoặc các CQQLNN giải 16
- quyết trên thực tế sẽ gặp rất nhiều khó khăn và hệ lụy rắc rối. NTD muốn được bồi thường ngoài việc chứng minh SP có khuyết tật và mình bị thiệt hại vì khuyết tật đó thì cần phải khởi kiện, khiếu nại theo đúng thời hạn mà pháp luật quy định. Nếu hết thời gian đó, NSX, NPP sẽ được miễn trừ trách nhiệm và tòa án, CQQLNN sẽ bác đơn yêu cầu TNBTTH của NTD. CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SẢN PHẨM CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra Đánh giá dưới góc độ tác động của các quy định pháp luật, có thể nhận thấy hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành có tương đối nhiều và đa dạng những quy định pháp luật có liên quan tới TNBTTH do SP có khuyết tật gây ra trên tất cả các lĩnh vực. 2.1.1. Nhó quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra 2.1.1.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của Hiến pháp 2.1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự 2.1.1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của pháp luật hình sự 2.1.2. Nhó quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra 2.1.2.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của pháp luật đầu tư, pháp luật doanh nghiệp và pháp luật thương mại 2.1.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật 2.1.2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của pháp luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2.1.2.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa, pháp luật về hoạt động quảng cáo 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 182 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn