
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nhiều năm trở lại đây, nhu cầu sử dụng sữa tại Việt Nam tăng lên
đáng kể. Theo thống kê từ Hiệp hội Thức ăn gia súc Việt Nam (2010), nhu cầu sữa
tươi nguyên liệu tăng khoảng 61%, từ 500 triệu lít (năm 2010) lên đến 805 triệu lít
(năm 2015). Các nhà chuyên môn đánh giá rằng tiềm năng phát triển của thị trường
sữa tại Việt Nam vẫn còn rất lớn.
Thực hiện Quyết định số 167/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
26/10/2001 về một số biện pháp và chính sách phát triển bò sữa Việt Nam thời kỳ
2001-2010; Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020,
các địa phương đã quan tâm đầu tư và ban hành nhiều chính sách đầu tư phát triển
chăn nuôi bò sữa. Đàn bò sữa ở nước ta không ngừng tăng cả về số lượng, chất
lượng và năng suất.
Tổng đàn bò sữa tăng từ 41,24 ngàn con năm 2000 lên 253,699 ngàn con năm
2015. Sản lượng sữa cả nước từ 64,7 ngàn tấn năm 2001 lên 355,228 ngàn tấn năm
2015. Năng suất sữa ở bò lai từ 3,25 tấn/chu kỳ năm 2001 lên 4,6 tấn/chu kỳ năm
2015; ở bò thuần HF từ 4,26 tấn/chu kỳ năm 2001 lên 5,60 tấn/chu kỳ năm 2015,
năng suất sữa bò trung bình cả nước là 5,186 tấn/chu kỳ năm 2015, cao hơn các
nước trong khu vực (theo báo cáo của Cục Chăn nuôi 2015). Chăn nuôi bò sữa
đang dần trở thành thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Mặc dù là một ngành cho hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thiết yếu và
góp phần tăng cường sức khỏe cho con người, tuy nhiên ngành chăn nuôi bò sữa
cũng còn gặp nhiều trở ngại. Ngoài các yếu tố về thời tiết, dinh dưỡng, quản lí thì
các bệnh trên bò sữa cũng có ảnh hưởng rất lớn trong chăn nuôi bò sữa. Bệnh ở
đường sinh dục bò là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra các thiệt hại về năng suất
sinh sản, năng suất sữa. Trong số các bệnh ở đường sinh dục bò cái, bệnh thường
gặp và gây thiệt hại về kinh tế lớn nhất là bệnh viêm tử cung. Bệnh viêm tử cung
có tỉ lệ mắc ở bò sau đẻ thường rất cao và mọi quá trình bệnh lý ở tử cung đều ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản, sản lượng và chất lượng sữa bò.
Thông thường, bò bị viêm tử cung thường sẽ được điều trị với kháng sinh và
các loại thuốc bổ trợ. Tuy nhiên, điều này làm nảy sinh ba vấn đề quan trọng đó là
thiệt hại kinh tế, mất an toàn vệ sinh thực phẩm và kháng kháng sinh ở vi khuẩn.
Bên cạnh đó, trong thời gian bò điều trị bệnh viêm tử cung, sữa của bò bệnh sẽ kém
chất lượng không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nên số sữa này chỉ có thể dùng
làm thức ăn cho bê hoặc loại thải gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi. Hơn nữa
nếu sữa kém chất lượng dùng để chế biến thành thực phẩm thì sẽ là một mối nguy
hại lớn cho sức khỏe của người tiêu dùng.