Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
lượt xem 12
download
Mục đích của luận án là nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Phân tích tiền đề xã hội - thẩm mĩ dẫn đến sự xuất hiện khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ------------------- TRƯƠNG THỊ KIM ANH KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Nghệ An, năm 2018
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Có thể thấy trong mấy chục năm qua, văn học Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết. Đó cũng chính là một trong những lý do để nhiều người khẳng định thời hiện đại là “thời của tiểu thuyết”. 1.2. Trong nhãn quan nghiên cứu hiện đại, lịch sử của tiểu thuyết không phải là phép cộng của những hiện thực được miêu tả, mà là lịch sử của sự miêu tả, nghĩa là lịch sử của sự vận động, biến đổi, đặc biệt là những cách tân trong miêu tả hiện thực. Bởi thế, việc nhận diện các khuynh hướng tiểu thuyết không chỉ mang đến lợi ích trong phân tích, khám phá những nội dung xã hội được miêu tả, mà còn là những nghiên cứu, khám phá trên bình diện nghệ thuật tiểu thuyết, nhằm làm cho việc nghiên cứu tiểu thuyết trở nên toàn diện hơn. 1.3. Ở Việt Nam, yếu tố kỳ ảo vốn đã xuất hiện trong văn học từ sớm với nhiều dạng thức khác nhau. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc biệt là sự thái quá của cái nhìn duy lý và duy ý chí, trong những giai đoạn nhất định, yếu tố kỳ ảo, huyền thoại dường như vắng bóng. Song, trong khoảng ba chục năm lại nay, như một “cân bằng sinh thái”, yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện trở lại, ngày càng đậm đặc hơn và dần hình thành một khuynh hướng nghệ thuật: khuynh hướng hiện thực huyền ảo. Khuynh hướng hiện thực huyền ảo ra đời và phát triển mạnh mẽ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã góp phần tích cực vào việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Luận án chủ yếu tập trung phân tích những tiểu thuyết ra đời sau 1975, đặc biêt sau 1986 như: Lời nguyền hai trăm năm (1989), Nỗi buồn chiến tranh (1990), Thiên sứ (1995), Đi tìm nhân vật (2001), Những đứa trẻ chết già (2002), Người sông Mê (2003), Giã biệt bóng tối (2004), Thiên thần sám hối (2004), Tàn đen đốm đỏ (2004), Tấm ván phóng dao (2004), Chinatown (2004), Cõi người rung chuông tận thế (2004), Thoạt kì thủy (2005), Khải huyền muộn (2005), Giàn thiêu (2005), Giữa vòng vây trần gian (2005), Ngồi (2006), Trí nhớ suy tàn (2006), Cơ hội của Chúa (2006), Và khi tro bụi (2006), T. mất tích (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma (2006), Mẫu Thượng ngàn (2006), Người đi vắng (2007), Mưa ở kiếp sau (2007), Giữa dòng chảy lạc (2010), Thần thánh và bươm bướm (2010), Hoang tâm (2011), SBC là săn bắt chuột (2011), Rụng xuống ngày hư ảo (2013), Xác phàm (2014), Trong sương hồng hiện ra (2015), Người thứ hai (2015)… 2.2. Phạm vi nghiên cứu Bên cạnh tập trung tìm hiểu các tiểu thuyết có yếu tố hiện thực huyền ảo trong văn học Việt Nam đương đại, chúng tôi mở rộng trường so sánh với tiểu thuyết hiện thực huyền ảo trong và ngoài nước ở những giai đoạn khác nhau để làm nổi bật nét riêng của khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
- 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích tiền đề xã hội thẩm mĩ dẫn đến sự xuất hiện khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nhận diện, mô hình hóa và phân tích, làm rõ những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực huy ền ảo trong tiểu thuy ết Vi ệt Nam đương đại. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp loại hình: Vận dụng tiêu chí loại hình để khu biệt các tác phẩm viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo vơi các khuynh hướng khác trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 4.2. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Đặt tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đồng thời nhận diện cấu trúc bên trong của loại hình tiểu thuyết này. 4.3. Phương pháp so sánh: Nhằm so sánh sự khác nhau giữa khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với các khuynh hướng khác đã có ở giai đoạn trước và cùng thời. 4.4. Tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này tiếp cận các tác phẩm theo các phạm trù thi pháp nhằm nghiên cứu các yếu tố tham gia cấu thành thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – huyền ảo. 5. Đóng góp của luận án 5.1. Bước đầu khái quát, hệ thống hóa về sự ra đời, phát triển của tiểu thuyết hiện thực – huyền ảo trên thế giới và Việt Nam. 5.2. Nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết hiện thực huyền ảo trong văn học Việt Nam đương đại. 5.3. Phân tích, lý giải những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết hiện thực – huyền ảo Việt Nam đương đại, qua đó góp phần làm sáng tỏ sự đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết từ 1986 đến nay. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Sự xuất hiện khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Chương 3: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong ti ểu thuy ết Vi ệt Nam đương đại với chức năng miêu tả thế giới Chương 4: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong ti ểu thuy ết Vi ệt Nam đương đại với chức năng biểu đạt thế giới
- 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết trên thế giới 1.1.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Theo M.Bakhtin, từ vị thế của kẻ bên lề, tiểu thuyết dần trở thành “nhân vật chính” trên sân khấu văn học hiện đại. Với tư cách là thể loại có khả năng dung nạp ưu thế của nhiều thể loại khác, tiểu thuyết mở ra những ô cửa mới để khám phá thế giới trong sự rộng lớn và thẳm sâu của nó. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại khác nhau, chức năng và cấu trúc của tiểu thuyết cũng khác nhau. Điều đó gắn liền với sự thay đổi của tư duy nghệ thuật và vị thế của tiểu thuyết trong cộng đồng thể loại. Từ tiểu thuyết tiền hiện đại đến hiện đại và hậu hiện đại là cả một lịch sử dài. Theo đó, việc nghiên cứu tiểu thuyết cũng có những thay đổi quan trọng. Trong luận án này, chúng tôi tập trung phân tích các quan điểm nghiên cứu của những cây bút tiêu biểu như M. Bakhtin, Roland Bathers, M. Kundera, Alain Robbe – Grillet, Tz. Todorov, …và một số công trình đã được dịch sang tiếng Việt. 1.1.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Khuynh hướng hiện thực huyền ảo ra đời ở văn học Mỹ Latin nhằm vượt qua mô hình phản ánh hiện thực của chủ nghĩa hiện thực trước đó. Trong công trình History of Latin America (1992), Edwin Williamson đã xác định cuộc thử nghiệm sớm nhất của chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo diễn ra ở Brazil với cuốn tiểu thuyết Macunaima của Mario de Andrade. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người đặt nền móng đầu tiên cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin là M. A. Asturias và A. Carpentier. A. Asturias từng phát biểu về khuynh hướng nghệ thuật trong sáng tác của ông như sau: “Có thể gọi chủ nghĩa hiện thực của tôi là “huyền ảo”, bởi vì một phần nó giống với các nhà siêu thực xử lý các giấc mơ của họ, nhưng đồng thời nó cũng giống với các thổ dân Maya dựng lại thực tại trong những cuốn sách thiêng liêng của họ”. Về tiểu thuyết hiện thực huyền ảo, có thể kể đến một số các công trình tiêu biểu như: Alejo Carpentier và thi pháp của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin của Carlos, Thời đại hiện nay và số phận của tiểu thuyết của E. F. Towrrutsenkô , Phê bình hậu hiện đại về Trăm năm cô đơn của G. G. Marquez của Jofer Serapio… 1.2. Tình hình nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại 1.2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam đương đại Cũng như giới lý luận phê bình văn học thế giới, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam luôn coi tiểu thuyết là nhân vật trung tâm của văn học hiện đại. Nhiều hội thảo khoa học của Hội Nhà văn Việt Nam, Viện Văn học, Đại học Sư phạm Hà
- 4 Nội… đều quan tâm đến thể loại này. Các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết ngày càng được chú ý, chẳng hạn: Bước đầu nhận diện tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI (Bích Thu), Bên lề tiểu thuyết (Nguyễn Minh Châu, Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kì đổi mới (Phan Cự Đệ), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản (Nguyễn Thị Bình), Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15 năm cuối thế kỉ XX (Trần Thị Mai Nhân), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI – cấu trúc và khuynh hướng (Hoàng Cẩm Giang), Những vấn đề cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Mai Hải Oanh), Đổi mới tư duy tiểu thuyết (Nhiều tác giả), Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nhiều tác giả), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Tiểu luận – phê bình văn học), Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (Nguyễn Bích Thu)… 1.2.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyên Ngọc… hay các nhà nghiên cứu như Trần Đình Sử, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Bích Thu, Nguyễn Đăng Điệp, Bùi Việt Thắng, Bùi Thanh Truyền …trong các công trình nghiên cứu của mình đều chú ý đến sự mở rộng biên độ miêu tả hiện thực của tiểu thuyết. Gần đây, trong bài Những thế hệ nhà văn Việt Nam thời kì đổi mới: tiếp nối và chuyển động, Đỗ Hải Ninh đã nhấn mạnh vào tính hội nhập và tiếp thu các trào lưu văn học trên thế giới của các nhà văn đương đại, trong đó có chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Phan Tuấn Anh, trong bài Cấu trúc tam tài của lý luận phê bình văn học Việt Nam thời đổi mới đã đưa ra nhận định: “Đầu tiên là xu hướng đổi mới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, giãn nới tối đa phạm vi của hiện thực thành hiện thực tâm trạng hay hiện thực tâm lý, hiện thực huyền ảo. Sự tiếp nhận nhiều hứng khởi, tạo ra những cách tân mới mẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin với những tác giả như: G.G. Marquez, J.L.Borges, M.V.Llosa, A.L.Carpentier, J.Amado…”. Trong bài Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Biện Minh Điền cho rằng: “Hiện thực – huyền ảo với tư cách là một phương thức hay bút pháp trong văn học đương đại Việt Nam nói chung, trong tiểu thuyết nói riêng từng được bàn đến nhiều – nhiều nhất trong thời gian qua, cả trên phương diện lý luận cũng như qua nghiên cứu, phê bình các tác phẩm cụ thể”. Bích Thu trong bài Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới nhận định: “Tiểu thuyết bắt đầu tiếp cận với thế giới đằng sau thế giới hiện thực, đó là thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ”. Trong bài Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn phân tâm học, Văn Thị Phương Trang lại bàn nhiều đến vấn đề không gian huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại: “Trước hết, không gian được xây dựng trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI chủ yếu là không gian ảo – không gian từ trong giấc mơ, không gian kỳ ảo và không gian cõi tâm linh”… Nhìn chung, việc mở rộng biên độ hiện thực và sự thay đổi quan niệm, tư duy nghệ thuật của nhà văn là nhân tố quan trọng nhất tạo nên sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, dẫn tới sự xuất hiện của khuynh hướng văn học hiện thực huyền ảo ở Việt Nam, trong đó, có tiểu thuyết. 1.3. Tiểu kết
- 5 Qua tổng quan nghiên cứu về tiểu thuyết như trên, chúng tôi nhận thấy ba vấn đề quan trọng: Một là, khuynh hướng hiện thực huyền ảo là một khuynh hướng phát triển khá mạnh mẽ và có tầm ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Hai là, khuynh hướng hiện thực huyền ảo phát triển khá mạnh mẽ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nhất là những năm cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, điều đó được chứng minh qua các công trình nghiên cứu từ các tác giả trên. Ba là, việc nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo một cách có hệ thống vẫn còn là một khoảng trống, một mảng màu còn thiếu trong tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đến thời điểm hiện nay (2018), vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
- 6 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 2.1. Giới thuyết về khuynh hướng và khuynh hướng hiện thực – huyền ảo 2.1.1. Khái niệm khuynh hướng Khuynh hướng là một khái niệm dùng để chỉ một hiện tượng ra đời và phát triển trong sáng tạo nghệ thuật. Theo Từ điển văn học (bộ mới): “Khuynh hướng, trào lưu là những cộng đồng các hiện tượng văn học được liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các định hướng thẩm mĩ, tư tưởng và các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật”. Việc ra đời một khuynh hướng nào đó nó không chỉ chịu sự tác động của thời đại, còn chịu chi phối bởi quan niệm của cá nhân nhà văn. Khuynh hướng là phạm trù thẩm mỹ ở bình diện loại hình, sự biểu hiện của nó không những ở quan điểm mà còn thái độ nhìn nhận của tác giả. Khuynh hướng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn học. Sự ra đời một khuynh hướng mới đánh dấu sự phát triển của một giai đoạn văn học, cũng là đánh dấu sự tiến bộ nghệ thuật trong văn học. Mỗi khuynh hướng giữ vai trò nguyên tắc sáng tác riêng, từ những nguyên tắc đó giúp nhà văn định hướng được phong cách nghệ thuật cho tác phẩm. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Khuynh hướng trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng toát ra một cách tự nhiên từ sự miêu tả sinh động đời sống chứ không phải qua những lời lí thuyết khô khan, hoặc những tư tưởng trừu tượng”. 2.1.2. Khái niệm hiện thực – huyền ảo Theo các nhà nghiên cứu khái niệm hiện thực huyền ảo bao hàm hai yếu tố “hiện thực” và “huyền ảo”. Để hiểu rõ hơn thuật ngữ “huyền ảo” chúng tôi đặt nó trong cái nhìn tương quan với thuật ngữ “kì ảo”. Dmitri Volodikhin, một nhà nghiên cứu người Nga đưa ra định nghĩa: “Kỳ ảo (bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: “Fantastike” – nghệ thuật tưởng tượng) là hình thức phản ánh thế giới dựa vào các quan niệm hiện thực để sáng tạo ra một bức tranh vũ trụ (siêu nhiên, bí ẩn) không tương thích về mặt logic với
- 7 những quan niệm hiện thực ấy”. Thuật ngữ “huyền ảo” theo tiếng Anh là “magic”, nghĩa là ma thuật hay ma lực. Tính từ của “magic” là “magical” bắt nguồn từ tiếng Latin là “magicus”, về sau phát triển thành danh từ “magica”, bắt nguồn từ tiếng Hy lạp là “magikè” nghĩa là nghệ thuật của phù thủy. Đó là “một sức mạnh bí ẩn có khả năng làm những điều không thực thành có thực (thường gắn với nét nghĩa tiêu cực – black magic – phép thuật ma quỷ)”. Đối với người Mỹ Latin khi giải thích về “magic” nhiều người thường nghĩ đến những câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết được dùng trong tiểu thuyết. Hiện thực luôn gắn liền với huyền ảo, vì thế, đằng sau vẻ huyền thoại, hoang đường, kì bí là một thực tại đang diễn ra hàng ngày, trong chừng mực nào đó hiện thực cũng chấp nhận cái phi lí, phi thường, phi logic. 2.1.3. Nguyên tắc phản ánh hiện thực của khuynh hướng hiện thực – huyền ảo Khuynh hướng hiện thực huyền ảo là một bước phát triển mới của khuynh hướng hiện thực, chính vì vậy nguyên tắc phản ánh hiện thực sẽ khác hoàn toàn. Vượt lên trên mô hình phản ánh hiện thực giản đơn thông thường, khuynh hướng hiện thực huyền ảo tiếp cận hiện thực đời sống dưới một mô hình mới bằng sự đan cài thế giới ảo vào trong thế giới thực. Theo Lê Huy Bắc: “Trong thế giới thẩm mĩ của văn học hiện thực huyền ảo thì những điều không thực được đối xử như điều có thực và bình thường, ngược lại những điều bình thường thì được phản ánh theo kiểu không thực”. Đặc trưng của văn học hiện thực huyền ảo là phản ánh hiện thực nhưng thế giới của cái kỳ diệu chỉ trở thành hoàn toàn chân thật khi nó nảy sinh từ sự cải biến hiện thực một cách thần kỳ, từ sự lãnh hội sâu sắc hiện thực, từ sự soi sáng một cách khác thường hoặc đặc biệt có lợi của những kho tàng quý báu ẩn sâu trong hiện thực. Cái phi lý/ biểu tượng trở thành một phương diện soi tỏ cái hữu lý/ thực tại. 2.1.4. Đặc điểm của khuynh hướng hiện thực – huyền ảo Về cơ bản, khuynh hướng văn học hiện thực – huyền ảo có những đặc điểm chính như sau: Đề tài thường là những vấn đề gắn với chiều sâu văn hóa, lịch sử, tôn giáo… liên quan đến cộng đồng, khu vực. Nhân vật thường có tính nghịch dị, biến dạng, ma quái trộn lẫn người, có những chấn thương về mặt tâm lý, mặc cảm thực tại. Không gian mang tính giả tưởng, huyền thoại hóa thực tại. Đó là thứ không gian có tính “xuyên không”, mở rộng đến thế giới vô thức, cõi trần, cõi âm… Thời gian hư ảo, phi thời, không đầu không cuối, không rõ ràng các mốc thời gian, liên tục quay vòng, đồng hiện nhiều chiều/ trục thời gian. Kết cấu có sự đan cài nhiều tuyến truyện, dung hợp nhiều thể loại. Th ường sử dụng kết cấu mê lộ, đan xen thực ảo, phân mảnh, lắp ghép. Chi tiết nghệ thuật thường lấy từ cuộc sống trong tính đa chiều, bao gồm cả thế giới giấc mơ, vô thức, tưởng tượng, thế giới tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo… Ngôn ngữ mang tính chất ảo hóa, sử dụng nhiều kí hiệu lạ nhằm biểu đạt cái huyền ảo. 2.2. Những tiền đề xuất hiện khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
- 8 2.2.1. Tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội Trước hết, cần nói đến sự thay đổi trong quan niệm về chức năng, nhiệm vụ của văn học. Văn học đi từ quần chúng hóa, cách mạng hóa, mục đích phục vụ chiến đấu chuyển sang tinh thần dân chủ hóa, tinh thần nhân bản, sự thức tỉnh ý thức cá nhân. Năm 1986, đại hội Đảng lần thứ VI được tiến hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư duy, nhận thức, đề cao việc nhìn thẳng vào sự thật, dám nói thật, phát huy tinh thần dân chủ trong xã hội. Chính điều này tạo nên một bầu không khí mới trong sáng tác văn học, nhà văn có thể phát huy hết khả năng sáng tạo, hướng đến giá trị thẩm mĩ trong tác phẩm. Thứ hai đó là sự tác động từ nền kinh tế thị trường, các phương tiện truyền thông. Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt của nó đã tạo nên một cái nhìn mới với bao bộn bề, ngổn ngang, phức tạp chứ không bằng nhãn quan sử thi như thời kì trước. Những giá trị cũ được nhìn nhận lại, soi xét lại dưới cái nhìn của thời hiện đại. Những giá trị mới được khám phá trên từng trang viết khá sắc sảo từ mọi thế hệ nhà văn. Các vấn đề thường được các tiểu thuyết quan tâm khi soi chiếu lại từ “thời xa vắng” đó là vấn đề chiến tranh, cải cách ruộng đất, quan hệ dòng tộc, những lời nguyền giữa các dòng họ, các sự kiện và nhân vật lịch sử, văn hóa, tôn giáo… Các vấn đề thời hiện đại như đời sống văn minh hiện đại, vấn đề về sex, về giới tính cũng được quan tâm khá nhiều ở các tác giả trẻ. Thứ ba đó là sự tác động bởi các luồng văn hóa, trong việc mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới. Từ khi đất nước có chính sách mở cửa đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư từ nhiều nước trên thế giới đến với Việt Nam. Thay vì trước khi Đổi mới (1986), chúng ta chỉ quan hệ mật thiết với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, ngược lại ngày nay có rất nhiều nhà đầu tư từ nhiều châu lục, nhiều nước khác nhau trên thế giới tìm đến Việt Nam. Cộng thêm vào là chính sách mở cửa thông thoáng của nhà nước, tạo điều kiện để Việt Nam có thể thu hút được nhiều tiềm năng, nguồn lực từ các nước phát triển. Sự thông thoáng của thời kì mở cửa hội nhập đã tạo một bước ngoặt lớn trong giao lưu văn hóa cũng như văn học với các nước trên thế giới. Việc giao lưu cũng trở nên đa chiều hơn thay vì một chiều như trước. Đó là ngoài việc tiếp thu có tính chọn lọc các sản phẩm văn học từ các nước trên thế giới, chúng ta còn giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam đến gần hơn với công chúng nước ngoài. 2.2.2. Những thay đổi về tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Đổi mới quan niệm về con người Dẫu trong bất kì hoàn cảnh nào thì văn học chân chính cũng hướng tới con người như M. Goocki từng nhấn mạnh “văn học là nhân học”. Quan niệm về con người chính là cơ sở chi phối những nguyên tắc chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của nhà văn, là nơi đánh dấu trình độ tư duy nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu, một tác giả. Với kiểu tư duy nghệ thuật mới, con người được soi chiếu từ góc nhìn đời tư cá nhân, nhà văn không đi khám phá con người dựa qua lăng kính cộng đồng như thời kì trước năm 1975. Hai cuộc kháng chiến kéo dài khiến cho một số nguyên tắc miêu tả con người trở thành quy phạm, sự kiện lịch sử luôn lấn át con người, con người chỉ là đường viền để tô đậm các sự kiện lịch sử. Tiểu thuyết sau
- 9 1975 ngược lại, con người làm tâm điểm để soi chiếu lịch sử. Con người từ điểm nhìn lí tưởng hóa đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Đổi mới quan niệm về thể loại tiểu thuyết Theo M. Bakhtin, “tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình” vì thế, so với các thể loại khác, tiểu thuyết là thể loại luôn chuyển động mạnh mẽ. Sự chuyển động ấy luôn gắn liền với sự thay đổi về mặt bản chất và tư duy thể loại tiểu thuyết trong từng giai đoạn văn học cụ thể. Tiểu thuyết sau năm 1986, về bản chất thể loại có nhiều thay đổi so với tiểu thuyết giai đoạn 1945 – 1975. Theo Hoàng Cẩm Giang sự thay đổi này thể hiện mạnh mẽ “về độ dài, đề tài, chủ đề và phương thức tự sự, đặc biệt ẩn sâu trong đó là sự thay đổi quan niệm tự sự, quan niệm về hiện thực”. Những thay đổi này tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về nội dung và cấu trúc tiểu thuyết đương đại, làm phá vỡ những đường biên truyền thống của tiểu thuyết truyền thống. Đổi mới về bút pháp nghệ thuật Với chủ trương đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, cổ vũ tinh thần sáng tạo, các nhà văn, các nhà lí luận – phê bình nhận ra: “Không thể khuôn tiểu thuyết vào một số nguyên tắc nghệ thuật cứng nhắc, bất biến, mà chính là phải mở ra những khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại này”. Nhằm phát huy tính “sự thật”, tinh thần sáng tạo trong văn chương, mở ra nhiều tiềm năng mới, cơ hội mới cho tiểu thuyết đương đại thì việc đổi mới bút pháp là việc rất thích đáng và phù hợp. Trong bài Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Mai Hải Oanh đã đưa ra bốn bút pháp: “Bút pháp tả thực mới; Bút pháp phúng dụ, huyền thoại; Bút pháp trào lộng, giễu nhại; Bút pháp tượng trưng”. Một số nghiên cứu của Nguyễn Thị Bình, Bùi Thanh Truyền…cũng đề cập đến vấn đề bút pháp của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2.2.3. Sự đa dạng về khuynh hướng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Vấn đề nghiên cứu, phân chia các khuynh hướng trong văn học nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng thường có nhiều tiêu chí khác nhau. Theo Nguyễn Thị Bình việc phân chia này có thể “căn cứ theo phạm vi, đề tài được khai thác, có thể căn cứ theo cảm hứng, chủ đề chính, có thể theo mô hình trần thuật…”. Trong công trình Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay, Nguyễn Thị Bình căn cứ vào “cách thức xử lý chất liệu hiện thực” trong tác phẩm, chia tiểu thuyết Việt Nam từ thời điểm đổi mới đến nay thành năm khuynh hướng chính: Khuynh hướng tiểu thuyết theo phong cách lịch sử hóa; Khuynh hướng tiểu thuyết theo phong cách tự thuật; Khuynh hướng tiểu thuyết tư liệu – báo chí; Khuynh hướng tiểu thuyết hiện thực kiểu truyền thống; Khuynh h ướng tiểu thuyết theo phong cách hậu hiện đại. Dựa vào đặc trưng mĩ học của chủ nghĩa hậu hiện đại, Thái Phan Vàng Anh trong công trình Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã xếp tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI thành bốn khuynh hướng: 1. Tiểu thuyết tân lịch sử sự phản tư lịch sử 2. Tiểu thuyết hiện sinh sự phân rã những mảnh hiện tồn 3. Tiểu thuyết tính dục sự phì đại của dòng văn chương thân xác
- 10 4. Tiểu thuyết nữ quyền phụ nữ không phải là “cái khác vắng mặt”. Tất nhiên, những phân chia trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối vì trong thực tế, luôn có sự lấn biên và chồng biên giữa các khuynh hướng tiểu thuyết. 2.3. Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam trước và sau 1986 2.3.1. Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong văn học Việt Nam trước 1986 Trong lịch sử văn học Việt Nam, vấn đề sử dụng cái “ảo” trong sáng tác văn chương đã có từ lâu, nhất là trong lĩnh vực văn xuôi. Vào những năm đầu của thế kỉ XX, những biến động về lịch sử, văn hóa xã hội đã làm thay đổi tư duy và cấu trúc văn học, đưa văn học bước vào phạm trù nghệ thuật hiện đại. Giao lưu văn hóa Đông – Tây đã đem đến cho văn học Việt Nam những phẩm tính tư tưởng và nghệ thuật mới. Khuynh hướng hiện thực huyền ảo đã manh nha xuất hiện. Trong văn học giai đoạn này, bên cạnh việc chịu ảnh hưởng “cái ảo” của văn học phương Đông mà rõ nhất là Bồ Tùng Linh, một số nhà văn khác còn chịu ảnh hưởng “cái ảo” của văn học phương Tây, trong đó đáng chú ý là E. Poe… Tự sự của Phạm Cao Củng, Thế Lữ…là những trường hợp thể hiện rõ ảnh hưởng này. Đến thời kỳ đổi mới, để vượt qua những quy phạm của chủ nghĩa hiện thưc truyền thống và tính công thức trong miêu tả hiện thực, sự xuất hiện của khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong văn học đương đại có thể coi là bước phát triển mới của văn học. Nó không đơn giản là hình thức né tránh kiểm duyệt hay thoát ly thế sự mà là một phương cách đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Sự đổi mới này đã góp phần làm gia tăng sức hấp dẫn của tiểu thuyết, đáp ứng được nhu cầu của con người hiện đại, khi mà mà ranh giới giữa “thực, ảo bị nhòe mờ”, cái “nhìn nghiêng” là phương cách khác của cái “nhìn thẳng”, cái phi lý là mặt tồn tại khác của cái hữu lý... 2.3.2. Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Vi ệt Nam sau 1986 Dưới cảm quan mới về thực tại, thêm vào đó là sự cộng hưởng từ các kĩ thuật viết, các trào lưu nghệ thuật văn học phương Tây du nhập vào nước ta, đặc biệt là tác động của Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin đã đem đến một hướng tiếp cận hiện thực mới trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Khuynh hướng hiện thực huyền ảo không chỉ thu hút các nhà văn thế hệ 4x, 5x mà còn thu hút các nhà văn trẻ thuộc thế hệ 6x, 7x, 8x. Có thể kể đến một số tác phẩm như: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mẫu Thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến), Lời nguyền hai trăm năm (Khôi Vũ), 3.3.3.9 – [những mảnh hồn trần] (Đặng Thân), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh), Người sông Mê (Châu Diên)… Càng về sau thì chất huyền ảo được sử dụng càng linh hoạt, phóng túng khiến cho tiểu thuyết đương đại có khả năng thu hút người đọc. Điều đó có thể nhìn thấy qua các trường hợp: Người đi vắng, Ngồi, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy (Nguyễn Bình Phương), Cõi người rung chuông tận thế, SBC là săn bắt chuột, Trong sương hồng hiện ra (Hồ Anh Thái),
- 11 Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), T.mất tích, Paris 11 tháng 8, Chinatown (Thuận), Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng), Xác phàm, Hoang tâm, Kín (Nguyễn Đình Tú)… Nam Phương trong bài Văn học huyền ảo: món ăn không thể chối bỏ đã khẳng định: “Hiếm có dòng văn học nào sở hữu nền tảng đáng ngưỡng mộ như hiện thực huyền ảo… và có lẽ ai cũng đều không thể chối bỏ thứ văn học tạo nên sự hưng phấn đến cực điểm này”. Tính đến nay, khuynh hướng hiện thực huyền ảo chưa cho thấy sự thoái trào, thậm chí khuynh hướng văn học này còn đang phát triển khá toàn diện. Trong những năm gần đây tại các lễ trao giải thưởng văn học lớn đều có những tác phẩm mang đậm khuynh hướng hiện thực huyền ảo được xướng tên lên bục giải thưởng. 2.4. Tiểu kết Sự ra đời và phát triển của khuynh hướng hiện thực – huyền ảo đã tạo nên một ngoặt mới cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại, làm thay đổi diện mạo tiểu thuyết Việt Nam so với tiểu thuyết các giai đoạn trước đó. Những thay đổi về đời sống xã hội sau năm 1986 đã kéo theo những thay đổi trong tư duy tiểu thuyết tạo nên những tiền đề nhất định cho sự ra đời khuynh hướng này. Những tác phẩm có ý thức gia tăng yếu tố kỳ, ảo đã từng bước xác lập sự hình thành của một khuynh hướng nghệ thuật mới trong văn học Việt Nam đương đại: khuynh hướng hiện thực huyền ảo. CHƯƠNG 3 KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỚI CHỨC NĂNG MIÊU TẢ THẾ GIỚI 3.1. Hiện thực – huyền ảo với việc xử lí đề tài 3.1.1. Đề tài chiến tranh Trong thế kỉ XX, Việt Nam đã phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ hết sức khốc liệt. Đó là chưa nói đến hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và chiến tranh biên giới Tây Nam dù ngắn hơn nhưng mức độ ác liệt không hề thua kém. Vị trí địa lí chính trị và lịch sử khiến cho Việt Nam luôn phải ý thức phòng vệ đất nước, bảo vệ chủ quyền. Cũng bởi thế, đến nay, đề tài chiến tranh vẫn luôn là đề tài lớn, là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà tiểu thuyết. Nếu như trong giai
- 12 đoạn 1975 1985, tiểu thuyết viết về chiến tranh xuất hiện với một s ố l ượng phong phú nhưng quán tính tư duy nghệ thuật sử thi vẫn còn thì từ sau Đổi mới (1986), diễn ngôn tiểu thuyết chiến tranh có nhiều thay đổi quan trọng. Tinh thần nhân bản, nhân văn trở thành lõi cốt của cái nhìn nghệ thuật. Điều đó có thể thấy trong hàng loạt tự sự về chiến tranh như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến), Mình và họ (Nguyễn Bình Phương), Xác phàm (Nguyễn Đình Tú), Bến đò xưa lặng lẽ (Nguyễn Xuân Đức)… 3.1.2. Đề tài nông thôn Tiếp nối những thành tựu trong các giai đoạn văn học trước với những tên tuổi làm nên sức mạnh đề tài viết về nông thôn như: Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài, Kim Lân,…, văn học sau 1975 tiếp tục khám phá bức tranh nông thôn dưới một góc nhìn đậm màu sắc hiện đại. Sau năm 1986, cùng với sự xuất hiện khuynh hướng hiện thực huyền ảo, ti ểu thuyết viết về đề tài nông thôn có sự thay đổi về phương diện nhận thức, khám phá và biểu đạt. Theo Bùi Việt Thắng: “Các nhà tiểu thuyết hôm nay đã từ bỏ lối nhìn dễ dãi về đời sống con người… Họ đã thôi nhìn nông thôn với cảnh điền viên, trống dong cờ mở. Nông thôn đích thực hiện ra trong tiểu thuyết của các anh trong khung cảnh “long trời lở đất” rối rắm và cũng nhìn vào nông thôn ấy ta sẽ thấy cả xã hội Việt Nam mấy chục năm qua”. Dưới màu sắc khuynh hướng hiện thực huyền ảo, nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường đúng là đã diễn ra dưới một khung cảnh “long trời lở đất” bởi sự xung đột giữa hai dòng họ Trịnh – Vũ, đây là một câu chuyện khá phổ biến khắp các làng quê Việt Nam những năm giữa thế kỉ XX. Hiện thực nông thôn trong cái nhìn của thời đương đại mang màu sắc ảo hóa, sức mạnh về tâm linh đã chi phối ít nhiều đến lối suy nghĩ và hành động con người làng quê, nhưng cũng nhờ chất ảo hóa này dần dần một bức tranh hiện thực trần tục được bóc mẽ một cách thẳng thắn trong từng giai đoạn lịch sử. Không riêng gì Mảnh đất lắm người nhiều ma, nhiều tác phẩm khác viết về nông thôn dưới màu sắc hiện thực huyền ảo cũng đem đến những khám phá mới về nông thôn và nông dân. Chất huyền ảo đã giúp các nhà văn mở rộng chiều kích khám phá hiện thực, mở rộng phạm vi đề tài chủ đề tác phẩm. Mượn thế giới ảo để khám phá thế giới thực, mượn những câu chuyện có tính chất tâm linh để soi chiếu lương tâm con người là điều dễ nhận thấy trong nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn như: Lời nguyền hai trăm năm (Khôi Vũ), Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh), Những đứa trẻ chết già (Nguyễn Bình Phương), Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn), Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Anh)… 3.1.3. Đề tài về đô thị Đô thị là chủ đề lớn của văn học hiện đại. Tuy nhiên, thành tựu văn học đô thị ở Việt Nam chưa nhiều, ngoại trừ một vài trường hợp xuất sắc như Vũ Trọng Phụng và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Trong các tiểu thuyết của họ, đô thị chủ yếu vẫn được miêu tả theo nguyên tắc tả thực kiểu chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX hoặc miêu tả tâm lý thị dân dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn. Đến thời kỳ đổi mới, khi mà tốc độ đô thi hóa tăng nhanh, nhiều nhà văn đã chuyển mối
- 13 quan tâm đến đề tài đô thị. Một số nhà văn khá thành công khi viết về sự phức tạp của xã hội và con người đô thị thông qua bút pháp hiên thực huyền ảo như Cõi người rung chuông tận thế, SBC là săn bắt chuột của Hồ Anh Thái, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, China town của Thuận, Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng,…Mỗi nhà văn tuy liều lượng “huyền ảo” khác nhau, nhưng đều cố gắng nhìn đời sống đô thị bằng cái nhìn nghệ thuật giàu tính cách tân. 3.2. Hiện thực – huyền ảo trong xây dựng nhân vật 3.2.1. Kiểu nhân vật nghịch dị Nhân vật nghịch dị có mặt trong tiểu thuyết đương đại của các tác giả như: Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài… Các nhà tiểu thuyết đương đại đã kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật mà ở đó hiện thực được tiếp cận thông qua lăng kính nghịch dị. Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, loại nhân vật nghịch dị xuất hiện với nhiều hình dạng, trạng thái, tâm lý khác nhau nhưng đều phản ánh một thực tại khiếm khuyết trong bản thể người như Tính trong Thoạt kì thủy, những đứa trẻ mới sinh ra đã thành người già trong Những đứa trẻ chết già…Ngoài ra còn có nhân vật Hoài, bé Hon trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Quềnh trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường… Thiên sứ của Phạm Thị Hoài xây dựng hình ảnh cô bé Hoài với quyết định ngừng tăng trưởng, không muốn trở thành “đàn bà”, một quyết định biểu hiện sự phản kháng đầy phẫn nộ, một cuộc chiến âm thầm nhưng khốc liệt, đau đớn và tuyệt vọng trong nỗi cô đơn của tính nhân bản – muốn chống lại xã hội tẻ nhạt, xơ cứng của nhân loại. Ngược lại với Hoài, nhân vật Quang lùn không nổi loạn, không phản kháng lại sự tăng trưởng của cơ thể nhưng sự đình tăng trưởng trong anh là do “thiếu hóocmôn”, một chứng cứ khoa học khiến anh mãi phải mang một âm “lùn” đi bên cạnh cuộc đời mình. Việc kiến tạo nhân vật nghịch dị và biến dạng trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo đã khắc họa được sự tha hóa của con người đương thời, những bi kịch mang tính chất thời đại. 3.2.2. Kiểu nhân vật tâm linh, vô thức Để thể hiện cảm quan mới về hiện thực, các nhà văn đã sử dụng yếu tố tâm linh như một chiều kích mới để xây dựng nhân vật nhằm khám phá ra những bí ẩn, hoang đường, phi lí, khó lí giải được bên trong con người. Thế giới ấy thường mang vẻ linh thiêng, huyền bí bởi nó gắn liền với thế giới tiềm thức, vô thức của con người. Việc kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật hiện thực huyền ảo qua cách xây dựng nhân vật hướng đến chiều kích tâm linh cũng là một phương diện đổi mới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Các nhân vật có trong các tác phẩm như: Cô Thống Biệu trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, Thánh Chấn trong Thần thánh và bươm bướm, Hộ Hiếu trong Mẫu Thượng ngàn, Mai Trừng trong Cõi người rung chuông tận thế. Nhân vật chứa đựng chiều kích tâm linh đáng quan tâm nhất là Mai Trừng trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái. Đây là một tác phẩm mang tính luận đề về vấn đề thiện – ác trong xã hội, nhưng
- 14 lại mang dấu ấn tâm linh khá rõ nét qua nhân vật có một sức mạnh siêu nhiên bí ẩn ngay từ khi cô mới sinh ra. Một kiểu nhân vật khác trong thế giới huyền ảo đó là lớp nhân vật đi giữa tiềm thức và vô thức. Lớp nhân vật này không thiên về vai trò thần thánh, họ là những con người đời thường nhưng lại có những chuyến tàu vô định, những giấc mơ hư ảo, những chấn thương về mặt tâm lí. Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một kiểu nhân vật chấn thương về mặt tâm lí của thời hậu chiến. Cuộc sống của Kiên từ ngày trở về sau chiến tranh là chuỗi ngày với những kí ức đau buồn, với Kiên tương lai là một cái gì đó xa mờ và tăm tối, cuộc sống hiện tại của Kiên bây giờ chỉ còn lại những hồi ức đau thương của chiến tranh. Sau cái chết của chồng, An Mi trong Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng chọn cuộc sống trên những chuyến tàu, lang thang khắp châu Âu để cố quên đi quá khứ đau buồn, cô mang tâm trạng của một người chạy trốn thực tại. Cô rơi vào cảm giác mất dần những đường viền ngăn chia và khoảng không, mất dần nỗi cô đơn, nỗi buồn và cảm xúc. Kiểu nhân vật này cũng dễ bắt gặp nhiều trong các tiểu thuyết của Thuận như Phượng trong Made in VietNam, Tôi trong Chinatown, Liên trong Paris 11 tháng 8. Họ là những phụ nữ xa xứ, mang nỗi buồn hiện tại cả nỗi buồn trong quá khứ. 3.2.3. Kiểu nhân vật hư ảo, ma quái Trong thế giới hiện thực huyền ảo kiểu nhân vật hư ảo, ma quái cũng là kiểu nhân vật đặc tả khuynh hướng này, nó xuất hiện nhiều trong các tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Ngoài những yếu tố mang tính tâm linh bản địa, thêm vào đó là sự tác động từ các luồng tư tưởng văn học nước ngoài, nhất là kiểu nhân vật ma quái trong văn học hiện thực huyền ảo của Mĩ Latin đã tạo nên một cú huých lớn cho sự xuất hiện kiểu nhân vật này. Nhân vật trong Người sông Mê của Châu Diên đều là những hồn ma hoặc được hiện lên qua sự cảm nhận của hồn ma. Các nhân vật trong Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, Hiếu trong Mình và họ của Nguyễn Bình Phương…Không chỉ riêng tiểu thuyết Mình và họ, rất nhiều tiểu thuyết khác của Nguyễn Bình Phương cũng xây dựng một thế giới ma tràn ngập. Những đứa trẻ chết già là một câu chuyện huyền thoại về ngôi làng Phan với kho báu bí ẩn, song song với mạch truyện huyền thoại này lại có một mạch truyện khác miêu tả cuộc hành trình không có điểm khởi đầu của bốn hồn ma trên một chiếc xe trâu. Họ hiện lên vừa thực vừa ảo, ở đó nhà văn như dẫn dắt người đọc vào một thế giới mê cung, kì bí và huyễn hoặc, có khi người đọc nghĩ họ đang sống, nhưng ở một lúc khác lại nghĩ họ không tồn tại thế giới này mà ở một thế giới khác, đó là thế giới của hồn ma. 3.3. Hiện thực – huyền ảo với việc kiến tạo không gian và thời gian nghệ thuật 3.3.1. Không gian nghệ thuật 3.3.1.1. Không gian mộng ảo Với kiểu cốt truyện mang tính phân rã, song tuyến, đa tuyến, tiểu thuyết đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo kiến tạo nên những kiểu không gian khác nhau ngoài không gian thực tại. Chúng tồn tại song hành, đan cắt
- 15 và đối lập nhau trong cùng một tác phẩm. Khi bị ám ảnh, bế tắc với thế giới hiện thực, nhân vật bắt đầu hành trình tìm kiếm sự cứu rỗi hoặc truy tầm bản ngã ở một thực tại khác, nơi mà cái huyền ảo lên ngôi. Toàn bộ câu chuyện trong Chinatown của Thuận là một giấc mơ dài của nhân vật “tôi”, giấc mơ về Thụy. Trong mơ nhân vật “tôi” luôn đặt câu hỏi trong mười hai năm qua “tôi không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì?” cứ lặp đi lặp lại. Trong Paris 11 tháng 8, trên chuyến tàu điện ngầm chỉ “đúng năm phút không giây một tích tắc”, Liên có nhiều giấc mơ lạ. Sự méo mó hình dạng trong giấc mơ của Liên phản ánh một thế giới phi trật tự, không logic, ranh giới cá nhân bị nhòe mờ. thông qua thế giới của giấc mơ, Thuận bắt đầu khám phá ra những giải tần tâm lí đang tiềm ẩn trong con người. Đó là nỗi ám ảnh về quá khứ, trạng thái bất an trước thực tại, khát vọng hạnh phúc trong tình yêu, hôn nhân, gia đình của những người phụ nữ mang thân phận tha hương. Cuộc sống của Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh từ ngày trở về sau chiến tranh dường như đêm nào anh cũng mơ. Ngay cả khi tỉnh đi giữa phố phường anh cũng cảm giác mình đang lạc vào một thế giới khác, đó là thế giới của giấc mơ. Trong cái thế giới mộng ảo đó, Kiên luôn bị chìm đắm trong trạng thái hoảng loạn, nỗi bất an ám ảnh về cuộc chiến tranh đã qua. Kiên luôn mơ về truông núi Gọi Hồn, nơi có những câu chuyện huyền thoại về loài ma núi, ma ỏm, nơi ghi dấu một thời trận mạc của anh. Trong các sáng tác của Nguyễn Bình Phương, truyện thường có kết cấu đan cài giữa thực và mộng khá nhiều, ranh giới giữa thực và ảo trong mộng cũng trở nên nhập nhòa, hư ảo. Khẩn trong Ngồi luôn sống giữa hai thế giới, một thực một mộng đan xen vào nhau. Giấc mơ của Khẩn càng trở nên huyền ảo, huyễn hoặc hơn khi trong thế giới đó, Khẩn lại có một giấc mơ khác, đó là hiện tượng “giấc mơ lồng trong giấc mơ”. 3.3.1.2. Không gian huyền thoại Để đạt đến đỉnh cao như Trăm năm cô đơn của G. Marquez thì khó mà tìm thấy được trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo nhưng kiểu không gian huyền thoại mang dáng dấp như kiểu làng Macondo thì hẳn không phải là không có. Trong Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương, ngôi làng Phan với bao câu chuyện kì dị ma quái và câu chuyện huyền thoại về kho báu bí ẩn của người xưa để lại cũng đủ làm dậy sóng chất huyền thoại hư ảo tại ngôi làng này. Muốn mở kho báu phải có ba cái chết đặt trên đỉnh đồi sau nhà cụ Liêm, phải có đầu con Nghê, sao chổi xuất hiện trên bầu trời. Chẳng có huyền thoại nào hơn câu chuyện huyền thoại về kho báu bí ẩn này. Một kiểu không gian huyền thoại khác ngoài không gian làng đó là không gian rừng núi. Truông núi “Gọi Hồn” trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh trở nên huyền thoại hơn bởi những câu chuyện ly kì đậm chất huyền bí. Người ta bảo “đi đêm ở vùng này có thể nghe thấy chim chóc khóc than như người” đến “các loại măng nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ như những tảng thịt ròng ròng máu”, những “con đom đóm thì to kinh dị… quầng sáng đom đóm lớn tày cái mũ cối, có khi hơn”. Cũng lấy cảm hứng bi kịch người lính trở về sau chiến tranh nhưng Nguyễn Đình Tú lại mang đến một tác phẩm Hoang tâm đầy siêu thực. Một không
- 16 gian mang màu sắc huyền thoại, cổ xưa được mở ra trong giấc mơ của nhân vật Anh khi đến ga Nguyên Thủy. Nhân vật Anh đã cùng Son Phấn một cô gái điếm tại Nguyên Thủy nhưng cũng là một nữ tộc trưởng của người Mụ, trải qua nhiều vùng đất hoang sơ khác nhau với những tập tục, nếp sống văn hóa vừa xa lạ nhưng lại vừa quen thuộc. Tất cả như xa xôi mà gần gũi vô ngần. Nó hoàn toàn xa lạ với thế giới văn minh hiện đại tiện nghi nhưng lại chứa đựng nhiều trầm tích văn hóa của người xưa. 3.3.2. Thời gian nghệ thuật 3.3.2.1. Thời gian mang tính phi thời Một trong những đặc trưng cơ bản kiến tạo nên thời gian trong khuynh hướng hiện thực huyền ảo là thời gian mang tính phi thời “không đầu không cuối, quay vòng để phát triển đến điểm tiếp tục quay vòng. Thời gian luôn gợi nhớ về lịch sử, nhưng đấy là kiểu lịch sử nửa có nửa không, như thể là sản phẩm thuần túy của trí tưởng tượng nhưng lại không thể phủ nhận là không có dấu ấn hiện thực”. Khác với thời gian tự sự theo lối biên niên, ở đó các mốc thời gian được xác định rõ ràng và có một ý nghĩa nhất định trong tiến trình phát triển của cốt truyện. Để kiến tạo nên kiểu thời gian này, các tác giả thường sử dụng các thủ pháp như mơ hồ hóa hoặc ảo hóa thời gian thực; mở rộng chiều kích thời gian về phía phi thực; tẩy trắng hoặc chồng tầng nhiều lớp thời gian, tạo độ lệch lớn giữa thời gian văn bản và thời gian truyện kể. Các tác phẩm sử dụng kiểu thời gian này như: Lời nguyền hai trăm năm, Người sông Mê, Những đứa trẻ chết già, Thoạt kì thủy… Do quan niệm thời gian bị phá vỡ nên những sự kiện cũng trở nên nhảy cóc, đan xen, bất định… tạo nên bức tranh vô cùng phức tạp trong tiểu thuyết đương đại. Tuy nhiên, mỗi lớp thời gian đều hàm ẩn một ý nghĩa nhất định mà nhà văn muốn hướng đến. Tính mơ hồ là một biểu hiện rõ nét cho kiểu thời gian này, đồng thời phù hợp cho việc miêu tả lối viết hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết đương đại. 3.3.2.2. Thời gian đồng hiện Một trong những phương diện mở rộng giới hạn thời gian của truy ện k ể trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo là các tác giả sử dụng kĩ thuật đồng hiện thời gian theo dòng ý thức. Khi dòng ý thức nhân vật được đẩy lên cao, cũng là lúc bức tranh đồng hiện về mặt thời gian chảy theo tâm trạng của nhân vật hiện lên với những chiều kích thời gian khác nhau. Như vậy, sự đồng hiện về mặt thời gian ở đây được biểu thị qua trục thời gian cả quá khứ, hiện tại, tương lai cùng xuất hiện một lúc nhưng để có được kiểu thời gian này thì các tác phẩm thường xây dựng theo kiểu kết cấu dòng ý thức, lắp ghép, phân mảnh là chính. Kiểu thời gian đồng hiện thường được biểu hiện qua những giấc mơ, những hồi tưởng, hồi ức của nhân vật như những giâc mơ, hồi ức của Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, Hoàn trong Người đi vắng, Anh trong Hoang tâm, Tân trong Trong sương hồng hiện ra… Trong thời gian đồng hiện, yếu tố giấc mơ giữ vai trò quan trọng trong việc kiến tạo nên lớp thời gian có độ nhòe ảo cao giữa quá khứ và hiện tại, đẩy yếu tố thời gian trong vô thức, tiềm thức tăng lên. Vào những năm gần đây, dạng tiểu
- 17 thuyết ngắn xuất hiện mạnh mẽ với tần số cao. Sự xuất hiện các giấc mơ trong truyện có thể đồng hiện được nhiều mảng thời gian khác nhau và thời gian trong giấc mơ thường là thời gian ảo, khó xác định được điểm nhìn. Trong Hoang tâm, Nguyễn Đình Tú đem đến người đọc ba điểm nhìn, cùng ba thời điểm khác nhau. Một điểm nhìn hiện tại nhân vật Anh là một thầy giáo bị chấn thương về mặt tâm lí sau chiến tranh, từ điểm nhìn đau thương, tổn thất, mất mát ở hiện tại của nhân vật Anh, Nguyễn Đình Tú đưa người đọc quay về điểm nhìn quá khứ qua hồi ức, những đêm mộng mị của nhân vật Anh về chiến trường K. Một trục thời gian ảo khác là thời gian qua giấc mơ của nhân vật Anh khi đến ga Nguyên Thủy để tìm cách chữa bệnh mất ngủ, những chấn thương về mặt tâm lí trong anh. Thời gian trong giấc mơ của nhân vật Anh khi đến ga Nguyên Thủy không đầu, không cuối, tuột hẳn vào thế giới của huyền thoại, ở đó nhân vật trôi chảy theo dòng cảm xúc trong cõi vô thức, tất cả trở nên xa lạ và đầy huyền bí. 3.4. Tiểu kết Khuynh hướng hiện thực huyền ảo đã tác động và chi phối mạnh mẽ đến việc xây dựng hệ đề tài, chủ đề, hệ thống nhân vật, các kiểu không gian và thời gian trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Vẫn là những đề tài khá quen thuộc đã có ở các giai đoạn trước nhưng bằng phương thức sáng tác mới, tiểu thuyết đương đại đã có sự mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực sang nhiều khía cạnh khác nhau mà tiểu thuyết 1945 – 1975 chưa làm được. Nhờ có sự mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, các nhà tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – huyền ảo đã khám phá ra nhiều kiểu nhân vật và kiểu không gian, thời gian khác nhau, kiến tạo nên một thế giới khá mới mẻ so với tiểu thuyết truyền thống. Vượt lên lối mòn phản ánh hiện thực giản đơn của tiểu thuyết truyền thống, khuynh hướng hiện thực huyền ảo đã đem đến những đóng góp quan trọng về mặt thi pháp nghệ thuật.
- 18 CHƯƠNG 4 KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI VỚI CHỨC NĂNG BIỂU ĐẠT THẾ GIỚI 4.1. Hiện thực – huyền ảo với việc tổ chức kết cấu 4.1.1. Kết cấu mê lộ Nhiều tiểu thuyết hiện thực huyền ảo Việt Nam đương đại có kiểu kết cấu “mê lộ”. Ngay khi tên gọi cuốn tiểu thuyết Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam cũng ám gợi sức mê lộ trong tác phẩm này đối với người đọc. Giữa vòng vây trần gian được xây dựng dựa trên môtip lạc đường. Nỗi cô đơn, sự hoài nghi về cuộc sống chính là con đường dẫn dắt con người đến với những mê lộ trong cuộc đời mình. Mỗi con người luôn cố gắng vẫy vùng để thoát ra khỏi nó, nhưng họ không thể giữ mình không lạc lối trước những ngã rẽ đầy bất ngờ và có phần may rủi. Nếu như Thữc trong Giữa vòng vây trần gian bị lạc vào mê cung nửa hư nửa thực thì Thao trong Thần thánh và bướm bướm của Đỗ Minh Tuấn lại lạc vào giữa vòng vây ngay chính cuộc đời thực của mình để rồi không tìm ra lối thoát. Thao không chỉ loay hoay luẩn quẩn với súng đạn, giữa cái mê lộ này anh còn loay hoay với việc tranh chấp đất đai nhau giữa hai ngôi làng mà anh chẳng thuộc người làng nào cả. Kết thúc cho cuộc hành trình của anh là một cái án giết người, con đường để anh trở về nhà mãi xa vời vợi. Viễn trong Người thứ hai của Tô Hải Vân lại rơi vào mê lộ muốn tìm hướng đi mới nhằm phá vỡ lối đi nhàm chán, cũ kĩ trước nhưng càng đi anh càng nhận ra cái mê lộ mà anh rơi vào nó hư ảo, không có gì là thật. 4.1.2. Kết cấu phân mảnh Nếu như tiểu thuyết giai đoạn 1945 – 1975 thường hướng đến kết cấu trên cái nhìn toàn tri thì tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo lại hướng đến kết cấu phân mảnh, hướng đến tính trò chơi, phá vỡ tinh thần đại tự sự trong tiểu thuyết truyền thống. Qua đó, hiện thực được tái thiết từ những mảnh vỡ, còn văn bản tiểu thuyết được tạo thành bởi những miếng ghép nhiều màu. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài được lắp ghép bởi những mảnh sự kiện rời rạc không theo một trình tự thời gian nào, tất cả trở nên phi tuyến tính, phi logic so với cốt
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 287 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 178 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 265 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 173 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 194 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 182 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 134 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 117 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 169 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn