intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Chia sẻ: Trần Văn Yan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

77
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận án là nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Phân tích tiền đề xã hội - thẩm mĩ dẫn đến sự xuất hiện khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ------------------- TRƯƠNG  THỊ KIM ANH KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Nghệ An, năm 2018
  2. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Có thể thấy trong mấy chục năm qua, văn học Việt Nam đã đạt được một  số  thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết. Đó cũng chính là một  trong những lý do để nhiều người khẳng định thời hiện đại là “thời của tiểu thuyết”.  1.2. Trong nhãn quan nghiên cứu hiện đại, lịch sử của tiểu thuyết không phải là  phép cộng của những hiện thực được miêu tả, mà là lịch sử của sự miêu tả, nghĩa là  lịch sử của sự vận động, biến đổi, đặc biệt là những cách tân trong miêu tả hiện thực.   Bởi thế, việc nhận diện các khuynh hướng tiểu thuyết không chỉ  mang đến lợi ích   trong phân tích, khám phá những nội dung xã hội được miêu tả, mà còn là những   nghiên cứu, khám phá trên bình diện nghệ  thuật tiểu thuyết, nhằm làm cho việc   nghiên cứu tiểu thuyết trở nên toàn diện hơn. 1.3. Ở Việt Nam, yếu tố kỳ ảo vốn đã xuất hiện trong văn học từ sớm với nhiều   dạng thức khác nhau. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc   biệt là sự thái quá của cái nhìn duy lý và duy ý chí,  trong những giai đoạn nhất định,  yếu tố kỳ  ảo, huyền thoại dường như vắng bóng. Song, trong khoảng ba chục năm   lại nay, như một “cân bằng sinh thái”, yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện trở  lại, ngày càng  đậm đặc hơn và dần hình thành một khuynh hướng nghệ thuật: khuynh hướng hiện   thực ­ huyền ảo. Khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo ra đời và phát triển mạnh mẽ  trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã góp phần tích cực vào việc đổi mới tư duy  nghệ thuật trong tiểu thuyết. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết   Việt Nam đương đại.  Luận án chủ yếu tập trung phân tích những tiểu thuyết ra đời sau 1975, đặc biêt  sau 1986 như: Lời nguyền hai trăm năm (1989), Nỗi buồn chiến tranh (1990), Thiên   sứ  (1995),  Đi tìm nhân vật  (2001),  Những đứa trẻ  chết già  (2002),  Người sông Mê  (2003), Giã biệt bóng tối (2004), Thiên thần sám hối (2004), Tàn đen đốm đỏ (2004),  Tấm ván phóng dao (2004), Chinatown (2004), Cõi người rung chuông tận thế (2004),  Thoạt kì thủy (2005), Khải huyền muộn (2005), Giàn thiêu (2005), Giữa vòng vây trần   gian (2005), Ngồi (2006), Trí nhớ suy tàn (2006), Cơ hội của Chúa (2006), Và khi tro   bụi (2006), T. mất tích (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma (2006), Mẫu Thượng   ngàn  (2006),  Người đi vắng  (2007),  Mưa  ở  kiếp sau  (2007),  Giữa dòng chảy lạc  (2010), Thần thánh và bươm bướm (2010), Hoang tâm (2011), SBC là săn bắt chuột   (2011), Rụng xuống ngày hư ảo (2013), Xác phàm (2014), Trong sương hồng hiện ra   (2015), Người thứ hai (2015)…  2.2. Phạm vi nghiên cứu Bên cạnh tập trung tìm hiểu các tiểu thuyết có yếu tố hiện thực ­ huyền ảo trong   văn học Việt Nam đương đại, chúng tôi mở rộng trường so sánh với tiểu thuyết hiện   thực ­ huyền ảo trong và ngoài nước ở những giai đoạn khác nhau để làm nổi bật nét   riêng của khuynh hướng hiện thực ­ huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
  3. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu ­ Mục đích của luận án là nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ  bản của  khuynh hướng hiện thực ­ huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu  ­  Phân tích tiền đề  xã hội  ­ thẩm mĩ dẫn đến sự  xuất hiện khuynh hướng   hiện thực ­ huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. ­ Nhận diện, mô hình hóa và phân tích, làm rõ những đặc điểm cơ  bản của   tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực ­ huy ền  ảo trong tiểu thuy ết Vi ệt   Nam đương đại. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp loại hình: Vận dụng tiêu chí loại hình để  khu biệt các tác  phẩm viết theo khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo vơi các khuynh hướng khác  trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 4.2.   Phương   pháp   cấu   trúc   –   hệ   thống:   Đặt   tiểu   thuyết   viết   theo   khuynh   hướng hiện thực ­ huyền  ảo trong tiểu thuyết Việt Nam  đương đại, đồng thời  nhận diện cấu trúc bên trong của loại hình tiểu thuyết này.  4.3. Phương pháp so sánh: Nhằm so sánh sự  khác nhau giữa khuynh hướng   hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với các khuynh hướng   khác đã có ở giai đoạn trước và cùng thời.  4.4. Tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này tiếp cận các tác phẩm theo các   phạm trù thi pháp nhằm nghiên cứu các yếu tố  tham gia cấu thành thế  giới nghệ  thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực –   huyền ảo. 5. Đóng góp của luận án  5.1. Bước đầu khái quát, hệ thống hóa về sự ra đời, phát triển của tiểu thuyết   hiện thực – huyền ảo trên thế giới và Việt Nam. 5.2. Nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết hiện thực ­   huyền ảo trong văn học Việt Nam đương đại. 5.3. Phân tích, lý giải những cách tân nghệ  thuật của tiểu thuyết hiện thực –   huyền  ảo Việt Nam đương đại, qua đó góp phần làm sáng tỏ  sự  đổi mới tư  duy   nghệ thuật tiểu thuyết từ 1986 đến nay. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận   án được triển khai thành bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Sự  xuất hiện  khuynh  hướng hiện thực  – huyền  ảo  trong tiểu   thuyết Việt Nam đương đại  Chương 3: Khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo trong ti ểu thuy ết Vi ệt Nam   đương đại với chức năng miêu tả thế giới Chương 4: Khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo trong ti ểu thuy ết Vi ệt Nam   đương đại với chức năng biểu đạt thế giới
  4. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền   ảo trong tiểu thuyết trên thế giới 1.1.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Theo M.Bakhtin, từ vị thế của kẻ bên lề, tiểu thuyết dần trở thành “nhân vật   chính” trên sân khấu văn học hiện đại. Với tư  cách là thể  loại có khả  năng dung   nạp ưu thế của nhiều thể loại khác, tiểu thuyết mở ra những ô cửa mới để  khám  phá thế giới trong sự rộng lớn và thẳm sâu của nó. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại khác   nhau, chức năng và cấu trúc của tiểu thuyết cũng khác nhau. Điều đó gắn liền với   sự  thay đổi của tư  duy nghệ  thuật và vị  thế  của tiểu thuyết trong cộng đồng thể  loại. Từ tiểu thuyết tiền hiện đại đến hiện đại và hậu hiện đại là cả  một lịch sử  dài. Theo đó, việc nghiên cứu tiểu thuyết cũng có những thay đổi quan trọng. Trong   luận án này, chúng tôi tập trung phân tích các quan điểm nghiên cứu của những cây   bút tiêu biểu như  M. Bakhtin, Roland Bathers, M. Kundera,   Alain Robbe – Grillet,  Tz. Todorov, …và một số công trình đã được dịch sang tiếng Việt.  1.1.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo ra đời  ở  văn học Mỹ  Latin nhằm vượt  qua mô hình phản ánh hiện thực của chủ  nghĩa hiện thực trước đó. Trong công  trình  History   of   Latin   America  (1992),   Edwin   Williamson   đã   xác   định   cuộc   thử  nghiệm sớm nhất của chủ  nghĩa Hiện thực huyền  ảo diễn ra  ở  Brazil với cuốn   tiểu thuyết Macunaima của Mario de Andrade. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho  rằng người đặt nền móng đầu tiên cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin là   M. A. Asturias và A. Carpentier. A. Asturias từng phát biểu về khuynh hướng nghệ  thuật trong sáng tác của ông như  sau: “Có thể  gọi chủ  nghĩa hiện thực của tôi là   “huyền ảo”, bởi vì một phần nó giống với các nhà siêu thực xử lý các giấc mơ của   họ, nhưng đồng thời nó cũng giống với các thổ  dân Maya dựng lại thực tại trong   những cuốn sách thiêng liêng của họ”. Về tiểu thuyết hiện thực ­ huyền  ảo, có thể  kể đến một số các công trình tiêu biểu như:  Alejo Carpentier và thi pháp của chủ   nghĩa hiện thực huyền  ảo Mỹ Latin của Carlos, Thời đại hiện nay và số phận của   tiểu thuyết  của E. F. Towrrutsenkô , Phê bình hậu hiện đại về Trăm năm cô đơn của   G. G. Marquez của Jofer Serapio… 1.2. Tình hình nghiên cứu về  khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo trong   tiểu thuyết Việt Nam đương đại 1.2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam đương đại Cũng như  giới lý luận phê bình văn học thế  giới, các nhà nghiên cứu văn học  Việt Nam luôn coi tiểu thuyết là nhân vật trung tâm của văn học hiện đại. Nhiều hội  thảo khoa học của Hội Nhà văn Việt Nam, Viện Văn học, Đại học Sư  phạm Hà  
  5. 4 Nội… đều quan tâm đến thể loại này. Các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết ngày   càng được chú ý, chẳng hạn: Bước đầu nhận diện tiểu thuyết Việt Nam những năm   đầu thế kỉ XXI (Bích Thu), Bên lề tiểu thuyết (Nguyễn Minh Châu, Tiểu thuyết Việt   Nam những năm đầu thời kì đổi mới (Phan Cự Đệ), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995   những đổi mới cơ bản (Nguyễn Thị Bình), Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam   trong 15 năm cuối thế kỉ XX (Trần Thị Mai Nhân), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ   XXI – cấu trúc và khuynh hướng (Hoàng Cẩm Giang), Những vấn đề  cách tân nghệ   thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại  (Mai Hải Oanh),  Đổi mới tư  duy tiểu   thuyết (Nhiều tác giả), Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề  nghiên cứu và   giảng dạy (Nhiều tác giả), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Tiểu luận – phê bình   văn học), Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (Nguyễn Bích Thu)… 1.2.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt   Nam đương đại Các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyên   Ngọc… hay các nhà nghiên cứu như Trần Đình Sử, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Bích  Thu, Nguyễn Đăng Điệp, Bùi Việt Thắng, Bùi Thanh Truyền …trong các công trình   nghiên cứu của mình đều chú ý đến sự mở rộng biên độ miêu tả hiện thực của tiểu   thuyết. Gần đây, trong bài Những thế hệ nhà văn Việt Nam thời kì đổi mới: tiếp nối   và chuyển động, Đỗ  Hải Ninh đã nhấn mạnh vào tính hội nhập và tiếp thu các trào   lưu văn học trên thế giới của các nhà văn đương đại, trong đó có chủ nghĩa hiện thực  huyền  ảo. Phan Tuấn Anh, trong bài Cấu trúc tam tài của lý luận phê bình văn học   Việt Nam thời đổi mới đã đưa ra nhận định: “Đầu tiên là xu hướng đổi mới chủ nghĩa  hiện thực xã hội chủ nghĩa, giãn nới tối đa phạm vi của hiện thực thành hiện thực tâm   trạng hay hiện thực tâm lý, hiện thực huyền ảo. Sự tiếp nhận nhiều hứng khởi, tạo ra   những cách tân mới mẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền  ảo Mỹ Latin với những tác  giả như: G.G. Marquez, J.L.Borges, M.V.Llosa, A.L.Carpentier, J.Amado…”. Trong bài  Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại   trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Biện Minh Điền cho rằng: “Hiện thực –  huyền ảo với tư cách là một phương thức hay bút pháp trong văn học đương đại Việt   Nam nói chung, trong tiểu thuyết nói riêng từng được bàn đến nhiều – nhiều nhất  trong thời gian qua, cả trên phương diện lý luận cũng như qua nghiên cứu, phê bình  các tác phẩm cụ thể”. Bích Thu trong bài Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời   kì đổi mới nhận định: “Tiểu thuyết bắt đầu tiếp cận với thế giới đằng sau thế giới  hiện thực, đó là thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ”. Trong bài Không gian  nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn phân tâm   học, Văn Thị Phương Trang lại bàn nhiều đến vấn đề không gian huyền ảo trong tiểu  thuyết Việt Nam đương đại: “Trước hết, không gian được xây dựng trong tiểu thuyết   Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI chủ yếu là không gian ảo – không gian từ trong   giấc mơ, không gian kỳ ảo và không gian cõi tâm linh”… Nhìn chung, việc mở rộng   biên độ hiện thực và sự thay đổi quan niệm, tư duy nghệ thuật của nhà văn là nhân tố  quan trọng nhất tạo nên sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, dẫn tới sự xuất hiện của   khuynh hướng văn học hiện thực huyền ảo ở Việt Nam, trong đó, có tiểu thuyết. 1.3. Tiểu kết 
  6. 5 Qua tổng quan nghiên cứu về tiểu thuyết như trên, chúng tôi nhận thấy ba vấn   đề quan trọng: Một là,  khuynh hướng hiện thực ­huyền ảo là một khuynh hướng phát triển khá  mạnh mẽ và có tầm ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.  Hai là, khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo phát triển khá mạnh mẽ trong tiểu   thuyết Việt Nam đương đại, nhất là những năm cuối thế kỉ XX và đầu thế  kỉ  XXI,   điều đó được chứng minh qua các công trình nghiên cứu từ các tác giả trên.  Ba là, việc nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng  hiện thực ­ huyền ảo một cách có hệ thống vẫn còn là một khoảng trống, một mảng  màu còn  thiếu trong tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đến thời điểm hiện  nay (2018), vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về khuynh hướng hiện  thực ­ huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
  7. 6 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 2.1. Giới thuyết về khuynh hướng và khuynh hướng hiện thực – huyền ảo 2.1.1. Khái niệm khuynh hướng Khuynh hướng là một khái niệm dùng để chỉ một hiện tượng ra đời và phát triển  trong sáng tạo nghệ thuật. Theo Từ điển văn học (bộ mới): “Khuynh hướng, trào lưu là  những cộng đồng các hiện tượng văn học được liên kết lại trên cơ  sở  một sự thống   nhất tương đối về các định hướng thẩm mĩ, tư tưởng và các nguyên tắc thể hiện nghệ  thuật”. Việc ra đời một khuynh hướng nào đó nó không chỉ chịu sự tác động của thời  đại, còn chịu chi phối bởi quan niệm của cá nhân nhà văn. Khuynh hướng là phạm trù  thẩm mỹ ở bình diện loại hình, sự biểu hiện của nó không những ở quan điểm mà còn  thái độ nhìn nhận của tác giả. Khuynh hướng đóng vai trò quan trọng trong việc hình  thành và phát triển văn học. Sự ra đời một khuynh hướng mới đánh dấu sự phát triển   của một giai đoạn văn học, cũng là đánh dấu sự tiến bộ nghệ thuật trong văn học. Mỗi  khuynh hướng giữ vai trò nguyên tắc sáng tác riêng, từ những nguyên tắc đó giúp nhà   văn định hướng được phong cách nghệ  thuật cho tác phẩm. Theo Từ điển thuật ngữ   văn học: “Khuynh hướng trong văn học nghệ  thuật bao giờ cũng toát ra một cách tự  nhiên từ  sự  miêu tả  sinh động đời sống chứ  không phải qua những lời lí thuyết khô  khan, hoặc những tư tưởng trừu tượng”.  2.1.2. Khái niệm hiện thực – huyền ảo Theo các nhà nghiên cứu khái niệm hiện thực ­ huyền ảo bao hàm hai yếu tố “hiện  thực” và “huyền ảo”. Để hiểu rõ hơn thuật ngữ “huyền ảo” chúng tôi đặt nó trong cái   nhìn tương quan với thuật ngữ “kì ảo”. Dmitri Volodikhin, một nhà nghiên cứu người   Nga đưa ra định nghĩa: “Kỳ ảo (bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: “Fantastike” – nghệ thuật   tưởng tượng) là hình thức phản ánh thế giới dựa vào các quan niệm hiện thực để sáng  tạo ra một bức tranh vũ trụ  (siêu nhiên, bí  ẩn) không tương thích về  mặt logic với 
  8. 7 những quan niệm hiện thực  ấy”.  Thuật ngữ  “huyền  ảo” theo tiếng Anh là “magic”,  nghĩa là ma thuật hay ma lực. Tính từ của “magic” là “magical” bắt nguồn từ tiếng Latin  là “magicus”, về sau phát triển thành danh từ “magica”, bắt nguồn từ tiếng Hy lạp là  “magikè” nghĩa là nghệ thuật của phù thủy. Đó là “một sức mạnh bí ẩn có khả năng   làm những điều không thực thành có thực (thường gắn với nét nghĩa tiêu cực – black  magic – phép thuật ma quỷ)”. Đối với người Mỹ Latin khi giải thích về “magic” nhiều  người thường nghĩ đến những câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết được dùng trong   tiểu thuyết. Hiện thực luôn gắn liền với huyền ảo, vì thế, đằng sau vẻ huyền thoại,   hoang đường, kì bí là một thực tại đang diễn ra hàng ngày, trong chừng mực nào đó  hiện thực cũng chấp nhận cái phi lí, phi thường, phi logic. 2.1.3. Nguyên tắc phản ánh hiện thực của khuynh hướng hiện thực – huyền ảo Khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo là một bước phát triển mới của khuynh   hướng hiện thực, chính vì vậy nguyên tắc phản ánh hiện thực sẽ  khác hoàn toàn.   Vượt lên trên mô hình phản ánh hiện thực giản đơn thông thường, khuynh hướng   hiện thực ­ huyền ảo tiếp cận hiện thực đời sống dưới một mô hình mới bằng sự  đan cài thế  giới  ảo vào trong thế  giới thực. Theo Lê Huy Bắc: “Trong thế  giới   thẩm mĩ của văn học hiện thực huyền  ảo thì những điều không thực được đối xử  như điều có thực và bình thường, ngược lại những điều bình thường thì được phản   ánh theo kiểu không thực”. Đặc trưng của văn học hiện thực huyền ảo là phản ánh  hiện thực nhưng thế giới của cái kỳ  diệu chỉ  trở thành hoàn toàn chân thật khi nó   nảy sinh từ  sự  cải biến hiện thực một cách thần kỳ, từ  sự  lãnh hội sâu sắc hiện   thực, từ sự soi sáng một cách khác thường hoặc đặc biệt có lợi của những kho tàng   quý báu ẩn sâu trong hiện thực. Cái phi lý/ biểu tượng trở thành một phương diện   soi tỏ cái hữu lý/ thực tại. 2.1.4. Đặc điểm của khuynh hướng hiện thực – huyền ảo Về cơ bản, khuynh hướng văn học hiện thực – huyền ảo có những đặc điểm  chính như sau: Đề tài thường là những vấn đề gắn với chiều sâu văn hóa, lịch sử, tôn giáo…   liên quan đến cộng đồng, khu vực.  Nhân vật thường có tính nghịch dị, biến dạng, ma quái trộn lẫn người, có  những chấn thương về mặt tâm lý, mặc cảm thực tại.  Không gian mang tính giả  tưởng, huyền thoại hóa thực tại. Đó là thứ  không  gian có tính “xuyên không”, mở rộng đến thế giới vô thức, cõi trần, cõi âm… Thời gian hư ảo, phi thời, không đầu không cuối, không rõ ràng các mốc thời   gian, liên tục quay vòng, đồng hiện nhiều chiều/ trục thời gian.  Kết cấu có sự  đan cài nhiều tuyến truyện, dung hợp nhiều thể loại. Th ường   sử dụng kết cấu mê lộ, đan xen thực ­ ảo, phân mảnh, lắp ghép.  Chi tiết nghệ thuật thường lấy từ cuộc sống trong tính đa chiều, bao gồm cả  thế giới giấc mơ, vô thức, tưởng tượng, thế giới tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo… Ngôn ngữ mang tính chất ảo hóa, sử dụng nhiều kí hiệu lạ nhằm biểu đạt cái  huyền ảo.  2.2. Những tiền đề xuất hiện khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong   tiểu thuyết Việt Nam đương đại
  9. 8 2.2.1. Tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội Trước hết, cần nói đến sự thay đổi trong quan niệm về chức năng, nhiệm vụ  của văn học. Văn học đi từ  quần chúng hóa, cách mạng hóa, mục đích phục vụ  chiến đấu chuyển sang tinh thần dân chủ  hóa, tinh thần nhân bản, sự  thức tỉnh ý  thức cá nhân. Năm 1986, đại hội Đảng lần thứ VI được tiến hành, đánh dấu sự đổi  mới của Đảng về tư duy, nhận thức, đề  cao việc nhìn thẳng vào sự  thật, dám nói   thật, phát huy tinh thần dân chủ  trong xã hội. Chính điều này tạo nên một bầu  không khí mới trong sáng tác văn học, nhà văn có thể  phát huy hết khả  năng sáng   tạo, hướng đến giá trị thẩm mĩ trong tác phẩm.  Thứ  hai đó là sự  tác động từ  nền kinh tế thị  trường, các phương tiện truyền   thông. Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt của nó đã tạo nên một cái   nhìn mới với bao bộn bề, ngổn ngang, phức tạp chứ không bằng nhãn quan sử  thi  như thời kì trước. Những giá trị cũ được nhìn nhận lại, soi xét lại dưới cái nhìn của  thời hiện đại. Những giá trị mới được khám phá trên từng trang viết khá sắc sảo từ  mọi thế  hệ  nhà văn. Các vấn đề  thường được các tiểu thuyết quan tâm khi soi  chiếu lại từ “thời xa vắng” đó là vấn đề  chiến tranh, cải cách ruộng đất, quan hệ  dòng tộc, những lời nguyền giữa các dòng họ, các sự kiện và nhân vật lịch sử, văn   hóa, tôn giáo… Các vấn đề thời hiện đại như đời sống văn minh hiện đại, vấn đề  về sex, về giới tính cũng được quan tâm khá nhiều ở các tác giả trẻ. Thứ  ba đó là sự tác động bởi các luồng văn hóa, trong việc mở rộng giao lưu   văn hóa với các nước trên thế giới. Từ khi đất nước có chính sách mở  cửa đã tạo   điều kiện cho các nhà đầu tư từ nhiều nước trên thế giới đến với Việt Nam. Thay   vì trước khi Đổi mới (1986), chúng ta chỉ quan hệ mật thiết với các nước trong hệ  thống xã hội chủ nghĩa, ngược lại ngày nay có rất nhiều nhà đầu tư từ nhiều châu  lục, nhiều nước khác nhau trên thế giới tìm đến Việt Nam. Cộng thêm vào là chính  sách mở cửa thông thoáng của nhà nước, tạo điều kiện để Việt Nam có thể thu hút  được nhiều tiềm năng, nguồn lực từ các nước phát triển. Sự thông thoáng của thời   kì mở  cửa hội nhập đã tạo một bước ngoặt lớn trong giao lưu văn hóa cũng như  văn học với các nước trên thế giới. Việc giao lưu cũng trở nên đa chiều hơn thay vì   một chiều như trước. Đó là ngoài việc tiếp thu có tính chọn lọc các sản phẩm văn  học từ các nước trên thế giới, chúng ta còn giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam  đến gần hơn với công chúng nước ngoài. 2.2.2. Những thay đổi về tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết ­ Đổi mới quan niệm về con người Dẫu trong bất kì hoàn cảnh nào thì văn học chân chính cũng hướng tới con   người như  M. Goocki từng nhấn mạnh “văn học là nhân học”. Quan niệm về con   người chính là cơ sở chi phối những nguyên tắc chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của   nhà văn, là nơi đánh dấu trình độ tư duy nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu,  một tác giả. Với kiểu tư duy nghệ thuật mới, con người được soi chiếu từ góc nhìn  đời tư cá nhân, nhà văn không đi khám phá con người dựa qua lăng kính cộng đồng  như   thời  kì  trước  năm   1975.  Hai   cuộc  kháng   chiến  kéo   dài   khiến   cho  một   số  nguyên tắc miêu tả con người trở thành quy phạm, sự kiện lịch sử luôn lấn át con  người, con người chỉ là đường viền để tô đậm các sự kiện lịch sử. Tiểu thuyết sau  
  10. 9 1975 ngược lại, con người làm tâm điểm để soi chiếu lịch sử. Con người từ điểm  nhìn lí tưởng hóa đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. ­ Đổi mới quan niệm về thể loại tiểu thuyết Theo M. Bakhtin, “tiểu thuyết là thể  loại văn chương duy nhất đang biến   chuyển và còn chưa định hình” vì thế, so với các thể  loại khác, tiểu thuyết là thể  loại luôn chuyển động mạnh mẽ. Sự  chuyển động  ấy luôn gắn liền với sự  thay   đổi về mặt bản chất và tư duy thể loại tiểu thuyết trong từng giai đoạn văn học cụ  thể. Tiểu thuyết sau năm 1986, về bản chất thể loại có nhiều thay đổi so với tiểu   thuyết giai đoạn 1945 – 1975. Theo Hoàng Cẩm Giang sự  thay đổi này thể  hiện  mạnh mẽ “về độ dài, đề  tài, chủ  đề  và phương thức tự sự, đặc biệt ẩn sâu trong  đó là sự  thay đổi quan niệm tự sự, quan niệm về hiện thực”. Những thay đổi này  tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về nội dung và cấu trúc tiểu thuyết đương đại,   làm phá vỡ những đường biên truyền thống của tiểu thuyết truyền thống.  ­ Đổi mới về bút pháp nghệ thuật Với chủ trương đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự  thật, cổ  vũ tinh thần sáng  tạo, các nhà văn, các nhà lí luận – phê bình nhận ra: “Không thể khuôn tiểu thuyết  vào một số  nguyên tắc nghệ  thuật cứng nhắc, bất biến, mà chính là phải mở  ra   những khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại này”. Nhằm phát huy tính “sự thật”,   tinh thần sáng tạo trong văn chương, mở  ra nhiều tiềm năng mới, cơ  hội mới cho   tiểu thuyết đương đại thì việc đổi mới bút pháp là việc rất thích đáng và phù hợp.  Trong bài Sự  đa dạng về  bút pháp nghệ  thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì   đổi mới, Mai Hải Oanh đã đưa ra bốn bút pháp: “Bút pháp tả  thực mới; Bút pháp   phúng dụ, huyền thoại; Bút pháp trào lộng, giễu nhại; Bút pháp tượng trưng”. Một  số nghiên cứu của Nguyễn Thị Bình, Bùi Thanh Truyền…cũng đề cập đến vấn đề  bút pháp của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2.2.3. Sự đa dạng về khuynh hướng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Vấn đề  nghiên cứu, phân chia các khuynh hướng trong văn học nói chung và   thể loại tiểu thuyết nói riêng thường có nhiều tiêu chí khác nhau. Theo Nguyễn Thị  Bình  việc phân chia này có thể “căn cứ theo phạm vi, đề tài được khai thác, có thể  căn cứ  theo cảm hứng, chủ  đề  chính, có thể  theo mô hình trần thuật…”. Trong   công trình Một số  khuynh hướng tiểu thuyết  ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến   nay, Nguyễn Thị  Bình căn cứ  vào “cách thức xử  lý chất liệu hiện thực” trong tác   phẩm, chia tiểu thuyết Việt Nam từ thời điểm đổi mới đến nay thành năm khuynh   hướng   chính:   Khuynh   hướng   tiểu   thuyết   theo   phong   cách   lịch   sử   hóa;   Khuynh   hướng tiểu thuyết theo phong cách tự  thuật; Khuynh hướng tiểu thuyết tư  liệu –   báo chí; Khuynh hướng tiểu thuyết hiện thực kiểu truyền thống; Khuynh h ướng   tiểu thuyết theo phong cách hậu hiện đại.  Dựa vào đặc trưng mĩ học của chủ nghĩa hậu hiện đại, Thái Phan Vàng Anh  trong công trình  Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế  kỷ  XXI   đã xếp  tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI thành bốn khuynh hướng:  1. Tiểu thuyết tân lịch sử ­ sự phản tư lịch sử 2. Tiểu thuyết hiện sinh ­ sự phân rã những mảnh hiện tồn 3. Tiểu thuyết tính dục ­ sự phì đại của dòng văn chương thân xác
  11. 10 4. Tiểu thuyết nữ quyền ­ phụ nữ không phải là “cái khác vắng mặt”. Tất nhiên, những phân chia trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối vì trong thực tế,   luôn có sự lấn biên và chồng biên giữa các khuynh hướng tiểu thuyết. 2.3. Khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo trong tiểu thuyết Việt Nam   trước và sau 1986 2.3.1. Khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo trong văn học Việt Nam trước   1986 Trong lịch sử văn học Việt Nam, vấn đề  sử dụng cái “ảo” trong sáng tác văn  chương đã có từ lâu, nhất là trong lĩnh vực văn xuôi. Vào những năm đầu của thế kỉ  XX, những biến động về lịch sử, văn hóa xã hội đã làm thay đổi tư duy và cấu trúc  văn học, đưa văn học bước vào phạm trù nghệ  thuật hiện đại. Giao lưu văn hóa  Đông – Tây đã đem đến cho văn học Việt Nam những phẩm tính tư tưởng và nghệ  thuật mới. Khuynh hướng hiện thực­ huyền  ảo đã manh nha xuất hiện. Trong văn   học giai đoạn này, bên cạnh việc chịu  ảnh hưởng “cái  ảo” của văn học phương  Đông mà rõ nhất là Bồ  Tùng Linh, một số  nhà văn khác còn chịu  ảnh hưởng “cái  ảo” của văn học phương Tây, trong đó đáng chú ý là E. Poe… Tự sự của Phạm Cao   Củng, Thế Lữ…là những trường hợp thể hiện rõ ảnh hưởng này. Đến thời kỳ đổi mới, để vượt qua những quy phạm của chủ nghĩa hiện thưc   truyền thống và tính công thức trong miêu tả  hiện thực, sự xuất hiện của khuynh   hướng hiện thực ­ huyền ảo trong văn học đương đại có thể coi là bước phát triển  mới của văn học. Nó không đơn giản là hình thức né tránh kiểm duyệt hay thoát ly  thế sự mà là một phương cách đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Sự đổi mới  này đã góp phần làm gia tăng sức hấp dẫn của tiểu thuyết, đáp ứng được nhu cầu  của con người hiện đại, khi mà mà ranh giới giữa “thực, ảo bị nhòe mờ”, cái “nhìn   nghiêng” là phương cách khác của cái “nhìn thẳng”, cái phi lý là mặt tồn tại khác  của cái hữu lý... 2.3.2. Khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo trong tiểu thuyết Vi ệt   Nam sau 1986 Dưới cảm quan mới về thực tại, thêm vào đó là sự cộng hưởng từ các kĩ thuật   viết, các trào lưu nghệ thuật văn học phương Tây du nhập vào nước ta, đặc biệt là   tác động của Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin đã đem đến một hướng tiếp   cận hiện thực mới trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Khuynh hướng hiện thực ­   huyền  ảo không chỉ  thu hút các nhà văn thế  hệ  4x, 5x mà còn thu hút các nhà văn   trẻ thuộc thế hệ 6x, 7x, 8x. Có thể kể đến một số tác phẩm như: Nỗi buồn chiến   tranh  (Bảo   Ninh),  Mẫu   Thượng   ngàn  (Nguyễn  Xuân  Khánh),  Tàn   đen   đốm  đỏ  (Phạm Ngọc Tiến),  Lời nguyền hai trăm năm  (Khôi Vũ),  3.3.3.9 – [những mảnh   hồn trần]  (Đặng Thân),  Mảnh đất lắm người nhiều ma  (Nguyễn Khắc Trường),  Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Thần thánh và bươm bướm (Đỗ  Minh Tuấn), Giàn   thiêu (Võ Thị Hảo), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật  (Tạ Duy Anh), Người sông Mê (Châu Diên)… Càng về sau thì chất huyền ảo được  sử  dụng càng linh hoạt, phóng túng khiến cho tiểu thuyết đương đại có khả  năng  thu hút người đọc. Điều đó có thể  nhìn thấy qua các trường hợp: Người đi vắng,   Ngồi,   Trí   nhớ   suy   tàn,   Thoạt   kì   thủy  (Nguyễn   Bình   Phương),  Cõi   người   rung   chuông tận thế, SBC là săn bắt chuột, Trong sương hồng hiện ra (Hồ  Anh Thái), 
  12. 11 Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), T.mất tích, Paris 11 tháng   8, Chinatown (Thuận), Và khi tro bụi, Mưa  ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng), Xác  phàm, Hoang tâm, Kín (Nguyễn Đình Tú)… Nam Phương trong bài Văn học huyền   ảo: món ăn không thể chối bỏ đã khẳng định: “Hiếm có dòng văn học nào sở hữu  nền tảng đáng ngưỡng mộ như hiện thực huyền  ảo… và có lẽ  ai cũng đều không  thể chối bỏ thứ văn học tạo nên sự hưng phấn đến cực điểm này”. Tính đến nay,  khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo chưa cho thấy sự thoái trào, thậm chí khuynh   hướng văn học này còn đang phát triển khá toàn diện. Trong những năm gần đây tại  các lễ  trao giải thưởng văn học lớn đều có những tác phẩm mang đậm khuynh  hướng hiện thực ­ huyền ảo được xướng tên lên bục giải thưởng. 2.4. Tiểu kết  Sự  ra đời và phát triển của khuynh hướng hiện thực – huyền  ảo đã tạo nên  một ngoặt mới cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại, làm thay đổi diện mạo tiểu   thuyết Việt Nam so với tiểu thuyết các giai đoạn trước đó. Những thay đổi về đời  sống xã hội sau năm 1986 đã kéo theo những thay đổi trong tư duy tiểu thuyết tạo   nên những tiền đề nhất định cho sự ra đời khuynh hướng này. Những tác phẩm có   ý thức gia tăng yếu tố kỳ, ảo đã từng bước xác lập sự hình thành của một khuynh   hướng nghệ  thuật mới trong văn học Việt Nam đương đại: khuynh hướng hiện  thực ­ huyền ảo. CHƯƠNG 3 KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT  VIỆT NAM VỚI CHỨC NĂNG MIÊU TẢ THẾ GIỚI 3.1. Hiện thực – huyền ảo với việc xử lí đề tài 3.1.1. Đề tài chiến tranh Trong thế kỉ XX, Việt Nam đã phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp   và Mĩ hết sức khốc liệt. Đó là chưa nói đến hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc   và chiến tranh biên giới Tây Nam dù ngắn hơn nhưng mức độ ác liệt không hề thua   kém. Vị trí địa lí chính trị và lịch sử khiến cho Việt Nam luôn phải ý thức phòng vệ  đất nước, bảo vệ chủ quyền. Cũng bởi thế, đến nay, đề tài chiến tranh vẫn luôn là  đề tài lớn, là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà tiểu thuyết. Nếu như trong giai  
  13. 12 đoạn 1975­ 1985, tiểu thuyết viết về  chiến tranh xuất hiện với một s ố  l ượng   phong phú nhưng quán tính tư  duy nghệ  thuật sử  thi vẫn còn thì từ  sau Đổi mới  (1986), diễn ngôn tiểu thuyết chiến tranh có nhiều thay đổi quan trọng. Tinh thần   nhân bản, nhân văn trở  thành lõi cốt của cái nhìn nghệ thuật. Điều đó có thể  thấy  trong hàng loạt tự sự về chiến tranh như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tàn  đen đốm đỏ  (Phạm Ngọc Tiến),  Mình và họ  (Nguyễn Bình Phương),  Xác phàm  (Nguyễn Đình Tú), Bến đò xưa lặng lẽ (Nguyễn Xuân Đức)… 3.1.2. Đề tài nông thôn Tiếp nối những thành tựu trong các giai đoạn văn học trước với những tên   tuổi làm nên sức mạnh đề tài viết về nông thôn như: Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố,  Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài, Kim Lân,…, văn học sau 1975  tiếp tục khám phá bức tranh nông thôn dưới một góc nhìn đậm màu sắc hiện đại.   Sau năm 1986, cùng với sự  xuất hiện khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo, ti ểu   thuyết viết về  đề  tài nông thôn có sự  thay đổi về  phương diện nhận thức, khám   phá và biểu đạt. Theo Bùi Việt Thắng: “Các nhà tiểu thuyết hôm nay đã từ bỏ lối   nhìn dễ dãi về đời sống con người… Họ đã thôi nhìn nông thôn với cảnh điền viên,   trống dong cờ mở. Nông thôn đích thực hiện ra trong tiểu thuyết của các anh trong   khung cảnh “long trời lở đất” rối rắm và cũng nhìn vào nông thôn ấy ta sẽ thấy cả  xã hội Việt Nam mấy chục năm qua”. Dưới màu sắc khuynh hướng hiện thực ­   huyền   ảo,   nông   thôn   trong  Mảnh   đất   lắm  người   nhiều   ma  của   Nguyễn   Khắc  Trường đúng là đã diễn ra dưới một khung cảnh “long trời lở đất” bởi sự xung đột  giữa hai dòng họ  Trịnh – Vũ, đây là một câu chuyện khá phổ  biến khắp các làng   quê Việt Nam những năm giữa thế kỉ XX.  Hiện thực nông thôn trong cái nhìn của thời đương đại mang màu sắc ảo hóa,  sức mạnh về tâm linh đã chi phối ít nhiều đến lối suy nghĩ và hành động con người  làng quê, nhưng cũng nhờ  chất  ảo hóa này dần dần một bức tranh hiện thực trần   tục được bóc mẽ một cách thẳng thắn trong từng giai đoạn lịch sử. Không riêng gì   Mảnh đất lắm người nhiều ma, nhiều tác phẩm khác viết về nông thôn dưới màu  sắc hiện thực ­ huyền ảo cũng đem đến những khám phá mới về nông thôn và nông   dân. Chất huyền  ảo đã giúp các nhà văn mở  rộng chiều kích khám phá hiện thực,   mở rộng phạm vi đề tài chủ đề tác phẩm. Mượn thế giới ảo để khám phá thế giới   thực, mượn những câu chuyện có tính chất tâm linh để  soi chiếu lương tâm con   người là điều dễ  nhận thấy trong nhiều tác phẩm viết về  đề  tài nông thôn như:  Lời nguyền hai trăm năm (Khôi Vũ), Giã biệt bóng tối (Tạ  Duy Anh), Những đứa   trẻ chết già (Nguyễn Bình Phương), Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn),  Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Anh)… 3.1.3. Đề tài về đô thị Đô thị là chủ đề lớn của văn học hiện đại. Tuy nhiên, thành tựu văn học đô thị  ở  Việt Nam chưa nhiều, ngoại trừ  một vài trường hợp xuất sắc như  Vũ Trọng   Phụng và tiểu thuyết Tự  lực văn đoàn. Trong các tiểu thuyết của họ, đô thị  chủ  yếu vẫn được miêu tả  theo nguyên tắc tả  thực kiểu chủ  nghĩa hiện thực thế  kỷ  XIX hoặc miêu tả  tâm lý thị  dân dưới  ảnh hưởng của chủ  nghĩa lãng mạn. Đến  thời kỳ đổi mới, khi mà tốc độ đô thi hóa tăng nhanh, nhiều nhà văn đã chuyển mối 
  14. 13 quan tâm đến đề tài đô thị. Một số nhà văn khá thành công khi viết về sự phức tạp   của xã hội và con người đô thị  thông qua bút pháp hiên thực huyền  ảo như  Cõi  người rung chuông tận thế, SBC là săn bắt chuột của Hồ  Anh Thái, Đi tìm nhân  vật, Thiên thần sám hối  của Tạ  Duy Anh, China town của Thuận,  Và khi tro bụi  của  Đoàn  Minh  Phượng,…Mỗi  nhà  văn  tuy liều  lượng  “huyền  ảo”  khác  nhau,  nhưng đều cố  gắng nhìn đời sống đô thị  bằng cái nhìn nghệ  thuật giàu tính cách  tân.  3.2. Hiện thực – huyền ảo trong xây dựng nhân vật 3.2.1. Kiểu nhân vật nghịch dị Nhân vật nghịch dị có mặt trong tiểu thuyết đương đại của các tác giả  như:   Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Hồ  Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ  Duy   Anh, Phạm Thị Hoài… Các nhà tiểu thuyết đương đại đã kiến tạo nên một thế giới  nghệ thuật mà ở đó hiện thực được tiếp cận thông qua lăng kính nghịch dị. Trong  tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, loại nhân vật nghịch dị xuất hiện với nhiều hình  dạng, trạng thái, tâm lý khác nhau nhưng đều phản ánh một thực tại khiếm khuyết  trong bản thể  người như  Tính trong Thoạt kì thủy, những đứa trẻ  mới sinh ra đã  thành người già trong Những đứa trẻ chết già…Ngoài ra còn có nhân vật Hoài, bé  Hon trong Thiên sứ của Phạm Thị  Hoài, Quềnh trong Mảnh đất lắm người nhiều   ma của Nguyễn Khắc Trường… Thiên sứ của Phạm Thị  Hoài xây dựng hình  ảnh  cô bé Hoài với quyết định ngừng tăng trưởng, không muốn trở thành “đàn bà”, một  quyết định biểu hiện sự phản kháng đầy phẫn nộ, một cuộc chiến âm thầm nhưng   khốc liệt, đau đớn và tuyệt vọng trong nỗi cô đơn của tính nhân bản – muốn chống   lại xã hội tẻ nhạt, xơ cứng của nhân loại. Ngược lại với Hoài, nhân vật Quang lùn  không nổi loạn, không phản kháng lại sự  tăng trưởng của cơ  thể  nhưng sự  đình  tăng trưởng trong anh là do “thiếu hóocmôn”, một chứng cứ  khoa học khiến anh   mãi phải mang một âm “lùn” đi bên cạnh cuộc đời mình. Việc kiến tạo nhân vật  nghịch dị  và biến dạng trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam viết theo khuynh  hướng hiện thực ­ huyền  ảo đã khắc họa được sự  tha hóa của con người đương  thời, những bi kịch mang tính chất thời đại. 3.2.2. Kiểu nhân vật tâm linh, vô thức Để thể hiện cảm quan mới về hiện thực, các nhà văn đã sử dụng yếu tố tâm  linh như một chiều kích mới để xây dựng nhân vật nhằm khám phá ra những bí ẩn,   hoang đường, phi lí, khó lí giải được bên trong con người. Thế  giới  ấy thường   mang vẻ linh thiêng, huyền bí bởi nó gắn liền với thế giới tiềm thức, vô thức của   con người. Việc kiến tạo nên một thế  giới nghệ  thuật hiện thực ­ huyền  ảo qua   cách xây dựng nhân vật hướng đến chiều kích tâm linh cũng là một phương diện   đổi mới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Các nhân vật có trong các  tác phẩm như: Cô Thống Biệu trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, Thánh Chấn  trong  Thần thánh và bươm bướm, Hộ  Hiếu trong  Mẫu Thượng ngàn,  Mai Trừng  trong Cõi người rung chuông tận thế. Nhân vật chứa đựng chiều kích tâm linh đáng  quan tâm nhất là Mai Trừng trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái.  Đây là một tác phẩm mang tính luận đề về  vấn đề  thiện – ác trong xã hội, nhưng 
  15. 14 lại mang dấu ấn tâm linh khá rõ nét qua nhân vật có một sức mạnh siêu nhiên bí ẩn   ngay từ khi cô mới sinh ra.  Một kiểu nhân vật khác trong thế  giới huyền  ảo đó là lớp nhân vật đi giữa  tiềm thức và vô thức. Lớp nhân vật này không thiên về  vai trò thần thánh, họ  là  những con người đời thường nhưng lại có những chuyến tàu vô định, những giấc   mơ hư ảo, những chấn thương về mặt tâm lí. Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của  Bảo Ninh là một kiểu nhân vật chấn thương về  mặt tâm lí của thời hậu chiến.   Cuộc sống của Kiên từ ngày trở  về sau chiến tranh là chuỗi ngày với những kí ức   đau buồn, với Kiên tương lai là một cái gì đó xa mờ và tăm tối, cuộc sống hiện tại  của Kiên bây giờ chỉ còn lại những hồi ức đau thương của chiến tranh. Sau cái chết  của chồng, An Mi trong Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng chọn cuộc sống trên  những chuyến tàu, lang thang khắp châu Âu để  cố  quên đi quá khứ  đau buồn, cô   mang tâm trạng của một người chạy trốn thực tại. Cô rơi vào cảm giác mất dần  những đường viền ngăn chia và khoảng không, mất dần nỗi cô đơn, nỗi buồn và  cảm xúc. Kiểu nhân vật này cũng dễ  bắt gặp nhiều trong các tiểu thuyết của   Thuận như Phượng trong Made in VietNam, Tôi trong Chinatown, Liên trong Paris   11 tháng 8. Họ là những phụ nữ xa xứ, mang nỗi buồn hiện tại cả nỗi buồn trong   quá khứ. 3.2.3. Kiểu nhân vật hư ảo, ma quái Trong thế  giới hiện thực ­ huyền  ảo kiểu nhân vật hư   ảo, ma quái cũng là  kiểu nhân vật đặc tả khuynh hướng này, nó xuất hiện nhiều trong các tiểu thuyết   Việt Nam đương đại. Ngoài những yếu tố mang tính tâm linh bản địa, thêm vào đó  là sự tác động từ các luồng tư tưởng văn học nước ngoài, nhất là kiểu nhân vật ma  quái trong văn học hiện thực huyền  ảo của Mĩ Latin đã tạo nên một cú huých lớn   cho sự xuất hiện kiểu nhân vật này. Nhân vật trong Người sông Mê của Châu Diên  đều là những hồn ma hoặc được hiện lên qua sự cảm nhận của hồn ma. Các nhân  vật trong Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, Hiếu trong  Mình và họ của Nguyễn  Bình Phương…Không chỉ riêng tiểu thuyết Mình và họ, rất nhiều tiểu thuyết khác  của Nguyễn Bình Phương cũng xây dựng một thế  giới ma tràn ngập. Những đứa   trẻ  chết già là một câu chuyện huyền thoại về ngôi làng Phan với kho báu bí  ẩn,  song song với mạch truyện huyền thoại này lại có một mạch truyện khác miêu tả  cuộc hành trình không có điểm khởi đầu của bốn hồn ma trên một chiếc xe trâu.  Họ  hiện lên vừa thực vừa  ảo,  ở đó nhà văn như  dẫn dắt người đọc vào một thế  giới mê cung, kì bí và huyễn hoặc, có khi người đọc nghĩ họ  đang sống, nhưng  ở  một lúc khác lại nghĩ họ không tồn tại thế giới này mà ở  một thế  giới khác, đó là  thế giới của hồn ma.  3.3. Hiện thực – huyền ảo với việc kiến tạo không gian và thời gian nghệ  thuật  3.3.1. Không gian nghệ thuật 3.3.1.1. Không gian mộng ảo Với kiểu cốt truyện mang tính phân rã, song tuyến,  đa tuyến, tiểu thuyết   đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo kiến tạo nên những kiểu  không gian khác nhau ngoài không gian thực tại. Chúng tồn tại song hành, đan cắt  
  16. 15 và đối lập nhau trong cùng một tác phẩm. Khi bị ám ảnh, bế tắc với thế giới hiện   thực, nhân vật bắt  đầu hành trình tìm kiếm sự  cứu rỗi hoặc truy tầm bản ngã  ở  một   thực   tại   khác,   nơi   mà   cái   huyền   ảo   lên   ngôi.   Toàn   bộ   câu   chuyện   trong   Chinatown của Thuận là một giấc mơ  dài của nhân vật “tôi”, giấc mơ  về  Thụy.   Trong mơ nhân vật “tôi” luôn đặt câu hỏi trong mười hai năm qua “tôi không biết   Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì?” cứ lặp đi lặp lại. Trong Paris 11 tháng 8, trên chuyến  tàu điện ngầm chỉ “đúng năm phút không giây một tích tắc”, Liên có nhiều giấc mơ  lạ. Sự méo mó hình dạng trong giấc mơ của Liên phản ánh một thế giới phi trật tự,  không logic, ranh giới cá nhân bị nhòe mờ. thông qua thế giới của giấc mơ, Thuận   bắt đầu khám phá ra những giải tần tâm lí đang tiềm ẩn trong con người. Đó là nỗi  ám  ảnh về  quá khứ, trạng thái bất an trước thực tại, khát vọng hạnh phúc trong  tình yêu, hôn nhân, gia đình của những người phụ nữ mang thân phận tha hương. Cuộc sống của Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh từ ngày trở về  sau chiến tranh dường như  đêm nào anh cũng mơ. Ngay cả  khi tỉnh đi giữa phố  phường anh cũng cảm giác mình đang lạc vào một thế giới khác, đó là thế giới của  giấc mơ. Trong cái thế  giới mộng  ảo đó, Kiên luôn bị  chìm đắm trong trạng thái   hoảng loạn, nỗi bất an ám ảnh về cuộc chiến tranh đã qua. Kiên luôn mơ về truông   núi Gọi Hồn, nơi có những câu chuyện huyền thoại về loài ma núi, ma ỏm, nơi ghi  dấu một thời trận mạc của anh. Trong các sáng tác của Nguyễn Bình Phương,  truyện thường có kết cấu đan cài giữa thực và mộng khá nhiều, ranh giới giữa thực   và ảo trong mộng cũng trở nên nhập nhòa, hư ảo. Khẩn trong Ngồi luôn sống giữa  hai thế  giới, một thực một mộng đan xen vào nhau. Giấc mơ  của Khẩn càng trở  nên huyền  ảo, huyễn hoặc hơn khi trong thế  giới đó, Khẩn lại có một giấc mơ  khác, đó là hiện tượng “giấc mơ lồng trong giấc mơ”.  3.3.1.2. Không gian huyền thoại Để  đạt đến đỉnh cao như  Trăm năm cô đơn  của G. Marquez thì khó mà tìm  thấy được trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện   thực ­ huyền ảo nhưng kiểu không gian huyền thoại mang dáng dấp như kiểu làng   Macondo   thì   hẳn   không   phải   là   không   có.   Trong  Những   đứa   trẻ   chết   già  của  Nguyễn Bình Phương, ngôi làng Phan với bao câu chuyện kì dị  ma quái và câu  chuyện huyền thoại về kho báu bí ẩn của người xưa để lại cũng đủ làm dậy sóng   chất huyền thoại hư   ảo tại ngôi làng này. Muốn mở  kho báu phải có ba cái chết   đặt trên đỉnh đồi sau nhà cụ  Liêm, phải có đầu con Nghê, sao chổi xuất hiện trên  bầu trời. Chẳng có huyền thoại nào hơn câu chuyện huyền thoại về kho báu bí ẩn  này.  Một kiểu không gian huyền thoại khác ngoài không gian làng đó là không gian  rừng núi. Truông núi “Gọi Hồn” trong  Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh trở nên  huyền thoại hơn bởi những câu chuyện ly kì đậm chất huyền bí. Người ta bảo “đi  đêm  ở  vùng này có thể  nghe thấy chim chóc khóc than như  người” đến “các loại  măng nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ  như những tảng thịt ròng ròng máu”,   những “con đom đóm thì to kinh dị… quầng sáng đom đóm lớn tày cái mũ cối, có  khi hơn”. Cũng lấy cảm hứng bi kịch người lính trở  về  sau chiến tranh nhưng   Nguyễn Đình Tú lại mang đến một tác phẩm Hoang tâm đầy siêu thực. Một không 
  17. 16 gian mang màu sắc huyền thoại, cổ xưa được mở  ra trong giấc mơ  của nhân vật  Anh khi đến ga Nguyên Thủy. Nhân vật Anh đã cùng Son Phấn ­ một cô gái điếm  tại Nguyên Thủy nhưng cũng là một nữ tộc trưởng của người Mụ, trải qua nhiều   vùng đất hoang sơ khác nhau với những tập tục, nếp sống văn hóa vừa xa lạ nhưng   lại vừa quen thuộc. Tất cả như xa xôi mà gần gũi vô ngần. Nó hoàn toàn xa lạ với   thế giới văn minh hiện đại tiện nghi nhưng lại chứa đựng nhiều trầm tích văn hóa  của người xưa. 3.3.2. Thời gian nghệ thuật 3.3.2.1. Thời gian mang tính phi thời Một trong những đặc trưng cơ bản kiến tạo nên thời gian trong khuynh hướng   hiện thực ­ huyền  ảo là thời gian mang tính phi thời “không đầu không cuối, quay   vòng để phát triển đến điểm tiếp tục quay vòng. Thời gian luôn gợi nhớ về lịch sử,   nhưng đấy là kiểu lịch sử nửa có nửa không, như thể là sản phẩm thuần túy của trí   tưởng tượng nhưng lại không thể  phủ  nhận là không có dấu ấn hiện thực”. Khác  với thời gian tự sự theo lối biên niên, ở đó các mốc thời gian được xác định rõ ràng   và có một ý nghĩa nhất định trong tiến trình phát triển của cốt truyện. Để  kiến tạo   nên kiểu thời gian này, các tác giả  thường sử  dụng các thủ  pháp như  mơ  hồ  hóa  hoặc  ảo hóa thời gian thực; mở  rộng chiều kích thời gian về  phía phi thực; tẩy  trắng hoặc chồng tầng nhiều lớp thời gian, tạo độ lệch lớn giữa thời gian văn bản   và thời gian truyện kể. Các tác phẩm sử dụng kiểu thời gian này như: Lời nguyền   hai trăm năm, Người sông Mê, Những đứa trẻ chết già, Thoạt kì thủy…  Do quan niệm thời gian bị phá vỡ  nên những sự  kiện cũng trở  nên nhảy cóc,  đan xen, bất định… tạo nên bức tranh vô cùng phức tạp trong tiểu thuyết đương  đại. Tuy nhiên, mỗi lớp thời gian đều hàm  ẩn một ý nghĩa nhất định mà nhà văn   muốn hướng đến. Tính mơ hồ là một biểu hiện rõ nét cho kiểu thời gian này, đồng   thời phù hợp cho việc miêu tả  lối viết hiện thực ­ huyền  ảo trong tiểu thuyết   đương đại. 3.3.2.2. Thời gian đồng hiện Một trong những phương diện mở  rộng giới hạn thời gian của truy ện k ể  trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực ­ huyền   ảo là các tác giả sử dụng kĩ thuật đồng hiện thời gian theo dòng ý thức. Khi dòng ý  thức nhân vật được đẩy lên cao, cũng là lúc bức tranh đồng hiện về mặt thời gian   chảy theo tâm trạng của nhân vật hiện lên với những chiều kích thời gian khác  nhau. Như  vậy, sự  đồng hiện về  mặt thời gian  ở  đây được biểu thị  qua trục thời   gian cả quá khứ, hiện tại, tương lai cùng xuất hiện một lúc nhưng để có được kiểu  thời gian này thì các tác phẩm thường xây dựng theo kiểu kết cấu dòng ý thức, lắp  ghép, phân mảnh là chính. Kiểu thời gian đồng hiện thường được biểu hiện qua  những giấc mơ, những hồi tưởng, hồi ức của nhân vật như những giâc mơ, hồi ức  của Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, Hoàn trong Người đi vắng, Anh trong Hoang   tâm, Tân trong Trong sương hồng hiện ra… Trong thời gian đồng hiện, yếu tố giấc mơ giữ vai trò quan trọng trong việc  kiến tạo nên lớp thời gian có độ nhòe ảo cao giữa quá khứ và hiện tại, đẩy yếu tố  thời gian trong vô thức, tiềm thức tăng lên. Vào những năm gần đây, dạng tiểu 
  18. 17 thuyết ngắn xuất hiện mạnh mẽ  với tần số cao. Sự xuất hiện các giấc mơ  trong   truyện có thể  đồng hiện được nhiều mảng thời gian khác nhau và thời gian trong   giấc mơ  thường là thời gian  ảo, khó xác định được điểm nhìn. Trong  Hoang tâm,  Nguyễn Đình Tú đem đến người đọc ba điểm nhìn, cùng ba thời điểm khác nhau.  Một điểm nhìn hiện tại nhân vật Anh là một thầy giáo bị chấn thương về mặt tâm  lí sau chiến tranh, từ điểm nhìn đau thương, tổn thất, mất mát ở hiện tại của nhân   vật Anh, Nguyễn Đình Tú đưa người đọc quay về điểm nhìn quá khứ  qua hồi ức,   những đêm mộng mị của nhân vật Anh về chiến trường K. Một trục thời gian  ảo   khác là thời gian qua giấc mơ của nhân vật Anh khi đến ga Nguyên Thủy để  tìm  cách chữa bệnh mất ngủ, những chấn thương về mặt tâm lí trong anh. Thời gian   trong giấc mơ của nhân vật Anh khi đến ga Nguyên Thủy không đầu, không cuối,  tuột hẳn vào thế giới của huyền thoại, ở đó nhân vật trôi chảy theo dòng cảm xúc   trong cõi vô thức, tất cả trở nên xa lạ và đầy huyền bí. 3.4. Tiểu kết Khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo đã tác động và chi phối mạnh mẽ  đến  việc xây dựng hệ  đề  tài, chủ  đề, hệ  thống nhân vật, các kiểu không gian và thời  gian trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Vẫn là những đề tài khá quen thuộc đã   có ở các giai đoạn trước nhưng bằng phương thức sáng tác mới, tiểu thuyết đương  đại đã có sự mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực sang nhiều khía cạnh khác nhau  mà tiểu thuyết 1945 – 1975 chưa làm được. Nhờ có sự mở rộng phạm vi phản ánh  hiện thực, các nhà tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện   thực – huyền ảo đã khám phá ra nhiều kiểu nhân vật và kiểu không gian, thời gian   khác nhau, kiến tạo nên một thế giới khá mới mẻ so với tiểu thuyết truyền thống.   Vượt lên lối mòn phản  ánh hiện thực giản  đơn của tiểu thuyết truyền thống,  khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo đã đem đến những đóng góp quan trọng về  mặt thi pháp nghệ thuật. 
  19. 18 CHƯƠNG 4 KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT  VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI VỚI CHỨC NĂNG BIỂU ĐẠT THẾ GIỚI 4.1. Hiện thực – huyền ảo với việc tổ chức kết cấu 4.1.1. Kết cấu mê lộ Nhiều tiểu thuyết hiện thực­ huyền  ảo Việt Nam đương đại có kiểu kết cấu  “mê lộ”. Ngay khi tên gọi cuốn tiểu thuyết  Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn  Danh Lam cũng ám gợi sức mê lộ  trong tác phẩm này đối với người đọc.   Giữa   vòng vây trần gian được xây dựng dựa trên môtip lạc đường. Nỗi cô đơn, sự  hoài  nghi về  cuộc sống chính là con đường dẫn dắt con người đến với những mê lộ  trong cuộc đời mình. Mỗi con người luôn cố  gắng vẫy vùng để  thoát ra khỏi nó,  nhưng họ không thể giữ mình không lạc lối trước những ngã rẽ đầy bất ngờ và có  phần may rủi. Nếu như  Thữc trong   Giữa vòng vây trần gian  bị  lạc vào mê cung  nửa hư nửa thực thì Thao trong Thần thánh và bướm bướm của Đỗ Minh Tuấn lại  lạc vào giữa vòng vây ngay chính cuộc đời thực của mình để  rồi không tìm ra lối  thoát. Thao không chỉ loay hoay luẩn quẩn với súng đạn, giữa cái mê lộ này anh còn   loay hoay với việc tranh chấp đất đai nhau giữa hai ngôi làng mà anh chẳng thuộc  người làng nào cả. Kết thúc cho cuộc hành trình của anh là một cái án giết người,  con đường để anh trở về nhà mãi xa vời vợi. Viễn trong  Người thứ hai của Tô Hải  Vân lại rơi vào mê lộ muốn tìm hướng đi mới nhằm phá vỡ lối đi nhàm chán, cũ kĩ   trước nhưng càng đi anh càng nhận ra cái mê lộ mà anh rơi vào nó hư ảo, không có   gì là thật. 4.1.2. Kết cấu phân mảnh Nếu như  tiểu thuyết giai đoạn 1945 – 1975 thường hướng đến kết cấu trên   cái nhìn toàn tri thì tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực ­ huyền  ảo lại   hướng đến kết cấu phân mảnh, hướng đến tính trò chơi, phá vỡ tinh thần đại tự sự  trong tiểu thuyết truyền thống. Qua đó, hiện thực được tái thiết từ  những mảnh   vỡ, còn văn bản tiểu thuyết được tạo thành bởi những miếng ghép nhiều màu.  Thiên sứ của Phạm Thị Hoài được lắp ghép bởi những mảnh sự kiện rời rạc không  theo một trình tự  thời gian nào, tất cả  trở  nên phi tuyến tính, phi logic so với cốt  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1