intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của Luận án là nghiên cứu cơ sở hình thành và đặc điểm loại hình tác giả Nho học – Tân học Việt Nam đầu thế kỷ XX; Nghiên cứu những đóng góp của loại hình tác giả Nho học – Tân học cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX từ tiếp cận thể loại trên các phương diện đề tài – chủ đề, tổ chức kết cấu cốt truyện, xây dựng nhân vật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI BÙI THỊ LAN HƢƠNG TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐỐI VỚI THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2020
  2. Công trình đƣợc hoàn thành tại: Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1) PGS. TS. Vũ Thanh 2) PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn Viện Văn học Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Xuân Thạch Trường Đại học KHXH&NV- ĐHQG Hà Nội Phản biện 3: PGS.TS. Trần Văn Toàn Trường ĐHSP Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội Vào hồi ……….. giờ ……….. phút, ngày …….. tháng …….. năm 2020. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hà Nội, - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lý do khoa học Văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX là một trong những giai đoạn đặc biệt của lịch sử văn học dân tộc, lâu nay vẫn được các nhà khoa học định danh là giai đoạn giao thời, giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời kỳ, hai phạm trù từ văn học trung đại sang văn học hiện đại, từ những ảnh hưởng mang tính khu vực sang những mối liên hệ trực tiếp với văn học thế giới. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt đó, nền văn học Việt Nam đã xuất hiện một vài loại hình tác giả mới, trong đó có một kiểu loại tác giả là sản phẩm của giai đoạn giao thời giữa cái cũ truyền thống và cái mới, ảnh hưởng phương Tây, đó là các tác giả Nho học - Tân học. Hiểu một cách đơn giản nhất, đó là những tác giả có sự kết hợp hai yếu tố trong cấu trúc, trong ý thức hệ tư tưởng: Nho giáo và học phong của thời đại mới. Họ có thể là những người đỗ đạt trong các kỳ thi Nho học, hoặc là những người đã nhiều năm theo đòi chữ nghĩa thánh hiền và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền học vấn này. Song, do những biến thiên của thời cuộc, trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng mới của phương Tây, những nhà nho này đã theo học tiếng Pháp, tiếp thu văn hóa Pháp và chuyển sang viết văn bằng chữ Quốc ngữ. Đội ngũ tác giả Nho học - Tân học là một mẫu hình tác giả nhà nho kiểu mới và họ có những đóng góp không nhỏ cho quá trình hình thành và phát triển của nền văn học Quốc ngữ giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tác giả Nho học - Tân học Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho sự hình thành và phát triển của văn học đương thời, đặc biệt cho sự duy trì và tiếp nối những thành tựu và ảnh hưởng của văn học quá khứ với nền văn học mới, trong một bối cảnh khi mà đa số người sáng tác đã quay lưng hoặc tìm cách xóa bỏ dấu vết của nền “cựu học”. Loại hình tác giả này, từ trước tới nay mới được các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ là những nhà văn riêng lẻ, độc lập, hoặc tìm hiểu họ trên những phương diện khác mà chưa phải với tư cách là một loại hình tác giả. Đôi khi những đặc điểm mang tính loại hình của họ như sự duy trì trạng thái tiếp nối truyền thống trên các phương diện như đề tài, chủ đề, cảm hứng tư tưởng hay những thủ pháp nghệ thuật, ngôn từ, cách xây dựng hình tượng nghệ thuật lại chỉ được coi là những hạn chế rơi rớt từ quá khứ.
  4. 2 Những thành tựu của loại hình tác giả Nho học - Tân học ở nhiều trường hợp lại bộc lộ ngay trong sự thể hiện những vấn đề tưởng như đã cũ so với thời đại. Chính những thành tựu to lớn, cũng như những vấn đề còn để ngỏ của nghiên cứu văn học đầu thế kỷ XX đã gợi ý cho chúng tôi triển khai đề tài về các tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp (cũng như hạn chế) của họ cho sự hình thành và phát triển của văn học giai đoạn giao thời. 1.2. Lý do thực tiễn Các tác giả trên, cũng như văn học đầu thế kỷ XX là đối tượng nghiên cứu và giảng dạy của chúng tôi bấy lâu trong nhà trường đại học. Sáng tác của Hồ Biểu Chánh, Tản Đà và Ngô Tất Tố đã từ lâu được đưa vào chương trình ngữ văn từ bậc trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông. Do vậy, đây là một đề tài rất thiết thực, giúp cho chúng tôi có điều kiện tiếp tục nghiên cứu các hiện tượng văn học quá khứ, nhất là văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Với những lí do khoa học và lý do thực tiễn trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)” làm nội dung nghiên cứu trong luận án của mình. 2. Đối tƣợng và phạ vi nghiên cứu 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng luận án lựa chọn nghiên cứu là loại hình tác giả Nho học – Tân học và đóng góp của họ đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua năm tác giả Nho học - Tân học tiêu biểu là: 1) Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947); 2) Hồ Biểu Chánh (1884-1958); 3) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939); 4) Nguyễn Trọng Thuật (1883-1950) và 5) Ngô Tất Tố (1894-1954). Ngoài ra, luận án còn quan tâm đến các nhà văn đầu thế kỷ XX khác cùng loại hình hoặc có một số điểm tương đồng như Nguyễn Bá Học (1857-1921), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941), Nguyễn Đôn Phục (1878-1954), Lê Hoằng Mưu (1879-1941) hay Bửu Đình (1898-1931)… 2.2. Phạ vi nghiên cứu Trên thực tế, số lượng các tác giả Nho học - Tân học trong quy loại của chúng tôi khá nhiều song do khuôn khổ của luận án chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu về năm tác giả đã được chọn. Thứ tự xuất hiện của các tác giả trên, về cơ bản cũng thể hiện được phần nào bước tiến, bước chuyển tiếp trên
  5. 3 một số phương diện của loại hình tác giả này cả về quan niệm nghệ thuật và những thành tựu trong sáng tác. Về hệ thống tác phẩm được khảo sát: chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát tất cả các cuốn tiểu thuyết của năm tác giả Nho học - Tân học trên đây. Các sáng tác ở các thể loại khác của họ, cũng như sáng tác của các nhà văn khác đầu thế kỷ XX sẽ là nguồn tư liệu để chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu, phân tích khi cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu loại hình tác giả Nho học -Tân học và loại hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của các tác giả này, chúng tôi hướng đến hai mục đích chính là: - Nghiên cứu cơ sở hình thành và đặc điểm loại hình tác giả Nho học – Tân học Việt Nam đầu thế kỷ XX; - Nghiên cứu những đóng góp của loại hình tác giả Nho học – Tân học cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX từ tiếp cận thể loại trên các phương diện đề tài – chủ đề, tổ chức kết cấu cốt truyện, xây dựng nhân vật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Lý giải nguyên nhân, điều kiện lịch sử - văn hóa, xã hội và văn học ở giai đoạn giao thời giữa hai thế kỷ đã góp phần hình thành nên loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ cho sự phát triển văn học dân tộc; - Luận án bước đầu nhận diện một số đặc điểm mang tính loại hình quy định đến sự lựa chọn cuộc đời, sự nghiệp, cũng như con đường mà các nhà văn đến với sáng tác tiểu thuyết Quốc ngữ, những đổi thay trong quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ của họ; - Nhận diện các sáng tác tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học trên một số phương diện cơ bản là hệ thống đề tài - chủ đề; tổ chức kết cấu cốt truyện; xây dựng nhân vật; giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện nội dung nghiên cứu này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: 1) Phương pháp loại hình học và phương pháp nghiên cứu văn học theo thể loại; 2) Phương pháp tiếp cận tự
  6. 4 sự học; 3) Phương pháp hệ thống; 4) Phương pháp so sánh – đối chiếu và 5) Phương pháp nghiên cứu liên ngành. 5. Đóng góp ới của luận án - Tìm hiểu đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ cho sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỷ XX, luận án sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối hệ thống về loại hình tác giả và loại hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của các tác giả này trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn học dân tộc nói chung; - Trên cơ sở giới thuyết khái niệm, luận án đã bước đầu làm sáng tỏ điều kiện hình thành cũng như đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học trong mối tương quan với các loại hình tác giả khác trước đó cũng như cùng thời gian xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; - Luận án đã đi sâu khảo sát, mô tả và luận giải một số đóng góp của tác giả Nho học – Tân học đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX thông qua hệ thống đề tài - chủ đề; tổ chức kết cấu cốt truyện; xây dựng hệ thống nhân vật; giọng điệu và ngôn ngữ; - Ngoài ra, qua kết quả nghiên cứu, luận án cũng hi vọng cung cấp và ứng dụng một hướng tiếp cận, đánh giá đối với một loại hình tác giả đặc biệt, bổ sung kiến thức cho việc tham khảo và nghiên cứu, giảng dạy về một số tác giả, tác phẩm của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương sau đây. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý thuyết 1.1.1. Lý thuyết loại hình học văn học Loại hình học (tiếng Anh: typology, tiếng Pháp: typologie) là khoa học nghiên cứu về loại hình nói chung. Đây vừa là một lý thuyết vừa là một phương pháp trong nghiên cứu văn học, vốn xuất phát từ rất sớm, ngay từ trong nền văn hóa cổ đại Hi Lạp - La Mã với cách phân chia văn học của Aristot. Tuy nhiên, nhắc đến lý thuyết loại hình học văn học, chúng ta phải kể đến thành tựu của các nhà nghiên cứu văn học Nga trước đây. Ở Việt Nam, tư duy loại hình,
  7. 5 phương pháp loại hình ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Sau gần một thế kỉ xuất hiện ở Việt Nam, có thể nói lí thuyết loại hình học đã trở thành công cụ nghiên cứu hữu hiệu cho những ai quan tâm đến văn học Việt Nam, nhất là những tiếp cận từ phương diện loại hình học tác giả văn học. Có thể khẳng định, ở Việt Nam đã hình thành nên một xu hướng nghiên cứu văn học theo lý thuyết loại hình học với khá nhiều thành tựu. 1.1.2. Lý thuyết tự sự học Thể loại tiểu thuyết vốn là một trong những thể loại mang đặc trưng cho loại hình tự sự. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ đối với sự vận động và phát triển của tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX nên lý thuyết tự sự học cũng được coi là một trong những lý thuyết quan trọng được vận dụng trong luận án. Lý thuyết tự sự học cũng giúp cho người viết cơ sở để tiến hành nghiên cứu những đặc điểm của thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ - một phương thức tự sự cỡ lớn đầu thế kỷ XX. Lý thuyết tự sự học sẽ giúp chúng tôi tập trung giải quyết những đặc điểm đặc sắc trong phương thức nghệ thuật loại hình tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học như tổ chức kết cấu cốt truyện, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. 1.2. Giới thuyết tác giả Nho học - Tân học Chúng tôi quan niệm như sau, tác giả Nho học - Tân học, trước hết là những nhà văn được học hành và chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho học và nền học vấn truyền thống. Do hoàn cảnh lịch sử buổi giao thời, họ đồng thời cũng được học tập và chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và nền học vấn mới ảnh hưởng của phương Tây, tuy mức độ ảnh hưởng ở mỗi tác giả là khác nhau. Từ đó hình thành một thế hệ các nhà cầm bút mới - những con người của hai thế kỷ, mang trong mình đặc trưng của thời kỳ quá độ, giao thời giữa cái cũ và cái mới. Đội ngũ tác giả Nho học - Tân học, một mặt vẫn mang những khát vọng có phần phi thực tế như các nhà nho trước đó: muốn thực hiện giấc mộng “kinh bang tế thế” và “cải cách xã hội” bằng văn chương, họ đề cao vai trò cải tạo xã hội, thay đổi xã hội của văn chương; song mặt khác, họ cũng nhìn thấy được những đổ vỡ của luân lý Nho giáo trong thời buổi bấy giờ, từ đó hướng ngòi bút của mình đến sự phản ánh hiện thực.
  8. 6 1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu tác giả Nho học - Tân học Việt Na và đóng góp của họ đối với sự hình thành, phát triển thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX 1.3.1. Những công trình nghiên cứu về các tác giả Nho học - Tân học Các công trình nghiên cứu về năm tác giả này cũng khá phong phú. Sau đây chúng tôi điểm qua một số công trình tiêu biểu: 1.3.1.1. Những nghiên cứu về tác giả Nguyễn Chánh Sắt Nghiên cứu về Nguyễn Chánh Sắt: trước hết, phải kể đến cuốn Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (2004) do Nguyễn Kim Anh chủ biên [72]; Từ điển Văn học (Bộ mới) [162]; “Nhà văn nhà báo Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947)” [165]… Nhìn chung, những nghiên cứu về Nguyễn Chánh Sắt đã đề cập khá đầy đủ về thân thế, sự nghiệp, vị trí của ông đối với lịch sử nói chung, lịch sử văn học nói riêng. Tuy thế, vấn đề nhìn nhận Nguyễn Chánh Sắt với tư cách của một tác giả Nho học - Tân học gắn với đóng góp của ông với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thì vẫn còn đang là một vấn đề bỏ ngỏ cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn. 1.3.1.2. Những nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh là nhà văn Nam Bộ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu nhất. Có thể kể đến các nghiên cứu của Phan Khôi [94]; Thiếu Sơn [192]; Vũ Ngọc Phan [130]; Nghiêm Toản [174]; Phạm Thế Ngũ [150]; Nguyễn Khuê [97]; Hoài Anh [3]; Huỳnh Thị Lành [108]; Phạm Thị Thu Thủy [246]… Có thể khẳng định, cho đến hiện nay, những nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh khá phong phú, nhiều công trình chuyên sâu. Theo đó mà các phương diện thân thế, sự nghiệp, vị trí văn học sử của ông cũng đã được bàn đến tương đối sáng rõ. Điểm mới trong nghiên cứu của chúng tôi chính là đặt Hồ Biểu Chánh trong tương quan của nhóm loại hình tác giả Nho học - Tân học đầu thế kỷ XX để nhìn nhận thấu đáo hơn những đóng góp của ông cho quá trình hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX. 1.3.1.3. Những nghiên cứu về Tản Đà Tản Đà ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn đã được người ta biết đến như một tác giả đặc biệt, những ý kiến đánh giá ông cũng hết sức đa chiều nhiều lúc trái ngược nhau. Có thể nhắc đến các nghiên cứu của Phạm Quỳnh [182]; Dương Quảng Hàm [76]; Nguyễn Đình Chú [24], [25];
  9. 7 Trần Đình Hượu [90]; Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Đức Mậu [52]; Trần Văn Toàn [261], [262]; [263]… 1.3.1.4. Những nghiên cứu về Nguyễn Trọng Thuật Mặc dù viết không nhiều và cũng không thực sự đình đám vào thời điểm lúc bấy giờ, song tác giả Nguyễn Trọng Thuật cũng đã dành được sự quan tâm của các nhà phê bình, nghiên cứu đương thời như Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Doãn Quốc Sĩ, Phạm Thị Ngoạn, Nguyễn Quảng Tuân… 1.3.1.5. Những nghiên cứu về Ngô Tất Tố Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho giáo và bản thân Ngô Tất Tố cũng được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, cội rễ đó đã ảnh hưởng đến trước thuật của ông. Đặc điểm này trong sự nghiệp viết của Ngô Tất Tố đã được hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ ra. Tiêu biểu như là các nghiên cứu của Phong Lê [113]; Vương Trí Nhàn [153]; Phan Cự Đệ [39]; Vũ Tuấn Anh [10]; Trần Thị Phương Lan [104]... 1.3.2. Những công trình nghiên cứu thể loại tiểu thuyết giai đoạn giao thời và tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học Nhìn chung, văn học giai đoạn giao thời nói chung, tiểu thuyết Quốc ngữ giai đoạn giao thời nói riêng đã từ lâu trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn học và đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Đó là các nghiên cứu của Trúc Hà [170], [171]; Trường Sơn Chí Ung Ngọc Ky [100]… Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết giai đoạn này còn được tiếp tục trong công trình của một số nhà nghiên cứu có tên tuổi như Thiếu Sơn, Mộc Khuê, Vũ Ngọc, Lê Thanh, Dương Quảng Hàm… Những vấn đề của tiểu thuyết 30 năm đầu thế kỷ XX tiếp tục được đề cập đến trong một số công trình đáng chú ý sau như Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh của tập thể tác giả Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình [65]; Chân dung văn học [3], của Hoài Anh [9]; Từ điển văn học bộ mới [162], Văn học Việt Nam thế kỷ XX do GS. Phan Cự Đệ [41]… Ngoài ra, còn công trình Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932) của tác giả Bùi Đức Tịnh [249]… Đáng chú ý nhất là công trình của tập thể các nhà nghiên cứu Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh: Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX [4] do Nguyễn Kim Anh chủ biên. Ngoài ra còn một số các luận án tiến sĩ đề cập đến văn xuôi Quốc ngữ giai đoạn đầu thế kỉ XX. Đầu tiên là luận án PTS: Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết
  10. 8 văn xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến 1932 của Tôn Thất Dụng năm 1993 [34] và luận án Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX của Cao Thị Xuân Mỹ năm 2001 [138],“Tả thực” với hiện đại hóa văn xuôi Quốc ngữ giai đoạn giao thời của Trần Văn Toàn năm 2009 [252], Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Nam bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932 của Phan Mạnh Hùng năm 2014 [84]… Đây là những công trình nghiên cứu khá thấu đáo về sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng như những đóng góp của thể loại cho quá trình hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết nói riêng và văn học Việt Nam nói chung giai đoạn giao thời… Ở nước ngoài, theo tư liệu mà chúng tôi hiện được biết, những công trình nghiên cứu về văn xuôi Quốc ngữ nói chung và tiểu thuyết nói riêng đến nay vẫn không có nhiều. Trong công trình Introduction à la littérature Vietnamienne (Giới thiệu văn học Việt Nam - 1969), Maurice M.Durand và Nguyễn Trần Huân cũng chỉ trình bày một cách hết sức sơ lược về tác phẩm của 2 tác giả Hồ Biểu Chánh và Bửu Đình. Trong công trình Le roman Vietnamien contemporain (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - 1972) của Bùi Xuân Bào [307], tác giả có đề cập đến một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Thời Xuyên… 1.3.3. Nhận xét chung Cho đến nay, đặc điểm loại hình nhà nho thuộc giai đoạn giao thời (đầu thế kỷ XX) vẫn chưa được tìm hiểu nhiều, riêng loại hình tác giả Nho học - Tân học thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu. Nghiên cứu loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp của họ cho sự hình thành, phát triển của tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần làm rõ hơn những vấn đề còn bỏ ngỏ như vấn đề đặc điểm loại hình tác giả và vị trí, đóng góp của loại hình tiểu thuyết được sáng tác bởi các tác giả Nho học - Tân học giai đoạn đầu thế kỷ XX của Việt Nam; ở nước ngoài, các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào một số hiện tượng văn học tiêu biểu, về tác giả như Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh…; về tác phẩm như truyện Thầy Lazaro Phiền…; còn tác giả Nho học - Tân học thì hầu như chưa được đề cập đến từ góc độ loại hình tác giả.Luận án của chúng tôi cố gắng trên phương diện tổng kết, đánh giá, khu biệt loại hình tác giả Nho học - Tân học, từ đó hy vọng góp thêm một tiếng nói khẳng định những đóng góp cũng như chỉ ra những mặt còn hạn chế, qua các sáng tác tiểu thuyết của họ, đối với quá trình hiện đại hóa thể loại nói riêng và nền văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX nói chung.
  11. 9 Tiểu kết Chƣơng 1 Có thể khẳng định rằng, trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam, từ trước đến nay đã có rất nhiều các phương pháp tiếp cận khác nhau và mỗi phương pháp đều có những điểm khả thủ của nó mà sự vận dụng phù hợp luôn mang lại cho người nghiên cứu những kiến giải thú vị. Phương pháp loại hình học văn học vốn được các nhà nghiên cứu Việt Nam tiếp thu từ khoa nghiên cứu văn học, văn hóa Nga để soi chiếu thực thể văn học Việt, gồm cả văn học dân gian lẫn văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Trong cái nhìn đối sánh, nếu như một số phương pháp và lý thuyết khác trong nghiên cứu văn học có thể bị lỗi thời (như phương pháp xã hội học văn học dung tục chẳng hạn) thì loại hình học văn học luôn không cũ. Nó đã phát huy tối đa hiệu quả của nó khi vận dụng để lý giải các tác giả văn học, các hiện tượng văn học và trong trường hợp của luận án này là loại hình tác giả Nho học - Tân học với những đóng góp của họ cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX (tính từ khoảng năm 1900 đến những năm 30 của thế kỷ XX). Kết hợp với lý thuyết tự sự học và các phương pháp, thao tác nghiên cứu khác (phương pháp hệ thống, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa…), đặt loại hình tác giả Nho học - Tân học trong quá trình hình thành, vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ, trong Chương 1 chúng tôi đã cố gắng điểm qua tương đối đầy đủ, ngắn gọn những nghiên cứu, những chỉ dẫn cần thiết về đề tài nghiên cứu. Đó chính là những tham bác cần thiết để chúng tôi luận giải rõ hơn về điều kiện hình thành, đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học trong bối cảnh mới của lịch sử - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX; cũng đồng thời là tiền đề để chúng tôi khảo sát, mô tả, đánh giá về tiểu thuyết Quốc ngữ của nhóm tác giả này trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật thông qua các vấn đề về hệ thống đề tài – chủ đề; tổ chức kết cấu cốt truyện; xây dựng nhân vật; giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Đây là những vấn đề được đặt ra và chúng tôi sẽ từng bước giải quyết trong các chương tiếp theo của Luận án. Chƣơng 2 ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC GIAI ĐOẠN ĐẦU THẾ KỶ XX 2.1. Điều kiện hình thành loại hình tác giả Nho học - Tân học 2.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội, tư tưởng - văn hóa 2.1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX Đầu thế kỷ XX, nhất là sau Chiến tranh Thế giới I, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa để bù đắp vào những tổn thất trong chiến tranh. Toàn
  12. 10 quyền Paul Dumer đã cho thực hiện chính sách “chia để trị” ở ba miền Bắc - Trung - Nam Kỳ. Nam Kỳ trở thành thuộc địa, Bắc và Trung Kỳ thuộc Nam triều được đặt dưới danh nghĩa bảo hộ nhưng cũng là thuộc địa vì quyền lực đều nằm trong tay người Pháp. Đô thị chính là môi trường cho sự ra đời của tiểu thuyết Quốc ngữ, trong đó có tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học. 2.1.1.2. Quá trình phổ biến chữ Quốc ngữ Chữ Quốc ngữ ra đời từ giữa thế kỷ XVI do các giáo sĩ Phương Tây sáng tạo ra nhằm phục vụ quá trình truyền đạo vào Việt Nam. Chữ Quốc ngữ sẽ được sử dụng làm phương tiện giao tiếp chính thức trên giấy tờ văn bản thay cho chữ Hán đã tồn tại hàng ngàn năm. Mặt khác, nhà cầm quyền muốn dùng chữ Quốc ngữ để tách người bản xứ ra khỏi sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, mà lại tạo ra sự gần gũi với họ bởi chữ Quốc ngữ tương đồng với chữ Pháp đều theo hệ Latinh. Trong văn học, nó mang lại công cụ biểu đạt mới sinh động và đa dạng cho các sáng tác văn học làm cho người đọc bình dân dễ dàng tiếp cận hơn. Từ đây văn chương đã thực sự “trở về với số đông và đáp ứng nhu cầu của số đông”. 2.1.1.3. Sự ra đời, phát triển của báo chí và xuất bản Khi thực dân Pháp cơ bản bình định được miền Nam Việt Nam song hành với quá trình đó là kế hoạch đồng hóa nước ta về mặt văn hóa. Để việc thôn tính có kết quả, ngoài các chính sách văn hóa mang tầm vĩ mô, báo chí là một trong những lĩnh vực được thực dân Pháp coi trọng. Vì vậy, chỉ sau 5 năm đặt chân lên đất nước ta, chính phủ Pháp đã cho ra đời ngay một tờ báo Quốc ngữ ở Nam Kỳ. Cùng với việc đưa báo chí vào Việt Nam, thực dân Pháp cũng đưa vào công nghệ in ấn và ngành xuất bản để bổ trợ cho quá trình đồng hóa của mình. Chỉ trong thời gian ngắn đã có hàng chục hãng in ấn được thành lập từ các nhà in do chính quyền bảo trọ đến các nhà in của tư nhân. Ban đầu chỉ in ấn báo chí và các tài liệu của chính quyền thuộc địa nhưng về sau, khi thực dân Pháp nới lỏng quy định thì các tác phẩm văn học đã được xuất bản tương đối nhiều góp phần quan trọng vào quá trình hình thành và phát triển nền văn học Quốc ngữ mới. 2.1.1.4. Nền giáo dục mới với mô hình nhà trường Pháp - Việt Trong vai trò cho sự hình thành đội ngũ các tác giả Nho học - Tân học và tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX, nền giáo dục mới đã góp phần xác lập một vị thế của con người trong thế giới. Các nhà văn đã dần từ bỏ
  13. 11 cách viết của văn học truyền thống để học theo lối viết của văn học phương Tây hiện đại, cũng như từ bỏ dần cách tư duy cảm tính của con người phương Đông để học cách tư duy logic như con người phương Tây. Từ cách tư duy này dẫn đến các nhà văn thay đổi về nhận thức và tư duy cũng như quan niệm sáng tác theo tinh thần mới ảnh hưởng của phương Tây - làm tiền đề cho những đổi mới trong sáng tác, trong sáng tạo văn chương đương thời. 2.1.2. Điều kiện văn học 2.1.2.1. Dịch thuật - cầu nối giao lưu văn học Á - Âu Những công trình và đặc biệt là những tiểu thuyết phương Tây được dịch thuật, công bố ở Việt Nam đã giúp cho các nhà văn tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm nghệ thuật. Và trong quá trình tiếp nhận đó, nhiều tiểu thuyết Quốc ngữ giai đoạn đầu, trong đó không ngoại trừ một số tiểu thuyết của các Nho học - Tân học đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ các tiểu thuyết phương Tây, từ tổ chức kết cấu, mô hình cốt truyện đến hình tượng nhân vật… Tuy thế, không gian, thời gian, vẻ đẹp đất nước và con người dân tộc cũng như những phương diện văn hóa truyền thống vẫn bàng bạc trong các tác phẩm. Những nội dung này chúng tôi sẽ từng bước làm rõ ở các phần tiếp theo của Luận án. 2.1.2.2. Công chúng và vai trò của công chúng văn học đầu thế kỷ XX Nhìn một cách bao quát, có thể thấy rằng, độc giả (công chúng) văn chương đầu thế kỷ XX đã khá đa dạng. Nội dung này chúng tôi đã có nhắc đến phía trên khi bàn đến sự ra đời của đô thị và tầng lớp độc giả là thị dân thành thị. Họ chính là tầng lớp công chúng trực tiếp và đông đảo nhất của văn chương giai đoạn giao thời. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một lớp công chúng khác, lớp công chúng được thông qua hai kênh gián tiếp là giáo dục và bản thân các hiện tượng văn học lúc bấy giờ. 2.1.2.3. Sự phát triển tư duy tiểu thuyết Việt Nam: từ tự sự của tiểu thuyết chương hồi chữ Hán đến tiểu thuyết Quốc ngữ hiện đại a) Truyền thống tự sự của tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Theo một số nhà nghiên cứu như Trần Nghĩa và Nguyễn Đăng Na thì tiểu thuyết chương hồi chữ Hán trung đại vốn manh nha từ khá sớm với Hoan Châu ký của Nguyễn Cảnh thị (1696), song thực sự khẳng định sự tồn tại của mình phải chờ đến Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm (hoàn thành năm 1719), tiếp sau đó là một loạt các tác phẩm khác như Thiên Nam liệt truyện của
  14. 12 Nguyễn Cảnh thị (ra đời khoảng 1756-1806), Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái (đầu thế kỷ XIX), Hoàng Việt long hưng chí của Ngô Giáp Đậu (1904), Việt lam xuân thu của Vũ Xuân Mai (cuối thế kỷ XX đến khoảng 1908), Tây Dương Gia Tô bí lục của Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hòa Đường, Nguyễn Bá Am, Trần Trình Hiên (1812), Trung Quang tâm sử của Phan Bội Châu (1921-1925)… b) Tư duy tự sự của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn từ 1900 đến 1930 Nhìn chung, tiểu thuyết Việt Nam đến thời điểm 1924 có thể nói đã có một số thành công nhất định, hình thành một lối viết riêng, một kiểu tư duy tự sự khá rõ nét mang dấu ấn của thời đại lúc bấy giờ. Tiểu thuyết Việt Nam đến 1925 với sự xuất hiện của Tiểu thuyết Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) là một bước phát triển vượt bậc. Nhìn chung, tiểu thuyết Việt Nam từ 1925 đến 1930 đã có bước phát triển vượt bậc kể cả về số lượng lẫn chất lượng. Về số lượng, theo thống kê của Lê Tú Anh, số tiểu thuyết ở giai đoạn từ 1910 đến 1924 chỉ có 69 tác phẩm; trong khi đó giai đoạn từ 1925 đến 1930 có đến 260 tác phẩm. Xét về dung lượng, tiểu thuyết ở giai đoạn này cũng có số trang nhiều hơn… 2.1.2.4. Quá trình thay đổi ý thức của nhà văn Sự nhập cuộc của các nhà văn xuất thân từ Nho học cùng với các nhà văn tân học hình thành từ cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XX cho thấy bước chuyển biến của văn chương từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại. Bên cạnh đó, cũng cần kể đến sự thay đổi trong quan niệm về thể loại tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nếu như trong lịch sử văn học trung đại, tiểu thuyết vốn bị coi rẻ thì đến đây, các tác giả Nho học - Tân học đã thấy được rất rõ vai trò cải tạo xã hội của thể loại này. 2.2. Đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học đầu thế kỷ XX 2.2.1. Những tác giả xuất thân Nho học sau đó tham gia và học nhà trường Pháp - Việt Điểm chung của nhóm những tác giả này là đều xuất thân trong những gia đình truyền thống, cha có biết chữ Hán. Họ từng được dạy chữ Hán từ nhỏ, sau đó, do thời thế, các khoa thi Hán học đang dần rơi vào buổi suy tàn, kết hợp với định hướng của gia đình, nhận thức của cá nhân mà họ đều không tham gia các kỳ thi chữ Hán. Đây là nhóm những người vốn không tham gia khoa cử chữ Hán. Ba tác giả được chúng tôi xếp vào tiểu
  15. 13 nhóm này là Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Trọng Thuật và Hồ Biểu Chánh. Nếu xét về mặt loại hình tác giả, gần gũi nhất với Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Trọng Thuật và Hồ Biểu Chánh, chúng ta cũng có thể kể đến một số tác giả khác như Tân Dân Tử (1875-1955), Bửu Đình (1898-1931)… 2.2.2. Những tác giả tham dự các khoa thi Nho học và tự học tiếng Pháp Đây là nhóm những tác giả từng theo học, sau đó có tham gia thi các khoa thi chữ Hán (có người đỗ, có người không), sau đó mới chuyển hướng sang tân học bằng việc tiếp cận với Quốc ngữ và tiếng Pháp nhưng lại chủ yếu bằng con đường tự học. Tác giả thuộc vào tiểu nhóm này gồm có Tản Đà và Ngô Tất Tố. Xếp cùng loại hình với nhóm tác giả Tản Đà và Ngô Tất Tố, chúng ta cũng có thể nhắc đến một số cây bút tiêu biểu khác như Nguyễn Bá Học (1857-1921); Nguyễn Đôn Phục (1878-1954); Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951), Nguyễn Tử Siêu (1887-1965)… Tiểu kết Chƣơng 2 Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có những biến động mạnh mẽ. Sau khi bình định được Việt Nam, thực dân Pháp thi hành những chính sách đồng hóa dân ta bằng việc phát triển giao thông vận tải, công nghiệp, thương nghiệp đã tạo nên những thay đổi cơ bản về giai tầng trong xã hội. Các đô thị ra đời và ngày càng mở rộng, cùng với đời sống của tầng lớp thị dân với những sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật khác ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây đã tạo nên một diện mạo mới cho đời sống xã hội lúc bấy giờ. Chính sách giáo dục với việc từng bước bãi bỏ thi cử Nho học và xây dựng các trường học Pháp - Việt khắp ba miền tạo nên đội ngũ trí thức mới, và thúc đẩy lớp trí thức cựu học thay đổi tư duy, chuyển mình bắt kịp xu thế biến đổi của thời đại. Hơn nữa, nhờ sự phổ biến chữ Quốc ngữ vào trong đời sống, trong giáo dục mà sự phát triển của văn học Quốc ngữ được tiến nhanh hơn một bước. Giai đoạn này chứng kiến sự hình thành một lực lượng đông đảo các tác giả sáng tác văn học chủ yếu với tư cách nhà văn - ký giả, ký giả - nhà văn. Cùng với sự hình thành công chúng văn học mới và quá trình thay đổi ý thức của người cầm bút, tác động của báo chí, công nghệ in ấn, xuất bản và phát hành cũng như phong trào dịch thuật văn chương sôi động là những tiền đề hình thành và phát triển thể loại văn xuôi Quốc ngữ. Trong bối cảnh Nho giáo - một hệ tư tưởng từng là rường cột của chế độ phong kiến Việt Nam nhiều thế kỷ - đã trở nên lạc hậu và không còn giúp ích gì nhiều cho quá trình canh tân và phát triển đất nước, nhất là cho việc giải phóng dân tộc bị phê phán kịch liệt thì sự thay đổi đó của các tác giả
  16. 14 Nho học - Tân học như Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Trọng Thuật, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà và Ngô Tất Tố là một xu thế tất yếu. Chƣơng 3 TÁC GIẢ NHO HỌC- TÂN HỌC VỚI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ TRÊN PHƢƠNG DIỆN HỆ THỐNG ĐỀ TÀI - CHỦ ĐỀ VÀ TỔ CHỨC KẾT CẤU CỐT TRUYỆN 3.1. Hệ thống đề tài – chủ đề 3.1.1. Đề tài – chủ đề về đạo đức, luân lý xã hội Đây được coi như một chủ đề mang tính đặc trưng trong tiểu thuyết Quốc ngữ của loại hình tác giả Nho học - Tân học. Đạo đức nhà Nho coi trọng nhân nghĩa, coi trọng “tam cương ngũ thường” hàng nghìn năm đã ăn sâu trong tâm thức xã hội. Trong thời đoạn tiếp xúc và va chạm với văn hóa, tư tưởng phương Tây, thì đạo đức Nho gia càng thể hiện tính hai mặt: cái lạc hậu lỗi thời và cái còn khả thủ. Các tác giả Nho học - Tân học hướng nội dung tác phẩm của mình đến sự ca ngợi đạo lý truyền thống dân tộc ta; ca ngợi một cách nhiệt thành, mãnh liệt tư tưởng vì nghĩa và thái độ phê phán, tố cáo, căm thù, chế giễu, mỉa mai các hiện tượng phi nghĩa… 3.1.2. Đề tài - chủ đề về phê phán xã hội Đây là những phương diện chủ đề tư tưởng khá phù hợp với cảm hứng đạo đức và phê phán xã hội của nhà nho nói chung, nhất là trong những xã hội thù địch với họ và với lợi ích dân tộc. Nhìn ở một góc độ khác, trong gia đình, ông bà, cha mẹ vì coi trọng đồng tiền mà đẩy cháu con, anh chị em mình vào vòng khổ ải, trầm luân. Dưới cái nhìn của các Nho học - Tân học, mối quan hệ trong gia đình bị chi phối bởi đồng tiền được phản ánh sinh động, giàu sức tố cáo. Chủ đề phản ánh xã hội, lên án những hiện tượng xấu xa, tiêu cực, coi trọng đồng tiền là một chủ đề mang tính phổ quát trong văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Phản ánh hiện thực cuộc sống là một trong những khuynh hướng chủ đạo, góp phần đạt tới những đỉnh cao nghệ thuật mà tiêu biểu là trào lưu văn học hiện thực phê phán mà Ngô Tất Tố cũng là một trong những tác giả tiêu biểu. 3.1.3. Đề tài - chủ đề về tình yêu và hôn nhân gia đình Một trong những điểm dễ nhận thấy ở tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học đó là chủ đề tình yêu nam nữ và hôn nhân gia đình được đề cập khá thường xuyên. Bên cạnh những cuộc tình mang màu sắc bi kịch
  17. 15 trong nhóm tác phẩm có khuynh hướng hiện thực của Hồ Biểu Chánh thì các tác giả Nho học - Tân học tỏ ra rất hứng thú, say mê khi kể về những cuộc tình đẹp đẽ, bay bổng, lãng mạn. Việc đề cập đến chữ “tình”, tức là đề cập đến tình cảm đôi lứa với màu sắc diễm lệ, thái độ trân trọng đã làm cho tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học có hơi hướng gần với văn chương của loại hình nhà nho tài tử trước đó. Chủ đề tình yêu và hôn nhân gia đình đem đến những âm hưởng lãng mạn, những cung bậc cảm xúc chân thật trong văn chương tác giả Nho học - Tân học… 3.2. Tổ chức kết cấu cốt truyện 3.2.1. Kết cấu cốt truyện vay mượn Các nhà văn vay mượn cốt truyện là một biểu hiện cho thấy quá trình tìm hướng đi cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỉ XX. Việc vay mượn cốt truyện trong sáng tác của đội ngũ các tác giả Nho học - Tân học cũng tồn tại nhiều xu hướng khác nhau. Một số sáng tác của các tác giả Nho học - Tân học có xu thế dựa vào cốt truyện của thể loại truyện thơ Nôm để mô phỏng, phóng tác thành các tiểu thuyết có quy mô phản ánh rộng lớn theo tư duy tiểu thuyết phương Tây. Việc các tác giả Nho học - Tân học vay mượn yếu tố cốt truyện vừa thể hiện tính kế thừa tư duy nghệ thuật truyền thống vừa cho thấy khát vọng hướng đến lối viết hiện đại, tinh thần học tập tiểu thuyết phương Tây đang hiện hữu và ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn học đương thời. Đó là một quá trình hết sức quan trọng, hợp quy luật phát triển của một nền văn học giai đoạn giao thời. Sự học tập được bắt đầu từ mô phỏng, vay mượn, tiến đến sự sáng tạo độc lập, tự thân. 3.2.2. Kết cấu cốt truyện sáng tạo Đây là những tác phẩm hoàn toàn do tác giả hư cấu trên nền của hiện thực đời sống. Đọc các tiểu thuyết này sẽ nhận thấy các nhà tiểu thuyết Quốc ngữ tân học đã có ý thức sáng tạo độc lập. Từ hệ thống nhân vật, không - thời gian đến hệ thống các tình tiết, biến cố hoàn toàn mang tính hư cấu. Từ cuộc kiếm tìm và xây dựng cốt truyện theo truyện Tàu, tiểu thuyết trinh thám, du kí phương Tây hay mượn tư duy cốt truyện truyện Nôm cho đến sáng tác những tác phẩm có cốt truyện hoàn toàn độc lập đã cho thấy khát vọng tìm kiếm, sáng tạo và sự đóng góp hết sức đáng ghi nhận của đội ngũ tác giả Nho học - Tân học cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
  18. 16 Tiểu kết Chƣơng 3 Có thể khẳng định rằng, trong tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học, hệ thống đề tài - chủ đề và tổ chức kết cấu cốt truyện có nhiều điểm đặc sắc. Ở phương diện đề tài - chủ đề, luận án đã tiến hành khảo sát những tiểu thuyết tiêu biểu và tiến hành mô tả, luận giải ba hệ thống chính là: đề tài - chủ đề về đạo đức, luân lý xã hội; đề tài - chủ đề về phê phán xã hội và đề tài - chủ đề về tình yêu, hôn nhân gia đình trong sự đối sánh với các nhà văn cùng thời để thấy được những tương đồng, khác biệt và sự cách tân của tác giả Nho học - Tân học. Đây là ba hệ đề tài - chủ đề khá tập trung, tạo thành nét riêng biệt nhất định, có tính hệ thống và ít nhiều có sự vận động từ Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà đến Nguyễn Trọng Thuật và đặc biệt là kết tinh ở Ngô Tất Tố. Riêng đối với chủ đề phê phán xã hội, theo nghiên cứu của chúng tôi chính là sự tiếp nối tinh thần phê phán xã hội trong văn học truyền thống (đặc biệt là của chủ nghĩa nhân văn thế kỷ XVIII, nửa đầu XIX và thơ trào phúng nửa cuối thế kỷ XIX), cùng với tinh thần phê phán xã hội của văn học hiện thực phương Tây. Tinh thần phê phán này tỏ ra khá phù hợp với cảm hứng đạo đức và phê phán xã hội của tác giả nhà nho, nhất là trong bối cảnh của những xã hội thù địch với họ và với lợi ích của dân tộc. Nội dung phản ánh của các chủ đề trên từng bước xa dần tính chất “tải đạo”, khuôn mẫu của văn học truyền thống để tiến gần đến đời sống hiện thực, đến việc phản ánh một cách chân thực đời sống xã hội lúc bấy giờ. Còn về phương diện tổ chức kết cấu cốt truyện, các tác giả Nho học - Tân học đã có sự kết hợp giữa truyền thống tự sự giai đoạn trước với những cách tân theo kịp bước tiến của thời đại. Về cốt truyện tiểu thuyết Quốc ngữ, bên cạnh những cốt truyện vay mượn, các tác giả Nho học - Tân học cũng xây dựng được khá nhiều cốt truyện sáng tạo độc lập và trên hết, ở phương diện này, dù vay mượn đi chăng nữa, những mảng màu hiện thực cuộc sống xã hội đất nước giai đoạn giao thời đã được khúc xạ qua thế giới nghệ thuật tiểu thuyết. Đây chính là một điểm đóng góp rất đáng ghi nhận của đội ngũ tác giả này đối với truyền thống thể loại nói riêng, lịch sử văn học dân tộc nói chung.
  19. 17 Chƣơng 4 TÁC GIẢ NHO HỌC- TÂN HỌC VỚI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX TRÊN PHƯƠNG DIỆN XÂY DỰNG HỆ THỐNG NHÂN VẬT, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ 4.1. Xây dựng hệ thống nhân vật 4.1.1. Một số loại hình nhân vật tiêu biểu 4.1.1.1. Nhân vật là con người đạo đức, có tình có nghĩa Con người đạo đức, có tình có nghĩa là hình tượng nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học như Nguyễn Chánh Sắt và Hồ Biểu Chánh. Qua khảo sát và mô tả, chúng tôi cho rằng, kiểu nhân vật với đặc điểm là có tư chất, phẩm cách đạo đức, lối sống trọng nghĩa trọng tình là một kiểu nhân vật mang đặc trưng rõ nét trong sáng tác tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học đầu thế kỷ XX. 4.1.1.2. Nhân vật là con người tài tử mang ảo mộng thoát ly Có thể nói rằng so với các loại hình tượng con người khác mà luận án khảo sát, hình tượng con người tài tử mang ảo mộng thoát ly có phần mờ nhạt hơn. Khảo sát tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học, chúng tôi thấy hình tượng con người tài tử mang ảo mộng thoát ly xuất hiện đậm nét nhất là trong các sáng tác của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Nhân vật là con người tài tử mang mộng ảo thoát ly vốn như một sản phẩm mang tính thời đại lúc bấy giờ đã được các tác giả Nho học - Tân học khắc họa khá sinh động trong sáng tác của mình. 4.1.1.3. Nhân vật là con người bị áp bức, bóc lột đến cùng cực Qua khảo sát, có thể khẳng định, hình tượng con người bị áp bức, bóc lột đến cùng cực trong tiểu thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học những năm đầu thế kỷ XX đã có quá trình vận động và phát triển phù hợp với quy luật chung. Kiểu nhân vật này đã đi từ những con người bị áp bức do quan niệm lễ giáo phong kiến, những quy định bất công trong gia đình người Việt xưa đến những con người bị áp bức do hoàn cảnh lịch sử - xã hội đương thời. 4.1.1.4. Nhân vật là con người bị tha hóa và tầng lớp quan lại, địa chủ Kiểu nhân vật này xuất hiện trong Nghĩa hiệp kỳ duyên, Lòng người nham hiểm của Nguyễn Chánh Sắt, Đại nghĩa diệt thân, Tiền bạc bạc tiền, Đóa hoa tàn… của Hồ Biểu Chánh và đặc biệt là trong Tắt đèn của Ngô Tất
  20. 18 Tố… Nhìn chung, dưới cái nhìn của các tác giả Nho học - Tân học, hình tượng những con người bị tha hóa về đạo đức trước những cám dỗ của đồng tiền, của những hưởng lạc vật chất tầm thường cũng như những quan lại, địa chủ, cường hào lúc bấy giờ đã hiện lên một cách khá sinh động. Hướng đến cảm hứng phê phán những nhân vật như vậy, các tác giả Nho học - Tân học mong muốn bảo vệ đạo đức luân lý cũng như duy trì một trật tự xã hội tốt đẹp trong buổi giao thời. 4.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 4.1.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và nhân thân nhân vật Trước hết là vấn đề miêu tả chân dung và liệt kê nhân thân của các loại hình nhân vật. Bút phát này đã được các tác giả Nho học – Tân học kế thừa từ văn học trung đại và có bước phát triển mới hơn. Cùng với đó là thủ pháp mờ hóa chân dung nhân vật cũng là một điểm nổi bật của tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX. 4.1.2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Việc nhà văn chú ý đến đời sống tâm lí của nhân vật cũng cho thấy nỗ lực tiến bộ của đội ngũ tác giả Nho học - Tân học trong việc hướng ngòi bút đến vùng hiện thực bên trong con người - một phạm trù mà tiểu thuyết hiện đại đặt ra và không ngừng khám phá. Trong đó việc miêu tả tâm lí thông qua bút pháp “tả cảnh ngụ tình” và miêu tả tâm lí một cách trực tiếp thông qua ngôn ngữ nghệ thuật là những đặc điểm nổi bật của các tác giả Nho học – Tân học đầu thế kỷ XX. 4.2. Giọng điệu nghệ thuật 4.2.1. Giọng điệu triết lí, giáo huấn Xuất hiện trong bối cảnh giao thời, lí tưởng Nho giáo vẫn in đậm trong tư duy nghệ thuật của đội ngũ Nho học - Tân học. Những quan niệm về đạo đức, con người và cuộc sống xã hội của Nho giáo vẫn tồn tại trong các tiểu thuyết của loại hình tác giả này, biểu hiện rõ nhất qua loại hình giọng điệu triết lí, giáo huấn. Triết lí là cách nhìn nhận thế giới bằng những quan niệm, chuẩn mực đạo đức của nhà nho. Giáo huấn xuất phát từ ý thức của nhà nho khi họ quan niệm trí thức Nho học là tầng lớp tinh hoa của xã hội. Người trí thức am hiểu lễ nghĩa và ý thức rất cao trách nhiệm dùng “đạo” của thánh nhân để dạy giỗ kẻ thứ dân. Trí thức Nho học giữ vai trò trung tâm, là người giúp đỡ triều đình chăn dắt và mở mang phong hóa cho
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2