intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế "Chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam" được nghiên cứu với mục tiêu: Phân tích chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, luận án đề xuất quan điểm, và giải pháp hoàn thiện chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam tới năm 2025, tầm nhìn 2035.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự chủ đại học được hiểu là sự biến đổi mối tương quan giữa Nhà nước với cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) công lập theo tinh thần phát huy truyền thống tự do học thuật và quản trị đại học trên tất cả các mặt chuyên môn, tổ chức, tài chính, nhân sự. Tự chủ đại học thúc đẩy cắt giảm các can thiệp trực tiếp từ cơ quan công quyền đến hoạt động của cơ sở giáo dục đại học công lập; hay cũng chính là thúc đẩy giảm bớt sự phụ thuộc của cơ sở GDĐH vào Nhà nước. Ở Việt Nam, chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học đã được thể hiện trong Luật giáo dục năm 2005, Luật giáo dục đại học năm 2012, điều lệ của trường đại học, các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, các văn bản của Bộ giáo dục và các bộ ngành khác ở trung ương…. Gần 20 năm từ khi ban hành những chính sách thúc đẩy phát triển giáo dục đại học, chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập; đến thời điểm hiện nay, chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam vẫn đang là chủ đề nóng, với nhiều ý kiến và bàn luận sôi nổi. Đó là tình trạng không thống nhất giữa các văn bản ban hành của Chính phủ làm ảnh hưởng đến việc triển khai tự chủ ở các cơ sở giáo dục đại học; là sự không thống nhất giữa các văn bản của chính phủ với các quy định của Đảng về nhân sự (Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, Nghị quyết số 516-NQ/BCSĐ ngày 24/9/2019 của Ban Cán sự đảng Bộ GDĐT về việc phân cấp xem xét, phê duyệt quy hoạch cán bộ của các cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ GDĐT); những Luật được Quốc hội ban hành với Nghị định của chính phủ (Luật 34/QH14 có sự không thống nhất với Nghị định 120/2020 về thẩm quyền thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập); đó còn là sự không thống nhất giữa những Nghị định, Thông tư của chính phủ (Nghị định số 99/2019/NĐ-CP và Thông tư số 33/2005/TT-BGD&ĐT về chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các cơ sở giáo dục công lập, đặc biệt là vị trí chủ tịch hội đồng trường); hay là những văn bản mà nội hàm chính sách tự gây vướng mắc cho quá trình thực thi (Luật GDĐH chưa quy định về nhiệm kỳ, thời hạn bổ nhiệm đối với các chức vụ thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của hiệu trưởng thì sẽ theo nhiệm kỳ của hiệu trưởng hay theo quy định của Luật viên chức)… Khi chưa giải quyết được những vấn đề bất cập này, chính sách tự chủ đại học còn đem đến những vướng mắc đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, làm cản trở sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên chủ đề “Chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn xứng tầm với nghiên cứu của một luận án tiến sĩ ngành Quản lý kinh tế.
  2. 2 2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Về mục tiêu chung: Trên cơ sở phân tích chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, luận án đề xuất quan điểm, và giải pháp hoàn thiện chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam tới năm 2025, tầm nhìn 2035. Về mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về chính sách đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động trong bối cảnh tự chủ. - Khảo sát thực trạng chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế. - Khảo cứu kinh nghiệm chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học trên thế giới để đánh giá, so sánh chính sách tự chủ đối với cơ sở GDĐH công lập của Việt Nam với các các quốc gia đi theo mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học trên thế giới. - Từ những đánh giá về hạn chế và nguyên nhân, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, luận án kiến nghị và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, tác giả tập trung trả lời câu hỏi nghiên cứu sau được thiết lập: 1) Chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam đã được điều chỉnh như thế nào từ sau khi Chính phủ bàn hành Nghị quyết 14/2005/NQ- CP về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. 2) Các phân hệ của chính sách tự chủ đại học có tác động khác nhau như thế nào đối với tình trạng tự chủ đại học ở các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam? 3) Chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam có những điểm gì giống và khác với chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở các quốc gia vận dụng mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học? 4) Những bất cập hiện hành trong nội hàm chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam nên được điều chỉnh ra sao trong những năm tới?
  3. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Vì các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trực thuộc các chủ thể quản lý khác nhau. Chính vì vậy để nghiên cứu tác động của chính sách tự chủ đến sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, nghiên cứu này đã lựa chọn các nhóm cơ sở giáo dục đại học công lập khác nhau để tiến hành nghiên cứu thực địa. Các nhóm trường được lựa chọn là hệ thống cơ sở giáo dục đại học trực thuộc đại học quốc gia, hệ thống cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, hệ thống cơ sở giáo dục đại học trực thuộc các bộ ngành ở trung ương, và hệ thống cơ sở giáo dục đại học trực thuộc chính quyền tỉnh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Do chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, theo các nghiên cứu được công bố ở trong và ngoài nước, được xem xét với 4 phân hệ. Nghiên cứu này do đó, cũng xác định chính sách tự chủ đại học cũng bao gồm 4 phân hệ, cụ thể là: chính sách tự chủ về bộ máy, chính sách tự chủ về tài chính, chính sách tự chủ về đào tạo/học thuật, chính sách tự chủ về nhân sự. 4. Khung nghiên cứu ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH TỰ CHỦ ĐỐI VỚI Chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG công lập LẬP  Căn cứ  Mục tiêu  Về nội hàm chính sách bộ phận  Chủ thể ban hành  Tính khác biệt  Nguyên tắc  Tính đồng bộ  Chính sách bộ phận  Tính bất cập, hạn chế  Chính sách tự chủ bộ máy  Mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục  Chính sách tự chủ tài chính đại học công lập dưới ảnh hưởng của  Chính sách tự chủ đào tạo, học thuật các chính sách bộ phận  Chính sách tự chủ nhân sự QUAN ĐIỂM VỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Yếu tố ảnh hưởng đến chính sách tự chủ đại học  Từ năng lực hoạch định và thực thi chính sách Kiến nghị giải pháp hoàn thiện  Từ môi trường vĩ mô chính sách tự chủ đối với  Từ cơ sở giáo dục đại học công lập các cơ sở giáo dục đại học công lập
  4. 4 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH TỰ CHỦ ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 1.1. Các nghiên cứu về tự chủ đại học 1.1.1. Các nghiên cứu về tự chủ đại học Tự chủ đại học được hiểu là thoát ra khỏi sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước trong điều hành hoạt động của cơ sở giáo dục đại học. Tự chủ do đó được hiểu trong mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục đại học với nhà nước; tuy nhiên tự chủ đại học còn được hiểu là mối quan hệ hành chính trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu giữa các khoa/bộ môn với bộ phận quản trị nhà trường. Tự chủ được nhìn nhận như là các quyền lực có điều kiện: các trường chỉ có thể có quyền tự chủ khi đã đạt được các chuẩn mực quốc gia hoặc các cơ sở giáo dục đại học được trao quyền tự chủ và chỉ được thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ chính sách mà nhà nước quy định, ban hành. Để có thể tự chủ hay để cơ sở giáo dục đại học được trao quyền tự chủ thì năng lực của cơ sở GDĐH là hết sức cần thiết. 1.1.2. Các nghiên cứu về tự chủ đại học ở các quốc gia theo đuổi mô hình quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học Tự chủ bộ máy, đó là việc cơ sở giáo dục đại học được tự chủ trong các vấn đề từ bộ máy quản lý nhà trường (hội đồng trường và ban giám hiệu) tới các cấu trúc các đơn vị chức năng trực thuộc như phòng/ ban/ khoa. Tự chủ tài chính liên quan không chỉ đến sự tiếp cận của cơ sở giáo dục đại học tới nguồn hỗ trợ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học, mà còn là quyền quyết định sự phân bổ các gói trợ cấp quốc gia đối với giáo dục đại học ở trong nhà trường, hay đó chính sự quyết định về tái phân phổ nguồn thu từ ngân sách cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đại học công lập. Tự chủ học thuật thể hiện mức độ mà cơ sở giáo dục đại học tự mở và đóng các chương trình đào tạo theo các cấp độ đào tạo bậc đại học; tự quyết định nội dung các chương trình đào tạo và lựa chọn ngôn ngữ giảng dạy. Tự chủ về nhân sự đó là việc cơ sở giáo dục đại học được quyền tự quyết về hoạt động tuyển dụng cán bộ, giảng viên phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu cũng như mức thù lao chi trả hàng tháng cho đội ngũ công nhân viên nhà trường. 1.2. Các nghiên cứu về chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập 1.2.1. Chính sách tự chủ về bộ máy: Tại Việt Nam, cấu trúc của tự chủ bộ máy đối với cơ sở giáo dục đại học đang đặt trọng tâm vào hội đồng trường ở trường công, và hội đồng quản trị ở trường tư; coi đây là khâu đột phá trong tự chủ đại học; tuy nhiên thực tế đến năm 2020 vẫn chưa thấy tính hiệu quả của chính sách này.
  5. 5 Mặc dù hiện nay không xuất hiện mâu thuẫn lớn giữa đảng uỷ trường và hội đồng trường; nhưng vẫn tồn tại hai xu hướng (i) các nghị quyết của Đảng uỷ được Hội đồng trường tuân thủ tuyệt đối; (ii) nội dung nghị quyết của Hội đồng trường chưa khớp với định hướng của Đảng. Đó là trường hợp mà theo luật định, cấp phó hiệu trưởng do Chủ tịch Hội đồng trường bổ nhiệm (trường hợp của đại học Cần Thơ); còn theo quy định của Đảng thì cấp uỷ cấp trên quản lý nhân sự đến cấp phó cơ sở (hồ sơ, quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm)… 1.2.2 Chính sách tự chủ tài chính: Tự chủ tài chính theo Luật 34 sẽ tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học sử dụng hiệu quả các nguồn lực về tài chính và nhân sự cũng như các nguồn lực khác. Chính sách chủ tài chính sẽ tạo điều kiện để các trường phát huy các nguồn lực phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo, từ đó giúp cho đối tượng thụ hưởng là sinh viên được học tập trong các chương trình giảng dạy chất lượng cao, có trang thiết bị hiện đại, hữu ích đối với thực hành. Tuy nhiên vấn đề bất cập về chính sách tự chủ tài chính vẫn còn tồn tại đối với các cơ sở chưa hoàn toàn tự chủ trong đảm bảo chi thường xuyên cũng như cả đối với các cơ sở giáo dục đại học đã tự đảm bảo được chi thường xuyên (Mai Ngọc Anh 2019). 1.2.3 Chính sách tự chủ học thuật, đào tạo: Tại các cơ sở giáo dục từng tham gia Nghị định 77, các thủ tục hành chính được cắt giảm, các trường trở nên năng động, linh hoạt trong các tổ chức thực hiện hoạt động. Hệ thống chương trình đào tạo được phát triển đem đến nhiều cơ hội học tập, chương trình học tập cập nhật với thế giới được cung cấp cho người học… Những trường tham gia Nghị định 77 có được cơ hội tốt hơn trong thực hiện tuyển sinh, tăng số lượng tuyển sinh qua các năm. Sự gia tăng của người học đồng nghĩa với tăng ngân sách của nhà trường. Khi tài chính tốt, không chỉ tăng thu nhập của giảng viên, mà nhà trường còn có thêm kinh phí đầu tư thúc đẩy giảng dạy và nghiên cứu khoa học về cả số lượng và chất lượng. Đội ngũ giảng viên được tạo điều kiện để cống hiến cho nhà trường, góp phần vào quá trình phát triển của nhà trường. Bên cạnh đó, cũng còn không ít cơ sở giáo dục đại học công lập đang phải đối mặt với những vấn đề khó khăn trong tuyển sinh và thực hiện đào tạo. Nhiều cơ sở giáo dục đại học để thu hút được sinh viên nhập học đã hạ tiêu chuẩn tuyển sinh. Đi kèm với đó là không thực hiện đào tạo chất lượng cao vì sợ sinh viên không hấp thụ được, không thể đạt được điểm tối thiểu cần thiết cho việc cấp bằng. Một số cơ sở giáo dục đại học còn yêu cầu tỉ lệ sinh viên khá, giỏi, tỷ lệ sinh viên qua được lần thi đầu… và coi đó là thước đo đánh giá chất lượng giảng dạy. Những hệ luỵ từ công tác tuyển sinh rồi đào tạo ở nhóm trường top dưới đang làm gia tăng tình trạng nhân lực của nhà trường bị biến động. Nhiều giảng viên với thu nhập thấp đã tìm cơ hôi việc làm ở môi trường có thu nhập cao hơn. Sự ra đi
  6. 6 của những giảng viên giỏi góp phần thúc đẩy tình trạng bất ổn trong tuyển sinh, thực hiện tự chủ tài chính, tự chủ đào tạo ở các trường đại học thuộc nhóm dưới (Mai Ngọc Anh, 2020). 1.2.4 Chính sách tự chủ nhân sự: Tại Việt Nam, trước khi luật viên chức được ban hành đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, các cơ sở giáo dục đại học công lập nói riêng, thực hiện quyền tự chủ về nhân sự theo điều 6 Nghi định 16/2015/NĐ-CP. Nói cách khác, các cơ sở giáo dục đại học công lập trước năm 2020 có quyền tự chủ đối với việc tuyển dụng, sa thải cán bộ, giảng viên theo nguyên tắc đảm bảo nhân lực phục vụ hoạt động chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương và mức lương từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp. Nói cách khác về vấn đề nhân sự, các trường đại học công lập được trao quyền tự chủ trong việc ban hành và tổ chức thực hiện theo quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm, tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức, người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật. Nghiên cứu của Phan Thị Lan Hương và Nguyễn Thị Thanh Tú (2020) cũng đã chỉ ra những bất cập trong thực hiện chính sách tự chủ về nhân sự tại các cơ sở giáo dục đại học chưa tự chủ về chi thường xuyên. Khi mà những cơ sở này “không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp”, điều này làm cho những cơ sở này mất đi quyền tự chủ về nhân sự. Không tự chủ về nhân sự, sẽ ảnh hưởng đến năng lực tuyển sinh khi mà số lượng giảng viên cơ hữu là một trong những tiêu chí để xác định chỉ tiêu tuyển sinh của cơ sở giáo dục đại học. 1.3. Nhận xét chung và khoảng trống nghiên cứu Qua việc khảo cứu các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, có thể thấy các nghiên cứu đã giải quyết được những vấn đề: Thứ nhất, đa số các công trình nghiên cứu đều tập trung vào khía cạnh tự chủ đại học của cơ sở GDĐH dưới nhiều giác độ như lý thuyết về tự chủ đại học, mô hình đại học tự chủ, chính sách tự chủ đại học, các chính sách hợp phần của tự chủ đại học như chính sách tự chủ tài chính, chính sách tự chủ tổ chức và quản lý, chính sách tự chủ học thuật hoặc dưới giác độ so sánh mô hình tự chủ giữa các khu vực giáo dục với nhau. Chính vì vậy, một số nội dung lý thuyết đã được phân tích, đánh giá khá kỹ càng như khái niệm tự chủ, chính sách tự chủ đại học; nội dung, những thành tố của tự chủ trong các cơ sở GDĐH; những phân hệ của chính sách tự chủ đại học. Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, tự chủ của các trường đại học là quyền tự quyết của nhà trường trong các vấn đề trọng tâm là học thuật, tài chính và tổ chức; các chính sách tự chủ đại học góp phần thúc đẩy để các cơ sở giáo dục gặt hái được những thành công,
  7. 7 cũng như tạo ra những rào cản nhất định đối với quá trình thực hiện tự chủ đại học. Nhà nước với vai trò quản lý tầm vĩ mô, đã xây dựng thể chế để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ, qua đó góp phần thực hiện kiểm soát hoạt động thay vì can thiệp sâu vào các vấn đề mà nhà trường có thể tự quyết như chương trình đào tạo, tổ chức quản lý, quy trình ra quyết định… Mặc dù có những kiến nghị đánh giá về thực hiện tự chủ từ các cơ sở giáo dục đại học, nhưng đó là những phản ánh mang tính cá nhân, đơn lẻ, còn việc xem xét, đánh giá nhận thức của các đối tượng thụ hưởng là cán bộ, giảng viên các trường đại học theo quy mô lớn, dựa trên điều tra phỏng vấn vẫn chưa được công bố trên các tạp chí lớn. Đây là một trong những khoảng trống nghiên cứu mà đề tài luận án sẽ tiến hành thực hiện. Thứ hai, nhiều công trình khảo cứu trong nước đã định hướng, cung cấp một số nội dung theo quy định của pháp luật về tự chủ của các trường đại học. Đến thời điểm hiện tại, sau khi ban hành luật giáo dục đại học sửa đổi, luật 34, rồi nghị định 99, chính phủ, bộ giáo dục còn ban hành một số chính sách mới liên quan đến tự chủ đại học như Thông tư 02/2021/TT-BGDDT, Nghị định 60/NĐ-CP được ban hành liên quan đến việc các cơ sở giáo dục đại học được ấn định mức độ tự chủ tài chính khác nhau trong bối cảnh mới.., Tuy nhiên việc đánh giá thực với các cơ sở gíao dục đại học tham gia Nghị định 77 vẫn chưa được thực hiện. Mặc dù đã có những nghiên cứu so sánh từng được công bố về tự chủ đại học giữa các quốc gia theo đuổi mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học; cũng như đã có những gợi ý để hoàn thiện chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam từ nghiên cứu so sánh các mô hình này, tuy nhiên nghiên cứu về chính sách tự chủ đại học giữa Việt Nam với các quốc gia Đức, Pháp, Trung Quốc, là chưa từng được công bố. Đây là một trong những khoảng trống nghiên cứu mà đề tài luận án sẽ tiến hành thực hiện. Cuối cùng, trên cơ sở rà soát những chính sách hiện hành, những đánh giá của các bên liên quan, so sánh với kinh nghiệm quốc tế, đề tài tiến hành đề xuất những khuyến nghị giải pháp hoàn thiện các chính sách hiện hành về tự chủ đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong giai đoạn tới. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH TỰ CHỦ ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 2.1. Đại học, cơ sở giáo dục đại học công lập và tự chủ đối với cơ sở giáo dục đại học công lập 2.1.1. Đại học Giáo dục đại học là quá trình mà người học được đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, mức tự chủ và trách nhiệm, giúp người học đạt được mục tiêu đầu ra về phẩm chất, năng lực theo khung trình độ quốc gia bậc đại học; tạo điều kiện để
  8. 8 người học hoàn thiện bản thân cững như góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển xã hội, tổ quốc. 2.1.2. Cơ sở giáo dục đại học công lập Cơ sở giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, thực hiện các mục tiêu đào tạo người học để nhận bằng ở các trình độ cao đẳng, cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ nhằm đạt được khung trình độ với những yêu cầu đầu ra đã được xác định (Quốc Hội, 2012). Tuy nhiên quan điểm về cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam đã được điều chỉnh “Cơ sở giáo dục đại học là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, hoạt động khoa học và công nghệ, phục vụ cộng đồng” (Quốc Hội, 2018). 2.1.3. Tự chủ đại học Tự chủ đại học là yếu tố cốt lõi của nền giáo dục hiện đại, nó thúc đẩy sự phát triển hệ thống theo sự vận động mang tính quy luật tự nhiên trong môi trường giáo dục toàn cầu hóa cạnh tranh lành mạnh có định hướng của nhà nước và được đảm bảo bằng hệ thống kiểm soát chất lượng chặt chẽ. Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm chính là chìa khóa cho đổi mới quản lý giáo dục đại học, giúp giải quyết hàng loạt các vấn đề cần giải quyết hiện nay cũng như trong tương lại. Tự chủ đại học do đó được biết đến với các trụ cột sau: Tự chủ bộ máy, tự chủ tài chính, tự chủ học thuật và tự chủ nhân sự. 2.2. Chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập 2.2.1. Khái niệm chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập Chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập là những quyết định của nhà nước về việc cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập được quyền làm gì và không được quyền làm gì cũng như bắt buộc phải thực hiện những hoạt động gì trong quản lý điều hành nhà trường. Do có nhiều quan điểm về chính sách tự chủ đại học, trong luận án này, với các tiếp cận của tự chủ đại học gồm 4 hợp phần, luận án do đó cho rằng, chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập là chính sách được Đảng, nhà nước ban hành liên quan đến 4 trụ cột của tự chủ đại học. Nói cách khác, chính sách tự chủ đại học gồm 4 phân hệ: (i) chính sách tự chủ về bộ máy; (ii) chính sách tự chủ về tài chính; (iii) chính sách tự chủ về học thuật, đào tạo; (iv) Chính sách tự chủ về nhân sự. 2.2.2. Căn cứ ban hành chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập Từ thể chế chính trị và chính sách của nhà nước Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học, hệ thống luật, các nghị, định nghị quyết thông tư là cơ sở để giám sát sự điều hành, quản lý việc thực hiện phát triển giáo dục của các cơ sở giáo dục đại học, cũng như có những điều chỉnh về
  9. 9 định hướng chiến lược trong quá trình phát triển giáo dục đại học dựa trên kết quả phát triển của từng cơ sở trong tổng thể hệ thống giáo dục đại học. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ để cơ quan quản lý nhà nước thực hiện những điều tiết vĩ mô đối với sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học. Trong khi đó, các cơ sở giáo dục đại học nhìn vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giáo dục đại học để biết được mình được làm gì, được quyền chủ động đến đâu trong phát triển các cơ sở giáo dục đại học. Quan điểm, chính sách của nhà nước do đó là kim chỉ nam không chỉ đối với các cơ quan quản lý điều hành hệ thống giáo dục đại học mà còn là cẩm nang hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học tham gia và tạo ra những sản phẩm trực tiếp từ giáo dục đại học. Từ thực tiễn phát triển của hệ thống giáo dục đại học Thực trạng hệ thống giáo dục đại học không chỉ phản ánh kết quả thực hiện chính sách hiện hành mà còn là căn cứ để tiến hành điều chỉnh các giải pháp nhằm giúp đạt được mục tiêu chính sách đặt ra, cũng như có những phương án thay thế thỏa đáng. Sự phát triển về số lượng, chất lượng và mạng lưới bao phủ hiện hành của các cơ sở giáo dục đại học là căn cứ để các cơ quan quản lý nhà nước có được căn cứ không chỉ để đánh giá mức độ hợp lý, phù hợp của các biện pháp hiện hành, cũng như việc phân bổ nguồn lực tài chính, con người cho quá trình thực hiện mà kết quả này còn là những bằng chứng sống động phản ánh sự quản lý, điều hành và tính hợp lý của nội hàm chính sách. 2.2.3. Chủ thể ban hành chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập Dựa vào hệ thống luật pháp cũng như văn bản pháp quy trong quản lý điều hành hệ thống giáo dục đại học, chủ thể ban hành những chính sách này do đó bao gồm cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. 2.2.4. Mục tiêu chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập Mục tiêu của chính sách tự chủ đại học có những nội dung mang tính nguyên tắc chi phối chung, có những mục tiêu mang tính riêng đối với từng chủ thể. Các mục tiêu mang tính nguyên tắc chung sẽ chi phối các mục tiêu riêng của các chủ thể. Mục tiêu chung của chính sách tự chủ đại học là tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao chất lượng nền giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực trình độ cao của đất nước trong giai đoạn phát triển mới – phát triển theo chiều sâu, thích ứng với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 2.2.5. Các phân hệ của chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập Do các trụ cột của tự chủ đại học liên quan đến 4 vấn đề (i) bộ máy, (ii) tài chính, (iii) học thuật và (iv) nhân sự nên các hợp phần của chính sách tự chủ đối với cơ sở giáo dục công lập được thể hiện thông qua các văn bản quy định của pháp luật cũng hướng đến 4 trụ cột này. 2.2.6. Tiêu chí đánh giá chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập
  10. 10 Thứ nhất, tính khác biệt, tiêu chí này phản ánh sự khác biệt trong các phân hệ của chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam với các phân hệ chính sách tự chủ ở các quốc gia đi theo mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học mà đại diện tiêu biểu là Đức, Pháp, Trung Quốc. Thứ hai, tính đồng bộ, tiêu chí này phản ánh sự nhất quán giữa các chính sách liên quan đến tự chủ đại học được ban hành bởi nhiều chủ thể khác nhau. Nói cách khác, khi xem xét tính đồng bộ của chính sách qua các văn bản quy phạm pháp luật, luận án đem đến cho người đọc thấy sự không nhất quán của các chính sách được ban hành bởi các chủ thể khác nhau. Thứ ba, tính bất cập, hạn chế của chính sách, đó là những vấn đề chính sách hợp phần của chính sách tự chủ đại học đã và đang gây ra khó khăn cho các đối tượng thụ hưởng trong triển khai tự chủ đại học Thứ tư, cảm nhận của đối tượng thụ hưởng về mức độ tự chủ đại học thông qua các chính sách hợp phần, tiêu chí này được đo lường qua đánh giá của đối tượng điều tra về nhận thức của họ về tình trạng tự chủ tại cơ sở giáo dục đại học mà họ đang công tác theo từng hợp phần của tự chủ đại học. Do thời điểm điều tra là năm 2021 nên vấn đề tự chủ đại học đã được luật hoá, sự khác biệt giữa các cơ sở giáo dục đại học có tham gia Nghị định 77 hay chưa tham gia Nghị định 77 đều bình đẳng về mặt pháp lý trong thực hiện tự chủ đại học. Cảm nhận của đối tượng điều tra phản ánh sự hiểu biết của họ về tự chủ đại học trong bối cảnh chính sách tự chủ đại học đem đến cơ hội tự chủ gần như ngang nhau giữa các loại hình trường. Thứ năm, mức độ tự chủ dưới tác động của các phân hệ chính sách tại các cơ sở giáo dục đại học công lập. Tuchu = b0 + b1F1 +b2F2 + b3F3 +b4F4 + ei Trong đó, F1, F2, F3, F4: là biến độc lập thể hiện mức độ tự chủ về tài chính, bộ máy, nhân sự, học thuật một cách tương ứng. Thông qua việc sử dụng bài toán hồi quy, luận án chỉ ra các tác động khác nhau của các chính sách hợp phần đến tình trạng tự chủ đại học. 2.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập Thứ nhất, năng lực hoạch định và thực thi chính sách. Năng lực của bộ máy xây dựng và ban hành chính sách là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến việc nội dung chính sách được hoạch định với những mục tiêu và phương án đạt được mục tiêu của chính sách nói chung, chính sách tự chủ đại học nói riêng. Bộ giáo dục được giao nhiệm vụ và trách nhiệm trong phát triển giáo dục, căn cứ vào những nghị định, nghị quyết, thông tư hướng dẫn của quốc hội, chính phủ để xây dựng chính sách tự chủ cho các cơ sở
  11. 11 giáo dục đại học, thậm chị đây cũng là cơ quan chất bút cho việc ban hành các nghị định, nghị quyết và luật giáo dục đại học. Thứ hai, các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô và bản thân chính sách. Thể chế chính trị, môi trường văn hóa xã hội, sự biến động của nền kinh tế và sự phát triển của khoa học công nghệ là những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học cũng như việc ban hành và điều chỉnh chính sách tự chủ đại học. Thứ ba, bản thân các cơ sở giáo dục đại học. Bản thân năng lực của cơ sở giáo dục đại học là nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ban hành hay điều chỉnh chính sách tự chủ đại học. Bản thân năng lực của cơ sở giáo dục đại học được đo lường thông qua khả năng về tài chính của nhà trường, trình độ đội ngũ cán bộ giảng viên, số lượng sinh viên theo học, danh tiếng của nhà trường trên trường quốc tế và khu vực về học thuật hay việc đào tạo kiến thức kỹ năng của người học trước những đòi hỏi của chủ sử dụng lao động trên thị trường. CHƯƠNG 3. CHÍNH SÁCH TỰ CHỦ ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 3.1. Khái quát về hệ thống giáo dục đại học công lập của Việt Nam Để đẩy mạnh tự chủ, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, Chính phủ Việt Nam đã thúc đẩy sự tham gia của 23 cơ sở giáo dục đại học công lập vào quá trình thực hiện tự chủ theo NQ77/NQ-CP ngày 24/10/2014. Theo đó, 23 cơ sở giáo dục đại học công lập này được quyền chủ động xây dựng khung học phí cho chương trình nâng cao, quyết định mức học phí bình quân của chương trình đại trà nhưng không vượt mức trần học phí do Nhà nước quy định cộng với khoản chi thường xuyên Ngân sách nhà nước cấp bình quân cho mỗi sinh viên công lập trong cả nước. Về cơ cấu quản lý hệ thống giáo dục đại học, năm 2020, trên cả nước có 246 cơ sở giáo dục đại học với 5 đại học, 90 trường đại học trực thuộc bộ và các cơ quan ngang bộ (không kể các cơ sở giáo dục đại học như học viện, đại học trực thuộc chính phủ, trường đại học trực thuộc hệ thống quân đội, cảnh sát), 22 trường đại học công lập do tỉnh quản lý, 65 cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập trong đó có một số cơ sở có 100% vốn đầu tư nước ngoài như Đại học RMIT, Trường Đại học Fulbright, Trường Đại học Anh quốc tại Việt Nam, Trường Đại học Y khoa Tokyo… Việt Nam do đó hoàn thành sớm chỉ tiêu kế hoạch của Quyết định 37. Về phương pháp và hình thức dạy học, nhiều trường đại học chưa tiếp cận phương pháp “lấy người học làm trung tâm”, người thầy vẫn đóng vai trò chủ đạo, người học vẫn rất thụ động và sự tương tác giữa thầy và trò không nhiều. Tình trạng “quá tải” về kiến thức và thay đổi giáo trình liên tục cũng là hậu quả của cách dạy thiên về cung cấp kiến thức cụ thể, trong khi những kiến thức này không ngừng được bổ sung.
  12. 12 3.2 Hệ thống chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam 3.2.1. Căn cứ ban hành chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam Việc ban hành Luật 34 năm 2018 vẫn còn gây những khó khăn trong quá trình thực thi, chính vì thế Chính phủ đã ban hành Nghị định 99 để triển khai thi hành luật. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong quá trình thực hiện quản lý chức năng, khi tiếp cận tới hệ thống quản lý giáo dục đại học ở các quốc gia trên thế giới, và cũng đã tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục đại học cũng đã ban hành một vài thông tư mới trong quản lý đào tạo đại học, thông qua chuẩn hoá các quy định về kiểm định chất lượng, mở ngành đào tạo…. 3.2.2. Chủ thể ban hành chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam Quốc hội là cơ quan dân cử, đồng thời cũng là cơ quan thực hiện quyền lập pháp của Việt Nam. Luật giáo dục đại học được ban hành bởi Quốc họi nhằm chuẩn hoá những phép tắc trong phát triển giáo dục đại học, thúc đẩy tự chủ đại học buộc mọi thành viên phải tuân theo khi tham gia vào lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam. Chính phủ với chức năng hành pháp, trên cơ sở định hướng của Đảng, hệ thống Luật được ban hành bởi Quốc hội đã ban hành các đề án, nghị định cụ thể hoá Luật, định hướng các cơ sở giáo dục đại học công lập triển khai tự chủ. Vụ giáo dục đại học, đơn vị trực thuộc Bộ giáo dục và Đào tạo được trao nhiệm vụ và quyền hạn trong tư vấn lãnh đạo Bộ Giáo dục đại học trong việc ban hành các văn bản chính sách, chiến lược phát triển giáo dục đại học. Không những vậy, đây còn là đơn vị tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ ngành khác ở trung ương trong việc ban hành các thông tư liên tịch liên quan đến giáo dục đại học. 3.3. Các phân hệ của chính sách tự chủ đại học ở Việt nam 3.3.1. Chính sách tự chủ về tổ chức Hội đồng trường được trao quyền quyết định về kế hoạch, chiến lược phát triển dài hạn của cơ sở giáo dục đại học; Quyết định về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các đơn vị của cơ sở giáo dục đại học; Quyết định và trình cơ quan quản lý có thẩm quyền ra quyết định công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm hiệu trưởng trường đại học; bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm phó hiệu trưởng trường đại học trên cơ sở đề xuất của hiệu trưởng trường đại học; tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động hằng năm của chủ tịch hội đồng trường, hiệu trưởng trường đại học; lấy phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch hội đồng trường, hiệu trưởng trường đại học vào giữa nhiệm kỳ hoặc đột xuất theo quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học. 3.3.2. Chính sách tự chủ về tài chính Một là chính sách hiện hành về học phí đối với người học. Hiện tại, ngoại trừ hai nhóm đối tượng được ưu tiên không phải đóng học phí ở các cơ sở giáo dục đại học
  13. 13 công lập: (i) Học sinh, sinh viên ngành sư phạm hệ chính quy đang theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập, theo chỉ tiêu đào tạo của Nhà nước; (ii) Người theo học các ngành chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giáo dục đại học; Các ngành đào tạo đặc thù do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành’ (Điều 6 Nghị định 86) đến 2016, cái này đã được điều chỉnh (theo Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH). Hai là, chính sách tài chính đối với hoạt động dịch vụ và nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học. Đối với các nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước, kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học được chia thành 3 nhóm: (i) Nhóm kinh phí thực hiện đề tài nhiệm vụ khoa học và công nghệ; (ii) Nhóm kinh phí quản lý thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; (iii) Nhóm kinh phí hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học thực hiện nhiệm vụ KH&CN của cơ sở giáo dục đại học. Ba là, chính sách về tiền lương thu nhập của đội ngũ giảng viên, nhân viên cơ sở giáo dục đại học công lập. Sau khi ban hành Nghị định 60/2021/NĐ-CP, thu nhập của người lao động được xác lập khác nhau giữa các đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm cả trường đại học được thực hiện theo quy chế thu chi nội bộ với nguyên tắc: người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu, được trả nhiều hơn. 3.3.3. Chính sách tự chủ về học thuật Về ngành đào tạo bậc đại học, từ năm 2022, việc mở ngành đào tạo, xác định chỉ tiêu tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học được thực hiện theo Thông tư 03/2022/TT-BGDĐT Thông tư quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng ngành giáo dục mầm non, cũng đã đưa ra những quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn đối với các bảng biểu minh chứng về năng lực của cơ sở giáo dục đại học khi đẳng ký mở thêm ngành đào tạo, tăng chỉ tiêu tuyển sinh… Về chỉ tiêu và phương pháp tuyển sinh, việc ban hành Thông tư 03/2022/TT- BGDĐT “quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng ngành giáo dục mầm non” cho thấy, hiện nay cơ sở gíao dục đại học xác định chỉ tiêu tuyển sinh các cấp đào tạo bậc đại học theo từng ngành, nhóm ngành và phải bảo đảm quy mô đào tạo không vượt quá năng lực đào tạo của lĩnh vực đào tạo tương ứng. 3.3.3. Chính sách tự chủ về nhân sự Đến thời điểm hiện tại, tình trạng định biên trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt nam đã được thay thế bằng chế độ hợp đồng lao động. Trong các cơ sở giáo dục đại học công không tất cả các cán bộ, giảng viên bậc đại học đều là viên chức. Những đối tượng này đang ký một trong hai
  14. 14 loại hợp đồng lao động với nhà trường (i) hợp đồng xác định thời hạn và (ii) hợp đồng không xác định thời hạn (Điều 25 Luật Viên chức số 58/2010/QH12). Theo Luật cán bộ, công chức, và luật viên chức sửa đổi năm 2019. Hiện nay, căn cứ theo Luật Lao động ban hành năm 2022, theo đó “Người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định” mà trong đó tuổi quy định nghỉ hưu của người lao động “trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035”. CHƯƠNG 4. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH TỰ CHỦ ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 4.1. Tính khác biệt của chính sách tự chủ đại học của Việt Nam với các quốc gia theo đuổi mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học 4.1.1. Chính sách tự chủ về bộ máy Trong khi Pháp là quốc gia đại diện cho mô hình Napoleon trong quản lý giáo dục đại học, Đức là quốc gia đại diện cho mô hình Humboldt trong quản lý giáo dục đại học, còn Trung Quốc là quốc gia thực hiện duy trì tính cốt lõi của mô hình Xô Viết trong quản lý giáo dục đại học; Đảng ủy trường là cơ quan quản lỳ cao nhất, chịu trách nhiệm toàn diện đối với sự phát triển của nhà trường. Thì mô hình quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay là sự kết hợp của mô hình nhà nước giám sát giáo dục đại học và mô hình Xô Viết trong quản lý giáo dục đại học. Cũng bởi mô hình phối kết hợp trong quản lý giáo dục đại học, nên cơ cấu bộ máy và quyền hạn trách nhiệm của bộ phận này còn chưa thông nhất ở các trường đại học của Việt Nam; và có những nét giống và không giống với mô hình bộ máy quản lý giáo dục đại học ở các quốc gia đang theo đuổi mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học. Ở Việt Nam và Trung Quốc, do mô giáo dục đại học được xây dựng trên nền tảng áp dụng mô hình Xô Viết từ ngày thành lập nước, dù Việt Nam cũng có những thay đổi, điều chỉnh trong quản lý giáo dục đại học để tiếp cận với hệ thống quản trị giáo dục đại học theo mô hình nhà nước giảm sát, những lãnh đạo nhà trường vẫn cần phải được bồi dưỡng lý luận chính trị, và phải đạt được bằng cấp này mới đủ điều kiện bổ nhiệm. Đây cũng là những đặc trung cốt lỗi đối với nhân sự lãnh đạo có bản chất từ mô hình Xô Viết. 4.1.2. Chính sách tự chủ về tài chính Mặc dù việc nhận viện trợ từ ngân sách là phổ biến tại các trường đại học công lập tại Đức và Pháp. Tuy nhiên, nhưng khả năng phân bổ các viện trợ này ở các trường đại học công lập của Đức và Pháp là khác nhau, bởi thể chế chính sách khác nhau. Trong khi các trường công lập tại Đức không phải quan tâm tới bất kỳ sự hạn chế nào
  15. 15 trong việc phân bổ nội bộ các gói viện trợ này, thì các trường đại học công lập ở Pháp tiếp nhận các gói viện trợ về lương, đầu tư và các chi phí vận hành, nhưng họ không được phép sử dụng các quỹ này ngoài mục đích viện trợ ban đầu của từng loại quỹ. Chính sách tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học ở Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với tự chủ tài chính ở các quốc gia châu Âu như Pháp, Đức... Nói cách khác, mặc dù Trung Quốc cho phép các cơ sở giáo dục đại học được quyền thu học phí của người học tại các cơ sở giáo dục công lập, tuy nhiên mức học phí của người học thấp hơn nhiều so với số tiền mà nhà nước cấp bù, hỗ trợ cho quá trình đào tạo đối với một sinh viên Trung Quốc theo học đại học. Tự chủ tài chính giáo dục đại học ở Việt Nam đang được hiểu là việc các trường phải tự lo huy động và phân bổ nguồn tài chính cho phát triển nhà trường. Mức độ tự chủ càng cao, đồng nghĩa với mức độ phụ thuộc của nhà trường vào ngân sách nhà nước càng ít; mức thu học phí càng cao; hay người học trở thành nguồn cung cấp tài chính chính cho sự vận hành của nhà trường. Dù là trường công, trường do nhà nước thành lập, nhưng học phí mà người học chi trả thậm chí còn cao hơn cả những trường tư thục; trong bối cảnh trường được trao quyền tự chủ. Học phí được chính phủ ban hành một cái khung và cho phép các trường thu học phí xung quanh mức quy định tùy vào mức độ tự chủ của nhà trường, hay chương trình đào tạo mà nhà trường quản lý. Nhìn chung học phí mà sinh viên Việt Nam phải tự chi trả đang cao hơn so với học phí tự chi trả của những sinh viên thuộc 3 quốc gia được đem ra so sánh trong nghiên cứu này. 4.1.3. Chính sách tự chủ về đào tạo, học thuật Tại Pháp và Đức các trường đại học công lập được toàn quyền thiết kế nội dung giảng dạy của các chương trình đạo tạo của mình mà không cần so sánh/ đối chiếu hay phụ thuộc bất kỳ chương trình khung hay quy định nào của nhà nước. Các trường đại học công lập tại Đức cũng sử dụng khá nhiều giáo trình quốc tế trong công tác giảng dạy và đào tạo của họ (Vandenbussche, Aghion, & Meghir, 2006). Trước năm 1988 toàn bộ chương trình học và sách giáo khoa ở các cơ sở giáo dục đại học ở Trung Quốc đều do chính quyền trung ương quản lý. Sau cương lĩnh 1993 được ban hành, các chính sách đối với giáo dục đại học ở Trung Quốc đã được cải thiện theo hướng hội nhập, giảm thiểu sự gò bó, kiểm soát điều hành trực tiếp từ cơ quan quản lý nhà nước. Các đại học của Trung Quốc đã chủ động đa dạng hoá việc lựa chọn chương trình đào tạo và sách phục vụ đào tạo, ngoại trừ các môn học liên quan đến ý thức hệ tư tưởng ở bậc đại học. Nhiều giáo trình đào tạo tiên tiến của các nước phương Tây đã được biên dịch và đưa vào giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học ở Trung Quốc. Bên cạnh đó các chương trình liên kết đào tạo giữa đại học của Trung Quốc với các đại học hàng của Mỹ và Châu Âu... đang được tiến hành.
  16. 16 Như vậy cũng giống như Trung Hoa, các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam không được tự chủ trong trang bị kiến thức ý thức hệ tư tưởng đối với các chương trình đào tạo không liên kết; hay các chương trình đào tạo bậc đại học do Việt Nam cấp bằng. Các cơ sở giáo dục đại học chỉ đảm nhận trách nhiệm phát triển các chương trình đào tạo ngoài ý thức hệ tư tưởng; và đây là điểm tương đồng giữa các quốc gia theo đuổi mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học. 4.1.4. Chính sách tự chủ về nhân sự Hệ thống chính sách của Pháp và Đức cho phép, các trường đại học công lập được quyết định một phần trong công tác tuyển dụng nhân lực. Việc tuyển chọn các giáo sư và các nhân viên hành chính có kinh nghiệm thường chịu ảnh hương bởi các quy định cụ thể tại từng quốc gia. Tại Đức và Pháp, các giáo sư và nhà quản lý điều hành trường đại học là công chức, và lương của họ sẽ được quyết định bởi chính phủ. Do mô hình bộ máy quản trị trường đại học ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều phiên bản, nên nhân sự của cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam cũng có những điểm tương đồng và khác biệt so với các quốc gia đang theo đuổi mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học. Giảng viên đại học của Việt Nam có trường là công chức, nhưng cũng có trường là viên chức (trường thuộc khối an ninh, quân đội). Đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường cũng ở trong tình trạng tương tự. Nhìn một cách tổng thể, thì các chính sách bộ phận của tự chủ đại học ở 3 quốc gia được đem ra so sánh với Việt Nam, những quốc gia theo đuổi mô hình nhà nước quản lý giáo dục đại học đều cho thấy, không có sự thống nhất giữa các tiêu chí. Sự không thống nhất này bắt nguồn từ bối cảnh, bởi thể chế chính trị của từng quốc gia. 4.2. Tính đồng bộ của chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam 4.2.1. Chính sách tự chủ về bộ máy Quy định về thành phần tập thể lãnh đạo tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, Nghị quyết số 516-NQ/BCSĐ ngày 24/9/2019 của Ban Cán sự đảng Bộ GDĐT về việc phân cấp xem xét, phê duyệt quy hoạch cán bộ của các cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ GDĐT, chưa phù hợp với Nghị định 115/2020/NĐ-CP gây nên sự không thống nhất trong cách hiểu và thực hiện pháp luật. Về thẩm quyền quyết định công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm hiệu trưởng: Điềm đ, Khoản 2 Điều 16 Luật Giáo dục Đại học quy định: Hội đồng trường quyết định và trình cơ quan quản lý có thẩm quyền ra quyết định công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm hiệu trưởng trường đại học. Tuy nhiên, Quy định Luật viên chức chưa rõ vai trò để Hội đồng trường thực hiện đầy đủ nhiệm vụ theo Luật Giáo dục đại học. 4.2.2. Chính sách tự chủ về tài chính Chưa có sự đồng bộ giữa các quy định của Luật GDĐH với các văn bản dưới Luật về chính sách học phí, chưa có sự đồng bộ giữa các quy định của Luật GDĐH với
  17. 17 các luật và các quy định dưới Luật về “thông qua báo cáo tài chính hàng năm”; chưa có sự đồng bộ giữa các quy định của Luật GDĐH với các luật và các văn bản hướng dẫn khác về chính sách tiền lương, thưởng, quyền lợi khác của chức danh lãnh đạo, quản lý và chưa có sự đồng bộ giữa các quy định của Luật GDĐH với các luật và các văn bản hướng dẫn khác về xác định mức thu dịch vụ tuyển sinh. 4.2.3. Chính sách tự chủ về đào tạo, học thuật Luật GDĐH quy định các cơ sở GDĐH được tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh. Theo quy định tại Quyết định số 18/2017/QĐ-TTg ngày 31/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về liên thông giữa các trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng với trình độ đại học: “Chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo liên thông chính quy, chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo liên thông vừa làm vừa học thuộc tổng chỉ tiêu được xác định hằng năm theo từng ngành đào tạo của cơ sở giáo dục đại học, trong đó chỉ tiêu tuyển sinh liên thông chính quy, chỉ tiêu tuyển sinh liên thông vừa làm vừa học không vượt quá 20% chỉ tiêu tuyển sinh chính quy, chỉ tiêu tuyển sinh vừa làm vừa học tương ứng theo ngành đào tạo” (Khoản 1, Điều 5). Do đó, việc tổ chức tuyển sinh và đào tạo liên thông gặp rất nhiều khó khăn. Thậm chí, có một số ngành không thể tổ chức đào tạo liên thông theo quy định vì không thể tổ chức lớp học với số lượng người học ít ỏi tính trên số chỉ tiêu được phép tuyển sinh ở mỗi ngành đào tạo. 4.2.4. Chính sách tự chủ về nhân sự Luật GDĐH quy định cho phép hội đồng trường, hội đồng đại học quyết định thành lập đơn vị trực thuộc là đơn vị có tư cách pháp nhân của cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, Nghị định 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, thì thẩm quyền thành lập các đơn vị này vẫn thuộc Bộ chủ quản. Điều này dẫn tới các trường đại học dù đã được tự chủ nhưng chưa thành lập được các đơn vị có tư cách pháp nhân (trừ doanh nghiệp). Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định: “Cơ sở giáo dục đại học công lập …..;có quyền tự chủ về tổ chức, bộ máy và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp”, nghĩa là các cơ sở GDĐH công lập (được nhà nước đảm bảo toàn bộ hoặc một phần chi thường xuyên) được giao quyền tự chủ về nhân sự (bao gồm tuyển dụng, sử dụng, chấm dứt hợp đồng, sa thải) nhưng đối với các cơ sở GDĐH công lập trực thuộc UBND các tỉnh, thành phố, số lượng người làm việc do Nhà nước giao hàng năm là có hạn, không đảm bảo để thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị vì Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 của Chính phủ đã quy định.
  18. 18 4.3. Tính bất cập, hạn chế trong chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay 4.3.1. Bất cập, hạn chế trong phân hệ chính sách tự chủ về bộ máy Cần xem xét lại việc sử dụng Hội nghị đại biểu/toàn thể trong việc bầu/giới thiệu thành viên Hội đồng trường vì theo quy định tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, nếu sử dụng Hội nghị đại biểu thì phải là 50% trong khi các đơn vị lớn có số cán bộ nhiều thì tỷ lệ 50% là rất nhiều. Chưa có quy định xác định Chủ tịch Hội đồng trường là “viên chức chuyên môn”, “viên chức quản lý” hay thuộc nhóm đối tượng cụ thể nào đó theo quy định của Luật viên chức, Bộ Luật lao động,… để xác định quyền và nhiệm vụ, giải quyết chế độ, xử lý kỷ luật tương ứng. Trường hợp chủ tịch Hội đồng trường bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong nhiệm kỳ, hoặc khi hết nhiệm kỳ không tiếp tục được bầu mà cơ sở GDĐH không có nhu cầu sử dụng thì để giải quyết chế độ cũng chưa có văn bản quy định. 4.3.2. Bất cập, hạn chế trong phân hệ chính sách tự chủ về tài chính Hiện nay chưa có quy định về định giá tài sản công trong các trường đại học công lập, việc này dẫn đến việc đầu tư, quản lý và sử dụng tài sản công chưa hiệu quả. Cụm từ “tài sản có giá trị lớn” trong quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật GDDH cần quy định cụ thể cách xác định rõ ràng để hiểu thống nhất trong áp dụng văn bản. Quy định về đầu tư các dự án thực hiện hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ khó thực hiện vì Luật GDĐH quy định đối với cơ sở giáo dục đại học công lập tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên, Hội đồng trường, Hội đồng đại học quyết định việc sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư các dự án thực hiện hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ; tuy nhiên, đối với những cơ sở giáo dục đại học công lập, việc sử dụng tài sản công trong thực hiện hoạt động dịch vụ, liên doanh, liên kết hợp tác với cơ sở doanh nghiệp bên ngoài được thực hiện theo Luật Quản lý tài sản công theo quy trình thủ tục khá phức tạp khiến các cơ sở GDĐH khó phát huy được quyền tự chủ. Luật GDĐH chưa quy định xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật, phương pháp xây dựng giá dịch vụ đào tạo đối với các ngành đào tạo. Luật GDĐH chưa quy định về hợp tác công tư trong lĩnh vực GDĐH. 4.3.3. Bất cập, hạn chế trong phân hệ chính sách tự chủ về đào tạo, học thuật Luật Giáo dục đại học cho phép các trường tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm sẽ dẫn đến tình trạng tổng chỉ tiêu ở các trường của các ngành, lĩnh vực đào tạo có thể sẽ mất cân đối, do đó điều này ảnh hưởng phần nào đến việc kiểm soát số lượng, chất lượng đầu ra và vấn đề giải quyết việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp. Luật GDĐH quy định thời gian học đại học rút gọn từ 3-5 năm (so với trước đây là 4-6 năm) nhưng cần quy định rõ những loại ngành nghề nào là 3 năm, 4 năm và 5 năm để phù hợp hơn với thực tiễn và phân biệt rõ hơn CTĐT cử nhân và CTĐT chuyên
  19. 19 sâu đặc thù của một số ngành (đào tạo bác sĩ, kỹ sư…), đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống của GDĐH. Theo đó, việc tổ chức đào tạo và cấp văn bằng đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù thuộc hệ thống giáo dục đại học cần phải có quy định rõ ràng và cụ thể hơn. 4.3.4. Bất cập, hạn chế trong phân hệ chính sách tự chủ về nhân sự Luật GDĐH quy định “Các loại hình cơ sở giáo dục đại học bình đẳng trước pháp luật” nhưng quy định ở các văn bản dưới Luật chưa có sự công bằng trong sử dụng lao động giữa cơ sở GDĐH công lập và tư thục, cụ thể như cơ sở GDĐH công lập không được tính số giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ ngoài độ tuổi lao động ở trong nước và nước ngoài là giảng viên cơ hữu để tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, mở ngành đào tạo, trong khi, những giảng viên này ở cơ sở GDĐH tư thục được coi là giảng viên cơ hữu thông qua hình thức hợp đồng lao động. Luật GDĐH quy định “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn và việc bổ nhiệm chức danh giảng viên theo thẩm quyền; tỷ lệ giảng viên cơ hữu tối thiểu của cơ sở giáo dục đại học…”, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể về tỷ lệ cho quy định này. 4.4. Mức độ tự chủ tại các cơ sở giáo dục đại học công lập từ ảnh hưởng của các chính sách hiện hành dưới góc nhìn của nhóm đối tượng thụ hưởng Về tự chủ bộ máy, báo cáo từ kết quả điều tra cho thấy, trong các nhóm tham gia trả lời phỏng vấn, đội ngũ có học hàm PGS, GS có đánh giá về tình hình tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học trong việc thành lập các đơn vị trực thuộc tích cực hơn các nhóm đối tượng khác. Những người có học hàm tối thiểu PGS phần lớn là những người từng trải, kinh qua hoặc đang đảm nhận chức vụ quản lý nên họ có cái nhìn toàn diện hơn và mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học theo chiều dài phát triển của hệ thống giáo dục. Đối với tự chủ về học, đánh giá của nhóm đối tượng điều tra cho thấy mức độ tự chủ đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học cho thấy nhiều điểm thú vị. Nếu xét về trình độ của nhóm đối tượng được điều tra thì nhóm có học vị tối thiểu PGS có nhìn nhận tích cực nhất về mức độ tự chủ đào tạo của nhà trường. Nhóm có nhận định tích cực thấp hơn là những người có học vị dưới tiến sĩ. Khi so sánh giữa những nhà quản lý và đội ngũ cán bộ giảng viên thì nhóm những nhà quản lý nhìn nhận mức độ tự chủ về đào tạo hiện này là tích cực hơn nhìn nhận của đội ngũ giảng viên, ngoại trừ đánh giá đối với tiêu chí “Mức độ tự chủ trong xây dựng chương trình đào tạo”. 4.5. Tác động từ các phân hệ chính sách đến sự tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam hiện nay Mô hình hồi quy mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục đại học theo các biến ảnh hưởng được thể hiện như sau
  20. 20 Tuchu = 0.461 Tuchutaichinh + 0.302 Tuchubomay + 0.181 Tuchunhansu + 0.471 Tuchuhocthuat + ei Kết quả phân tích mô hình cho hay, ở Việt Nam hiện tại 4 trụ cột của tự chủ đại học được nhìn nhận là có mối quan hệ tích cực với tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Tác động của tự chủ tài chính đã đem lại bộ mặt tích cực trong biến đổi thu nhập của giảng viên các cơ sở từng tham gia thí điểm tự chủ. Tự chủ về bộ máy tổ chức được đánh giá chưa cao khi mà các văn bản chính sách về vai trò chức năng của Hội đồng trường, Đảng uỷ trường và Ban giám hiệu vẫn chưa tạo được sự thống nhất. Tự chủ về học thuật được các cơ sở giáo dục đại học được nhìn nhận là có mức độ tự chủ cao nhất dù đó là cơ sở giáo dục đại học đã tham gia hoặc chưa tham gia Nghị quyết 77. Cuối cùng, các trường thực thuộc ngành dọc, trường trực thuộc chính quyền tỉnh, việc tự chủ về nhân sự chưa thật sự được đánh giá cao nên mức độ tác động đến tự chủ đại học được đánh giá là mức thấp nhất theo kết quả điều tra. CHƯƠNG 5: TRAO ĐỔI GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM ĐẾN 2025 TẦM NHÌN 2035 5.1. Quan điểm phát triển hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam đến 2025, tầm nhìn 2035 5.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực và vấn đề đặt ra với giáo dục đại học Cách mạng công nghệ 4.0 cùng quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ đặt ra những yêu cầu mới về chất lượng GD, việc hội nhập để phát triển là nhu cầu tất yếu của các trường ĐH. Các trường ĐH đẩy mạnh tìm kiếm và khuyến khích hoạt động hợp tác quốc tế qua các chương trình như trao đổi học thuật, trao đổi GV, trao đổi SV, mở chi nhánh ở nước ngoài hoặc liên thông, liên kết giữa các trường ĐH ở nhiều quốc gia khác nhau; đồng thời chủ động mở rộng họp tác đối tác toàn cầu. Xu hướng mới được chú trọng phát triển là chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và cộng đồng, họp tác đào tạo theo nhu cầu, họp tác để NCKH. Các trường ĐH đứng trước áp lực lớn với sự cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt các nước đang phát triển, họ phải chịu áp lực để đảm bảo chất lượng (ĐBCL) GDĐH đạt chuẩn quốc gia và được công nhận trên thế giới. Nhiều nước đang phát triển đã bắt đầu kỹ thuật ĐBCL quốc gia, tiến hành phát triển một chiến lược thích hợp. Với những nỗ lực của các chính phủ, trọng tâm GDĐH thế giới đã có sự chuyển biến lớn. Khi xu hướng toàn cầu hóa được đẩy mạnh cùng với tình hình kinh tế châu Á có nhiều khởi sắc, đã tạo ra những bước đẩy mạnh mẽ giúp GD châu Á không chỉ là nguồn cung cấp du HS cho thị trường GD phương Tây mà đang từng bước trở thành một thế lực mới trong bản đồ GDĐH toàn cầu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
274=>1