intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng từ góc nhìn trần thuật

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

61
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Luận án đề xuất hướng tiếp cận đặc điểm, phong cách sáng tác văn xuôi tự sự của Khái Hưng theo hướng loại hình hóa mô thức trần thuật; mô tả đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng theo thể tài và các mô thức trần thuật chủ yếu; khẳng định vị trí, đóng góp của Khái Hưng đối với sự phát triển văn xuôi TLVĐ nói riêng và của văn xuôi Việt Nam hiện đại trước 1945 nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng từ góc nhìn trần thuật

  1. 1 TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG TỪ GÓC NHÌN TRẦN THUẬT MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời gian trôi qua, tác phẩm của Khái Hưng và của Tự lực văn  đoàn (TLVĐ) là một trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận,  đánh giá lại, càng ngày càng khách quan khoa học hơn. Tuy vậy, vẫn  phải tìm thêm hướng tiếp cận, phương pháp, thao tác nghiên cứu mới   để sáng tác của cá nhân ông cũng như văn đoàn của ông đầy đủ, thỏa  đáng hơn. Mặt khác, việc nghiên cứu sáng tác của Khái Hưng, lâu nay mới  chỉ tập trung nhiều vào tiểu thuyết mà chưa chú ý đến đúng mức đến  các mảng sáng tác khác của ông, nhất là truyện ngắn, đồng thời chưa  đặt từng bộ  phận sáng tác  ấy trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau,  cũng như  sự  tác động qua lại giữa sáng tác của Khái Hưng với sáng  tác của các nhà văn trong cùng văn đoàn. Đã đến lúc phải có những   nghiên cứu bổ  sung và khắc phục sự  khiếm khuyết này: cần phải   “đánh giá lại”, “định vị” tiểu thuyết truyện ngắn của Khái Hưng trong  văn xuôi TLVĐ theo những hướng tiếp cận cũng như trong những mối  quan hệ chưa được chú ý đến. Một trong những hướng tiếp cận có triển vọng là  ứng dụng  nghiên cứu loại hình từ lý thuyết tự sự học để xem xét văn xuôi nghệ  thuật của Khái Hưng trong bối cảnh văn xuôi TLVĐ. Theo hướng đó,   chúng tôi chọn đề tài: “Tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng từ góc   nhìn trần thuật” để thực hiện luận án tiến sĩ này. 2. Mục đích nghiên cứu  ­ Luận án đề  xuất hướng tiếp cận đặc điểm, phong cách sáng   tác văn xuôi tự  sự  của Khái Hưng theo hướng loại hình hóa mô thức   trần thuật. ­ Mô tả đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng theo thể  tài và các mô thức trần thuật chủ yếu.
  2. 2 ­  Khẳng định vị  trí, đóng góp của Khái Hưng đối với sự  phát  triển văn xuôi TLVĐ nói riêng và của văn xuôi Việt Nam hiện đại  trước 1945 nói chung. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề    Mục  Lịch sử  nghiên cứu vấn đề  tổng hợp, đánh giá tình hình  nghiên cứu theo các góc độ dưới đây: ­ Về đóng góp của nhóm Tự lực văn đoàn đối với tiến trình phát  triển của văn học dân tộc                  ­ Về tình hình nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật Khái Hưng  trong bối cảnh TLVĐ                ­ Về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng   từ góc nhìn trần thuật 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu   Đối tượng nghiên cứu là  tiểu thuyết,  truyện ngắn Khái Hưng  trong bối cảnh văn xuôi TLVĐ – được nhìn chủ yếu từ góc nhìn trần  thuật –  luận  án  tập trung khảo sát  14 thiên tiểu thuyết và 67  truyện  ngắn của  Khái Hưng  thời Tự  lực văn đoàn.  Đây là các tác phẩm đã  đăng báo Phong hóa, Ngày nay và sau in thành sách, tái bản. 5. Phương pháp nghiên cứu  Dưới ánh sáng của lý thuyết tự  sự  học, trong khi thực hiện đề  tài,   luận   án   vận   dụng   kết   hợp   các   phương   pháp   nghiên   cứu   như:  phương pháp nghiên cứu loại hình, phương pháp hệ  thống, phương  pháp xã hội học, phương pháp liên ngành, phương pháp thống kê, so  sánh... trong đó đặc biệt phương pháp nghiên cứu loại hình và phương  pháp thống kê, so sánh được xem là các phương pháp chủ đạo. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài   Người viết  khảo sát một cách nhất quán đặc điểm trần thuật  của tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng. Cách xem xét này giúp ta  hình dung được toàn bộ đặc điểm trần thuật trong tiểu thuyết, truyện  ngắn của Khái Hưng không phải như  một tổng số  các đặc điểm rời   rạc, mà như một chỉnh thể thống nhất các nét độc đáo xuyên suốt nội  dung và hình thức các tác phẩm. Trên cơ  sở  nhận diện đúng các kiểu 
  3. 3 mô thức trần thuật trong truyện ngắn tiểu thuyết c ủa ông, có cái nhìn  mới mẻ, thỏa đáng về những đóng góp nghệ thuật của ông. 7. Đóng góp mới của đề tài          Thực hiện đề  tài này, luận án có thể  mang lại những đóng góp  mới sau đây: ­ Mô tả  đặc điểm trần thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái  Hưng theo ba thể tài tiểu thuyết và mô thức trần thuật chủ yếu. ­ Khái quát một số  nét độc đáo có giá trị  thẩm mĩ trong sáng tác  văn xuôi Khái Hưng nói chung, phong cách kiến tạo, tổ  chức  diễn ngôn trần thuật của ông nói riêng.. 8. Cấu trúc của luận án    Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án triển khai thành 3  chương:  Chương 1. Văn xuôi Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn và việc   nghiên cứu tiểu thuyết truyện ngắn của ông từ góc nhìn trần thuật  Chương 2. Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng nhìn   từ mô thức trần thuật Chương 3. Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng nhìn   từ phong cách kiến tạo diễn ngôn trần thuật.
  4. 4 CHƯƠNG 1. VĂN XUÔI KHÁI  HƯNG TRONG TỰ LỰC VĂN  ĐOÀN VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN  CỦA ÔNG TỪ GÓC NHÌN TRẦN THUẬT    1.1 Nhìn chung về tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng trong bối  cảnh văn xuôi TLVĐ         1.1.1.  Trước tác của Khái Hưng – một sự nghiệp phong phú, đa   dạng Khái Hưng là người có sức sáng tạo dồi dào và có thành tựu nổi  bật trên nhiều thể loại. Không kể  một đôi lần làm thơ, vẽ  tranh, sức  sáng tạo chủ  yếu của Khái Hưng tập trung vào nghệ  thuật ngôn từ.  Ngoài sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện viết cho thiếu nhi,   Khái Hưng đồng thời cũng là người soạn kịch, viết xã luận, chính  luận,… với nhiều bút danh.       1.1.2. Những thăng trầm, khác biệt trong tiếp nhận văn chương  Tự lực văn đoàn và văn chương của Khái Hưng  Xu hướng chung trong nghiên cứu đánh giá văn chương TLVĐ  vài ba thập niên gần đây là: Một mặt, các nhà nghiên cứu chia sẻ  những đánh giá thỏa đáng trong các công trình bài viết của học giả  từng được công bố  trước 1945 hoặc  ở  miền Nam 1954­1975. Mặt   khác, vận dụng các lý thuyết phương pháp tiếp cận văn học hiện đại  để  đọc lại, phát hiện lại giá trị  văn chương của TLVĐ  ở  cả  hai cấp   độ: cấp độ  nhóm tác giả  (văn đoàn) và cấp độ  tác giả, tác phẩm cụ  thể. Những định kiến chủ quan, thậm chí, cả lối quy chụp xã hội học  dung tục, dần được khắc phục, để từng bước trả lại các giá trị, địa vị  vốn có cho văn chương TLVĐ trong bối cảnh hiện đại hóa văn học   1932­1945 và trong văn mạch văn học dân tộc. Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ, để  khắc phục tình trạng thăng  trầm, khác biệt, thậm chí trái ngược trong nhận định đánh giá Khái   Hưng cũng như  với TLVĐ, và để  có được một tiếng nói có nhiều  điểm chung như ngày nay, giới nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam 
  5. 5 (miền Bắc và miền Nam, trong nước và ngoài nước, thế  hệ  trước và  thế hệ sau,…) đã phải đi một chặng đường rất dài.  1.2. Vấn đề nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết,  truyện ngắn Khái Hưng dưới ánh sáng của lý thuyết tự sự học               1.2.1. Tự  sự  học và việc  ứng dụng tự  sự  học vào nghiên cứu  truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại Việt Nam   Tự  sự  học ngày hôm nay rất phát triển và hết sức bề  bộn, với   nhiều khái niệm, nhiều bình diện, cấp độ  khác nhau. Riêng phương  thức   trần   thuật   thường   được   xem   xét   như   là   một   chiến   lược   kể  chuyện được thực hiện trong văn bản nghệ  thuật.  Những năm gần  đây, chuyên ngành này ngày càng phát triển, đặc biệt, nhiều tác giả có  xu hướng gắn nghiên cứu tự  sự  học trong quan hệ  với văn hoá, với  đặc tính dân tộc,... Nhìn chung các nghiên cứu tự  sự  học  ở Việt Nam  hiện nay tập trung nhiều vào giới thiệu lý thuyết. Những lý thuyết ấy  tuy  mới   là   phác   hoạ   nhưng  khá   chi   tiết   và   chuyên  sâu  giúp  người  nghiên cứu quan tâm tới tự sự học. Chúng giúp ta thấy được phần nào  tính phong phú, phức tạp, cũng như  khó khăn thách thức trong hướng  tiếp cận này trong nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam, nghiên cứu  Khái Hưng, văn xuôi TLVĐ. Dầu sao đây vẫn là một hướng tiếp cận   triển vọng, một cánh cửa chỉ mới vừa mở ra.               1.2.2. Giới hạn về  thành tựu nghiên cứu nghệ  thuật trần  thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng và sự  cần thiết  khơi mở những hướng đi mới Việc nghiên cứu, đánh giá văn xuôi nghệ  thuật của Khái Hưng,  nhất là lĩnh vực tiểu thuyết, truyện ngắn, nhìn từ  góc nhìn trần thuật   học,  hầu như  chưa  có nhiều  những công trình nghiên  cứu thật   sự  chuyên sâu.  Tuy nhiên,  qua  thu thập tài  liệu,  chúng  tôi  có  thể   thấy  được  những đóng góp của các nhà nghiên cứu đi trước về  nghệ  thuật trần   thuật trong văn Khái Hưng, ở phương diện: cốt truyện ­ kết cấu, nghệ  thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật (gồm: điểm nhìn trần  thuật, giọng điệu trần thuật, nhịp điệu trần thuật) và đặc trưng ngôn  ngữ   nghệ   thuật,   hình   tượng   người   kể   chuyện.  Những   công   trình 
  6. 6 nghiên cứu, bài báo khoa học  này, dù  trực tiếp hay gián tiếp, dù độ  đậm nhạt khác nhau, đều có những đóng góp đáng ghi nhận trong việc  tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của Khái Hưng. Tuy vậy, dễ dàng nhận thấy các thành tựu nói trên vẫn chưa tạo  nên một bước chuyển về  chất, những bước  đột phá thật sự  trong   nghiên cứu loại hình tiểu thuyết nói chung, trần thuật nói riêng. 1.3. Lý thuyết tự sự học trong nghiên cứu tiểu thuyết và hướng  tiếp cận loại hình hóa mô thức trần thuật trong tiểu thuyết  truyện ngắn Khái Hưng – những ứng dụng và giới hạn        1.3.1. Nguyên nhân của sự bất cập trong nghiên cứu loại hình  tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Do có một số  đặc điểm vận động nội tại riêng trong quá trình  hình thành phát triển của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ trong đó có tiểu  thuyết Khái Hưng, các nhà nghiên cứu thường không hẹn mà gặp khi  thực hiện các công trình chuyên khảo liên quan đến tiểu thuyết TLVĐ   của họ: nhu cầu và ý hướng phân loại (loại hình hóa) theo tinh thần   nghiên cứu loại hình. Các nhà nghiên cứu, từ góc nhìn, chủ kiến, mức  độ  quan tâm riêng của mình thường đề  xuất một hướng phân loại  trong công trình của họ.          1.3.2. Nguyên tắc phân loại của phương pháp nghiên cứu loại  hình Cụ  thể, từ  nhận xét, đánh giá của số  đông các nhà nghiên cứu  phê bình văn xuôi TLVĐ, có thể  rút ra mấy điểm thống nhất sau đây  có ích cho loại hình hóa tiểu thuyết truyện ngắn Khái Hưng (trong văn  xuôi TLVĐ): Thứ  nhất, về quá trình, cũng như  tiểu thuyết TLVĐ nói  chung,   tiểu   thuyết   Khái   Hưng   nói   riêng   vận   động   theo   ba   chặng   đường vừa tiếp nối vừa khác biệt, vừa đa dạng, phong phú, vừa thống   nhất trên nét lớn.  Thứ  hai, về  tư  tưởng và cảm hứng, tuy giữa ba  chặng có biến đổi, khác biệt, song  điều cốt lõi, bất biến trong tư  tưởng, cảm hứng của cả  ba chặng vẫn là sự  ý thức về  cá nhân dựa   trên nền tảng đề  cao chủ  nghĩa cá nhân.  Thứ  ba, về  tính chất, đặc  trưng, tiểu thuyết Khái Hưng có đủ  các yếu tố  chủ  quan và khách 
  7. 7 quan, hướng nội và hướng ngoại, lãng mạn và hiện thực, minh chứng  luận đề và phân tích tâm lý.  Như  thế, ý thức cá nhân là bất biến, các biểu hiện cụ  thể  sinh   động mang tính lịch đại của nó là khả  biến. Theo đó việc tập trung   khám phá con người tâm lý – con người bên trong con người là một  tiêu chí loại hình hóa quan trọng bất biến. Dựa trên tiêu chí bất biến  này ta đi tìm cái khả  biến cũng tức là tìm các dấu hiệu khu biệt loại   hình. Cái khả biến ấy chính là đây: các hình thức chính biểu hiện mâu  thuẫn xung đột làm nên kịch tính, độ căng của tiểu thuyết Khái Hưng  cũng như tiểu thuyết Nhất Linh trong bối cảnh bất đồng và đấu tranh  tư tưởng ý thức hệ, giành chiến thắng cho Âu hóa của đời sống đô thị  tiền hiện đại. Đó là con người cá nhân đấu tranh với thách thức của   hoàn cảnh, của dục vọng thông thường để theo đuổi lý tưởng – cơ sở  hình thành, phát triển loại hình tiểu thuyết lý tưởng (Hồn bướm mơ   tiên, Gánh hàng hoa,…). Là con người cá nhân “tân tiến” đấu tranh với  những ràng buộc “Nho phong” cổ hủ của đại gia đình và của các “nội  tướng”, “gia trưởng” độc đoán, vô hồn, vô cảm để  thực thi quyền tự  do cá nhân trong tình yêu, hôn nhân mưu cầu hạnh phúc và/ hoặc lựa  chọn một lối sống, theo đuổi một lý tưởng – là cơ sở hình thành, phát  triển loại hình  tiểu thuyết luận đề  (Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân,   Gia đình, Thừa tự…). Là con người cá nhân đa nhân cách, vừa đắc ý  vừa hoang mang trong cuộc phiêu lưu tinh thần  để  tự  khẳng định,   khám phá, thử  thách cái tôi bản ngã của mình với biết bao lưỡng lự,   băn khoăn – là cơ  sở  để  hình thành, phát triển loại hình tiểu thuyết  tâm lý (Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa,…).         1.3.3. Loại hình hóa mô thức trần thuật trong nghiên cứu tiểu   thuyết, truyện ngắn Khái Hưng Nghiên cứu loại hình (loại hình hóa) tiểu thuyết là một hướng đi  khá mới mẻ, triển vọng, tuy rằng đây cũng là một hành trình mà nhà  nghiên cứu phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức. Vận dụng  phương pháp loại hình hóa theo nguyên tắc, trên cơ sở khảo sát kỹ đối  tượng nghiên cứu, chúng tôi đề  xuất danh mục loại hình thể  tài tiểu  
  8. 8 thuyết của Khái Hưng trong bối cảnh văn xuôi TLVĐ gồm ba nhóm  loại hình như sau:  1) “Tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng”:  Hồn bướm mơ  tiên,   Gánh hàng hoa,… 2) “Tiểu thuyết tục lụy và hành động”: Nửa chừng xuân, Gia   đình, Thừa tự,… 3) “Tiểu thuyết tâm lý”: Đời mưa gió, Đẹp, Thanh Đức. Xét riêng về  phương thức trần thuật, cũng bằng thao tác loại  hình hóa nhưng theo “mô thức trần thuật”, luận án giả  định rằng: có  thể  tìm kiếm các mô thức trần thuật tương  ứng với các nhóm loại  hình hay loại hình tiểu thuyết nêu trên. Chẳng hạn, sẽ  có:  Mô thức   trần thuật Tiền luận đề (ứng với “Tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng”),  mô thức trần thuật Luận đề  (ứng với  “Tiểu thuyết tục lụy và hành   động”),  mô thức trần thuật Hậu luận đề (ứng với “Tiểu thuyết tâm   lý”),… TIỂU KẾT CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN KHÁI  HƯNG NHÌN TỪ MÔ THỨC TRẦN THUẬT  2.1. Mô thức và mô thức trần thuật trong tiểu thuyết, truyện  ngắn Khái Hưng từ cái cái nhìn loại hình hóa          2.1.1. Nghiên cứu loại hình và loại hình hóa mô thức trần thuật  trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng Trước hết cần xác định khái niệm  mô thức  và  mô thức trần   thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn nói chung. Nghĩa thứ  nhất – mô  thức  (paradigm)   –   được   hiểu   và   sử   dụng   như   khái   niệm  hệ   hình.  Nghĩa thứ hai – mô thức (paradigm) – hiểu như một cách tiếp cận đối  tượng, hay một dạng thức, hình mẫu làm chuẩn, nhằm tiếp cận đối  tượng hoặc giải quyết vấn đề. Ở cấp độ  thứ nhất, mô thức – hiểu theo nghĩa hệ  hình – là một  thuật ngữ  khoa học. Thuật ngữ  này – paradigm – bắt đầu được sử 
  9. 9 dụng trong ngành vật lý học rồi dịch chuyển vào các chuyên ngành  khoa học xã hội (triết học, ngôn ngữ học, mĩ học, văn hóa học, xã hội  học,   nghiên   cứu   văn   học,…).   Trong   lĩnh   vực   khoa   học   xã   hội   các  trường hợp này người ta thường dùng hệ hình: Hệ hình tiền hiện đại,  hệ  hình hiện đại, hệ  hình hậu hiện đại. Nhưng cũng có người vẫn  dịch là mô thức. Ví dụ: “Khoa học và Mô Thức Luận của Thomas   Kuhn” (Đinh Thế Phong, Tia sáng).  Ở  cấp độ  thứ  hai, theo nghĩa rộng,  mô thức  (paradigm) được  hiểu   như   là   cách  thức   (hay  một   mô   hình,   hình   mẫu)  tiếp   cận  đối  tượng. Từ đây, tác giả luận án sử dụng khái niệm mô thức theo nghĩa  này   để   khảo  sát,   khái   quát   đặc   điểm   trần  thuật   trong  tiểu  thuyết,   truyện ngắn Khái Hưng. Khái niệm  mô thức trần  thuật, theo đó, được hiểu như  là cách  thức tiếp cận đối tượng, chuyển tải nội dung tự sự, hoặc được hiểu   như  hình mẫu tổ  chức trần thuật trong tác phẩm văn xuôi hư  cấu  (fiction).  Ở  cấp độ  thứ  hai, theo nghĩa rộng,  mô thức  (paradigm) được  hiểu   như   là   cách  thức   (hay  một   mô   hình,   hình   mẫu)  tiếp   cận  đối  tượng. Từ đây, tác giả luận án sử dụng khái niệm mô thức theo nghĩa  này   để   khảo  sát,   khái   quát   đặc   điểm   trần  thuật   trong  tiểu  thuyết,   truyện ngắn Khái Hưng. Khái niệm  mô thức trần  thuật, theo đó, được hiểu như  là cách  thức tiếp cận đối tượng, chuyển tải nội dung tự sự, hoặc được hiểu   như  hình mẫu tổ  chức trần thuật trong tác phẩm văn xuôi hư  cấu  (fiction).  2.1.2. Các mô thức trần thuật cơ bản trong tiểu thuyết của   Khái Hưng Thể   tài,  được   hiểu   là  hình   thức, thể   loại của tác   phẩm nghệ  thuật được xác   định bằng đề   tài hoặc bằng  những đặc   trưng khác  về chủ   đề, phong   cách.   Người   ta   thường   nói   đến   các   thể   tài   tiểu  thuyết: lịch sử ­ dân tộc, thế sự, đời tư. Tiểu thuyết TLVĐ hầu như  chỉ  tập trung vào hai mảng đề  tài:  thế  sự  và đời tư, với những biểu hiện đặc thù trong phương thức tự  sự: hoặc tự sự  theo hình thức nghiêng về  minh giải luận đề, hoặc tự 
  10. 10 sự theo hình thức nghiêng về thám hiểm, phân tích tâm lý; và, giữa hai  cực ấy, có một trung gian, trung chuyển: tiểu thuyết luận đề ­ tâm lý. Nhìn trên nét lớn, văn xuôi tự sự TLVĐ, cụ thể là xu hướng tiểu  thuyết TLVĐ, bao gồm tiểu thuyết Khái Hưng, quy vào ba thể  tài:  tiểu thuyết tiền luận đề  (hay tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng), tiểu   thuyết luận đề (hay tiểu thuyết tục lụy và hành động), tiểu thuyết hậu   luận đề  (hay  tiểu thuyết tâm lý). Trong đó, tiểu thuyết luận đề  (tục  lụy và hành động) được xem như  một thể  tài giữ  vị  thế  trung tâm,   tiểu thuyết tiền luận đề  (hay tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng) được  xem là thể tài khởi đầu, tạo đà vận động, còn tiểu thuyết hậu luận đề  (hay  tiểu thuyết tâm lý) thì có thể  xem là hệ  quả  mang tính bước  ngoặt, điểm đỉnh trong quá trình hiện đại hóa văn xuôi hư  cấu Việt  Nam. Theo đó, giữa ba thể tài và mô thức trần thuật có những mối liên   hệ kế thừa, chuyển hóa khá tinh tế phức tạp.  Có thể chia tiểu thuyết Khái Hưng thành các mô thức sau: Mô thức Tiền Luận đề (“Tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng”) Tiểu thuyết trần thuật theo mô thức luận đề, trong văn nghiệp  của Khái Hưng, xuất hiện  ở  chặng đầu văn xuôi TLVĐ (1932­1934)  với Nửa chừng xuân (1933), và nở rộ, bội thu ở chặng giữa văn xuôi   TLVĐ (1935­1937) với Dưới bóng tre xanh (1935), Những ngày vui  (1936), Gia đình (1936­1937), Thoát ly (1937­1938), Thừa tự (1938).  Cùng  với  mô  thức  trần  thuật   này  trong  sáng  tác   của   Nhất   Linh  là  Đoạn tuyệt  (1934­1935),  Lạnh lùng  (1935­1936),…  Và, đến chặng  cuối văn xuôi TLVĐ (1938­1942) thì chuyển sang mô thức khác – mô  thức hậu luận đề (hay mô thức tâm lý). Mô thức luận đề (“Tiểu thuyết tục lụy và hành động”) Trong số tác phẩm của Khái Hưng, thuộc mô thức trần thuật này  là các tiểu thuyết  Hồn bướm mơ  tiên  (1932­1033),  Gánh hàng hoa  (viết chung với Nhất Linh,1933), Trống mái (1935­1936). Mô thức hậu luận đề (“Tiểu thuyết tâm lý”) Mô thức này bắt đầu khá sớm với một sáng tác chung giữa Nhất  Linh và Khái Hưng  ở  chặng đầu:  Đời mưa gió  (Nhất Linh – Khái  Hưng, 1934).  Đến chặng cuối văn xuôi TLVĐ (1938­1942), khi mô 
  11. 11 thức luận đề  đi vào chặng “hậu”, mô thức trần thuật hậu luận đề  (hay mô thức tâm lý) chiếm lĩnh kĩ thuật chủ  đạo trên văn đàn, đồng  thời đưa nghệ  thuật tiểu thuyết TLVĐ đạt điểm đỉnh. Trong sáng tác  của   Khái   Hưng   là   các   tiểu   thuyết  Đẹp  (1939­1940),  Băn   khoăn  (1942). Trong sáng tác của Nhất Linh, Bướm trắng (1938­1939) – một  tác phẩm có thể  được xem là độc sáng không chỉ  trong văn chương  TLVĐ. Xu hướng hỗn dung thể tài và mô thức trần thuật trong tiểu   thuyết của Khái Hưng Sau khi miêu tả phân tích từng mô thức trần thuật như trên, cũng   cần lưu ý đến một thực tế: Xu hướng hỗn dung thể  tài và mô thức  trần thuật trong tiểu thuyết của Khái Hưng. Xu hướng này có những  tác động đến mô thức trần thuật trong tiểu thuyết của Khái Hưng.          2.1.3. Các mô thức trần thuật chủ yếu trong truyện ngắn của   Khái Hưng Nhìn chung chất luận đề  trong sáng tác truyện ngắn của Khái  Hưng  ở  cả  hai chặng đường (1932­1935 và 1935­1940) thường hoặc   nhạt hơn hoặc kín đáo hơn so với chất luận đề  trong sáng tác của  Nhất Linh rất nhiều. Các khuynh hướng thể  tài truyện ngắn Khái Hưng nhìn chung,  có sự  tiệm cận với loại hình thể  tài và mô thức trần thuật trong tiểu   thuyết của ông: Truyện ngắn thiên về khuynh hướng luận đề  Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý Truyện ngắn có khuynh hướng hỗn hợp 2.2. Dấu ấn cái tôi tác giả trong tiểu thuyết, truyện ngắn của  Khái Hưng qua mô thức trần thuật         2.2.1. Người kể chuyện và cái tôi tác giả              2.2.1.1. Người kể chuyện Người kể chuyện trong tác phẩm là một người hư  cấu hoặc có  thật mà văn bản tự sự thể hiện thông qua hành vi và ngôn ngữ của anh   ta tạo thành. Nhìn chung, người kể  chuyện thực hiện nhiệm vụ trần 
  12. 12 thuật, truyền đạt, chỉ  dẫn, bình luận,… những vấn đề  được mô tả  hoặc được kể trong tác phẩm. Thông thường, người ta chia người kể  chuyện   trong   tác   phẩm   tự   sự   thành   hai   dạng   chủ   yếu:   người   kể  chuyện lộ diện (ngôi thứ nhất) và người kể chuyện ẩn tàng (ngôi thứ  ba). Người kể  chuyện là chủ  thể  của những lời kể  trong tác phẩm.  Chủ  thể  đó là một nhân vật đặc biệt do nhà văn sáng tạo ra để  dẫn   dắt, gợi mở  hay sắp đặt câu chuyện được kể  trong tác phẩm bằng  một chỗ đứng, một điểm nhìn phù hợp với ý đồ sáng tạo của nhà văn.  Tuy nhiên, sự  tương quan giữa cái chủ  quan và khách quan trong cấu   trúc hình tượng người kể  chuyện  rất phức tạp bởi nó luôn biến đổi  dẫn đến sự  chuyển đổi “điểm nhìn” thường xuyên.  Theo cách hiểu  này, luận án khảo sát, nhận xét về  đặc điểm của “người kể chuyện”  trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng. 2.2.1.2. Cái tôi tác giả Người kể  chuyện là một trong ba loại nhân tố  mang tiếng nói,  thái độ, quan điểm của tác giả trong quá trình kể. Tuy nhiên, nhận biết  cá tính/cái tôi tác giả  trong tác phẩm tự  sự  cũng không hề  đơn giản,  trừ  tự truyện – nơi có sự  thống nhất khá rõ giữa tác giả  và người kể  chuyện.  Tuy nhiên, về  mặt nguyên tắc, ngay cả   ở  tự  truyện, không  bao giờ có sự  đồng nhất, trùng khít giữa người kể chuyện và tác giả.   Lý do nằm  ở chỗ: Tư tưởng của tác giả  bao giờ  cũng lớn hơn, mang   tính khái quát hơn tư tưởng của người kể chuyện. Dưới lớp vỏ nghệ thuật ngôn từ, nhà văn luôn cố gắng ẩn giấu  cái tôi của chính mình. Việc tạo khoảng cách ấy thực chất chỉ là ngụy  trang cho quan điểm của tác giả. Có lẽ  cái tôi tác giả  được thể  hiện  qua hai dấu hiệu chính: Một là, “đối tượng câu chuyện kể”, nghĩa là  câu   chuyện   kể   về   ai,   về   cái   gì;   và   hai   là,   “hình   tượng   người   kể  chuyện”.   Trên   tinh   thần   này,   chúng   tôi   sẽ   soi   chiếu   vào   các   tiểu  thuyết, truyện ngắn của Khái Hưng để thấy được diện mạo cái tôi tác  giả như thế nào.
  13. 13 2.2.1.3. Hình tượng người kể chuyện và cái tôi tác giả trong  tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng Trong   tác   phẩm   văn   học   của   Khái   Hưng,   cần   xem   xét   ngoài  phần   thái   độ   chủ   quan   được   thừa   hưởng   của   tác   giả,   người   kể  chuyện mang trong mình cả  một phần nội dung khách quan của thế  giới   được   phản   ánh   vào   tác   phẩm,   phần   nội   dung   khách   quan   đó  thường thể  hiện một  loại hình thái độ  phản  ứng với thực tại  điển  hình cho thời đại, được nhà văn tái hiện và miêu tả lại trong tác phẩm  của mình. Theo cách hiểu này, luận án khảo sát, nhận xét về  sự  kết  hợp của “người kể  chuyện” và “cái tôi tác giả” trong tiểu thuyết,   truyện ngắn Khái Hưng.             2.2.2. Dấu  ấn của cái tôi tác giả  trong tiểu thuyết, truyện   ngắn Khái Hưng  Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tác của mình đều phải trăn trở  đi tìm tiếng nói riêng cho tác phẩm của mình.  Qua toàn bộ  văn phẩm  của mình, Khái Hưng đã bộc lộ  được cái  tôi tài hoa, nghệ  sĩ và trí  thức. Có thể thấy dấu  ấn của cái tôi tác giả Khái Hưng thể hiện qua:  “đối tượng câu chuyện kể”  thông qua  những nhân vật lý tưởng, thế  giới nghệ thuật quen thuộc, và “hình tượng người kể chuyện” với xu   hướng tư tưởng, nghệ thuật. 2.2.2.1. Dấu  ấn của cái  tôi tác giả  qua những nhân vật lý  tưởng Bóng dáng của cái tôi  ấy được thể  hiện qua những nhân vật lý  tưởng,   như:   nhà   văn,   nhà   báo,   nhà   họa   sĩ,   nghệ   sĩ,   hoặc   có  khi   là  những nhân vật thanh niên tân thời, có tinh thần âu hóa, với nhiều ước  vọng, hoài bão trong cuộc sống.
  14. 14 Miêu tả những nhân vật này, nhà văn để cho nhân vật phát biểu  về lẽ sống, về cuộc đời, về văn chương, về gia đình, tình yêu, đả phá  những lề  lối, hủ  tục phong kiến ràng buộc con người cá nhân, hoặc  nguyện vọng đem đến những cải cách tốt đẹp cho dân quê ở “chốn ao  tù nước đọng”. Qua những diễn ngôn  ấy ta có thể  ghi nhận được  phần nào bóng dáng, tâm hồn tác giả.  Chúng ta còn thấy rằng, bóng dáng của cái tôi lý tưởng Khái  Hưng  đôi khi xuất hiện  ở  hình thức nhân vật nữ, tuy rằng gián tiếp  hơn, khó thấy hơn. Qua một số diễn ngôn nhân vật, những con người mới đại diện  cho thời đại mới, ta thấy cái tôi tác giả hiện hữu thông qua cái tôi nhân  vật, giống như con người mới. 2.2.2.2. Dấu  ấn của cái  tôi tác giả  qua thế  giới nghệ  thuật  quen thuộc Thế giới nghệ thuật tác giả tạo ra trong tác phẩm luôn thể hiện   đậm nét cái  tôi tác giả. Thế  giới nghệ  thuật  ấy bao gồm: thế  giới   nhân vật, thế  giới cảnh quan, thế  giới đồ  vật, thế  giới thiên nhiên,  thời tiết, mùa màng, đến cả những cảnh trăng lên, cảnh mặt trời mọc,   hay cảnh lá rụng… đều cho thấy sự tài hoa, sức sáng tạo nghệ sĩ của   cái tôi tác giả. Thế  giới nhân vật trong tác phẩm của Khái Hưng khá đa dạng.  Nhân vật chính trong tác phẩm thường là những nhà văn, nhà báo, nhà  nghệ sĩ, hoặc là những thanh niên tràn đầy tinh thần Âu hóa mới mẻ.  Với hệ thống những nhân vật này, Khái Hưng muốn cổ vũ cho cái tôi  cá nhân, cho nếp sống Âu hóa bằng những rung động mãnh liệt của  mình. Họ là những trí thức trẻ, con những ông Án, bà Phán, ông Tuần,  
  15. 15 bà huyện nhưng trong mắt gia đình thì họ là những “nghịch tử”, không  theo nề nếp gia phong Nho giáo ngàn đời xưa. Với những Ngọc, Mai,   Chương, Tuyết, Lộc,… nhà văn muốn thể  hiện khát vọng tự  do yêu  đương, tự  do kết hôn, bởi với ông, điều đó đồng nghĩa với tinh thần   văn minh, tiến bộ. Đối nghịch với những nhân vật văn minh, tiến bộ, là hệ  thống   những nhân vật phụ  với đầy rẫy những thành kiến cổ  hủ.  Các nhân  vật kiểu này, có thể xem là “âm bản” của cái tôi tác giả. 2.2.2.3. Dấu ấn của cái tôi tác giả thể hiện qua xu hướng tư  tưởng và xu hướng nghệ thuật Nhà văn Khái Hưng đã có cùng quan điểm về cải cách xã hội với   các nhà văn TLVĐ, vì thế  tác phẩm của ông luôn cổ  vũ cho cái mới,   cái tiến bộ mạnh mẽ của xã hội. Nếu như Hoàng Đạo có Con đường   sáng, Nhất Linh có Đời mưa gió, Đoạn tuyệt… thì Khái Hưng có Gia  đình, Thoát ly, Thừa tự, Những ngày vui,… Cùng với các bạn văn đồng  chí hướng với mình, nhà văn Khái Hưng đã ôm ấp khát vọng cải cách  nông thôn theo tinh thần văn minh khoa học phương Tây, cải thiện đời  sống cho dân cày, tạo ra sự  công bằng xã hội, hạn chế  sự  phân biệt  giữa giàu – nghèo, cổ súy cái mới, giải phóng cái tôi khỏi sự kềm tỏa  của lễ giáo phong kiến… Mặt khác, dấu ấn cái tôi Khái Hưng còn thể  hiện   đậm   nét   qua   các   cách   hành   văn,   giọng   điệu,   kết   cấu   và   các  phương tiện nghệ  thuật… để  nhằm tạo ra hiệu quả  nghệ  thuật cho   tác phẩm.  Đó là một thứ  văn đậm chất An Nam, trong sáng, uyển  chuyển, linh hoạt, giàu hình  ảnh, nhạc điệu, là một tấm gương phản  chiếu rõ nét cá tính sáng tạo rất riêng, rất độc đáo của nhà văn.
  16. 16 TIỂU KẾT  
  17. 17 CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN KHÁI  HƯNG  NHÌN TỪ PHONG CÁCH KIẾN TẠO DIỄN NGÔN TRẦN  THUẬT  3.1. Phong cách kiến tạo diễn ngôn theo mô thức trần thuật trong  tiểu thuyết truyện ngắn của Khái Hưng           3.1.1. Diễn ngôn trần thuật và việc nghiên cứu diễn ngôn trần  thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng       3.1.1.1. Diễn ngôn trần thuật – “tấm thảm ngôn từ” Nghiên cứu lời  văn  nghệ  thuật  tiểu thuyết,  truyện ngắn cần   thấy được rằng, một mặt, diễn ngôn nghệ  thuật trong tác phẩm, xét   cho cùng, chính là sự  phản ánh thế  giới hiện thực, thế giới tinh thần   của con người trong tư  cách một “diễn ngôn”; mặt khác, diễn ngôn  nghệ  thuật trong tác phẩm không bao giờ  xuất hiện ngẫu nhiên, rời  rạc, mà luôn được kiến tạo trong một cấu trúc mang tính hệ  thống   chặt chẽ  và tính chỉnh thể  cao. Trong một văn bản nghệ  thuật, giữa   các chuỗi câu nối tiếp của ngôn ngữ  luôn có sự  “mắc vào nhau”, đan   bện vào nhau một cách có nghĩa lý, nhằm thể hiện ý tưởng chung của  cấu trúc, đồng thời thực hiện chức năng chuyên biệt của từng lớp  diễn ngôn.  Một văn bản trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn   ngôn:  diễn ngôn của người kể  chuyện  và  diễn ngôn của nhân  vật.  Diễn ngôn của người kể chuyện bao gồm các lớp: diễn ngôn kể, diễn   ngôn miêu tả, diễn ngôn bình luận. Diễn ngôn của nhân vật bao gồm  các lớp:  diễn ngôn đối  thoại,  diễn ngôn độc  thoại. Văn bản nghệ  thuật của tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn như một tấm thảm ngôn  từ. Đó là một “cấu trúc ngôn từ  động”, thường được tiểu thuyết gia  tạo lập nên trong một trạng thái tinh thần phức tạp, đầy hưng phấn và  mẫn cảm. Việc tết dệt, đan bện các lớp, các đơn vị, thành phần diễn  ngôn khác nhau thành văn bản nghệ  thuật hoàn chỉnh, rõ ràng, luôn  luôn gắn liền với các dụng tâm, dụng ý, dụng công nào đó. Và tác   phẩm được hoàn thành giống hệt một kì công.
  18. 18 Công việc của người nghiên cứu diễn ngôn nghệ  thuật trong  tiểu thuyết, truyện ngắn, vì thế, là khám phá, phát hiện các dụng tâm,   dụng ý, dụng công của tác giả  trong và qua sáng tạo văn bản – một  thứ văn bản không chỉ tồn tại như một “trạng thái hiện hữu tĩnh”, mà  còn như một “trạng thái hiện hữu động”.             3.1.1.2. Về việc nghiên cứu diễn ngôn trần thuật trong tiểu   thuyết, truyện ngắn Khái Hưng Nếu hiểu phong cách nghệ thuật là những nét độc đáo có giá trị  thẩm mỹ, thì phong cách kiến tạo diễn ngôn của Khái Hưng bộc lộ  trên hai bình diện: 1) Những nét kết tinh thẩm mỹ  trong diễn ngôn  trần thuật tiểu thuyết, truyện ngắn, và 2) Các kiểu lựa chọn, kiến tạo,  tổ chức các lớp ngôn từ tự sự.         3.1.2. Mấy đặc điểm nổi bật của diễn ngôn trần thuật trong   tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng Diễn ngôn trần thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn, Khái Hưng  đã tạo được một tương quan mới có tính nghệ  thuật giữa diễn ngôn   người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật.  Từ  kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi tập trung, mô tả, luận  giải một số đặc điểm dưới đây: ­ Xu hướng phong cách hóa diễn ngôn của người kể chuyện; ­ Vị  thế  của  đối thoại,  độc thoại  và việc phát huy chức năng  giao tiếp, trần thuật cho diễn ngôn của nhân vật; ­ Tương tác thẩm mĩ và hòa phối tự  nhiên giữa các thành phần,  đơn vị diễn ngôn trong cấu trúc trần thuật; ­ Tiết tấu, nhịp điệu trần thuật linh hoạt, hợp lý trong dòng chảy  ngôn từ hay mạch vận động của diễn ngôn; ­ Độ  “căng”, “chùng” tự  nhiên, phù hợp với yêu cầu trần thuật  đối với diễn ngôn trong truyện ngắn và diễn ngôn trong tiểu thuyết. 3.1.2.1. Xu hướng phong cách hóa diễn ngôn của người kể  chuyện  Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn, tiểu thuyết  Khái Hưng  thường được  phong cách hóa  một cách rõ rệt. Đó không  phải là kiểu diễn ngôn mực thước trung tính của người kể  chuyện 
  19. 19 trong truyện cổ  tích hay truyện trung đại mà luôn mang phong cách   ngôn ngữ của ai đó, tức là một kiểu diễn ngôn được “phong cách hóa”.  Nghiên cứu về sự phong cách hóa trong tiểu thuyết, truyện ngắn   Khái Hưng, thấy rằng, lời người kể chuyện trong truyện ngắn được  phong cách hóa rõ nét hơn trong tiểu thuyết. Lời người kể  chuyện   trong truyện ngắn Khái Hưng được tổ chức khá phức tạp: chồng chất  nhiều tầng bậc, đan xen pha trộn nhiều thứ  tiếng nói (ngôn ngữ  bên  trong,   ngôn   ngữ   bên   ngoài);   tiếng   nói   tác   giả,   tiếng   nói   người   kể  chuyện, tiếng nói nhân vật thứ  ba vô hình… Đây là một sự  cách tân   mới mẻ, hiện đại của văn phong Khái Hưng, theo xu hướng phong   cách hóa độc đáo. Người đọc không dễ  tách bạch đoạn nào trong lời  người kể  chuyện là đích thực tiếng nói của tác giả, đoạn nào đích   thực là tiếng nói nội tâm nhân vật.  3.1.2.2. Coi trọng vị thế của đối thoại, độc thoại và phát huy  chức năng giao tiếp, trần thuật cho diễn ngôn của nhân vật Diễn ngôn của nhân vật – bao gồm cả đối thoại, độc thoại, đặc  biệt là đối thoại –  chiếm một địa vị xứng đáng, nếu không nói là  ưu  trội trong trần thuật tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng.  Không mấy khó khăn để  nhận ra rằng đối thoại và độc thoại  chiếm tỉ  lệ  từ  cao  đến rất cao  trong diễn ngôn của nhân vật  tiểu  thuyết, truyện ngắn, của Khái Hưng, nhất là khi so sánh với diễn ngôn  cùng loại trong tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh.  Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu định lượng khá tỉ mỉ trên  văn bản một số  tiểu thuyết của Khái Hưng để  có được số  liệu so   sánh, đối chiếu trên một vài phương diện của diễn ngôn trần thuật,   nhìn từ mô thức trần thuật. 3.1.2.3. Tạo tương tác thẩm mĩ và hòa phối tự nhiên giữa các   thành phần, đơn vị diễn ngôn trong cấu trúc trần thuật Trong cấu trúc trần thuật, diễn ngôn của người kể chuyện, diễn   ngôn của nhân  vật  (với   các  lớp  diễn ngôn:  kể,   tả,  bình luận;  đối   thoại, độc thoại) luôn tạo ra được những tương tác thẩm mĩ tích cực   và khá hiệu quả.
  20. 20 Diễn ngôn của người kể chuyện trong tác phẩm của Khái Hưng  có đặc điểm nổi bật là bình dị, song mượt mà, mềm mại, linh hoạt và  giàu chất họa, chất nhạc lẫn chất thơ; các diễn ngôn này thường đảm  nhiệm chức năng tạo bối cảnh, tâm thế cho những cuộc thoại, những   lời thoại trong sáng, ngọt ngào tươi vui trong diễn ngôn của nhân vật. Trên thực tế, nhà văn sử  dụng vai trò điều phối tương tác diễn  ngôn ấy ở mức nào, theo cách nào thì còn tùy thuộc vào sở trường, sở  đoản, ý đồ nghệ thuật riêng của mỗi người trong từng ngữ cảnh trần   thuật cụ  thể. Như  trên đã nêu, trong trường hợp Thạch Lam, nhà văn  thường để cho các nhân vật trong tác phẩm của mình ở trong bóng tối,  nghĩ ngợi, ít khi hành động, rất ít nói thành lời. Văn Thạch Lam là văn  của cảm giác. Nên ít đối thoại là có lý do của nó. Còn trong văn của  Khái Hưng, sự hòa phối của diễn ngôn đối thoại, độc thoại nội tâm ở  các nhân vật đậm đặc hơn. Nhờ  đó mà Khái Hưng đã tái hiện một   cách khá sinh động chân dung của nhiều loại người qua ngôn ngữ  nhân vật. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng văn bản diễn ngôn của Khái   Hưng với việc sử  dụng linh hoạt và phối hợp các giọng điệu diễn   ngôn đã tạo nên tính chất đa thanh, đa giọng, tạo nên những âm hưởng  cần thiết, phù hợp với từng nội dung phản ánh trong tác phẩm. 3.1.2.4.   Tiết   tấu,   nhịp   điệu   trần   thuật   linh   hoạt,   hợp   lý  trong dòng chảy ngôn từ hay mạch vận động của diễn ngôn  Trong sáng tác, Khái Hưng thích chia tách diễn ngôn trần thuật  trong tác phẩm thành nhiều tiểu đoạn. Điều này cho thấy văn Khái  Hưng là văn theo lối văn của Pháp: mạch lạc và khúc chiết (gãy gọn,   sáng rõ). Trong từng câu văn thì tinh tế, trong phân đoạn thì mạch lạc,   thoáng, gọn. Do vậy, tạo ra nhiều khoảng trống, có khả  năng gợi dư  vị… 3.1.2.5. Tạo độ  “căng”, “chùng” tự  nhiên, phù hợp với yêu   cầu trần thuật  Thực tế  sáng tác và sự  nghiệp văn chương của Khái Hưng cho  thấy nhà văn luôn biết cách tạo độ  “căng” tự  nhiên cho diễn ngôn 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2