Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Vấn đề công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 18
download
Luận án nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội (CBXH) trong điều kiện kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, luận án phân tích thực trạng và giải pháp nhằm thực hiện tốt CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Vấn đề công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN HỒNG SƠN VÊN §Ò C¤NG B»NG X· HéI TRONG §IÒU KIÖN KINH TÕ THÞ TR¦êNG §ÞNH H¦íNG X· HéI CHñ NGHÜA ë VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số: 62 22 03 02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
- HÀ NỘI 2015
- Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Dương Xuân Ngọc Phản biện 1: ................................................................................ .................................................................................. Phản biện 2: ................................................................................ .................................................................................. Phản biện 3: ................................................................................ .................................................................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Vào hồi giờ ngày tháng năm 2015
- Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
- 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Công bằng xã hội (CBXH) là một hiện tượng, một quá trình xã hội, vận hành cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loại. CBXH phản ánh mục tiêu, khát vọng và là thước đo những thành tựu của con người trong quá trình đấu tranh, xây dựng, cải tạo và phát triển xã hội. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, với những chế độ xã hội khác nhau, vấn đề CBXH được nhận thức và thực hiện khác nhau, do vậy, bên cạnh những giá trị chung nhất định, khó có một quan niệm thống nhất về CBXH, nhất là trong bối cảnh thế giới diễn biến đa dạng và phức tạp, với nhiều lợi ích và khuynh hướng chính trị khác biệt, thậm chí đối lập nhau như hiện nay. Có thể nói, CBXH là một vấn đề không mới, nó được đặt ra khi con người biết liên kết để gây dựng nên xã hội loài người cho đến ngày nay, song đây lại là vấn đề luôn có tính thời sự, cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển. Hiện nay, cùng với mục tiêu phát triển kinh tế, hành trình của nhân loại vẫn là hành trình tìm kiếm, tạo dựng những giá trị CBXH, vì một thế giới hòa bình và thịnh vượng, vì mỗi cá nhân với những lợi ích chính đáng cần được thừa nhận và bảo vệ. Ở nước ta, CBXH là một trong năm thành tố của mục tiêu chung mà chúng ta phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH)“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội XI (2011) của Đảng đã khẳng định: “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Trong những năm đổi mới vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, vấn đề CBXH luôn được đặt ra, giải quyết và đạt được những thành tựu quan trọng góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho đông đảo nhân dân; lợi ích tăng trưởng ngày càng lớn và được phân phối trên quy mô rộng…Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường (KTTT), bên cạnh mặt tích cực, còn không ít tiêu cực,
- 2 ảnh hưởng nghiêm trọng tới CBXH: sự phân hóa giàu, nghèo quá mức giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng; tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, tình trạng bất công trong phân bổ tư liệu sản xuất, phân bổ giá trị, bất công trong việc tạo cơ hội học tập, việc làm cho người lao động…gia tăng, trở thành những vấn đề bức xúc, tác động tiêu cực đến tính chất xã hội chủ nghĩa (XHCN) của sự phát triển, đe dọa đến sự ổn định về chính trị xã hội. Trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, thực hiện CBXH luôn là bài toán khó khăn đặt ra đối với quá trình phát triển, bởi lẽ để biến mục tiêu đó thành hiện thực thì phải có hàng loạt những điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải giải quyết nhiều quan h ệ đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là quan hệ thường không dễ điều hòa giữa tăng trưởng kinh tế (TTKT) và CBXH, giữa quy luật cạnh tranh th ị tr ường cùng những hệ quả tiêu cực của nó với mục tiêu xây dựng xã hội lành mạnh, tiến bộ. Trong cơ chế thị trường, các vòng quay lợi nhuận luôn tạo sự bất công, do đó khó có thể xác lập CBXH toàn diện. Thực tế cho thấy, muốn thúc đẩy TTKT, trong nhiều trường hợp, chúng ta phải chấp nhận bất CBXH, nhưng tính chất và giới hạn của bất CBXH là gì và đến đâu v.v.., là những vấn đề rất mới. Ngay những nước phát triển, đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài với bao sự bất công xã hội thì mới có thể giải quyết CBXH ở những mức độ nhất định và còn nhiều khó khăn, thử thách... Trong những thập kỷ gần đây, nhiều nước trên thế giới đã và đang phải xem xét, điều chỉnh lại mô hình phát triển, kể cả những mô hình đã có một thời được xem là ưu việt nổi trội như mô hình Bắc Âu với nhà nước phúc lợi, mô hình châu Âu đại lục với thị trường xã hội. Xét theo nội hàm, vấn đề kinh tế cũng nằm trong lĩnh vực xã hội, nhưng không phải lúc nào giải quyết TTKT cũng đồng nghĩa với việc giải quyết vấn đề CBXH. Vì vậy, hiểu như thế nào về CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN; làm thế nào để đảm bảo gắn kết giữa phát triển kinh tế và
- 3 CBXH trong từng bước và cả quá trình phát triển; vai trò của Nhà nước trong việc quản lý, điều tiết nền KTTT nhằm thực hiện CBXH v.v.., là những vấn đề quan trọng, cấp bách cần được nhận thức và giải quyết hiện nay ở nước ta. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Vấn đề công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án Tiến sĩ Triết học. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN, luận án phân tích thực trạng và giải pháp nhằm thực hiện tốt CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về KTTT định hướng XHCN và CBXH. Khái quát những vấn đề có tính qui luật về thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN. Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu những vấn đề có tính qui luật và thực trạng việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu vấn đề CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, tập trung từ Đại hội VIII (1996) đến nay.
- 4 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Cơ sở lý luận Luận án vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về CBXH và CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN; Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong, ngoài nước có liên quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp hệ thống, lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh, v.v. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra. 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Góp phần làm rõ tính quy luật của việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Khái quát kinh nghiệm thực hiện CBXH trong một số mô hình KTTT trên thế giới. Phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án làm cơ sở cho công tác quản lý xã hội, xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
- 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Trong cuốn sách “Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” do Vũ Đình Bách chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2004), các tác giả đã khái quát lý luận về KTTT và KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, so sánh tính thống nhất và tính đặc thù giữa KTTT ở Việt Nam và KTTT ở nhiều nước trên thế giới; phân tích những nhân tố và động lực thúc đẩy sự phát triển của KTTT, từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu để xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. B ài viết:“Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” Ngô Quang Minh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2008; cuốn sách “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do Đinh Văn Ân chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008, đã phân tích các bộ phận cơ bản của thể chế KTTT, khái quát những thành tựu và hạn chế từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT ở nước ta. Tác giả Nguyễn Gia Thơ trong bài viết “Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 253, tháng 6.2012, đã tập trung phân tích mối quan hệ biện chứng giữa KTTT và định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tạo cơ sở định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở nước ngoài, tác giả David Miller, trong cuốn “Principles of social juctice”, Harvard University press, 2001; các tác giả Matthew Clayton và Andrew Williams trong cuốn “Social justice”, Blackwell publishing Ltd (2004); Ira C.Colby, Catherine N.Dulmus, Karen M.Sowers trong cuốn sách “Social work and social policy: advancing the principles of economic
- 6 and social justice”, Hoboken: John Wiley & Son press (2013) đã hệ thống hóa các quan điểm về CBXH trong thời kỳ cận, hiện đại; chỉ ra nội dung, nguyên tắc, điều kiện thực hiện CBXH hiện nay. Ở trong nước, trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế "Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, năm 2007, các tác giả đã bàn về CBXH trên các phương diện khác nhau như triết học, chính trị học, xã hội học v.v..; Lê Hữu Tầng trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học số 1/2008, đã nêu và phân tích hàng loạt những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách xoay quanh chủ đề CBXH. Tác giả Nguyễn Minh Hoàn, trong cuốn sách “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 đã chỉ ra vị trí, vai trò của CBXH trong tiến bộ xã hội và đi đến khái quát CBXH với tư cách là động lực của tiến bộ xã hội và CBXH với tư cách là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội. Bùi Đại Dũng, trong cuốn “Công bằng trong phân phối, cơ sở để phát triển bền vững”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, đã phân tích vai trò, ý nghĩa của CBXH trong việc đảm bảo không chỉ lợi ích của các cá nhân, các nhóm xã hội mà còn là lợi ích chung của toàn xã hội. 1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận của việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong cuốn “Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, do Lương Việt Hải chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, các tác giả đã nêu lên và lý giải hàng loạt những quan điểm mới xung quanh lý luận về thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay như: vấn đề phân hóa giàu, nghèo; vấn đề bất công, bất bình đẳng xã hội trong điều kiện KTTT v.v..Cuốn sách “Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay ”của Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, nêu lên những
- 7 nguyên tắc phương pháp luận cơ bản trong nhận thức và thực hiện CBXH ở nước ta. Đỗ Huy trong bài viết “Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (Tạp chí Triết học số 12/2009) đã phân tích 6 vấn đề bức xúc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, đó là: phải quan tâm tới thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của đất nước trong mối tương quan với các nước khác; phải chú ý tới tư duy gắn với lợi ích; vấn đề gia tăng dân số và các hệ lụy của nó; vấn đề giáo dục; vấn đề cơ chế thị trường. Một số luận văn, luận án đề cập tới vấn đề CBXH trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ này như: “Thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc sĩ Triết học của Trương Đình Khương, năm 2008; “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Chính trị học của Võ Thị Hoa, năm 2010; “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CBXH ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế”, Luận án Tiến sĩ Triết học của Vi Thị Hương Lan, năm 2012. Các tác giả đã nêu lên các khái niệm CBXH, bình đẳng xã hội; phân tích cơ sở lý luận của việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay v.v.. Những công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cuốn sách “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới vấn đề và giải pháp” của Nguyễn Thị Nga (Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà nội 2007; Cuốn “ Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,công bằng xã hội ở Việt Nam” do Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, các tác giả đã nêu lên những thành tựu cơ bản về tăng trưởng kinh tế và CBXH ở nước ta thời kỳ đổi mới, đồng thời, các tác giả cũng đã đưa ra những
- 8 cảnh báo về xu hướng không đồng thuận, thiếu bền vững giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH, trên cơ sở đó, nêu lên những giải pháp chủ yếu nhằm gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, CBXH ở nước ta hiện nay. Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Công bằng xã hội ở Việt Nam: Nhận diện và giải pháp thực hiện” (Tạp chí Triết học số 5/2008) đã đưa ra và phân tích bốn thời kỳ thực hiện CBXH ở Việt Nam từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện CBXH ở nước ta. Cuốn “Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” , do Lương Việt Hải chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, các tác giả đã đã lý giải CBXH gắn với tiến trình hiện đại hóa, trên cơ sở đó, khái quát 3 nhóm giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay đó là: phát triển toàn diện KTTT định hướng XHCN; xây dựng và thực thi đầy đủ các chính sách xã hội; nâng cao vai trò của Nhà nước trong tiến trình hiện đại hóa vì mục tiêu CBXH. 1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.4.1. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các công trình đã khắc họa những nét chung nhất về KTTT và KTTT định hướng XHCN dưới nhiều góc độ, mức độ khác nhau, tuy nhiên, còn nhiều nội dung quan trọng chưa được lý giải đầy đủ như vai trò, phương thức vận động và sự chi phối của các quy luật KTTT đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước; cơ cấu sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế, vai trò của chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; vai trò động lực của thành phần kinh tế tư nhân trong nền KTTT, v.v.. Các công trình nghiên cứu về CBXH đã bước đầu xây dựng cơ sở lý luận về CBXH, tuy nhiên, còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu như: nội dung, tính chất của CBXH; vấn đề công bằng về
- 9 cơ hội, điều kiện phát triển; sự phân biệt giữa công bằng và bình đẳng xã hội v.v.. Vấn đề thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã được đề cập tương đối phong phú, tuy nhiên, chưa có công trình nào làm rõ những mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết nhằm phát triển KTTT và thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay. 1.4.2. Định hướng nghiên cứu của đề tài Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận về CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN. Thứ hai, làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Thứ ba, đề xuất những giải pháp chủ yếu thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trong thời gian tới. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2.1. NHẬN DIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 2.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 2.1.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa ở giai đoạn phát triển cao, trở thành hình thái kinh tế phổ biến, chi phối nền sản xuất xã hội, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Nói cách khác, KTTT là một quy định quá trình vận động và phát triển của nền KTTT. KTTT có những đặc kiểu tổ chức kinh tế xã hội, mà ở đó, các loại thị trường chi phối mạnh mẽ và quyết định việc sản xuất hàng hóa; quan hệ hàng tiền và các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh v.v…là những quy luật kinh tế cơ bản trưng phổ biến đó là: tôn trọng tính độc lập trong sản xuất, kinh doanh
- 10 của các chủ thể kinh tế; hoạt động sản xuất kinh doanh phải theo yêu cầu của thị trường; tồn tại đa dạng các thành phần kinh tế, có sự điều tiết của nhà nước ở những mức độ khác nhau; đòi hỏi sự đồng bộ các yếu tố thị trường. 2.1.2.2. Quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Kinh tế thị trường định hướng XHCN là phương thức tổ chức kinh tế xã hội vừa dựa trên những quy luật và nguyên tắc chung của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất XHCN. KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của KTTT và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, phát triển theo định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN mang những đặc trưng cơ bản đó là: hướng tới phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; là nền kinh tế tồn tại đa dạng các thành phần kinh tế và hình thức sở hữu, trong đó thành phần kinh tế và sở hữu Nhà nước giữ vai trò nền tảng; là nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước XHCN; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH, phát triển văn hóa, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường; giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; là nền kinh tế thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối. 2.1.2. Quan niệm về công bằng xã hội Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề CBXH luôn được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù có những thành công nhất định, nhưng do hạn chế bởi lập trường giai cấp cũng như yếu tố thời đại, phần lớn các nhà tư tưởng trong lịch sử mới chỉ dừng lại ở việc khái quát dưới dạng lý tưởng về CBXH; chưa chỉ rõ được vai trò, bản chất, phương thức, điều kiện và lực lượng để thực hiện CBXH. Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa ra quan niệm đúng đắn về thực chất, vai trò của CBXH cũng như các giải pháp thực hiện nó trong đời sống xã hội. Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã khái quát lý luận về
- 11 CBXH vừa sâu sắc trong cốt lõi khoa học, vừa giản dị, hàm súc. CBXH gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, vì mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng con người; CBXH gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội, là trách nhiệm Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Hiện nay, khái niệm CBXH được đề cập phong phú, dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Căn cứ vào phương diện nghiên cứu, mục tiêu, nhiệm vụ của luận án, tác giả cho rằng, CBXH là một phạm trù lịch sử, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó bảo đảm sự tương xứng giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội. CBXH thể hiện khát vọng của con người và là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội. Với quan niệm trên, CBXH có những đặc trưng cơ bản sau: Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử: CBXH phản ánh quan hệ giữa người với người xung quanh vấn đề lợi ích. Sự phân phối lợi ích trong mỗi chế độ xã hội luôn chịu tác động bởi điều kiện kinh tế xã hội và các hình thái ý thức xã hội như ý thức chính trị, đạo đức, văn hóa của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy CBXH luôn có tính lịch sử. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, CBXH được nhìn nhận và giải quyết khác nhau. Về bản chất, CBXH là sự tương xứng giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội. Về nội dung, CBXH có nội dung phong phú, tuy nhiên có thể khái quát ở hai nội dung chính, đó là công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển và công bằng trong phân phối. Công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển là việc tạo cho mọi người tiếp cận phù hợp các cơ hội, điều kiện phát triển, thông qua đó, phát huy mọi năng lực của mình, cống hiến tích cực, có hiệu quả; đồng thời, hưở ng thụ một cách tươ ng xứng với kết quả của sự c ống hi ến đó. Công bằng trong phân phối là nội dung chủ yếu của CBXH. B ởi vì, trong xã hội, việc
- 12 lựa chọn các hình thức phân phối khác nhau sẽ quyết định tính chất và mức độ thực hiện CBXH khác nhau, điều này phụ thuộc vào bản chất kinh tế, chính trị xã hội cũng như điều kiện, năng lực thực tế của các nướ c trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Công bằng xã hội mang tính toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…trên cơ sở đảm bảo sự tương xứng giữa việc tạo ra và phân phối các lợi ích xã hội. Công bằng xã hội là khát vọng lớn lao của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần, do vậy, CBXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Khái niệm CBXH không tách rời với khái niệm bình đẳng xã hội, do đó cần phải nghiên cứu hai khái niệm này trong mối quan hệ với nhau. Bình đẳng là khái niệm chỉ sự bằng nhau, ngang nhau giữa cá nhân hay các nhóm xã hội về một hay một số phương diện nhất định, còn CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người với ng ười trên phương diện cống hiến và hưởng thụ. Công bằng và bình đẳng là hai khái niệm giao nhau. Bình đẳng có khía cạnh công bằng (như sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; bình đẳng trong hưởng thụ ở những người có lao động, đóng góp ngang nhau), nhưng cũng có khía cạnh không công bằng như sự phân phối bình quân. Trong công bằng vừa có bình đẳng, vừa có bất bình đẳng, cái mà xã hội thừa nhận là công bằng thì không nhất thiết phải là sự bình đẳng và sự bất bình đẳng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bất công. Trên cơ sở lý luận về KTTT định hướng XHCN và CBXH, tác giả khái quát quan niệm về công bằng xã hội trong điều kiện KTTT định hướng XHCN như sau: Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công bằng xã hội có mức độ, công bằng có thừa nhận bất công trong giới hạn; là công bằng xã hội được thực hiện tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; là công bằng xã hội được thực hiện từng bước, trong từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; công bằng xã hội là mục tiêu, động lực và là thước đo đánh giá trình độ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- 13 2.2. TÍNH QUI LUẬT VỀ VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2.2.1. Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công bằng có mức độ, công bằng có thừa nhận bất công trong giới hạn Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, nội dung chủ yếu quyết định CBXH là chế độ phân phối lợi ích trong xã hội. Ở các xã hội khác nhau, phương thức phân phối lại khác nhau, do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Điều này cũng có nghĩa, nếu vẫn còn sự khác biệt trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất thì vẫn còn tình trạng bất công và bất bình đẳng xã hội. Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, đối tượng sở hữu cũng đa dạng đã quy định quan hệ phân phối thu nhập đa dạng. Có những phân phối thông qua lao động, có những phân phối không thông qua lao động. Kết quả là có người thu nhập cao, có người thu nhập thấp; có người được hưởng thụ một cách tương xứng với những đóng góp của họ, và ngược lại, cũng có những người chưa được hưởng thụ một cách tương xứng. Rõ ràng là, không thể khắc phục được ngay mọi sự bất công xã hội, hoặc đòi hỏi thực hiện ngay lập tức một sự công bằng tuyệt đối, hoàn hảo. Điều đó chỉ có thể là kết quả của một quá trình lâu dài, được thực hiện từng bước trên cơ sở phù hợp với trình độ phát triển của xã hội. Nói cách khác, trong quá trình phát triển xã hội, chúng ta buộc phải chấp nhận bất công xã hội trong giới hạn nhất định. Tuy nhiên chúng ta không thể để chúng ngày càng gia tăng phổ biến, làm thay đổi bản chất của quan hệ kinh tế xã hội, hình thành chế độ xã hội bất công. Quá trình chuyển đổi cơ chế từ tập trung, bao cấp sang KTTT bên cạnh những yếu tố tích cực, còn không ít những yếu tố tự phát, độc quyền, lũng đoạn, vô chính phủ. Chúng ta cần phải chủ động, tích cực đấu tranh, khắc phục những hạn chế, tiêu cực xã hội đó. Có như vậy CBXH mới từng bước được thiết lập và bảo đảm, bất công xã hội mới được khắc phục.
- 14 2.2.2. Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực hiện sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội Trong nền KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và CBXH là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ. Tăng trưởng kinh tế làm tiền đề vật chất cần thiết để thực hiện CBXH. Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng cơ hội và điều kiện phát triển cho người lao động, đặc biệt là những người nghèo, những người gặp khó khăn tiếp cận các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả của tăng trưởng kinh tế. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, Nhà nước có sức mạnh vật chất thực hiện tốt các chính sách xã hội, hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính cho các vùng, các địa phương khó khăn phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản v.v.. Ở chiều tác động trở lại, tiến bộ, CBXH sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quan trọng hơn đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững. CBXH được thực hiện sẽ thu hút rộng rãi mọi người tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các thành phần kinh tế, các chủ thể sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, CBXH ngày càng được thế giới nhận thức rõ hơn. Mối quan hệ này thực ra đã nằm trong nội hàm của phát triển bền vững, bởi vì, theo quan niệm mới, phát triển bền vững gồm ba trụ cột quy định lẫn nhau, đó là phát triển kinh tế bền vững, phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi trường. 2.2.3. Công bằng xã hội được thực hiện trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực, cũng luôn tác động tiêu cực đối với quá trình thực hiện CBXH. KTTT tự nó, luôn có xu hướng vận động tự phát dưới sự tác động khách quan của các quy luật thị
- 15 trường. Trong mọi nền KTTT đều khó tránh khỏi ở mức độ nào đó, sự nảy sinh những hiện tượng, những quá trình nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, trong đó có thể kể đến như nạn khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, lạm phát, bất công xã hội, ô nhiễm môi trường v.v.. Kinh tế thị trường tạo ra những hạn chế, tiêu cực, nhưng KTTT lại luôn đặt ra yêu cầu và là phương thức để giải quyết những hệ quả đó. Ở nước ta, xuất phát từ mục tiêu, định hướng XHCN, trong từng bước cũng như toàn bộ quá trình phát triển của KTTT phải luôn gắn với việc giải quyết CBXH. Mặc dù trình độ phát triển của KTTT ở nước ta còn tương đối thấp, cùng với xu thế tăng trưởng kinh tế nhanh, dẫn tới xuất hiện nhiều những hiện tượng tiêu cực, bất công xã hội, nhưng chúng ta không thể phó mặc cho KTTT tự điều tiết, mà ngược lại phải chủ động điều tiết để hướng KTTT phát triển lành mạnh, vừa thúc đẩy kinh tế, vừa giải quyết những vấn đề xã hội. Càng khó khăn, càng phải thực hiện CBXH, bởi vì, khi kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, khuynh hướng tự phát của KTTT càng bộc lộ rõ. Nếu để KTTT tự nó điều tiết sẽ làm cho khoảng cách, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Cùng với nó, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền, nạn quan liêu, tham nhũng, vi phạm pháp luật sẽ ngày càng có khuynh hướng gia tăng. Thực thi CBXH là giải pháp căn bản khắc phục tình trạng này. 2.3. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI 2.3.1. Kinh nghiệm thực hiện công bằng xã hội trong mô hình kinh tế thị trường tự do Mỹ là quốc gia tiêu biểu cho mô hình này với quan điểm chủ đạo là tăng trưởng kinh tế đối lập với CBXH. Thực tiễn phát triển của các nước theo mô hình KTTT tự do đã chứng minh những nghịch lý cơ bản của quan điểm trên. Nền kinh tế tăng trưởng cao, nhưng đa số dân cư nghèo, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến sản xuất bị đình trệ, bế tắc. Mặc dù chính phủ Mỹ đã có cố gắng thực hiện các
- 16 chính sách phúc lợi và bảo đảm xã hội như đề ra các chương trình phiếu thực phẩm, hỗ trợ người nghèo, trợ giúp y tế, nhà ở, bảo hiểm xã hội, thất nghiệp,…nhưng đó chỉ là sự điều phối một phần nhỏ trong tổng giá trị lợi nhuận do xã hội tạo ra, và những người nghèo cũng chỉ được hưởng một phần rất nhỏ. Bản chất của KTTT tự do là phó mặc cho thị trường tự điều tiết. KTTT tự do đã thừa nhận bất công xã hội không giới hạn, nhằm gia tăng tối đa lợi ích của giới chủ tư bản và đẩy người lao động tới tình trạng đói nghèo, bần cùng hóa, dẫn tới kinh tế khủng hoảng; xã hội luồn ẩn chứa xung đột. Đây là điều chính những nhà tư sản cũng nhận ra và thực hiện việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường xã hội. 2.3.2. Kinh nghiệm thực hiện công bằng xã hội trong mô hình kinh tế thị trường xã hội Khác với mô hình Mỹ và các nước tư bản khác, Thụy Điển và các nước Bắc Âu, nhà nước tham gia tích cực vào đời sống kinh tế xã hội nhằm tạo ra một xã hội thịnh vượng và một nhà nước phúc lợi toàn dân. Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thông qua thuế và hệ thống bảo hiểm. Việc kết hợp giữa KTTT với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mở rộng phúc lợi xã hội, đã tạo ra hiệu quả phát triển kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên, để thực hiện các chương trình xã hội của chính phủ và cân bằng múc thu nhập của các tầng lớp dân cư, chính phủ Thụy Điển đã áp dụng chính sách thu thuế cao, tập trung vào những người có thu nhập cao. Thuế cao, cùng với phúc lợi xã hội lớn, dẫn đến số đông người dân dễ lạm dụng các trợ cấp xã hội. Các chủ tư bản tìm cách đầu tư ra nước ngoài để tránh thuế thu nhập, dẫn đến thất thu ngân sách ngày càng lớn. Kinh tế Thụy Điển đã có lúc lâm vào suy thoái. Chính phủ Thụy Điển đã phải liên tục thực hiện việc cắt giảm các khoản phúc lợi xã hội, để nhằm duy trì sự tồn tại của nền kinh tế.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn