BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN TUYÊN
XƢNG HÔ TRONG VĂN BẢN
HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số:
9.22.90.20
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2020
Công trình đƣợc hoàn thành tại:
KHOA NGỮ VĂN, TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Bùi Minh Toán
Phản biện 1: PGS.TS Hà Quang Năng
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Hữu Hoành
Viện Ngôn ngữ học
Phản biện 3: PGS.TS Lê Thị Lan Anh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Trường họp
tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Vào hồi ……….. giờ ……….. phút, ngày …….. tháng …….. năm 2020.
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
- Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Tuyên (2013), “Về một cách xưng hô của người Việt trong hoạt động giao
tiếp”, Ngôn ngữ và văn học, Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn quốc, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội, tr.103-108.
2. Nguyễn Văn Tuyên (2017), “Biểu thức ngôn ngữ để xưng trong văn bản hành chính tiếng
Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, (3), tr.104 -109.
3. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Một số cách xưng trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp
chí Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, (6), tr. 87-92.
4. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Biểu cảm và lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính
tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 64 (2), tr. 84-91.
5. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Vấn đề Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí
Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa học xã hội,(6), tr.73-80.
6. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (8/288), tr.32-37.
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1.1. Xưng hô là vấn đề quan trọng bậc nhất trong giao tiếp. Chỉ khi các nhân vật giao tiếp định vị được khung giao tiếp thì cuộc giao tiếp mới được bắt đầu mà xưng hô giúp con người định vị khung giao tiếp đó. Xưng hô trong tiếng Việt không chỉ là nhân tố quan trọng để hình thành diễn ngôn, quyết định đến việc lựa chọn ngôn ngữ mà còn biểu thị văn hóa dân tộc. Nếu chức năng cơ bản của lời nói thể hiện đặc trưng xã hội của người nói thì xưng hô thể hiện mối quan hệ liên cá nhân, vị thế xã hội, văn hóa của người phát ngôn.
1.2. Trong hoạt động giao tiếp b ng ngôn ngữ, văn bản hành chính (từ đây viết tắt là VBHC) là loại văn bản được dùng phổ biến trong đời sống xã hội. Đây là loại văn bản đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. So với các văn bản thuộc các phong cách chức năng khác, VBHC là loại văn bản có những đặc trưng rất khác biệt về chức năng cũng như hành chức. Một trong những điểm khác biệt với văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác là trong VBHC không thể không có hoạt động xưng hô và biểu thức xưng hô, nhất là xưng. Vì có những đặc thù riêng về chức năng và tổ chức văn bản, nên VBHC chịu sự chế định của pháp luật và được trình bày theo một quy phạm riêng biệt, nghiêm ngặt. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và hệ thống vấn đề xưng hô trong VBHC.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề Xưng hô trong văn bản hành chính tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu trong luận án của mình. Việc nghiên cứu vấn đề xưng hô trong VBHC không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn mà còn góp phần hướng đến chuẩn hóa loại hình văn bản đặc thù này. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần làm sáng tỏ lí thuyết giao tiếp, nhất là lí thuyết về xưng hô, đồng thời góp phần vào việc hoàn thiện, chuẩn hóa quy trình soạn thảo VBHC tiếng Việt. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề xưng hô trong VBHC tiếng Việt. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tiến hành khảo sát 543 VBHC của các cơ quan Nhà nước, của tổ chức kinh tế và của công dân (đơn từ) từ năm 2009 đến hết năm 2019. Nguồn để chúng tôi thu thập những văn bản này là qua sưu tầm trong các cơ quan, ban ngành của Nhà nước và qua trang thuvienphapluat.vn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về xưng hô trong VBHC tiếng Việt để làm sáng tỏ một phần xưng hô của VBHC và giao tiếp trong lĩnh vực hành chính. Từ đó góp phần xây dựng khuôn mẫu của VBHC để chuẩn hóa VBHC tiếng Việt.
2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện luận án này, chúng tôi hướng tới những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lí luận cần thiết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ: khái niệm xưng hô, phương tiện dùng để xưng hô, chức năng của xưng hô, các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp.
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về VBHC: khái niệm, chức
năng, đặc điểm của VBHC và phân loại VBHC tiếng Việt.
- Khảo sát và phân loại các biểu thức ngôn ngữ và cách thức xưng, hô trong VBHC
tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả các biểu thức xưng hô, cách xưng hô trong VBHC tiếng Việt. - Phân tích và đánh giá về tính tương thích, lịch sự trong xưng hô của VBHC tiếng Việt. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu chính như sau: phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích diễn ngôn kết hợp với các thủ pháp: thủ pháp so sánh, thủ pháp mô hình hóa, thủ pháp khảo sát, thống kê ngôn ngữ học.
5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Đóng góp về lí luận - óp phần làm sâu sắc và phong phú lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ, những đặc điểm của
phong cách ngôn ngữ hành chính nói chung.
- óp phần làm sáng tỏ lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp: biểu thức ngôn ngữ để xưng
hô, cách thức xưng hô, tính quy phạm về lịch sự trong xưng hô.
5.2. Đóng góp về thực tiễn - Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu tiếng Việt và dạy học tiếng Việt, nhất là ở phần phong cách ngôn ngữ hành chính.
- Với những kết quả cụ thể đạt được, luận án góp phần chuẩn hóa về mặt ngôn từ trong
việc soạn thảo, ban hành VBHC tiếng Việt.
6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết cấu
gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận; - Chương 2: Xưng trong văn bản hành chính tiếng Việt; - Chương 3: Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt và một số vấn đề trong quan hệ giữa
xưng và hô ở văn bản hành chính tiếng Việt.
3
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ xưng hô
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trước hết là nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ - văn hóa và ngôn ngữ - nhân chủng
học, với những nhà nghiên cứu tiêu biểu như: W.Von Humboldl (Về sự khác biệt của thiết
chế ngôn ngữ loài người), Friedrich Engels (Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà
nước) v.v...Kế tiếp là phải kể đến các quan điểm của các nhà ngôn ngữ học cấu trúc như:
M.B.Emeneau Studies in Vietnamese Grammar (1951), L.C.Thompson A Vietnamese
Grammar và A Vietnamese Reference Grammar (1965)... Với khuynh hướng cấu trúc, các tác
giả M.B.Emeneau và L.C.Thompson đã chỉ ra được các “chất liệu”, các “phương tiện vật chất”
cơ bản được dùng để thực hiện hành vi xưng hô trong tiếng Việt, đó là các “đại từ nhân xưng”
(personal pronouns), đồng thời đã phân chia đại từ nhân xưng thành hai nhóm: đại từ xưng hô
chuyên dụng và đại từ xưng hô lâm thời. Gần với đề tài luận án là hướng nghiên cứu theo quan
điểm ngôn ngữ học chức năng của tác giả Lương Văn Hy (1990) với công trình nghiên cứu về
Thực dụng diễn từ và ý nghĩa ngữ học - hệ thống quy chiếu về người trong tiếng Việt.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học quan tâm
nghiên cứu từ rất sớm. Các tác giả Nguyễn Văn Chiến trong Lớp từ xưng hô tiếng Việt trong
lí thuyết và thực tế đối với các ngôn ngữ khác loại hình hay Nguyễn Phú Phong trong Đại từ
nhân xưng tiếng Việt đã dành cho lớp từ xưng hô tiếng Việt một vị trí thích đáng. Các luận
án tiến sĩ của Phạm Ngọc Thưởng, Phạm Ngọc Hàm, Lã Thị Thanh Mai, Nguyễn Minh
Thuyết, Kim Young Soo và Hoàng Anh Thi đã nghiên cứu về đặc điểm xưng hô trong ngôn
ngữ của một dân tộc, hoặc so sánh đối chiếu xưng hô trong hai ngôn ngữ với nhau. Những
công trình này chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt về hệ thống từ xưng hô và đặc điểm trong
cách xưng hô của các dân tộc. Những đặc điểm đó gắn liền với các đặc điểm văn hóa dân
tộc. Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu về xưng hô và từ xưng hô trong nội bộ
tiếng Việt, nhưng quan tâm đến sự khác biệt trong xưng hô giữa các phương ngữ như luận
án tiến sĩ của Lê Thanh Kim, luận án tiến sĩ của Bùi Minh Yến. Dưới góc độ của Ngôn ngữ
học xã hội, tác giả Nguyễn Văn Khang đã phân xuất 13 cách xưng hô trong giao tiếp ngôn
ngữ, đồng thời chỉ ra r ng có nhiều nhân tố tác động đến sự lựa chọn từ ngữ xưng hô, trong
đó có bối cảnh cụ thể, có nhân tố quyền lực và thân hữu. Tuy nhiên, đây mới là những nhận
định về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, cần được vận dụng cụ thể vào từng
lĩnh vực giao tiếp, trong đó có giao tiếp thông qua VBHC.
4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn bản hành chính tiếng Việt
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở trên thế giới chưa có công trình nào nghiên cứu về
VBHC tiếng Việt và xưng hô trong VBHC tiếng Việt
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Những nghiên cứu về VBHC có thể tập hợp thành ba loại: Thứ nhất là những công
trình bàn về quy cách và kĩ thuật soạn thảo VBHC. Đó là các công trình của Bùi Khắc
Việt, Nguyễn Văn Thâm. Những công trình này hướng đến kĩ thuật xây dựng VBHC ở
nhiều phương diện khác nhau nhưng ít quan tâm tới việc sử dụng từ ngữ xưng hô. Thứ
hai là những công trình về phong cách học tiếng Việt, tiêu biểu là Phong cách học tiếng
Việt của Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú... Ở những công trình này, nhiều phương diện
khác nhau trong VBHC được nghiên cứu nhưng từ xưng hô và cách xưng hô chưa được
quan tâm thích đáng hoặc không được đề cập đến. Thứ ba là những công trình dành riêng
cho những phương diện bộ phận, có tính chuyên sâu của VBHC, trong đó có luận văn
thạc sĩ của Đỗ Thị Thanh Nga, Vũ Ngọc Hoa, Nguyễn Thị Hà. Tuy thế, cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào dành riêng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề xưng hô
trong VBHC. Có thể nhận thấy, số lượng các công trình nghiên cứu hay giảng dạy về
VBHC không phải là ít, nhưng vấn đề xưng hô trong VBHC chưa được quan tâm đến,
chưa có công trình nào dành riêng cho từ ngữ xưng hô, cách thức xưng hô và những vấn
đề liên quan đến xưng hô trong VBHC tiếng Việt..
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ
1.2.1.1. Khái niệm xưng hô
Theo Từ điển tiếng Việt: Xưng hô là: “Tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi
nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau”. Từ định nghĩa này, chúng tôi
quan niệm Xưng là hành động mà người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa mình vào
trong lời nói, để người nghe biết r ng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói
của mình. Hô là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa người nghe vào
trong cuộc hội thoại, là tập hợp những cách thức mà người nói dùng để chỉ người đối thoại
với mình (ngôi 2). Còn xưng hô là hành động của ngôn ngữ mà người nói tự xưng mình và
gọi người khác là gì đó khi họ đang giao tiếp với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ.
1.2.1.2. Phương tiện dùng để xưng hô trong giao tiếp Quan hệ vai giao tiếp là cốt lõi của việc xưng hô. Nếu như việc xưng hô chỉ đơn giản
là để thể hiện vai người nói và vai người nghe thì hệ thống từ xưng hô chỉ cần có bốn từ để
biểu hiện 4 yếu tố:
5
Ngôi thứ nhất Ngôi thứ hai
Số ít Số nhiều Số ít Số nhiều
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Tùy theo ngữ cảnh mà tiếng Việt còn dùng các
phương tiện sau để xưng hô: tên riêng; các danh từ thân tộc; các từ chỉ chức nghiệp như:
bác sĩ, giáo sư, chủ tịch, giám đốc, thủ tướng, thầy, cụ bá, ông lí, ông cựu, ông bát…;
những từ chuyên dùng để xưng hô như: ngài, trẫm, lão, thần, khanh, ngu đệ, hiền đệ, ngu
huynh, hiền huynh, bỉ nhân, tại hạ, các hạ, túc hạ, tiên sinh…; một số tổ hợp dân dã như:
anh cò, anh hĩm, chị đỏ…”
Tác giả Nguyễn Văn Khang đã đưa ra 13 kiểu xưng hô thường gặp trong giao tiếp như
sau: (1) Xưng hô bằng tên; (2) Xưng hô bằng họ;(3) Xưng hô bằng họ + tên; (4) Xưng hô
bằng tên đệm + tên; (5) Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên; (6) Các đại từ nhân xưng; (7)
Các từ thân tộc dùng làm từ xưng hô; (8) Các từ khác được dùng làm từ xưng hô; (9) Gọi
bằng một trong các chức danh; (10) Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh; (11) Gọi
bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con); (12) Gọi bằng các kết hợp khác nhau (ví
dụ: chức danh + tên, chức danh + họ tên, từ xưng hô + họ + tên/tên); (13) Không xuất hiện
các từ xưng hô trong giao tiếp (khuyết vắng từ xưng hô)
Theo tác giả Trần Kim Phượng: “Các từ xưng hô trong tiếng Việt gồm 2 nhóm cơ bản:
1. Đại từ nhân xưng chính danh và 2. Đại từ nhân xưng lâm thời…Trong môi trường sử dụng
nhất định, các từ xưng hô có thể được chia thành hai loại: Xưng hô theo quy thức: trong
những không gian như trên lớp học (cô, thầy/em, con); ở tòa án (quý tòa/bị cáo), trong cuộc
họp (thưa giám đốc, thưa bà,...)... thường theo quy định bắt buộc, mang tính khách quan.
Xưng hô không theo quy thức: dùng trong giao tiếp đời thường (nhóm này vô cùng phong
phú, nhìn chung, chúng mang đậm màu sắc cá nhân, không mang tính chất trang trọng)”.
Cách xưng hô (9), (12) trong quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Khang thường được
dùng trong giao tiếp hành chính, còn (10) được dùng trong giao tiếp hành chính đặc biệt
trọng thể. Bởi vì VBHC thường mang tính quy phạm, ngôn từ sử dụng cũng phải trong sáng,
trang trọng.
1.2.1.3. Chức năng của xưng hô trong giao tiếp
a. Chức năng định vị
Chức năng định vị của xưng hô có tác dụng tự bộc lộ vị thế của các nhân vật giao tiếp.
Đó là vị thế trên hay dưới, hoặc ngang b ng giữa các nhân vật giao tiếp. Đồng thời biểu thị
mối quan hệ tương quan giữa người nói với người nghe.
b. Chức năng chiếu vật
Chức năng chiếu vật là chức năng quy chiếu vào các nhân vật giao tiếp (người nói tự quy
chiếu về mình và quy chiếu đến người tham gia giao tiếp). Sự chiếu vật trong xưng hô là hướng
tới người nói và người nghe. Đây là sự quy chiếu mang tính cụ thể và dễ dàng nhận biết.
6
c. Chức năng thể hiện quan hệ liên nhân
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương
quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau”. Cũng theo tác giả “Quan
hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp có thể xét theo hai trục, trục tung là trục vị thế xã
hội còn gọi là trục quyền uy (power), trục hoành là trục của quan hệ khoảng cách (distance),
còn gọi là trục thân cận (solidality)”. Giữa hai trục quyền uy và thân cận có sự tương ứng.
Khoảng cách địa vị xã hội càng lớn thì con người càng khó gần gũi nhau. Tuy nhiên không
phải bao giờ chúng cũng đi đôi với nhau bởi có những người địa vị xã hội cách xa nhau
nhưng vẫn có thể thân mật, gần gũi với nhau được.
Trong VBHC, xưng hô chủ yếu thực hiện chức năng thứ nhất và thứ hai, còn chức
năng thứ ba hạn chế hơn.
1.2.1.4. Các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp
Các nhân tố chi phối tới xưng hô là các nhân tố của hoạt động giao tiếp b ng ngôn
ngữ, bao gồm: hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao
tiếp, cách thức giao tiếp. Tuy nhiên, với VBHC - một loại văn bản mang những nét đặc thù -
việc xưng hô lại không hoàn toàn phụ thuộc vào tất cả những nhân tố trên hoặc nếu có phụ
thuộc vào nhân tố nào đó thì lại phụ thuộc ở những mức độ khác nhau.
1.2.1.5. Lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ
a. Các quan điểm về lịch sự của phương Tây
Nhiều nhà dụng học phương Tây quan tâm nghiên cứu về lịch sự ở các góc độ khác
nhau. B Fraser (1990) nhìn nhận phép lịch sự dưới góc độ của sự hợp tác hội thoại, xem lịch
sự như là một nhân tố quan trọng quy định việc lựa chọn các yếu tố ngôn ngữ dùng trong
giao tiếp. Dưới góc độ ngôn ngữ học xã hội, R.Lakoff cho r ng: “Lịch sự là giảm thiểu xung
đột trong giao tiếp… có hai nguyên lí tổ chức ngôn ngữ: nguyên lí diễn đạt rõ ràng và nguyên
lí lịch sự”. Vì vậy, cần thực hiện những quy tắc sau: không áp đặt (trong lễ nghi, ngoại giao);
để ngỏ sự lựa chọn (trong giao tiếp thông thường); làm cho người đối thoại cảm thấy thoải
mái (trong trò chuyện thân mật). Theo G.Leech, phép lịch sự được xây dựng trên hai khái
niệm tổn thất (cost) và lợi ích (benefit) gây ra cho người nói và người nghe. Cho nên mục tiêu
của nó, như một nguyên tắc, là tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự (lịch sự tiêu cực), và tối
đa hóa những lối nói lịch sự (lịch sự tích cực). Từ đó, tác giả đề ra những phương châm giao
tiếp trong giao tiếp lịch sự: khéo léo, hào hiệp, tán đồng, khiêm tốn, thiện cảm. Theo P.
Brown và S.C. Levinson, phép lịch sự trong giao tiếp liên quan đến thể diện (face) của người
nói và người nghe. Điểm chung của những quan niệm trên về lịch sự là coi lịch sự chính là
những chiến lược sử dụng ngôn ngữ để tránh né sự đụng độ và bất hòa trong giao tiếp.
7
b. Các quan điểm lịch sự của phương Đông
Đối với người Nhật, theo Matsumoto (1988), văn hóa ứng xử hướng đến tập thể hơn là
cá nhân do đó thể diện âm tính không đóng vai trò quan trọng trong ứng xử lịch sự. Cũng
với cách nhìn tương tự về lịch sự, Gu (1990) cho r ng khái niệm lịch sự trong tiếng Trung
hiện đại bắt nguồn từ khái niệm “Lễ” của Nho giáo. Khái niệm này được hiểu là sự tuân
theo các quy tắc ứng xử của xã hội, thuộc về cấp độ xã hội, có sự áp đặt chuẩn mực lên mọi
cá nhân. Trong tiếng Trung, khái niệm lịch sự hiện đại nghĩa là khiêm với mình và tôn kính
với người. Điều này được phản ánh rất rõ ràng trong cách thức xưng hô, nói năng của người
Trung Quốc khi họ luôn hạ thấp bản thân và tôn vinh người đối thoại trong giao tiếp. Ở Việt
Nam, tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho r ng: “Trước hết, người ta có thể coi lịch sự như một
chuẩn mực xã hội. Các nhà văn hóa thuộc nhiều dân tộc khác nhau đã quan niệm lịch sự là
hành động xã hội có lễ độ hay là phép xã giao trong phạm vi văn hóa”. Tác giả Vũ Thị
Thanh Hương khẳng định khái niệm lịch sự trong tiếng Việt có liên quan ít nhất với bốn
khái niệm cơ bản là lễ phép, đúng mực, tế nhị và khéo léo...Tác giả kết luận: “Khái niệm
lịch sự trong tiếng Việt bao hàm cả hai bình diện lịch sự: lịch sự chiến lược theo kiểu
phương Tây và lịch sự chuẩn mực theo kiểu Trung Quốc”.
1.2.2. Khái quát về văn bản hành chính tiếng Việt
1.2.2.1. Khái niệm văn bản hành chính
Chúng tôi quan niệm VBHC được hiểu theo nghĩa rộng là loại văn bản dùng trong các
hoạt động tổ chức, quản lí và điều hành xã hội; thực hiện sự giao tiếp giữa các cơ quan của
Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế và các tổ chức, cơ quan khác với nhau, với
công dân và ngược lại, giữa các công dân với nhau trên cơ sở pháp lí. Hiểu theo nghĩa rộng
này, VBHC bao gồm: Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản cá biệt và VBHC thông
thường. Chủ thể ban hành VBHC là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế, các tổ chức cơ quan khác và cả của công dân nói chung.
1.2.2.2. Chức năng của văn bản hành chính
VBHC gắn liền với hoạt động của Nhà nước, vừa là phương tiện vừa là sản phẩm của
quá trình quản lí. Chính vì vậy, chức năng của VBHC về cơ bản là: chức năng thông tin,
chức năng quản lí và chức năng pháp lí.
1.2.2.3. Đặc điểm của văn bản hành chính
VBHC mang những đặc trưng sau: tính minh xác, tính khuôn mẫu, tính quy thức, tính
quan phương và tính hiệu lực.
1.2.2.4. Phân loại văn bản hành chính
a. Phân loại theo chủ thể ban hành văn bản
Theo chủ thể ban hành văn bản, VBHC bao gồm:
8
- Văn bản của Đảng
- Văn bản của các cơ quan Nhà nước
- Văn bản của các đoàn thể, hiệp hội, tổ chức trong xã hội
- Văn bản của cá nhân hay nhóm xã hội
- Văn bản quy phạm pháp luật
- Văn bản cá biệt
- Văn bản hành chính thông thường
1.2.2.5. Văn bản hành chính tiếng Việt dưới góc độ xưng hô
a. Văn bản hành chính chỉ có biểu thức xưng, mà không có biểu thức hô
b. Văn bản hành chính có cả biểu thức xưng và biểu thức hô
Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu dựa vào cách phân loại VBHC theo hiệu lực
pháp lí, tính chất nội dung và tên loại văn bản để khảo sát.
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 của luận án, người viết tập trung trình bày hai vấn đề lớn: Một là Tổng quan
những lĩnh vực có liên quan đến hướng nghiên cứu của luận án và khẳng định đề tài
không trùng với bất kì nghiên cứu nào trước đó. Hai là Cơ sở lí luận, người viết đã hệ
thống hóa một số nội dung chủ yếu như: lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ,
về VBHC. Những lí thuyết này sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về
tình hình nghiên cứu, chúng tôi đã điểm lại tình hình nghiên cứu đề tài, phân tích để chỉ ra
xưng hô trong tiếng Việt và những vấn đề cơ bản của VBHC để có cơ sở lí giải một cách
cẩn trọng và thấu đáo toàn bộ cơ chế hoạt động của xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
9
Chƣơng 2
XƯNG TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
2.1. Khái niệm xưng trong văn bản hành chính
Chúng tôi quan niệm: “Xưng trong VBHC được hiểu là cách mà chủ thể, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng biểu thức ngôn ngữ để thể hiện chính bản thân mình và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản.” 2.2. Các biểu thức ngôn ngữ để xưng trong văn bản hành chính
2.2.1. Đại từ nhân xưng Dùng đại từ nhân xưng để xưng chỉ được sử dụng trong những VBHC thông thường do một cá nhân tạo lập để giao tiếp với một cá nhân hay một tập thể khác. Các đại từ nhân xưng này thể hiện tính trung hòa, lịch sự và chỉ dùng các đại từ nhân xưng: tôi (số ít), chúng tôi (số nhiều), em (số ít), chúng em (số nhiều). Ví dụ: “...Hôm nay, tôi viết đơn này xin được trình bày một việc như sau...” (Trích Đơn xin nghỉ phép của một cá nhân).
2.2.2.Danh từ chỉ chức vụ Dùng chức vụ để xưng chỉ được sử dụng trong VBHC thông thường có tính pháp lí do cá nhân có thẩm quyền ban hành. Để đảm bảo tính hiệu lực thì chức vụ cần phải được thể hiện rõ ràng, chính danh trong mỗi văn bản (danh chính, ngôn thuận). Tuy nhiên, chỉ có chức vụ cao nhất trong một cơ quan, đơn vị, tổ chức mới có thể dùng để xưng. Ví dụ: “… Tổng giám đốc chỉ thị các Phòng ban chức năng và các tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện các công việc sau:..” (Trích Chỉ thị số: 95/CT-CT-KTKH ngày 17/4/2012 của Tổng giám đốc Công ti Cổ phần Đầu tư phát triển đô thị và Khu Công nghiệp Sông Đà về việc rà soát kiểm tra việc triển khai đầu tư và huy động vốn nhằm mục đích phát triển Dự án Khu đô thị mới Nam An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội). 2.2.3. Tên riêng
Đối với xưng b ng tên riêng (đầy đủ họ và tên) chỉ xuất hiện trong một số VBHC thông thường do một cá nhân tạo lập để giao tiếp với một cá nhân hay một tập thể khác nh m để trao đổi công việc mang tính cá nhân. Xưng b ng tên riêng không xuất hiện trong VBQPPL và VBCB. Xưng b ng tên riêng có những đặc thù riêng: Thứ nhất danh xưng gồm đầy đủ họ tên; Thứ hai danh xưng xuất hiện ở vị trí kết thúc văn bản (dưới phần kí tên) để đảm bảo tính chính danh của người tạo lập và chịu trách nhiệm về văn bản. Ví dụ:
...Tôi xin chân thành cảm ơn! Người làm đơn
(Đã kí)
Nguyễn Thị Hải Hà (Trích Đơn xin nghỉ phép của một cá nhân)
2.2.4. Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức Đây là biểu thức xưng được sử dụng nhiều trong các loại VBHC có tính pháp lí cao do các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành như: VBQPPL, VBCB và một số thể loại trong VBHC thông thường như: chỉ thị, quy chế, thông báo, công văn,…Văn bản do cơ
10
quan nào đó ban hành sẽ do cơ quan đó xưng danh và do người đứng đầu cơ quan đó kí. Ví dụ: “...Ủy ban nhân dân thành phố yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể thành phố, Tổng công ti, các cơ quan,...tổ chức thực hiện nghiêm chỉ thị này...” (Trích Chỉ thị số: 01/CT-UBND, ngày 23/01/2019 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về việc phát động phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2019)
2.2.5. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên riêng Cách xưng này xuất hiện trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí. Chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản phải là cá nhân có thẩm quyền cụ thể xưng danh và kí tên dưới văn bản. Cá nhân ở đây có thể chính là chủ thể phát ngôn hay là người có thẩm quyền thay chủ thể phát ngôn chịu trách nhiệm về văn bản. Xưng phải rõ ràng, chính xác chức vụ và tên riêng (đầy đủ họ và tên) của chủ thể xưng. Cách xưng này thể hiện tính pháp lí, tính minh bạch và vị thế, quyền lực của chủ thể phát ngôn hay chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản. Mô hình của biểu thức xưng như sau:
Chức vụ + chữ kí + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
2.2.6. Biểu thức phối hợp tên riêng với từ chỉ chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức Cách xưng này chỉ được sử dụng trong một số VBHC thông thường như: công văn, thư từ. Cá nhân ở đây thường là người đứng đầu một cơ quan, đơn vị, tổ chức và đại diện cho cơ quan, đơn vị, tổ chức để giao tiếp. Đây là cách xưng thể hiện tính minh bạch, địa vị và quyền lực của chủ thể phát ngôn. Mô hình của biểu thức xưng như sau:
Tên riêng (đầy đủ họ và tên) + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ)
2.2.7. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, từ chỉ chức vụ và
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Cách xưng này chỉ xuất hiện trong một số VBHC thông thường do cá nhân đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức xưng danh thay mặt cho tập thể để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác. Đây là cách xưng thể hiện đầy đủ, chi tiết thông tin về chủ thể xưng, đồng thời khẳng định tính pháp lí, vị thế quyền lực của chủ thể xưng. Mô hình của biểu thức xưng như sau: Học hàm, học vị + tên riêng + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ).
2.2.8. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Cách xưng này xuất hiện trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí cao do các cơ
quan, đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành như: VBQPPL, VBCB và một
số VBHC thông thường khác như: công điện, công văn, chỉ thị, thông báo,... Chủ thể xưng
thường là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức thay mặt cho cơ quan, đơn vị, tổ chức để
giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác. Mô hình của biểu thức xưng như sau:
Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ hoặc rút gọn)
Nhìn chung, ở mỗi loại VBHC khác nhau, việc dùng các biểu thức ngôn ngữ để
xưng cũng có sự giống và khác nhau. Bảng so sánh dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ
điều này.
11
Bảng 2.1. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các biểu thức ngôn ngữ để xưng ở
các loại VBHC tiếng Việt
Tên loại VBHC Giống nhau Khác nhau
-Dùng tên cơ quan dạng đầy đủ (không có yếu Văn bản quy
tố rút gọn). phạm pháp luật
-Dùng chức vụ kết tên riêng hợp với - Có trường hợp dùng tên cơ quan dạng rút Văn bản cá biệt
(đầy đủ họ và tên) để gọn để xưng.
xưng. - Dùng đại từ nhân xưng để xưng. Văn bản hành
- Dùng chức vụ để xưng. chính thông -Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, - Dùng tên riêng để xưng. thường đơn vị, tổ chức để - Dùng học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, xưng. chức vụ, tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. - Dùng tên cơ quan, - Dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên đơn vị, tổ chức để cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. xưng.
2.3.Vị trí của biểu thức ngôn ngữ để xưng trong văn bản hành chính 2.3.1. Vị trí đầu văn bản
Biểu thức ngôn ngữ để xưng trong VBHC thường xuất hiện ngay ở phần đầu văn bản
sau quốc hiệu và các biểu thức ghi thời gian, địa điểm, tên văn bản. Xưng ở đầu văn bản bắt
buộc phải có trong các VBQPPL, VBCB và một số thể loại của VBHC thông thường khác.
Đây là những văn bản có tính pháp lí cao do các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành.
Nếu là cá nhân xưng thì phải là người đứng đầu cơ quan và cần đảm bảo tính chính danh.
Chủ thể phát ngôn cần thể hiện đúng, đủ chức vụ của mình trong hệ thống cơ quan, nhà
nước. Nếu chủ thể xưng là cơ quan thì phải xưng đầy đủ tên cơ quan để đảm bảo tính chính
xác, tường minh, pháp lí, khách quan. Vị trí xưng ở đầu văn bản mang tính khuôn mẫu theo
quy định định của một số loại văn bản như: nghị quyết, quyết định, nghị định, thông tư,...
2.3.2. Vị trí kết thúc văn bản Xưng ở vị trí kết thúc văn bản là kiểu xưng chỉ có ở VBHC và bắt buộc phải có trong
bất cứ VBHC nào. Kiểu xưng này được thể hiện ở chỗ cuối mỗi VBHC luôn có chữ kí, tên
họ đầy đủ của một cá nhân kèm theo là vai trò hoặc chức vụ của cá nhân đó. Chữ kí trong VBHC không đơn thuần chỉ biểu thị chủ thể xưng là ai hoặc đại diện cho cơ quan, tổ chức nào mà quan trọng hơn là nó biểu thị tính pháp lí và người chịu trách nhiệm về văn bản. Người kí văn bản phải có đủ thẩm quyền và chịu trách nhiệm về nội dung văn bản mà mình kí. Xưng ở vị trí kết thúc văn bản có thể chia thành các trường hợp sau:
a. Cá nhân kí tên với tư cách riêng Trường hợp này xuất hiện trong những văn bản có tính cá thể như đơn từ của cá nhân
12
với tư cách người viết (người tạo lập văn bản) đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm và khẳng định tính xác thực của văn bản. Ví dụ:
Người viết đơn
(Đã kí)
Nguyễn Ánh Hồng (Trích Đơn xin phép nghỉ học của một học sinh)
b. Cá nhân kí tên đại diện cho tập thể
Trường hợp xưng này thường xuất hiện trong những văn bản pháp quy, do một cơ quan,
đơn vị, tổ chức ban hành. Tuy chữ kí là của cá nhân song về nguyên tắc nó không mang danh
nghĩa là của cá nhân mà chữ kí đó mang ý nghĩa chịu trách nhiệm và khẳng định tính xác thực của văn bản chứ không phải khẳng định cá nhân. Chủ thể kí tên đại diện cho một tập thể, cơ
quan, tổ chức có thể là Thủ trưởng cơ quan hoặc cấp phó kí thay cho Thủ trưởng khi Thủ
trưởng cơ quan vắng mặt hoặc kí những văn bản về mảng công tác mình phụ trách. Ví dụ:
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH (Đã kí)
(Trích Quyết định số 46/2018/QĐ-UBND, ngày 19/12/2018 của UBND tỉnh Hưng Yên)
Nguyễn Văn Phóng
2.3.3. Vị trí giữa văn bản
Ngoài những vị trí đầu, kết thúc văn bản, biểu thức xưng (đầy đủ hay rút gọn) còn
được sử dụng ở giữa văn bản (n m trong nội dung văn bản). Biểu thức xưng ở giữa văn bản
có thể được lặp lại nhiều lần.
2.4. Xưng trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp
2.4.1. Vị thế ngang bằng
Vị thế ngang b ng trong giao tiếp ở VBHC là vị thế giữa chủ thể phát ngôn và khách
thể tiếp nhận văn bản phải ngang nhau. Nếu chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản
là cá nhân thì giữa hai cá nhân phải có địa vị và chức vụ ngang nhau theo quy định trong hệ
thống các cơ quan, đơn vị, tổ chức của bộ máy quản lí Nhà nước. Còn nếu chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn là cơ quan, đơn vị, tổ chức thì phải là những cơ quan, đơn vị, tổ
chức cùng cấp hoặc ngang cấp theo quy định trong hệ thống các cơ quan Nhà nước.
a. Chủ thể phát ngôn là cá nhân Thứ nhất là dùng đại từ nhân xưng tôi để xưng. Thứ hai là dùng tên riêng để xưng. Thứ ba là dùng chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng. Thứ tư là dùng chức vụ
kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng.
b. Chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức ở dạng đầy đủ hoặc dạng rút gọn
để xưng. Đây là cách xưng được sử dụng nhiều trong VBHC. Chủ thể phát ngôn đại diện
cho cơ quan, đơn vị, tổ chức để giao tiếp. Nói chung, xưng ở vị thế ngang b ng trong
13
VBHC là xưng theo quy thức, đó là kiểu xưng lịch sự, có tính chuẩn mực, khách quan, trung hòa và tuân thủ theo những quy định của pháp luật.
2.4.2. Vị thế của vai trên đối với vai dưới a. Chủ thể phát ngôn là cá nhân
Khi xưng, để thể hiện tính lịch sự, địa vị quyền lực và vị thế, chủ thể phát ngôn (vai
trên) thường dùng: Thứ nhất là đại từ nhân xưng tôi để xưng. Thứ hai là dùng chức vụ để xưng. Thứ ba là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. Thứ tư là
dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng. Thứ năm là dùng chức vụ kết hợp tên riêng (đầy
đủ họ và tên) để xưng. Thứ sáu là dùng học hàm (học vị), kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ
tên), chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. Thứ bảy là dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng.
b. Chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức
Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút ngọn để
xưng. Đây là cách xưng được sử dụng phổ biến trong VBHC vì có tính pháp lí cao. Cách
xưng này mang đến một sắc thái về quyền uy của tập thể, chứ không chỉ một cá nhân nào.
Mặt khác nó còn thể hiện tính pháp lí và vị thế quyền lực của chủ thể phát ngôn.
2.4.3. Vị thế của vai dưới đối với vai trên a. Chủ thể phát ngôn là cá nhân
Thứ nhất là dùng đại từ nhân xưng tôi, em để xưng. Thứ hai là dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng.
b. Chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức
Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để xưng.
Cách xưng này thể hiện tính tập thể, tính khách quan, tính pháp lí của chủ thể phát ngôn.
Tiểu kết chƣơng 2 Chương 2 của luận án đã tập trung vào việc tìm hiểu vấn đề xưng trong VBHC. Cụ thể,
chúng tôi đã tập trung làm rõ các điểm sau: Một là, về khái niệm xưng trong VBHC được
hiểu là cách mà chủ thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng biểu thức ngôn ngữ để thể hiện chính bản thân mình và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn
bản. Hai là các biểu thức ngôn ngữ để xưng trong VBHC. Qua khảo sát, VBHC sử dụng các biểu thức ngôn ngữ để xưng như: dùng đại từ nhân xưng; dùng đại từ nhân xưng kết hợp với tên riêng; dùng tên riêng để xưng; dùng chức vụ để xưng; dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để xưng; dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng;
dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng; xưng b ng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, những từ dùng để xưng trong VBHC không phong phú, đa dạng như trong giao tiếp đời sống xã hội, nhưng luôn luôn tường minh và xác
định. Ba là, vị trí của biểu thức xưng trong VBHC khá linh hoạt, có thể ở đầu, ở giữa và
14
nhất là ở chỗ kết thúc văn bản (phần kí tên). Vị trí xưng phụ thuộc nhiều vào từng loại VBHC. Mỗi loại VBHC, với những nội dung chuyên biệt sẽ có cách xưng riêng mà thể hiện
ở vị trí của biểu thức xưng trong văn bản. Bốn là, xưng trong mối quan hệ với vị thế giao
tiếp được xét ở các phương diện như: vị thế ngang b ng, vị thế của vai dưới đối với vai
trên, vị thế của vai trên đối với vai dưới. Xưng trong VBHC tuân thủ đúng vị thế và mang
tính xác định ngôi thứ ổn định.
Chƣơng 3
HÔ TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
TRONG QUAN HỆ GIỮA XƢNG VÀ HÔ Ở VBHC TIẾNG VIỆT
3.1. Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt
3.1.1. Khái niệm “hô” trong văn bản hành chính
Từ những nghiên cứu về hô trong giao tiếp nói chung và trong văn bản nói riêng,
chúng tôi đưa ra quan niệm về hô trong VBHC: “Hô trong VBHC được hiểu là cách mà chủ
thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng biểu thức ngôn ngữ để thể
hiện đối tượng đang giao tiếp với mình - đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản.”
3.1.2. Các biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính
Từ hô gọi chung dùng để hô trong VBHC xuất phát từ danh từ thân tộc và chỉ chiếm
một số lượng ít trong hệ thống danh từ thân tộc của tiếng Việt. Chỉ có những từ có tính trang
trọng, lịch sự, trung hòa là: ông/bà, anh/chị hoặc đồng chí được dùng để hô. Những từ này
chỉ dùng để hô ở VBHC thông thường và một số VBCB. Trong VBQPPL không dùng từ hô
gọi chung để hô. Các từ ông/bà, anh/chị được dùng để hô trong VBHC không thể hiện mối
3.1.2.1. Từ hô gọi chung
quan hệ thân tộc mà thể hiện sự tôn trọng của chủ thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp nhận
văn bản.
3.1.2.2. Danh từ chỉ chức vụ, chức danh, nghề nghiệp
Cũng như xưng, loại danh từ được dùng để hô là các danh từ chỉ chức vụ. Chức vụ là
danh từ vừa thể hiện đối tượng được hô đồng thời thể hiện rất rõ vị thế, quyền uy và tính
trang trọng, lịch sự. Ngoài các danh từ chỉ chức vụ, danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp
cũng được sử dụng để hô. Khách thể tiếp nhận văn bản là một đối tượng hay một nhóm đối
tượng cụ thể. Dùng chức danh, nghề nghiệp của khách thể tiếp nhận văn bản để hô thể hiện
tính trang trọng, lịch sự.
3.1.2.3. Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức
Khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là một tập thể. Việc dùng biểu thức định cơ
quan, đơn vị, tổ chức để hô càng làm tăng thêm tính trách nhiệm trong thực thi văn bản. Tùy
từng loại VBHC khác nhau, biểu thức hô b ng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức có thể ở dạng
15
đầy đủ, rút gọn hoặc khái quát. Cách hô này thể hiện tính tập thể, khách quan, pháp lí của
khách thể tiếp nhận văn bản.
3.1.2.4. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với tên riêng
Ngoài việc dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô, trong giao tiếp
b ng VBHC còn dùng từ hô gọi chung ông/ bà, anh/ chị và đồng chí kết hợp với tên riêng
(đầy đủ họ và tên) để hô. Cách hô này chỉ xuất hiện trong VBHC thông thường và VBCB vì
trong VBHC thông thường và VBCB đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản luôn cụ thể,
xác định. Mô hình của biểu thức hô này như sau:
Từ hô gọi chung + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
3.1.2.5. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn
vị, tổ chức
Trong giao tiếp b ng VBHC, để thể hiện tính cụ thể, chính xác, sự tôn trọng vị thế,
quyền lực của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, chủ thể phát ngôn còn dùng từ hô gọi
chung kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị tổ chức để hô. Đây còn là cách
hô nh m đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc
thực thi văn bản. Mô hình của biểu thức hô như sau:
Từ hô gọi chung + tên riêng + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
3.1.2.6. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với chức vụ
Trong giao tiếp b ng VBHC, để hạn chế sự lặp lại cách hô trong một văn bản mà vẫn
đảm bảo được tính lịch sự, tính chính xác, sự tôn trọng đối với khách thể tiếp nhận và thực
thi văn bản, chủ thể phát ngôn thường dùng từ hô gọi chung kết hợp với danh từ chỉ chức vụ
để hô. Mô hình của biểu thức hô như sau:
Từ hô gọi chung + chức vụ
3.1.2.7. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với chức vụ ơ q a đơ ị, tổ chức
Đây là cách hô thể hiện tính lịch sự, sự tôn trọng địa vị, quyền lực của chủ thể phát
ngôn dành cho khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, đồng thời cũng đề cao vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc thực thi văn bản. Mô hình
của biểu thức hô như sau:
Từ hô gọi chung + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
3.1.2.8. Biểu thức phối hợp chức vụ với tên riêng.
Đây là cách hô nh m đề cao địa vị, quyền lực của khách thể tiếp nhận văn bản. Trong
VBQPPL và VBCB không sử dụng cách hô này. Vị trí hô thường xuất hiện ở đầu văn bản
(sau phần Kính gửi:...). Mô hình của biểu thức hô như sau:
16
Chức vụ + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
3.1.2.9. Biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Ngoài việc dùng danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học vị để hô, trong giao
tiếp b ng VBHC còn dùng danh từ chỉ chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để
hô. Mô hình của biểu thức hô như sau:
Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Như vậy, trong giao tiếp b ng VBHC, dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ
quan, đơn vị, tổ chức để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản vừa đảm bảo tính lịch
sự, tính pháp lí vừa đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị tổ
chức trong việc tiếp nhận và thực thi văn bản.
3.1.2.10. Biểu thức phối hợp chức vụ vớ ơ q a đơ ị, tổ chức và tên riêng
Đây là cách hô chỉ xuất hiện trongVBHC thông thường mà khách thể tiếp nhận văn bản
là một cá nhân cụ thể có thẩm quyền thực thi văn bản. Mô hình của biểu thức hô như sau:
Chức vụ + tên quan, đơn vị, tổ chức + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
3.1.2.11. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị, danh hi u cao quý với tên riêng
Đây là cách hô chỉ xuất hiện trong VBHC thông thường. Cách hô này thể hiện tính
chính xác, cụ thể, sự kính trọng và đề cao của chủ thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp
nhận văn bản đã đạt được học hàm, học vị, hay danh hiệu cao quý cụ thể. Mô hình của biểu
thức hô như sau:
Học hàm, học vị, danh hiệu cao quý + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
3.1.2.12. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị, danh hiệu cao quý với tên riêng, chức vụ
và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Đây là cách hô chỉ xuất hiện trong VBHC thông thường. Cách hô này thể hiện tính
chính xác, sự tôn kính của chủ thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp nhận văn bản. Mô
hình của biểu thức hô này như sau:
Học hàm, học vị,.. + tên riêng (đầy đủ họ và tên) + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Nhìn chung, ở mỗi loại VBHC khác nhau, việc dùng các biểu thức ngôn ngữ để hô
cũng có sự giống và khác nhau. Bảng so sánh dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này.
17
Bảng 3.1. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các biểu thức ngôn ngữ để hô ở các loại VBHC tiếng Việt
Khác nhau
Tên loại VBHC Giống nhau Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản cá biệt Văn bản hành chính thông thường
- Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát để hô. - Dùng tên của cơ quan, đơn vị, chức tổ dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát để hô.
- Dùng chức vụ để hô - Không dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. - Không dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. - Không dùng từ hô gọi chung kết hợp với tên riệng để hô. - Không dùng chức vụ để hô - Dùng từ hô gọi chung để hô. - Dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ để hô. - Dùng chức danh, nghề nghiệp để hô. - Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để hô - Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức và tên riêng để hô. - Dùng học hàm, học vị, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng để hô. - Dùng học hàm, học vị hay danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô.
3.1.3. Vị trí của biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính
3.1.3.1. Vị trí đầu văn bản
Biểu thức hô thường được đặt ở ngay phần đầu văn bản trong phần Kính gửi:..., sau
quốc hiệu hoặc tên văn bản. Kiểu đặt vị trí của biểu thức hô này có thể được dùng trong các văn bản thông dụng trong đời sống như: công văn, thông báo, giấy triệu tập, thư mời, phiếu
chuyển, các loại đơn từ…, và những vấn đề được trình bày trong văn bản là những vấn đề của một cá nhân hay tập thể. Với các loại văn bản này, chủ thể hô luôn luôn phải xác định
được rõ ràng và chính xác khách thể nhận, nơi nhận văn bản để hô. Khách thể được hô trong văn bản có thẩm quyền giải quyết những đề đạt, nguyện vọng, mong muốn của chủ thể xưng trình bày sau đó.
3.1.3.2. Vị trí giữa văn bản Trong VBHC, biểu thức hô xuất hiện ở phần giữa văn bản (nội dung văn bản) cũng rất phổ biến. Vị trí của biểu thức hô này thường đứng sau biểu thức xưng và n m ở đầu, giữa, cuối nội dung văn bản. Cách hô này xuất hiện trong các văn bản như: chỉ thị, thông tư, công điện, …
18
Vị trí đặt biểu thức hô cũng có thể là trong các điều khoản của văn bản. Đây là kiểu hô
thường xuất hiện trong những văn bản pháp quy mang tính pháp lí cao và do các cá nhân, hay
cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành như: Quyết định, nghị quyết, thông
tư,...Ngay trong chính điều khoản của văn bản đã quy định rõ ràng, chính xác đối tượng chịu
trách nhiệm thực thi văn bản.
3.1.4. Hô trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp
3.1.4.1. Vị thế ngang bằng
a. Khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân
Để thể hiện tính lịch sự, trung hòa, sự tôn trọng địa vị quyền lực của khách thể tiếp
nhận, chủ thể phát ngôn thường dùng các cách hô: Thứ nhất là từ hô gọi chung ông/bà hoặc
đồng chí. Thứ hai là từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ
và tên) để hô. Thứ ba là chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô.
b. Khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức
Dùng tên của cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát) để hô.
Chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản đều là cơ quan, đơn vị, tổ chức. Điều này
càng làm tăng thêm giá trị pháp lí và tính hiệu lực của nội dung giao tiếp. Dùng biểu thức
định danh cơ quan, đơn vị tổ chức để hô trong trường hợp vị thế ngang b ng sẽ đảm bảo
được tính quy thức, chuẩn mực, chính xác, bình đẳng giữa bên phát và bên nhận văn bản.
3.1.4.2. Vị thế của vai trên đối với vai dưới
a. Khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân
Khi hô, để thể hiện tính cụ thể, chính xác, minh bạch, tôn trọng địa vị quyền lực của
người tiếp nhận, các cách hô chủ yếu hiện nay là: Thứ nhất là dùng từ hô gọi chung để hô.
Thứ hai là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng để hô. Thứ ba
là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức để hô. Thứ tư là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với
chức vụ để hô. Thứ năm là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ
và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Thứ sáu là dùng danh từ chỉ chức vụ để hô. Thứ bảy
là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Thứ tám là dùng học hàm,
học vị khoa học, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng để hô.
b. Khách thể tiếp nhận văn bản gồm nhiều người cùng chung chức vụ, nghề nghiệp
Chủ thể phát ngôn dùng danh từ chung chỉ người, chức vụ, nghề nghiệp để hô.
c. Khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức
Để đảm báo tính chính xác, minh bạch, đúng vị thế, cách hô hiện nay là dùng tên cơ
quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát).
19
3.1.4.3. Vị thế của vai dưới đối với vai trên a. Khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân
b. Khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức
Khi hô, để thể hiện sự tôn kính đối với người (vai trên) tiếp nhận văn bản, chủ thể phát ngôn (vai dưới) thường dùng các cách hô sau: Thứ nhất là dùng từ hô gọi chung ông/bà để hô. Cách gọi ông/bà trong VBHC rõ ràng không có nét nghĩa thân tộc, không có nét nghĩa tuổi tác mà chỉ có nét nghĩa giới tính và thể hiện thái độ trọng thị đối với người tiếp nhận. Thứ hai là dùng từ hô gọi chung ông/bà kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Thứ ba là dùng chức vụ để hô. Cách hô này thể hiện sự tôn trọng địa vị, quyền lực của khách thể tiếp nhận văn bản. Thứ tư là dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để hô. Thứ năm là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây là cách hô nh m tôn vinh địa vị, quyền lực và vị thế của khách thể tiếp nhận văn bản. Thứ sáu là dùng học hàm, học vị khoa học, danh hiệu cao quý (nếu có) kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Để đảm bảo tính pháp lí, tính chính xác, minh bạch, đúng vị thế, chủ thể hô dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát) để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. 3.2. Một số vấn đề trong quan hệ giữa xưng và hô ở văn bản hành chính tiếng Việt 3.2.1. Tương thích giữa “xưng” và “hô” trong văn bản hành chính tiếng Việt
Trong mối quan hệ giữa xưng và hô nói chung có hai mối quan hệ: mối quan hệ tương thích và mối quan hệ phi tương thích. Mối quan hệ tương thích là mối quan hệ mà chủ thể xưng hô dùng các từ ngữ tương ứng nhau giữa xưng và hô. iao tiếp trong VBHC, như đã biết, phải tuân thủ theo những quy phạm nghiêm ngặt, chịu áp lực chủ yếu từ quan hệ quyền uy (thay vì quan hệ thân hữu như giao tiếp h ng ngày), cho nên hệ thống các từ ngữ xưng và hô cũng vì vậy mà hạn chế. Trong VBHC, chủ thể xưng hô luôn phải lựa chọn các từ ngữ xưng hô để dùng một cách chính xác chứ không thể qua loa đại khái. Bởi từ ngữ xưng hô là một trong những phương tiện hữu hiệu thể hiện tính trang trọng, lịch sự của VBHC. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa xưng và hô trong VBHC chủ yếu là mối quan hệ tương thích. Đó là sự tương ứng về vị thế giao tiếp theo quan hệ hành chính giữa chủ thể thể tạo lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn bản. Từ đó các biểu thức ngôn ngữ dùng để xưng và hô trong một VBHC cần có sự tương ứng chặt chẽ theo những quy định khắt khe của bộ máy tổ chức Nhà nước hoặc của hệ thống tổ chức chính trị - xã hội. Đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay tổ chức. Điểm chung giữa xưng và hô đó là phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng và hô trong VBHC chủ yếu là các danh từ/ngữ danh từ chỉ chức vụ hoặc tên cơ quan/đơn vị/tổ chức. Nhân vật giao tiếp được xưng hô trong mối quan hệ mật thiết với công việc đó là chức vụ trong công việc họ đang làm, là cơ quan/tổ chức/đơn vị họ đang công tác. Và chính chức danh, cơ quan/đơn vị/tổ chức của họ cho họ thẩm quyền, tư cách trong giao tiếp hành chính. 3.2.2. Lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính tiếng Việt
20
3.2.2.1. Lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính đòi hỏi tính chính danh
Biểu biểu thức xưng hô trong VBHC cần thể hiện đúng, đủ chức vụ (chức trách, tư
cách, vị thế …) của chủ thể xưng và khách thể hô. VBHC không cho phép xưng hô sai
chức vụ của nhân vật giao tiếp. Khi chủ thể xưng hay/và khách thể hô đồng thời “kiêm
nhiệm” một số chức vụ (có một số tư cách khác nhau) thì khi xưng hô trong VBHC cần
lựa chọn biểu thức chức vụ phù hợp với chủ đề, nội dung của văn bản, với lĩnh vực xã hội
mà văn bản đề cập đến. Hay có thể nói, trong trường hợp này, một người có thể đóng
nhiều vai trong giao tiếp hành chính. Mỗi vai giao tiếp ứng với một lĩnh vực hành chính
nhất định. Do đó, trong từng trường hợp cụ thể cần lựa chọn vai xưng hoặc hô sao cho phù
hợp, chính xác. Đảm bảo tính phù hợp và chính xác trong xưng và hô tức là đảm bảo lịch
sự trong xưng hô ở VBHC.
3.2.2.2. Lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính không theo phương châm “xưng
khiêm hô tôn”
Trong VBHC, các nhân vật giao tiếp đều phải tuân thủ xưng hô chính danh, không
được vì bất cứ lí do gì mà hạ thấp mình và /hay tôn cao đối tác. Như trên đã nói, mối quan
hệ ngoài đời thường của các nhân vật giao tiếp không ảnh hưởng gì đến việc xưng hô của
các nhân vật đó trong VBHC.
3.2.2.3. Lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính đòi hỏi tính nhất quán, thống nhất
Đây cũng là điểm khác với xưng hô trong giao tiếp đời thường, nơi mà phụ thuộc vào
từng tình huống giao tiếp, phụ thuộc vào sự thay đổi trong quan hệ liên nhân, phụ thuộc vào
diễn tiến của thái độ, tình cảm trong quan hệ liên nhân giữa các nhân vật giao tiếp với nhau,
từ xưng hô và cách xưng hô có thể thay đổi theo hướng tốt lên hay xấu đi. Trong VBHC, trái
lại, không thể thay đổi biểu thức xưng hô, và sự nhất quán trong việc dùng biểu thức xưng hô
chính là thể hiện lịch sự chuẩn mực. Bởi trong giao tiếp ở VBHC, các nhân vật giao tiếp đã xác
định được chính xác hình ảnh tinh thần về đối tượng giao tiếp của mình mà quan trọng nhất là
yếu tố địa vị. Cho nên vai giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp đã được và phải được xác định
chính xác trong suốt cuộc giao tiếp và khi vai giao tiếp được xác định chính xác thì nó bất biến
trong quá trình giao tiếp, sự bất biến đó được thể hiện qua sự bất biến và thống nhất của từ ngữ
xưng hô. Trong VBHC không thể tùy ý thay đổi biểu thức xưng hô, tuy có thể dùng dạng rút
gọn, hay dùng đại từ thay thế khi khách thể hô gọi đã rõ từ văn cảnh.
3.2.2.4. Lịch s r xư ô ở n hành chính không cho phép d xư ô rống không
Trong VBHC biểu thức xưng hay hô không những không thể khuyết thiếu, mà còn có thể được lặp lại nhiều lần (ở đầu, giữa, cuối...) trong văn bản để khẳng định vị thế giao tiếp, khẳng định quyền uy, tạo nên hiệu lực pháp lí của văn bản. Để đảm bảo tính lịch sự trong xưng hô ở VBHC, người phát ngôn và người tiếp nhận phải sử dụng từ ngữ xưng hô quy
thức: xưng hô quy thức là cách thức xưng hô có tính bắt buộc theo khuôn mẫu, khuôn hình
21
có sẵn trong các hội nghị, hội thảo… Xưng hô quy thức bắt buộc người nói phải tuân theo thứ bậc, tước vị, chức vụ mà người nói và người nghe hiện có để tính toán, lựa chọn, sử
dụng từ ngữ xưng hô thích hợp. Trong những trường hợp này, người nói thường sử dụng các
từ để xưng và để hô mang tính chất trang trọng như: chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, vụ
trưởng, giám đốc, giáo sư, tiến sĩ, ngài, vị, ông, bà… Yếu tố quyền (tức địa vị xã hội) và
khoảng cách xã hội chi phối, quyết định cách thức xưng hô trong giao tiếp quy thức. Các nhân tố như tuổi tác, quan hệ gia đình, dòng tộc, giới tính, bạn bè… trở thành các nhân tố
thứ yếu trong xưng hô quy thức.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong chương 3 của luận án, chúng tôi đã tập trung xem xét, phân tích những nét đặc
trưng của hô và tương thích, lịch sự trong xưng hô của VBHC với những nội dung cụ thể
sau: Thứ nhất, khái niệm hô trong VBHC được hiểu là cách mà người tạo lập văn bản gọi
đối tượng giao tiếp của mình. Đối tượng này có thể là một cá nhân hay một cơ quan, đơn vị,
tổ chức. Hô trong VBHC có tính chuẩn mực, lịch sự cao. Thứ hai, các biểu thức ngôn ngữ
để hô trong VBHC gồm có 12 biểu thức như thống kê trong bảng 3.1. Từ ngữ dùng để hô
trong VBHC không phong phú đa dạng như trong giao tiếp xã hội mà chịu sự chế định của
đặc điểm loại hình VBHC và pháp luật. Thứ ba là, vị trí của biểu thức hô trong VBHC khá
linh hoạt: ở đầu, ở giữa văn bản và đặc biệt trong một số văn bản, hô đặt trong một điều khoản riêng trong văn bản. Đây là điểm khác biệt so với xưng. Thứ tư, hô trong mối quan hệ
với vị thế giao tiếp được xét ở các phương diện như vị thế ngang hàng, vị thế của vai dưới
đối với vai trên, vị thế của vai trên đối với vai dưới. Hô trong VBHC đề cao tính chính xác,
tính lịch sự, tính chuẩn mực, tính quyền uy của khách thể tiếp nhận văn bản. Thứ năm là
tương thích giữa xưng và hô trong VBHC là sự tương ứng về vị thế giao tiếp theo quan hệ
hành chính giữa chủ thể tạo lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn bản. Đó còn là sự tương
thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay tổ chức. Thứ sáu là lịch sự trong xưng
hô của VBHC là lịch sự chuẩn mực.
22
KẾT LUẬN
Có thể nói xưng hô là một trong những vấn đề quan trọng nhất của giao tiếp b ng ngôn
ngữ. Cuộc giao tiếp có đạt hiệu quả như mong muốn hay không một phần lớn phụ thuộc vào
việc xưng hô của các nhân vật giao tiếp. Nghiên cứu về xưng hô trong văn bản tiếng Việt là
một vấn đề không mới, tuy nhiên nghiên cứu xưng hô trong VBHC lại là vấn đề từ trước đến nay chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu đề
tài “Xưng hô trong văn bản hành chính tiếng Việt”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Từ việc nghiên cứu vấn đề xưng hô trong tiếng Việt của các nhà khoa học, chúng tôi
đưa ra quan niệm: Xưng trong VBHC được hiểu là cách mà chủ thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng biểu thức ngôn ngữ để thể hiện chính bản thân mình
và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản”. Từ quan niệm về xưng, chúng tôi rút ra
quan niệm tương ứng về hô: “Hô trong VBHC được hiểu là cách mà chủ thể sản sinh ra văn
bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng biểu thức ngôn ngữ để thể hiện đối tượng đang
giao tiếp với mình - đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản”. Xưng hô trong VBHC không
chỉ đơn thuần chỉ là việc người nói dùng từ ngữ thích hợp để đưa mình và người giao tiếp
vào cuộc giao tiếp mà xưng hô trong VBHC đặc biệt nhấn mạnh đến sự “chịu trách nhiệm”
của các nhân vật giao tiếp đối với những vấn đề được đề cập trong văn bản. Hay nói cách
khác, điểm khác biệt lớn nhất giữa xưng hô trong VBHC với xưng hô trong các loại văn bản khác là vai xưng là vai của người chịu trách nhiệm về văn bản, kí tên dưới văn bản (chứ
không phải là người viết, người biên soạn văn bản như thư kí, trợ lí, văn thư). Vai hô cũng
là vai có “liên đới” và cũng chịu trách nhiệm về văn bản trước pháp luật. Xưng hô trong
VBHC nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí.
2. Biểu thức ngôn ngữ dùng để xưng hô trong trong VBHC cũng rất phong phú và
mang những nét khu biệt so với xưng hô trong đời sống h ng ngày. Về biểu thức ngôn ngữ
dùng để xưng, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thống kê được trong VBHC sử dụng 8 biểu
thức ngôn ngữ dùng để xưng (chi tiết trong bảng 2.2). Trong đó, xuất hiện nhiều nhất là:
biểu thức phối hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên); tiếp đến biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức; biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức. Về các
biểu thức ngôn ngữ dùng để hô, chúng tôi cũng đã thống kê được trong VBHC sử dụng 12 biểu thức ngôn ngữ dùng để hô (chi tiết trong bảng 3.1). Trong đó, sử dụng nhiều nhất là: biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát; kế đến là dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức. Những biểu thức
xưng hô được dùng nhiều trong VBHC thể hiện được tính minh xác và tính pháp lí.
Qua số liệu khảo sát, thống kê cho thấy nhóm các từ ngữ dùng để xưng hô xuất hiện với tần xuất cao trong VBHC là tên cơ quan, chức vụ, chức danh, nghề nghiệp, từ hô gọi
chung (ông/ bà , đồng chí), còn các yếu tố về cá nhân như họ tên riêng thì xuất hiện với tần
23
xuất thấp, và không xuất hiện một mình mà luôn có các yếu tố trên đi kèm. Đây chính là điểm khu biệt giữa xưng hô trong VBHC với xưng hô trong đời sống h ng ngày. Vì xưng hô
trong VBHC nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí cho nên rất ít
dùng các đại từ nhân xưng chính danh trong tiếng Việt. Người viết chủ yếu dùng đại từ nhân
xưng lâm thời được chuyển loại từ các danh từ sang. Đặc biệt, trong xưng không sử dụng
các danh từ thân tộc (ông,bà, anh, chị...), chỉ có một trường hợp em dùng để xưng trong giao tiếp giữa học sinh với các thầy/cô giáo trong trường học. Còn trong hô lại đặc biệt
không sử dụng các đại từ nhân xưng chính danh ngôi thứ 2 (mày, chúng mày...) vì các từ
này có sắc thái thân mật, suồng sã thậm chí thô tục, không đảm bảo tính trang trọng, lịch sự
của VBHC.
3. Về vị trí, các biểu thức xưng hô có thể xuất hiện khá linh hoạt trong VBHC. Điều
này phụ thuộc rất lớn vào các kiểu loại VBHC cụ thể. Đối với xưng, biểu thức xưng có
thể xuất hiện đầu văn bản. Vị trí xưng này thường xuất hiện trong những văn bản có tính
pháp lí cao mà các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có chức vụ trong bộ máy hành chính
Nhà nước ban hành như: thông tư, chỉ thị, nghị định, kế hoạch, công văn,... Biểu thức
xưng cũng có thể xuất hiện ở giữa văn bản. Kiểu này phổ biến nhất trong VBHC, thường
xuất hiện trong những VBQPPL do cá nhân hay cơ quan, đơn vị tổ chức ban hành như:
Quyết định, nghị quyết,…Đặc biệt, trong VBHC có kiểu xưng ở vị trí kết thúc văn bản
(dưới phần kí tên). Đây là cách xưng đặc trưng, chỉ có ở VBHC và bắt buộc phải có trong bất cứ VBHC nào. Chủ thể xưng ở vị trí kết thúc văn bản là người chịu trách
nhiệm về nội dung cũng như tính pháp lí của văn bản. Đối với hô, biểu thức hô có thể
xuất hiện ở: đầu, giữa và trong một điều khoản cụ thể của văn bản. Vị trí đầu văn bản
(thường n m trong phần Kính gửi:…) xuất hiện trong các VBHC thông dụng trong đời
sống như: công văn, thông báo, giấy triệu tập, thư mời, phiếu chuyển, các loại đơn
từ…Vị trí giữa văn bản (thường n m trong nội dung văn bản) xuất hiện trong các văn
bản như: chỉ thị, thông tư, công điện, công văn, thông báo,.. Đặc biệt là hô n m trong
một điều khoản cụ thể của văn bản. Vị trí này thường xuất hiện trong những VBHC có
tính pháp lí cao như: nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư,…
4. Cũng giống trong giao tiếp h ng ngày, xưng hô trong VBHC thể hiện và quy định
bởi vai giao tiếp. Tuy nhiên, nếu như trong đời sống h ng ngày, xưng hô phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như tuổi tác, họ hàng, huyết thống… thì xưng hô trong VBHC phụ thuộc vào địa vị xã hội. Vị thế giao tiếp của các nhân vật giao tiếp quy định đến cách xưng hô trong VBHC. Vị thế giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp bao gồm quan hệ ngang vai giao tiếp và
quan hệ không ngang vai giao tiếp. Trong quan hệ không ngang vai bao gồm quan hệ vai trên - vai dưới và quan hệ vai dưới - vai trên. Dù ngang, trên hay dưới vai thì xưng hô đều phải đảm bảo tính trang trọng, lịch sự, tôn trọng đối với chính chủ thể xưng và khách thể hô.
24
5. Tương thích trong xưng hô là một đặc trưng cơ bản và quan trọng ở VBHC. Tương thích trong xưng hô là các vai giao tiếp giữa chủ thể (ngôi 1) khách thể hô (ngôi 2) phải
tương ứng với nhau theo một quan hệ nào đó, ví như: chú - cháu, anh - em, bà - cháu...
Trong giao tiếp h ng ngày, người Việt thường dùng hiện tượng mượn vai để xưng hô. Việc
mượn vai này vừa biểu thị được sự kính trọng, lễ phép với người nghe, đồng thời lại tạo sự
thân mật gần gũi. Việc mượn vai để xưng hô dẫn đến sự không tương thích giữa xưng và hô trong giao tiếp. Tuy nhiên, trong VBHC, tuyệt đối không được mượn vai để xưng hô. iữa
xưng và hô trong VBHC phải luôn có sự tương thích. Sự tương thích này được thể hiện qua
những điểm sau: (1) tương thích về vị thế giao tiếp theo quan hệ hành chính giữa chủ thể tạo
lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn bản; (2) đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay tổ chức, theo đó các biểu thức xưng và hô, nhất là các biểu
thức xưng hô theo chức vụ, theo tên của cơ quan, đều n m trong cùng hệ thống, cùng lĩnh
vực nhất định tuy có thể khác nhau về vị thế.
6. Là loại văn bản dùng để thực thi các sự việc liên quan đến luật pháp và quản lí hành
chính Nhà nước, VBHC phải đảm bảo yêu cầu nghiêm ngặt về tính lịch sự. Tính lịch sự
trong VBHC cũng được thể hiên rất rõ qua xưng hô. Nếu trong giao tiếp h ng ngày, các
nhân vật có thể dùng từ ngữ xưng hô một cách khá linh hoạt, khá thoải mái thì trong VBHC,
việc xưng hô cần tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu để đảm bảo tính lịch sự. Vì thế phép lịch
sự xưng hô trong VBHC có những đặc điểm là sự thừa nhận, tuân thủ chuẩn mực luật pháp và các chuẩn mực xã hội khác, nghĩa là cần đảm bảo lịch sự chuẩn mực. Lịch sự chuẩn mực
trong xưng hô ở VBHC có những biểu hiện chủ yếu là: (1) xưng hô trong VBHC đòi hỏi
tính chính danh; (2) xưng hô trong VBHC không theo phương châm “xưng khiêm hô tôn”;
(3) xưng hô trong VBHC phải nhất quán, thống nhất; (4) xưng hô trong VBHC không cho
phép dạng xưng hô “trống không”.
7. Nghiên cứu xưng hô trong VBHC với nhiều thể loại văn bản khác nhau chúng ta
hiểu được những đặc trưng cơ bản của VBHC nói chung và xưng hô trong VBHC nói riêng.
Qua việc nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, đặc trưng của văn bản, của phong cách chức
năng văn bản quy định vấn đề xưng hô trong văn bản đó. Với nhận thức như vậy, chúng tôi cho r ng, còn nhiều vấn đề liên quan đến đề tài này cần được tiếp tục nghiên cứu, chẳng hạn
như nghiên cứu đối chiếu về xưng hô trong VBHC với xưng hô trong các loại văn bản thuộc các phong cách chức năng khác. Điều này sẽ càng làm nổi rõ hơn đặc trưng của các văn bản thuộc các phong cách khác nhau nói chung và xưng hô trong các văn bản đó nói riêng, từ đó tiến đến việc chuẩn hóa việc xưng hô trong VBHC. Chúng tôi hi vọng sẽ tiếp tục thực hiện
được hướng nghiên cứu trên trong tương lai.