BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HOA
NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA HÌNH CỦA MỘT SỐ GEN LIÊN QUAN ĐẾN LOÃNG XƢƠNG Ở NAM GIỚI
Ngành đào tạo : Nội Khoa Chuyên ngành : Nội – Xương khớp
Mã số : 9720107
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2023
CÔNG TRÌNH NÀY ĐƢỢC TRÌNH BÀY TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG
2. PGS.TS. TRẦN THỊ MINH HOA
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Mai Hồng
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Thu Hà
Phản biện 3: GS.TS. Trần Huy Thịnh
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp trường
tại Trường Đại Học Y Hà Nội
Vào hồi: …. giờ ngày …. tháng ….. năm …….
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện quốc gia
- Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Hoa, Trần Thị Minh Hoa, Nguyễn Thị Thanh Phương. “Mối liên quan giữa đa hình kiểu gen LRP5 tại SNP Q89R (rs41494349) với mật độ xương ở nam giới”. T p ọ Việt Nam, tháng 8/2020. 493:263-270.
2. Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Nàn, Trần Thị Minh Hoa, Nguyễn Thị Thanh Hương. “Mối liên quan giữa đa hình gen Methylene tetrahydrofolate reductase (MTHFR) C677T với loãng xương ở nam giới”. T p ọ Việt Nam, tháng 5/2022. 514(2):221 - 226.
3. Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Nàn, Trần Thị Minh Hoa, Nguyễn Thị Thanh Hương. “Mối liên quan giữa đa hình Gen fat mass and Obesity - Associated (FTO) Rs1121980 với loãn xương ở nam giới”. T p ọ Việt Nam. tháng 11/2022. 520(2):161-167.
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Loãng xương (LX) là bệnh lý do rối loạn chuyển hóa của xương, đặc trưng bởi giảm mật độ chất khoáng của xương và tổn thương cấu trúc của xương, hậu quả là suy giảm sức mạnh của xương và khiến xương trở nên giòn và dễ gãy. Gãy xương do loãng xương làm tăng tỷ lệ tử vong, tăng gánh nặng chi phí cho nền kinh tế và giảm chất lượng cuộc sống đặc biệt ở người cao tuổi. Loãng xương là một bệnh lý chịu sự ảnh hưởng tác động của nhiều yếu tố khác nhau như tuổi, giới, chủng tộc, di truyền, chế độ dinh dưỡng, hormon, hoạt động thể lực. Trong đó yếu tố di truyền chiếm một vị trí khá quan trọng, theo nhiều nghiên cứu các cặp song sinh cho thấy 50% – 85% sự biến đổi MĐX (Bone Mineral Density – Mật độ xương) là do gen quy định. Các nghiên cứu trên thế giới đã phát hiện ra 518 locus liên quan đến mật độ xương, loãng xương và gãy xương nhưng chỉ 20% các đa hình gen trong nghiên cứu giải thích được cơ chế ảnh hưởng của nó đến MĐX và gãy xương. Các nghiên cứu trên cả nam và nữ ở nhiều chủng tộc khác nhau cho thấy ba đa hình gen LRP5Q89R, MTHFRC677T và FTOrs1121980 có liên quan đến sự thay đổi của mật độ xương và gãy xương. Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào tiến hành trên 3 đa hình gen LRP5Q89R, MTHFR C677T và FTOrs1121980 đặc biệt trên đối tượng nam giới.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu lần đầu tiên xác định được đặc điểm các đa hình gen LRP5Q89R, MTHFRC677T và FTOrs1121980 trên đối tượng nam giới cao tuổi Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy 3 đa hình gen đều tăng nguy cơ loãng xương ở nam giới và độc lập với các yếu tố nguy cơ khác: tuổi chỉ BMI, tiền sử gãy xương, mức độ hoạt động thể lực. Nam giới mang càng nhiều alen nguy cơ trong tổ hợp 3 đa hình gen càng làm tăng nguy cơ loãng xương. Do vậy các thông tin về các đa hình này trên người bệnh sẽ giúp cho các bác sỹ lâm sàng đánh giá nguy cơ loãng xương ở các đối tượng người trẻ tuổi, đặc biệt mắc nhiều bệnh lý nền và sử dụng các thuốc gây ảnh hưởng đến chuyển hóa xương để từ đó góp phần chẩn đoán sớm, điều trị sớm, giảm tỷ lệ gãy xương, giảm nguy cơ tử vong sau gãy xương do loãng xương và giảm gánh nặng chi phí điều trị cho nền kinh tế.
2 3. Mục tiêu nghiên cứu
1. Xá địn đa ìn gen LRP5Q89R, MTHFRC677T và FTOrs1121980 ở nam giới loãng xương nguyên p át.
2. Phân tích mối liên quan giữa đa ìn gen LRP5Q89R, MTHFRC677T, FTOrs1121980 với mật độ xương và một số yếu tố nguy ơ ở đối tượng trên
4. Cấu trúc của luận án
- Luận án được trình bày trong 125 trang (không kể tài liệu tham khảo và phần phụ lục). Luận án gồm 7 phần: Đặt vấn đề 2 trang, Chương 1 Tổng quan tài liệu 34 trang, Chương 2 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 17 trang, Chương 3 Kết quả nghiên cứu 34 trang, Chương 4 Bàn luận 35 trang , Kết luận 2 trang, Kiến nghị 1 trang.
- Luận án gồm 34 bảng (phần kết quả 30 bảng), có 11 biểu đồ và 15 hình. Sử dụng 157 tài liệu tham khảo gồm 18 tài liệu tiếng Việt, 139 tài liệu tiếng Anh.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Dịch tễ học loãng xƣơng nam
* Trên thế giới: Tỷ lệ loãng xương nam khác nhau tùy theo từng nghiên cứu giao động từ 2-16% và tăng dần theo độ tuổi, tỷ lệ loãng xương của nam thường thấp hơn nữ từ 3-4 lần. Nghiên cứu NHANES 2005–2006 được thực hiện bởi Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia Mỹ trên 3157 người Mỹ trưởng thành từ 50 tuổi trở lên được đo MĐX tại 2 vị trí cổ xương đùi và toàn bộ xương hông, kết quả cho thấy 49% phụ nữ lớn tuổi và 30% đàn ông lớn tuổi bị giảm MĐX ở cổ xương đùi, tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ là 10% và tỷ lệ loãng xương nam là 2%. Trong một nghiên cứu khác tại nước này tiến hành ở nam giới từ 69 đến 74 tuổi, tỷ lệ loãng xương 10,2%. Ở Thụy Sĩ tỷ lệ loãng xương là 6,3% ở nam trong độ tuổi từ 50 - 80 tuổi, tỷ lệ này ở độ tuổi từ 80 - 84 là 16,6%. Ở một số nước châu Á tỷ lệ loãng xương ở nữ cũng cao hơn nam tương tự như người da trắng. Nghiên cứu tiến hành trên 7042 người độ tuổi từ 20 trở lên ở 10 trung tâm thuộc các tỉnh khác nhau ở Trung Quốc (2002-2006) cho kết quả tỷ lệ loãng xương ở nữ là 31,2 % và 10,4% ở nam giới trên 50. Tại Hồng Công tỷ lệ loãng xương cột sống thắt lưng ở nam là 7% ở nữ là 37%, tỷ lệ loãng xương ở cổ xương
3 đùi ở nam là 6% và ở nữ là 16%. Ở Hàn Quốc tỷ lệ loãng xương là 35,5% ở nữ và 7,5% nam trên 50 tuổi.
* Tại Việt Nam: nghiên cứu của các tác giả ở hai miền Bắc, Nam đã cho thấy tỉ lệ loãng xương ở cả nam và nữ tương đương với một số nước châu Á và nam giới da trắng. Theo số liệu của Nguyễn Thị Thanh Hương tại miền Bắc - Việt Nam nghiên cứu trên 222 nam giới và 612 nữ giới khỏe mạnh tuổi từ 13-83 tỷ lệ loãng xương ở cổ xương đùi nam giới 9% và nữ giới là 17%
Nghiên cứu của tác giả Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự trên 357 nam và 870 nữ tuổi từ 18 - 89 tại Thành phố Hồ Chí Minh cho kết quả tỷ lệ loãng xương nam 10%, trong khi tỷ lệ loãng xương nữ là 30%. Như vậy, có thể thấy rằng loãng xương và gãy xương do loãng xương thực sự là bệnh phổ biến tại Việt Nam, cần được quan tâm nghiên cứu thích đáng.
1.1 Gen liên quan đến loãng xƣơng 1.1.1 Nghiên cứu trên thế giới
Vai trò của di truyền (gen) liên quan đến MĐX đã được biết đến từ trước đó. Các nghiên cứu trên các cặp song sinh ở cả nam và nữ cho thấy yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng với bệnh loãng xương, quyết định 50-80% MĐX của mỗi cá thể tùy theo từng nghiên cứu. Hơn nữa các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng gen đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa xương và quá trình mất xương. Các nghiên cứu về các gen liên quan đến loãng xương được tập trung chủ yếu vào các gen (candidate gen) tác động đến các con đường sinh hóa, dược lý và sinh lý học của quá trình tạo xương và hủy xương. Phần lớn những SNP này có ảnh hưởng đến MĐX và gãy xương đã được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu với các giá trị p khác nhau và có sự khác biệt giữa các chủng tộc khác nhau. Những SNP quan trọng và phổ biến nhất đã được xác định liên quan đến các quá trình hình thành tế bào tạo xương, hủy xương, tín hiệu Wnt của tế bào tạo xương, vitamin D, Estrogen, Collagen, Mevalonate như là các gen LRP5, LRP6, DKK1, VDR, ColA1, ESR1, ESR2…
Trong những năm gần đây với sự phát triển nhanh của khoa học, sự ra đời của các nghiên cứu GWAS (genome wide association studies - nghiên cứu tương quan toàn hệ gen) đã phát hiện ra nhiều SNP mới có liên quan đến MĐX và gãy xương. Urano và cộng sự tiến hành một phân tích gộp các nghiên cứu GWAS trong 8 năm (2007-2015) đã phát hiện ra nhiều SNP mới liên quan đến loãng xương và gãy xương ở trên
4 quần thể người da trắng và người Châu Á. Trong đó các SNP liên quan đến các quá trình sinh học của xương đã biết đến: con đường tín hiệu WNT/β-catenin: catenin β1 (CTNNB1), sclerostin (SOST), LRP4, LRP5, GPR177, WNT4, WNT5B, WNT16, dickkopf1 (DKK1), gen tổng hợp protein xoắn xuyên màng 4 (sFRP4), Jagged 1 (JAG1), MEF2C và AXIN1. Các nghiên cứu GWAS cho loãng xương cũng đã xác định được ba các yếu tố quan trọng, cụ thể là RANK, RANKL và OPG tác động đến quá trình biệt hóa tế bào gốc trung mô thành tế bào tạo xương. Tuy nhiên các tác giả cũng tìm thấy một số locus ở trên các gen mà hiện tại chưa thấy được vai trò của nó trong các cơ chế sinh học của xương (FAM210A, SLC25A13…). Nghiên cứu của tác giả Kempt và cộng sự năm 2013 tiến hành trên 14.492 người Anh ở cả 2 giới phát hiện được 307 SNP trên 203 locus gây ảnh hưởng đến MĐX ở mức có ý nghĩa, trong đó có 153 locus mới phát hiện so với các công bố trước đó, nhóm tác giả cũng chỉ ra 12 SNP liên quan đến gãy xương một cách có ý nghĩa. Năm 2021 tác giả Zhu X và cộng sự tiến hành nghiên cứu phân tích gộp 512 nghiên cứu GWAS trên thế giới trong vòng 12 năm cho kết quả tìm thấy 518 locus trong bộ gen người ảnh hưởng đến MĐX và gãy xương. Trong đó chỉ 20% locus này giải thích được mối liên quan của nó với cơ chế sinh học của xương. Loãng xương là một bệnh lý phức tạp đa yếu tố, sự tác động của gen đến MĐX, loãng xương và gãy xương đã được khẳng định. Tuy nhiên cơ chế tách động thực sự trên xương vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Do đó vẫn cần nhiều nghiên cứu trên các đối tượng chủng tộc, giới tính, độ tuổi khác nhau để làm sáng tỏ vai trò của gen với loãng xương và gãy xương.
1.2.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam năm 2015 tác giả Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự thuộc trường Đại học Tôn Đức Thắng đã tiến hành nghiên cứu nhằm xác định sự ảnh hưởng của các đa hình gen lên MĐX ở người Việt Nam. Nghiên cứu được tiến hành trên 564 người khỏe mạnh từ 18 tuổi trở lên với tuổi trung bình 47 (180 nam và 384 nữ) sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, các cá nhân được đo MĐX bằng phương pháp DXA tại vị trí cột sống thắt lưng, cổ xương đùi và đầu trên xương đùi. Đối tượng nghiên cứu được xác định 32 đa hình gen (của 29 gen: LRP5, SP7, MBL2/DKK1, ESR1, DHCR7, MEF2C, SOST, VDR, RANK, RANKL, SCL25A13, MEPE…), các đa hình gen này đã được xác định có mối liên quan đến MĐX ở người da trắng và một số nước châu Á. Kết quả nghiên cứu cho thấy 3 gen SP7 rs2016266, ZBTB40 rs7543680 và
5 MBL2/DKK1 rs1373004 làm giảm MĐX ở mức có ý nghĩa sau khi đã kiểm soát yếu tố tuổi, giới và cân nặng. Ba đa hình gen này ảnh hưởng từ 0.2% đến 1,1% MĐX, đặc biệt đa hình gen SP7 rs2016266 có mối tương quan cao nhất, alen G làm thay đổi 0,02 g/cm2 MĐX ở cổ xương đùi và toàn cơ thể. Trong đó tác giả Hồ Phạm Thục Lan nghiên cứu 2 đa hình rs3736228 và rs599083 của gen LRP5 cho kết quả không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa của 2 đa hình gen này với MĐX ở các vị trí.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu tính đa hình của gen liên quan đến loãng xương ở nam giới trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu tính đa hành của một số gen liên quan đến loãng xương và gãy xương đốt sống. Nghiên cứu thực hiện trên 2 nhóm đối tượng: phụ nữ mãn kinh và nam giới. Trong đó chung tôi tiến hành xác định mối liên quan giữa 3 đa hình gen LRP5 Q89R, MTHFR C677T và FTOrs1121980 với loãng xương và gãy xương đốt sống ở phụ nữ mãn kinh và nam giới. Ba đa hình gen này có mối tương quan đến MĐX và gãy xương trong các nghiên cứu trên thế giới đã thực hiện cụ thể:
* LRP5 là một gen có nhiều điểm đa hình gen khác nhau đã được công bố làm giảm MĐX và tăng nguy cơ gãy xương ở cả hai giới trên nhiều chủng tộc khác nhau. Ở Việt Nam nghiên cứu của tác giả Hồ Phạm Thục Lan xác định 2 điểm đa hình đơn nucleotid rs3736228 và rs599083 của gen LRP5 cho thấy không có mối liên quan với MĐX. Tuy nhiên nhóm tác giả chưa xác định mối liên quan giữa đa hình gen LRP5 tại SNP Q89R; Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ xuất hiện của đa hình gen này chủ yếu trên đối tượng người châu Á, rất ít ở người da trắng. Tần suất alen G của đa hình gen LRP5 Q89R chiếm 7,5% trên đối tượng người Việt Nam, đây là một đa hình gen xuất hiện với tỷ lệ không nhỏ, do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định mối liên quan giữa đa hình gen này với loãng xương ở nam giới mà các nghiên cứu trước đó chưa thực hiện.
* MTHFR (Methylene tetrahydrofolate reductase) là một gen có nhiều điểm đa hình được tìm thấy trên cơ thể người (khoảng 50 SNP). Trong đó đa hình gen MTHFR C677T được xác định là làm giảm MĐX và tăng nguy cơ gãy xương ở trên cả người da trắng và châu Á. Ở Việt Nam các nghiên cứu về mối liên quan của đa hình gen MTHFR C677T khá nhiều, cho thấy có mối liên hệ giữa đa hình gen này với bệnh đái tháo đường, gút và xảy thai liên tiếp trong sản khoa. Các nghiên cứu cho thấy tần xuất alen T dao động từ 14,5 đến 25% tùy theo từng nhóm
6 đối tượng nghiên cứu. Do vậy đây là một đa hình gen phổ biến trong quần thể người Việt Nam và cần được quan tâm nghiên cứu mối liên quan của nó với các bệnh lý khác nhau để xác định nguy cơ của đa hình gen này trên người Việt Nam.
* FTO (Fat Mass and Obesity-Associated) là một gen được phát hiện trong những năm gần đây, ở Việt Nam các nghiên cứu tiến hành xác định mối liên quan của gen này với béo phì đã được nghiên cứu và công bố. Các nghiên cứu tìm hiểu mối liên quan của gen này với loãng xương và gãy xương còn chưa nhiều. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm hiểu xem đa hình gen rs1121980 của gen FTO có ảnh hưởng như thế nào trên đối tượng nam giới Việt Nam
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm lấy mẫu: tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô.
- Địa điểm phân tích mẫu: Bộ môn Sinh lý bệnh Trường Đại học Y Hà Nội.
* Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3/2016 đến tháng 12/2021
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 400 đối tượng trong đó 200 bệnh nhân loãng xương và 200 nam giới có MĐX bình thường làm đối chứng với các tiêu chí lựa chọn như sau:
2.2.1. Nhóm bệnh
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Là nam có độ tuổi ≥ 50.
- Bệnh nhân không có tiền sử mắc các bệnh mạn tính gây loãng xương thứ phát (như bệnh gan, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), bệnh tự miễn (viêm khớp dạng thấp, lupus, vảy nến,…) bệnh thận mạn tính, ung thư, các bệnh nội tiết và các rối loạn liên quan chuyển hóa Vitamin D, chuyển hóa xương như như đái tháo đường, béo phì, hội chứng kém hấp thu, bệnh cường giáp trạng, hội chứng Cushing, bệnh
7 Cushing). Bệnh nhân không sử dụng các loại thuốc gây loãng xương (corticoid, hormon thay thế, heparin): dựa vào hồ sơ bệnh án và khám lâm sàng, nếu có triệu chứng nghi ngờ thì loại khỏi nghiên cứu
- Được chẩn đoán là loãng xương với chỉ số T ≤ -2,5 ở ít nhất 1 trong 3 vị tri cổ xương đùi, đầu trên xương đùi và cột sống thắt lưng. Đo MĐX bằng phương pháp DXA.
* Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có bất động từ 1 tháng trở lên; không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2.2. Nhóm chứng: Chọn bệnh nhân vào nhóm chứng như tiêu chuẩn chọn như nhóm bệnh song có MĐX bình thường với chỉ số T ≥ -1 ở cả 3 vị trí cột sống thắt lưng, cổ xương đùi và đầu trên xương đùi.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu bệnh - chứng, ghép cặp theo nhóm tuổi
2.3.2 Cỡ mẫu và phƣơng pháp chọn mẫu
* Cỡ mẫu nghiên cứu: Cỡ mẫu trong mô hình tương tác giữa gen và môi trường, cỡ mẫu được tính theo phần mềm QUANTO cho nghiên cứu bệnh chứng ghép cặp (http://quanto.software.informer.com). Dựa trên các thông số được ước tính từ nghiên cứu trước đây ở Việt Nam và các dân tộc Châu Á:
- Tỉ lệ loãng xương là 10 % ở sau tuổi 50. - Số SNP đưa vào khảo sát = 3 - Sai số loại I (α): 0,05 với giả thuyết kiểm định hai phía đã điều chỉnh; lực mẫu là 0,80. - Tỉ lệ alen quan tâm (minor allen) là 0,20-0,40; với mô hình di truyền cộng hợp (log additive inheritance mode).
- Tỉ lệ đối tượng có yếu tố môi trường tương tác: 0,25-0,4. - Ảnh hưởng chính về di truyền (main effect of genetics): 1,25. Ảnh hưởng chính về môi trường (main effect of environment): 1,25. Ảnh hưởng tương tác về gen-môi trường: 4,0-6,0.
- Tỉ lệ bệnh chứng = 1:1. Cỡ mẫu tính được cho mỗi nhóm là 179. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn được 200 bệnh nhân bị loãng xương và 200 đối tượng không bị loãng xương làm đối chứng với tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ kể trên.
8 * Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện, đối tượng đến khám bệnh được khám sàng lọc, đo mật độ xương và lấy máu xét nghiệm, đủ tiêu chuẩn của nhóm bệnh hoặc nhóm chứng sẽ được lấy máu gửi về trường Đại học Y Hà Nội để xác định kiểu gen. 2.3.3. Các chỉ số, biến số nghiên cứu
- Các biến số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi, nhóm tuổi, nghề nghiệp, nơi sống, trình độ học vấn phỏng vấn qua bộ câu hỏi.
- Các biến số, chỉ số nghiên cứu dịch tễ học lâm sàng: cân đo chiều cao, cân nặng, tính chỉ số BMI, hút thuốc lá, uống rượu, tiền sử bệnh, tiền sử gãy xương, mức độ hoạt động thể lực.
- Biến về cận lâm sàng: đo mật độ xương bằng phương pháp hấp phụ tia X năng lượng kép (DEXA) ở vị trí cột sống thắt lưng và cổ xương đùi, toàn bộ đầu trên xương đùi.
- Các biến số về xá địn đa ìn gen ng iên ứu: Các đa hình gen (SNP): xác định đa hình đơn của 3 gen LRP5 Q89R, MTHFRC677T và FTOrs1121980 của 400 đối tượng nghiên cứu bằng 2 phương pháp:
LRP5 Q89R (rs41494349) và FTO rs1121980: xác định bằng phương pháp cắt enzym giới hạn (RFLP-PCR)
MTHFR C677T xác định bằng phương pháp ARMS-PCR
Kết quả xác định kiểu gen được kiểm chứng lại tính chính xác bằng giải trình tự gen.
2.3.4. Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm phân tích Stata 14.0 để phân tích thống kê. Phân loại các biến số lượng và biến phân nhóm. Các biến số lượng được kiểm tra phân bố theo phân phối chuẩn bằng kiểm định Kolmologov-Smirnov test. Tần số của các alen được kiểm tra phân bố theo định luật cân bằng Hardy - Weinberg bằng kiểm định khi bình phương (χ2) test hoặc Fisher-exact test. So sánh giá trị trung bình của các biến theo phân phối chuẩn bằng kiểm định Student T-test và ANOVA test. So sánh giá trị trung bình của các biến không theo phân phối chuẩn bằng kiểm định Kruskall-Wallis test. Sử dụng OR (Odd ratio) để xác định nguy cơ loãng xương của các đa hình gen và các yếu tố nguy cơ, sử dụng hệ số tương quan r để tìm mối tương quan giữa các yếu tố nguy cơ và MĐX.
9 Phân tích mối liên quan của kiểu gen cùng các yếu tố khác (tuổi, cân nặng, chiều cao, BMI và hút thuốc lá, uống rượu) với bệnh loãng xương bằng hồi quy logistic đa biến.
2.4. Vấn đề đức của nghiên cứu :
- Nghiên cứu đã được thông qua hội đồng đạo đức của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
- Các đối tượng tham gia nghiên cứu được cung cấp đầy đủ thông tin về mục đích của nghiên cứu, quy trình tiến hành và có quyền rút khỏi nghiên cứu khi không muốn tham gia.
- Các thông tin liên quan đến bệnh nhân được đảm bảo bí mật, mỗi bệnh nhân được mã hóa một mã số riêng.
- Các kỹ thuật thao tác trên bệnh nhân được đảm bảo đúng chuyên môn.
- Đề tài nghiên cứu này được thực hiện hoàn toàn vì mục đích khoa học chứ không vì mục đích nào khác.
10 CHƢƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu 400 người, 200 nam giới bị loãng xương và 200 đối tượng có MĐX bình thường làm đối chứng, với tiêu chí ghép cặp theo nhóm tuổi các đặc điểm như sau:
*Tuổi trung bình nhóm bệnh 74,96 ± 6,73; không có sự khác biệt độ tuổi trung bình của 2 nhóm nghiên cứu, trong đó độ tuổi cao nhất là 91 tuổi và thấp nhất là 59 tuổi; Nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 70-79 (52%); kế đến là nhóm tuổi trên 80 (26%) thấp nhất là nhóm tuổi dưới 70 (22%); hai nhóm bệnh và chứng có tỷ lệ nhóm tuổi tương đương vì chúng tôi xử lý số liệu theo tiêu chí ghép cặp theo nhóm tuổi.
* Chiều cao trung bình của nhóm bệnh (159,02±5,55) thấp hơn so với nhóm chứng (161,7±5,61) một cách có ý nghĩa thống kê (p<0,001); cân nặng trung bình của nhóm bệnh (55,64 ±5,55) thấp hơn so với nhóm chứng (62,72±7,92) (p<0,001) ; tương tự như vậy, chỉ số BMI của nhóm bệnh (21,98±2,85) cũng thấp hơn nhóm chứng (23,96±2,52) một cách có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Nhóm bệnh có tiền sử gãy xương cao hơn so với nhóm chứng, mức độ hoạt động thể lực thấp hơn so với nhóm chứng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Đối tượng nghiên cứu đa phần sống ở thành phố, có trình độ học vấn, tiền sử hút thuốc lá, tiền sử uống rượu tương đồng ở 2 nhóm bệnh và nhóm chứng (p>0,05). Trong nhóm bệnh, loãng xương tại vị trí cột sống thắt lưng chiếm tỷ lệ cao nhất (56,7%), trong đó loãng xương loãng xương 1 trong 3 vị trí chiếm tỷ lệ cao nhất (51%).
11 3.2. Đặc điểm đa hình gen LRP5 Q89R, MTHFR C677T và FTO rs1121980
Bảng 3.1. Phân bố các kiểu gen LRP5 Q89R (rs41494349)
Tổng Nhóm bệnh Alen/kiểu gen p (n=200),% Nhóm chứng (n=200),% (n=400), %
370 (92,5) 388 (97) 758 (94,75) A Alen 0,004 30 (7,5) 12 (3) 42 (5,25) G
172 (86,0) 188 (94,0) 360 (90,0) AA 0,008 Kiểu gen 28 (14%) 12 (6,0%) 38 (9,5%) AG+GG
0,3725 0,6618 p theo HDW
Nhận xét: Sự phân bố của alen và kiểu gen tuân theo định luật Hardy Weinberg. Có sự khác biệt về tỷ lệ alen và kiểu gen LRP5 Q89R ở nhóm bệnh và chứng một cách có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.2. Phân bố các kiểu gen MTHFR C677T
Nhóm bệnh Nhóm chứng Tổng p Alen/Kiểu gen n =200 (%) n=200 (%) n =400 (%)
303(75,75) 331 (82,75) 634 (79,25) C 0,015 Alen 97 (24,25) 69 (17,25) 166 (20,75) T
115 (57,5) 135 (67,5) 250 (62,5) CC
73 (36,5) 61 (30,5) 134 (33,5) 0,036 CT Kiểu gen 12 (6) 4 (2) 16 (4) TT
0,927 0,338 p theo HDW
Nhận xét: Sự phân bố của alen và kiểu gen tuân theo định luật Hardy Weinberg. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ alen và kiểu gen của MTHFR C677T ở hai nhóm bệnh và chứng (p<0,05).
12 Bảng 3.3. Phân bố các kiểu gen FTO rs1121980
Nhóm bệnh Nhóm chứng Tổng p Alen/ kiểu gen (n=200),% (n=200),% (n=400), %
310 (77,5) 338 (84,5) 648 (81) 0,012 G Alen 90 (22,5) 62 (15,5) 152 (19) A
110 (77,5) 138 (84,5) 248 (62) 0,004 GG
Kiểu gen 90 (22,5) 62 (15,5) 152 (38) GA
<0,001 0,0095 p theo HDW
Nhận xét: Chỉ có sự xuất hiện của 2 kiểu gen GG và GA mà không thấy sự xuất hiện của kiểu gen AA trong nhóm nghiên cứu. Do vậy sự phân bố của alen và kiểu gen không tuân theo định luật Hardy Weinberg. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các tỷ lệ alen và kiểu gen FTO rs1121980 giữa 2 nhóm bệnh và chứng (p<0,05).
3.3. Mối liên quan của 3 đa hình gen nghiên cứu và một số yếu tố nguy cơ với loãng xƣơng nam giới
3.3.1. Mối liên quan của SNP rs41494349 (Q89R) của gen LRP5 với loãng xương nam giới
Bảng 3.4. Mối liên quan của LRP5 Q89R rs41494349 với loãng xương nam giới trong các mô hình di truyền
Mô hình di truyền OR (95% CI) p AIC
2,62 (1,2 – 5,73) 1.448211 AG +GG >AA 0,016
2,43 (1,12 – 5,29) 1.45127 AG>AA 0,025
2,38 (1.10- 5.17) 1.45199 AG> AA + GG 0.028
2,67 (1,24 – 5,73) 1.448695 0,012 Cộng gộp alen G
Nhận xét: Ở mô hình trội kiểu gen AG và GG làm tăng nguy cơ loãng xương lên gấp 2,62 (95%CI: 1,2-5,73) lần so với kiểu gen AA (p= 0,016) và có giá trị AIC thấp nhất ở mô hình trội (AIC =1.448211) chứng tỏ đây là mô hình tối ưu cho phân tích ảnh hưởng của SNP Q89R.
13 Bảng 3.5. Mối liên quan giữa đa hình gen LRP5 Q89R rs41494349 với loãng xương nam giới theo từng vị trí
p LRP5 Q89R OR (95%CI) Vị trí 0,090 AG+GG>AA 1,94 0,90-4,19
0,042 Cổ xƣơng đùi G > A 2,11 1,03-4,34
0,047 AG+GG>AA 2,02 1,01- 4,06
0,052 Cột sống thắt lƣng G > A 1,92 0,99 – 3,7
0,306 AG+GG>AA 2,32 0,46 -11,61
0,317 Đầu trên xƣơng đùi G > A 2,18 0,47 -10,10
Nhận xét: Kiểu gen AG+GG và alen G làm tăng nguy cơ loãng xương vị trí cột sống thắt lưng lên gấp 2,02 lần và 2,11 lần so với người mang kiểu gen AA và alen A tương ứng (p<0,05)
3.3.2. Mối liên quan giữa đa hình C677T của gen MTHFR với loãng xương ở nam giới
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa đa hình gen MTHFR C677T với loãng xương nam giới
Mô hình di truyền OR (95% CI) p AIC
1,54 (1,02 - 2,31) CT +TT> CC 0,040 1,455858
1,41 (0,92 - 2,14) 0,116 1,460209 CT >CC
3,47 (0,91 - 13,22) 0,068 1,456957 TT>CC
1,31 (0,86 -1,99) 0,206 1,46029 CT>CC+TT
3,14 (0,84 - 11,76) 0,090 1,45607 TT>CC+CT
2,67 (1,24 – 5,73) 0,012 1.448695 Cộng gộp alen G
Nhận xét: Trong các mô hình kiểm định thì chỉ có mô hình trội là có ý nghĩa thống kê, trong đó kiểu gen CT+TT làm tăng nguy cơ mắc loãng xương gấp 1,5 lần so với kiểu gen CC.
14 Bảng 3.7 Mối liên quan giữa đa hình C677T của gen MTHFR với loãng xương ở nam giới theo từng vị trí
p MTHFR C677T OR (95%CI) Vị trí 0,006 TT+CT>CC 2,04 1,23 – 3,38
0,01 Cổ xƣơng đùi T > C 1,71 1,34-2,57
0,34 TT+CT>CC 1,23 0,81 – 1,87
0,35 Cột sống thắt lƣng T > C 1,19 0,83-1,70
0,05 TT+CT>CC 3,52 0,99-12,48
0,035 Đầu trên xƣơng đùi T > C 2,66 1,07 – 6,61
Nhận xét: Kiểu gen TT+CT làm tăng nguy cơ loãng xương lên gấp 2,04 và 3,52 lần so với kiểu gen CC tại vị trí cổ xương đùi và đầu trên xương đùi tương ứng (p<0,05).
3.3.3. Mối liên quan giữa đa hình gen FTO rs1121980 với loãng xương ở nam giới
Bảng 3.8 Mối liên quan giữa đa hình gen FTO rs1121980 với loãng xương ở nam giới
OR 95% CI p
FTO rs1121980 GA>GG 1,83 1,2-2,77 0,001 Chung cho các vị trí A > G 0,467 0,11 – 2,05 0,32
GA>GG 1,43 0,86 -2,37 0,172
A>G 1,31 0,84-2,04 0,229 Cổ xƣơng đùi
GA>GG 1,99 1,31 - 3,06 0,001
A>G 1,68 1,17 – 2,43 0,005 Cột sống thắt lƣng
GA>GG 0,41 0,09-1,94 0,26
0,32 A>G 0,467 0,11 – 2,05 Đầu trên xƣơng đùi
Nhận xét: alen A làm tăng nguy cơ loãng xương vị trí cột sống thắt lưng lên 1,68 lần; kiểu gen GA làm tăng nguy cơ mắc loãng xương gấp 1,99 lần so với kiểu gen GG (p<0,005).
15 3.3.4. Sự kết hợp của các đa hình gen của 3 gen LRP5 Q89R, MTHFR C677T và FTO rs1121980 với loãng xương ở nam giới
Bảng 3.9. Sự kết hợp các kiểu gen ở 3 gen liên quan đến loãng xương ở nam giới
Trong tổ hợp kiểu gen cứ xuất hiện từ 1 alen nguy cơ đã làm tăng nguy cơ loãng xương hơn so với nhóm không có alen nguy cơ nào (p<0,001). 3.3.5. Mối liên quan của 3 đa hình gen LRP5 Q89R, MTHFR C677T và FTO rs1121980 và các yếu tố nguy cơ khác trong mô hình kiểm định đa biến
Bảng 3.10. Liên quan giữa đa hình 3 gen và các yếu tố nguy cơ với loãng xương trong mô hình kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến
Các yếu tố nguy cơ LRP5 Q89R (AG+GG>AA) MTHFR C677T (CT +TT> CC) FTO rs1121980 (GA>GG)
Chỉ số BMI Thiếu cân > bình thường Thừa cân > bình thường Béo phì > bình thường
Tiền sử hút thuốc (Có>không) Tiền sử uống rƣợu (Có>không) Tiền sử gãy xƣơng (Có>không)
Hoạt động thể lực Tĩnh tại > cao Ít > cao Trung bình > cao OR 95% CI P 3,45 1,54 – 7,70 0,002 1,65 1,02 – 2,67 0,039 2,17 1,35 – 3,52 0,001 4,08 1,30 – 12,79 0,016 0,4 0,23 – 0,68 0,001 0,22 0,12 – 0,41 0,000 1,02 0,64 – 1,63 0,94 0,84 0,50 – 1,40 0,504 1,74 – 8,46 3,84 0,001 27,81 5,16 – 150,02 0,000 2,34 – 20,53 6,94 0,000 1,89 – 15,30 5,3 0,002
Nhận xét: 3 đa hình gen LRP5Q89R, MTHFR C677T và FTOrs1121980 làm tăng nguy cơ loãng xương với mô hình di truyền trội.
16 Bảng 3.11. Liên quan giữa đa hình 3 gen và các yếu tố nguy cơ với loãng xương vị trí cổ xương đùi trong mô hình kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến
Các yếu tố nguy cơ
LRP5 Q89R (AG+GG>AA) MTHFR C677T (CT +TT> CC) FTO rs1121980 (GA>GG)
Chỉ số BMI
95% CI 1,09 – 6,22 1,38 – 4,50 1,0 – 3,3 1,30 – 12,79 0,30 – 1,14 0,09 – 0,48 0,61 – 1,95 0,46– 1,69 0,52 – 3,1
Thiếu cân > bình thường Thừa cân > bình thường Béo phì > bình thường Tiền sử hút thuốc (Có>không) Tiền sử uống rƣợu (Có>không) Tiền sử gãy xƣơng (Có>không) Hoạt động thể lực Tĩnh tại > cao Ít > cao Trung bình > cao OR 2,59 2,50 1,82 7,27 0,59 0,20 1,09 0,83 1,26 48,45 6,24 – 356,64 1,36 – 25,92 6,07 1,06 – 18,93 4,59 P 0,032 0,002 0,05 0,002 0,119 0,000 0,782 0,698 0,60 0,000 0,018 0,041
Nhận xét: Ba đa hình gen LRP5Q89R, MTHFR C677T và FTOrs1121980 làm tăng nguy cơ loãng xương vị trí cổ xương đùi (p<0,05).
Bảng 3.12. Liên quan giữa đa hình 3 gen và các yếu tố nguy cơ với loãng xương vị trí đầu trên xương đùi trong mô hình kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến
Các yếu tố nguy cơ LRP5 Q89R (AG+GG>AA) MTHFR C677T (CT +TT> CC) FTO rs1121980 (GA>GG) Chỉ số BMI
Thiếu cân > Bình thường Thừa cân > Bình thường Béo phì > Bình thường Tiền sử hút thuốc (Có> Không) Tiền sử uống rƣợu (Có> Không) Tiền sử gãy xƣơng (Có> Không) Hoạt động thể lực Tĩnh tại > Cao Ít > Cao Trung bình > Cao OR 2,37 2,46 0,78 29,24 0,81 - 0,7 1,26 9,5 - 0,08 0,05 95% CI 0,26 – 21,60 0,50 – 12,10 0,12 – 5,10 3,07 – 278,31 0,11 – 5,7 - 0,13 – 3,69 0,20 – 7,87 1,41 – 63,9 - 0,005 – 1,34 1,06 – 18,93 p 0,44 0,27 0,80 0,003 0,828 - 0,68 0,81 0,02 - 0,079 0,02
17 Nhận xét: không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 3 đa hình gen LRP5 Q89R, MTHFR C677T, FTO rs1121980 với loãng xương đầu trên xương đùi.
Bảng 3.13. Liên quan giữa đa hình 3 gen và các yếu tố nguy cơ với loãng xương vị trí cột sống thắt lưng trong mô hình kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến
Các yếu tố nguy cơ LRP5 Q89R (AG+GG>AA) MTHFR C677T (CT +TT> CC) FTO rs1121980 (GA>GG)
Thiếu cân > bình thường Chỉ Thừa cân > bình thường số BMI Béo phì > bình thường Tiền sử hút thuốc (Có > Không) Tiền sử uống rƣợu (Có > Không) Tiền sử gãy xƣơng (Có > không) Hoạt động thể lực Tĩnh tại > Cao Ít > Cao Trung bình > Cao p 95% CI OR 1,24 – 5,97 2,72 0,013 0,38 0,76 – 2,01 1,24 1,45 – 3,86 2,37 0,001 1,33 – 11,41 3,9 0,013 0,23 – 0,70 0,4 0,001 0.13 – 0,43 0,24 0,000 0,783 0,67 – 1,72 1,07 0,537 0,50 – 1,46 0,85 3,07 1,46 – 6,48 0,003 21,59 4,14 – 112,46 0,000 2,04– 19,14 6,25 0,001 1,66 – 14,37 4,9 0,004
Nhận xét: đa hình gen LRP5 Q89R, FTO rs1121980 làm tăng nguy cơ loãng xương cột sống thắt lưng một cách có ý nghĩa thống kê.
18 CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm 3 đa hình gen nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 400 đối tượng nam giới trong đó 200 đối tượng được chẩn đoán loãng xương (nhóm bệnh) và 200 đối tượng MĐX bình thường làm đối chứng. Các đối tượng nghiên cứu được ghép cặp về nhóm tuổi, có độ tuổi trung bình 74,96±6,73, không có sự khác biệt về tiền sử hút thuốc, tiền sử uống rượu, nơi sống và trình độ học vấn của 2 nhóm nghiên cứu. Kết quả xác định 3 đa hình gen được thể hiện dưới đây
4.1.1. Đa hình gen LRP5 Q89R rs41494349
Đa hình gen LRP5 Q89R rs41494349 nằm trên exon thứ 2, có sự thay thế nucleotid A ở vị trí 266 thành G dẫn tới sự biến đổi acid amin Glutamin (Q) thành Arginin (R) ở vị trí 89 của protein LRP5 làm thay đổi phần cánh quạt đầu tiên trên phân tử Protein LRP5 (β-propeller 1). Nhiều nghiên cứu cho thấy đa hình gen Q89R ảnh hưởng đến MĐX và gãy xương, tuy nhiên các nghiên cứu còn có sự khác biệt giữa các chủng tộc. Kết quả nghiên cứu trên đối tượng nam giới loãng xương ở quần thể người Việt như sau: *Về tỷ lệ kiểu gen: Tỷ lệ kiểu gen ở 200 nam giới loãng xương lần lượt là: 86,0%/13,0%/1,0%, tỷ lệ này ở 200 nam giới bình thường lần lượt là AA/AG/GG là 94%/6%/0%. Nhóm bệnh có tỷ lệ kiểu gen AG,GG cao hơn có ý nghĩa thống kê so cới nhóm chứng (p<0,05). Kết quả này tương tự nghiên cứu của các tác giả trên đối tượng người Trung Quốc: Lau, H và cộng sự tiến hành trên 674 người (107 nam và 567 nữ) cho kết quả tỷ lệ kiểu gen AA/AG/GG lần lượt là: 84,8%/13,4%/0,5%; cũng giống nghiên cứu của tác giả Zhang và cộng sự tiến hành trên 647 phụ nữ mãn kinh ở Trung Quốc AA (80,5%), AG (18,7%) và GG (0,8%). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu của tác giả Koh tren đối tượng nam giới Hàn Quốc tỷ lệ kiểu gen AA/AG/GG lần lượt là: 83,1%/16,9%/0% trong đó không thấy sự xuất hiện của kiểu gen đồng hợp tử GG trong quần thể nghiên cứu Về tỷ lệ alen: Tương tự sự phân bố của kiểu gen, sự phân bố alen A và G trong hai nhóm bệnh chứng cũng khác biệt. Tần suất xuất hiện alen G trong nhóm bệnh (7,5%) cao hơn nhóm chứng (3%) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,005. Về tần suất xuất hiện của alen G trong 400 đối tượng nghiên cứu là 5,25% (bảng 3.1). Tần suất alen trong nghiên
19 cứu của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của các nước trong khu vực Châu Á như: ở Nhật Bản (8,7%), Hàn Quốc (8,0%), Trung Quốc (7,9%), Thái Lan (6%). Như vậy sự xuất hiện đa hình gen LRP5Q89R trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu của đối tượng người da vàng.
4.1.2. Đa hình gen MTHFR C677T
MTHFR C677T là đột biến điểm thay thế nucleotid cytosin thành thymin ở vị trí 677, đột biến này dẫn đến thay thế acid amin Alanin thành Valin ở vị trí 222 trên phân tử protein enzym MTHFR. Dẫn tới các đa hình gen ở vị trí C677T gây ra giảm nồng độ enzym MTHFR từ đó làm tăng nồng độ Homocystein huyết thanh là một yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh mạn tính bao gồm bệnh lý tim mạch, bệnh thận mạn, đái tháo đường, loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương
*Về tỷ lệ kiểu gen: tỷ lệ kiểu gen trong 400 đối tượng nghiên cứu lần lượt là: CC/CT/TT lần lượt là 62,5%/33,5%/4%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ xuất hiện các kiểu gen của đa hình gen MTHFR C677T ở hai nhóm. Trong đó sự xuất hiện của kiểu gen CT và TT nhiều hơn ở nhóm bệnh so với nhóm chứng, đặc biệt tỷ lệ xuất hiện kiểu gen đồng hợp tử TT cao gấp 3 lần ở nhóm bệnh (6%) so với nhóm chứng (2%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.2); Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trên nam giới cũng tương tự kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thu Huyền tỷ lệ phân bố các kiểu gen lần lượt là CC/CT/TT: 71,4%/26,8%/1,8%. Kết quả nghiên cứu về sự phân bố kiểu gen TT của chúng tôi tương tự phân bố kiểu gen của một số nước như Phần Lan (4%), Canada (5,8%), Hà Lan (6%) Nga (7%), thấp hơn so với nghiên cứu của các nước Mỹ (11%), Pháp (12%), Hungary (15%) và thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu trên quần thể người Mexico (32,2%), Italy (26,4%)
*Về tỷ lệ alen T: theo kết quả của chúng tôi tần suất xuất hiện của alen T cao hơn ở nhóm bệnh (24,25%) so với nhóm chứng (17,25%) sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.2); tần suất alen T trong nghiên cứu của chúng tôi là 20,75%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tần suất alen T tương tự nghiên cứu của tác giả trong nước: nghiên cứu của tác giả Trần thị Thu Huyền và cộng sự trên 566 phụ nữ mãn kinh ở Miền Bắc Việt Nam cho kết quả tần suất alen T là 15,19%, cao hơn so với nghiên cứu trên đối người da đen 7% ở các nước Tây Phi,
20 Indonesia (8,1%) thấp hơn nghiên cứu ở Nhật Bản (33%) và Trung Quốc (36%).
4.1.3. Đa hình kiểu gen FTO rs1121980
* Tỷ lệ kiểu gen và alen của đa hình gen FTO rs1121980
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chỉ xuất hiện 2 kiểu gen GG và GA, không có sự xuất hiện của kiểu gen đồng hợp tử AA do đó tỷ lệ alen và kiểu gen không tuân theo định luật cân bằng Hardy Weinberg (bảng 3.3). Kết quả về tỷ lệ alen cho thấy alen G chiếm ưu thế 77,5% ở nhóm bệnh và 84,5% ở nhóm chứng. Tỷ lệ chung của 2 nhóm là alen G (81%), alen A (19%). Tương tự như vậy kiểu gen GG chiếm tỷ lệ cao trong cả 2 nhóm bệnh (55%) và nhóm chứng (69,0%). Tần suất xuất hiện của alen A ở nhóm bệnh là 22,5% cao hơn nhóm chứng là 15,5%, sự khác biệt này có có ý nghĩa thống kê với p=0,012; tương tự như vậy tần suất kiểu gen GA cũng cao hơn ở nhóm bệnh (22,5%) so với nhóm chứng (16,5%); sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,005. Kết quả nghiên cứu về kiểu gen của chúng tôi cho thấy có sự khác biệt với nghiên cứu của tác giả Bích Trần trên người da trắng có sự xuất hiện của cả 3 kiểu gen GG (33,3%); GA (47,7%) và đồng hợp lặn AA (19,0%). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ kiểu gen đồng hợp tử AA của người da trắng (21-27,5%), da đen (23,6 -26,9%) cao hơn hẳn so với người châu Á: Ấn Độ (8,9%), Nhật Bản (3,5%), Trung Quốc (4,4 – 4,6%).
4.2. Mối liên quan giữa đa hình gen và các yếu tố nguy cơ loãng xƣơng ở nam giới
* Đa hình gen LRP5 Q89R: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng sự xuất hiện alen G của đa hình gen LRP5 Q89R làm tăng nguy cơ loãng xương ở nam giới. Người có kiểu gen AG+GG tăng nguy cơ mắc loãng xương gấp 2,62 lần (95% CI: 1,2– 5,73) so với người mang kiểu gen AA. Khi kiểm định riêng cho từng vị trí cũng cho thấy kiểu gen AG+GG làm tăng nguy cơ loãng xương ở cả 3 vị trí, trong đó có ý nghĩa thống kê ở vị trí cột sống thắt lưng (OR: 2,02; 95%CI: 1,01 - 4,06). Người mang alen G làm tăng nguy cơ loãng xương lên 2,67 lần (95%CI: 1,24 - 5,73) so với người mang alen A; tương tự như vậy sự xuất hiện alen G cũng làm tăng nguy cơ loãng xương ở tất cả các vị trí, tuy nhiên chỉ có ý nghĩa thống kê với vị trí cổ xương đùi (OR: 2,11; 95%CI: 1,03-4,34). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như một số nghiên cứu trước đó trên các đối tượng cả nam lẫn nữ. Nghiên cứu
21 của tác giả Koh ở nam giới Hàn Quốc cho kết quả đa hình gen này làm giảm MĐX CXĐ và tương tự công bố của Zang và cộng sự trên 647 đối tượng phụ nữ mãn kinh Trung Quốc đã tìm thấy có mối liên quan giữa kiểu gen AG và GG với MĐX ở vị trí cổ xương đùi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có khác biệt với kết quả nghiên cứu của tác giả Kitjaroentham và cộng sự trên đối tượng phụ nữ người Thái cho kết quả không tìm thấy mối liên quan giữa đa hình gen này với loãng xương. Các nghiên cứu tiến hành đối với đa hình gen này cũng chưa thật sự nhiều đặc biệt trên đối tượng nam giới. Do đó kết quả nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên cho thấy mối tương quan của đa hình gen này trên đối tượng nam giới Việt Nam.
* Đa hình gen MTHFR C677T: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy nguời mang kiểu gen CT+TT làm tăng nguy cơ mắc loãng xương lên gấp 1,54 lần (95%CI: 1,02-2,31) so với người mang kiểu gen CC, khi kiểm định theo từng vị trí cũng cho thấy người mang kiểu gen CT+TT làm tăng nguy cơ loãng xương ở vị trí cổ xương đùi lên gấp 2,04 (95%CI: 1,28-3,38) lần so với người mang kiểu gen CC, kết quả tương tự như với loãng xương ở cột sống thắt lưng và đầu trên xương đùi (bảng 3.7). Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê tại vị trí này. Người mang alen T làm tăng nguy cơ loãng xương lên 1,54 lần (95% CI 1,08-2,18) so với người mang alen C. Sự khác biệt này cũng thấy rõ rệt ở vị trí CXĐ và đầu trên xương đùi: sự xuất hiện của alen T làm tăng nguy cơ loãng xương ở cổ xương đùi và đầu trên xương đùi lên 1,71 (95%CI: 1,14-2,57) và 2,66 (95%CI: 1,07-6,61) tương ứng, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.7). Khi kiểm định trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến cũng cho kết quả tương tự. Như vậy việc ảnh hưởng của đa hình gen MTHFR C677T là độc lập với các yếu tố nguy cơ khác. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự một số nghiên cứu trên thế giới cho rằng người mang alen T, kiểu gen TT và CT làm giảm MĐX ở nam giới: Abrahamsen Bo và cộng sự (2006) nghiên cứu 780 nam giới khỏe mạnh người Đan Mạch tuổi đời từ 20-29 cho kết quả những người mang kiểu gen TT và CT có MĐX thấp hơn 3,9% và 2,1% tương ứng so với người mang kiểu gen CC. Tác giả Li và cộng sự (2016) tiến hành nghiên cứu phân tích gộp về tác động của đa hình gen này trên cả nam và nữ cho thấy đa hình gen MTHFR C677T liên quan đến giảm MĐX ở cột sống thắt lưng và cổ xương đùi ở người da trắng, phụ nữ sau mãn kinh, nam giới và MĐX toàn thân ở phụ nữ.
22 *Đa hình gen FTO rs1121980: Gen FTO nằm trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 16, tại vị trí 16q12.2. FTO là một gen lớn gồm 9 exon dài hơn 410kb (từ nucleotid:53.5737.874 đến nucleotid 54.148.378). Người ta tìm thấy mối liên quan giữa đa hình gen FTO rs1121980 với MĐX và gãy xương đã được công bố qua 1 số nghiên cứu. Tuy nhiên các nghiên cứu còn khá ít và kết quả tương đối khiêm tốn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự xuất hiện của Alen A và kiểu gen GA trong nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Khi tiến hành kiểm định mối liên quan giữa đa hình gen FTO rs1121980 với loãng xương bằng chỉ số OR, chúng tôi phát hiện nam giới mang kiểu gen GA làm tăng nguy cơ loãng xương cột sống thắt lưng lên 1,83 lần so với người mang kiểu gen GG với p=0,001 (95%CI 1,31-3,06; p=0,001). Khi kiểm định riêng cho từng vị trí cho kết quả đa kiểu gen GA của đa hình gen FTO rs1121980 làm tăng nguy cơ loãng xương ở vị trí cổ xương đùi và cột sống thắt lưng. Tuy nhiên chỉ có ý nghĩa thống kê ở vị trí cột sống thắt lưng với OR=1,99 (95%CI: 1,31-3,06; p=0,001). Kết quả này cũng tương tự trong mô hình kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến với các yếu tố nguy cơ khác. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của Yan Guo và cộng sự cho thấy có mối liên quan giữa đa hình gen FTO và mật độ xương. Năm 2013 Bích Trần và cộng sự đã phát hiện kiểu gen đồng hợp tử TT của đa hình gen FTO rs1121980 có nguy cơ gãy CXĐ cao hơn 2,06 lần so với nhóm phụ nữ có kiểu gen đồng hợp tử CC (OR = 2,06; 95%CI: 1,17 – 3,62; p=0,02). Kết quả nghiên cứu này ủng hộ giả thuyết đa hình gen FTO 1121980 có ảnh hưởng đến mật độ xương và gãy xương kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của chúng tôi. *Tương tác gen – gen của 3 đa hình gen nghiên cứu với loãng xương ở nam giới Ba đa hình gen LRP5 Q89R, MTHFR và FTO rs1121980 nằm ở 3 nhiễm sắc thể khác nhau, do đó một câu hỏi đặt ra của nghiên cứu là: liệu việc kết hợp 3 SNP của 3 gen này trên cùng 1 bệnh nhân có làm tăng nguy cơ loãng xương so với kiểm định độc lập hay không? Để trả lời câu hỏi này chúng tôi tiến hành xác định mối nguy cơ khi xuất hiện 1-6 alen nguy cơ trong tổ hợp gen với loãng xương. Kết quả bảng 3.9 cho thấy chỉ cần xuất hiện 1 alen nguy cơ trong số 3 SNP (G với LRP5 Q89R, T với MTHFR C677T và A với FTO rs1121980) làm tăng nguy cơ loãng xương lên gấp 2,17 lần so với người không mang alen nguy cơ nào và có sự xuất hiện từ 2 alen nguy cơ trở lên trong
23 tổ hợp kiểu gen sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương lên 3,82 lần so với người không mang alen nguy cơ nào (95% CI: 2,13 -6,83). Tần số lalen nguy cơ trung bình ở nhóm bệnh (2,79 ± 0,90) cao hơn so với nhóm chứng (2,6 ± 0,72) một cách có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy càng xuất hiện nhiều alen nguy cơ trong 3 đa hình gen nghiên cứu sẽ càng làm tăng nguy cơ loãng xương, tương tác giữa các alen nguy cơ của các gen có thể là tương tác cộng gộp trên nguy cơ loãng xương, chúng không kiềm chế nhau trong quá trình tác động lên loãng xương. Kết quả này mở ra một gợi ý mới cho các nghiên cứu tiếp theo về việc xây dựng bản đồ gen nguy cơ với loãng xương ở người Việt Nam. KẾT LUẬN
Nghiên cứu bệnh chứng trên 400 đối tượng (200 bệnh, 200 chứng) nhằm xác định mối liên quan giữa 3 đa hình gen LRP5 Q89R (rs41494349), MTHFR C677T (rs1801133) và FTO rs1121980 và một số yếu tố nguy cơ với loãng xương nguyên phát ở nam giới chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: 1. Tính đa hình của gen LRP5 Q89R (rs41494349), MTHFR C677T (rs1801133) và FTO rs1121980 ở nam giới loãng xƣơng nguyên phát.
* Đa hình gen LRP5 Q89R (rs41494349): Tỷ lệ kiểu gen AA/AG/GG trong nhóm bệnh lần lượt là: 86%/13%/1%. Trong đó tỷ lệ kiểu gen AG+GG ở nhóm loãng xương (14%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (6%). Tỷ lệ alen G (alen nguy cơ) chiếm 7,5% cao hơn so với nhóm chứng (3%) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
* Đa hình gen MTHFR C677T (rs1801133): Tỷ lệ kiểu gen CC/CT/TT trong nhóm bệnh lần lượt là: 57,5%/36,5%/6%. Trong đó tỷ lệ kiểu gen CT+TT ở nhóm loãng xương (42,5%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (32,5%). Tỷ lệ alen G (alen nguy cơ) chiếm 24,25 % cao hơn so với nhóm chứng (17,25%) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
* Đa hình gen FTO rs1121980: Tỷ lệ kiểu gen GG/GA/AA trong nhóm bệnh lần lượt là: 77,5%/22,5%/0%. Trong đó tỷ lệ kiểu gen GA ở nhóm loãng xương (22,5%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (15,5%). Tỷ lệ alen A (alen nguy cơ) chiếm (22,5%) cao hơn so với nhóm chứng (15,5%) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
24 2. Mối liên quan của 3 đa hình gen LRP5 Q89R (rs41494349), MTHFR C677T (rs1801133), FTO rs1121980 và một số yếu tố nguy cơ với loãng xƣơng ở nam giới.
* Đa hình gen LRP5 Q89R (rs41494349): Kiểu gen AG, GG có nguy cơ loãng xương cao hơn so với kiểu gen AA là 2,02 lần ở cột sống thắt lưng và 2,59 lần ở cổ xương đùi. Alen G có nguy cơ loãng xương ở cổ xương đùi cao gấp 2,11 lần so với alen A (p<0,05).
* Đa hình gen MTHFR C677T (rs1801133): Kiểu gen CT, TT làm tăng nguy cơ loãng xương cổ xương đùi gấp 2,5 lần so với kiểu gen CC. Alen T có nguy cơ loãng xương ở cổ xương đùi cao gấp 1,71 lần so với alen C (p<0,05).
* Đa hình gen FTO rs1121980: Kiểu gen GA và alen A làm tăng nguy cơ loãng xương so với alen G và kiểu gen GG là 2,37 lần tại vị trí cột sống thắt lưng và 1,82 lần tại cổ xương đùi (p<0,05).
Khi kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến cho kết quả sự ảnh hưởng của 3 đa hình gen trên là độc lập với các yếu tố nguy cơ khác như chỉ số BMI, hút thuốc lá, uống rượu, tiền sử gãy xương và mức độ hoạt động thể lực.
* Số alen nguy cơ: Càng xuất hiện nhiều alen nguy cơ trong tổ hợp 3 đa hình gen LRP5 Q89R (rs41494349), MTHFR C677T (rs1801133), FTO rs1121980 càng làm tăng nguy cơ loãng xương ở nam giới, có 1 alen nguy cơ trong tổ hợp 3 gen làm tăng nguy cơ loãng xương lên gấp 2,17 lần và có 2 alen nguy cơ làm tăng nguy cơ loãng xương lên gấp 3,82 lần so với người không có alen nguy cơ nào (p<0,05).
KHUYẾN NGHỊ
Trong thực tiễn lâm sàng nên xác định các đa hình của 3 gen LRP5 Q89R, MTHFR C677T, FTO rs1121980 ở đối tượng nam giới trẻ tuổi, có nguy cơ cao mắc bệnh loãng xương như: cân nặng thấp, mắc 1 số bệnh lý gây ảnh hưởng đến chuyển hóa xương, phải sử dụng các thuốc gây ảnh hưởng đến xương, tiền sử gia đình bị loãng xương để phân tích nguy cơ và đưa ra các chiến lược điều trị và dự phòng hợp lý. Từ đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh loãng xương và gãy xương do loãng xương. Giảm gánh nặng đối với bệnh nhân, gia đình và nền kinh tế quốc gia.