intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chia sẻ: Hinh Duyệt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

81
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn gồm có 3 chương được trình bày như sau: Cơ sở lý luận về dịch vụ công trực tuyến tại Cơ quan quản lý hành chính nhà nước; Thực trạng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VŨ DUY LINH ĐỔI MỚI CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN Ở BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - 2017
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bế Trung Anh Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Hữu Hải Học viện Hành chính Quốc gia Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Bá Chiến Đại học Nội vụ Hà Nội Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp 204, Nhà A , Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 - Đường: Nguyễn Chí Thanh - Quận: Đống Đa – TP.Hà Nội Thời gian: vào hồi 15 giờ 00 ngày 16 tháng 8 năm 2017 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh thay đổi mau chóng của cục diện chính trị - kinh tế trên thế giới những năm đầu thế kỷ 21, Đảng và Nhà nước ta nhận định tình hình thế giới trong thời gian tới với đặc trưng cơ bản như sau: Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp tài nguyên và lãnh thổ, biển đảo, bạo loạn, khủng bố diễn biến phức tạp; Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực; Kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức; Mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một gia tăng; Các cơ chế đa phương, các tổ chức quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong mọi mặt của đời sống nhân loại; Khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động, đang trở thành trung tâm phát triển của thế giới. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tiến tới hình thành cộng đồng chung, tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong phần lớn các cơ chế hợp tác ở khu vực, đồng thời có vị trí ngày càng cao trong chiến lược của các nước lớn. Với những nhận định như vậy, yêu cầu hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin (CNTT) trở nên cấp thiết đối với Việt Nam. Quyết tâm đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT được minh chứng bằng Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 01/07/2014 của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI. Theo đó, “CNTT là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó là một trong những nguồn lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ứng dụng CNTT là một yếu tố quan trọng, đảm bảo thực hiện thành công ba đột phá chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho CNTT là đầu tư cho phát triển và bảo vệ đất nước. Do vậy, chúng ta cần thực hiện tốt công tác quản lý, tăng cường khả năng làm chủ, sáng tạo công nghệ, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và giữ vững chủ quyền không gian mạng”. Thực hiện Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương tình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020; Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ Quy định về việc cung cấp thông tin và DVCTT trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử (TTĐT) của cơ quan nhà nước; Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Chính phủ điện tử (CPĐT); Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN giai đoạn 2016- 2020 với mục tiêu đẩy mạnh phát triển CPĐT, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của CQNN, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Công khai, minh bạch hoạt động của CQNN trên môi trường mạng. 1
  4. Trong thực tiễn, ứng dụng CNTT vào công tác cải cách hành chính (CCHC) mà trọng tâm là ứng dụng Dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) đã minh chứng những thế mạnh to lớn như: tiết kiệm thời gian, chi phí hoạt động, công khai, minh bạch, chống tham nhũng, lãng phí, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau. Cung cấp DVCTT để giảm thời gian, số lần trong một năm người dân, doanh nghiệp phải đến trực tiếp CQHCNN thực hiện các TTHC. Do vậy, để giải quyết công việc này vấn để đặt ra là: Cần làm gì để tận dụng và phát huy tối đa vai trò của CNTT trong tổ chức, quản lý và thực hiện triển khai xây dựng DVCTT một cách có hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi, thủy sản và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước trong đó bao gồm quản lý nhà nước các dịch vụ công (DVC) thuộc phạm vi, với công việc quản lý nhà nước đa dạng, phức tạp như vậy thì buộc phải ứng dụng CNTT, mà trọng tâm là cung cấp DVCTT để nâng cao hoạt động của quản lý nhà nước (QLNN), chỉ đạo và điều hành chung của Bộ, cũng như phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Trong những năm qua, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã quan tâm, đầu tư triển khai xây dựng DVCTT tại các đơn vị QLNN của Bộ (các Tổng cục, Cục chuyên ngành) để người dân, các doanh nghiệp, tổ chức đã có kênh giao tiếp tiện dụng qua môi trường mạng. Tuy nhiên, việc tổ chức, quản lý và triển khai thực hiện cung cấp DVCTT, nhất là DVCTT mức độ cao của Bộ hiện nay đang gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định, lộ trình cung cấp diễn ra còn chậm so với kế hoạch, số lượng và chất lượng DVCTT còn khiêm tốn, nhỏ lẻ, phân tán chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng cũng như xu thế hiện nay của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước mong muốn tham gia DVC của Bộ, chưa có Cổng DVCTT tập trung duy nhất tại một địa chỉ để người dân, doanh nghiệp và tổ chức tiện dụng trong quá trình truy cập, sử dụng. Chính vì vậy, việc triển khai xây dựng, đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT, nhất là DVCTT mức độ cao của của Bộ là hết sức cần thiết, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đồng thời phù hợp với lộ trình, kế hoạch phát triển DVCTT hướng tới Bộ Nông nghiệp và PTNT là Bộ điện tử trong tương lại gần. Xuất phát từ tực tiễn trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài:“Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài DVCTT là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng, cụ thể là việc ứng dụng CNTT trong hoạt động cung ứng để người dân, doanh nghiệp và các tổ chức có thể tiếp cận các thông tin và dịch vụ một cách thuận lợi hơn, cải thiện chất lượng dịch vụ và mang lại các cơ hội tốt hơn cho công dân, các 2
  5. doanh nghiệp và tổ chức trong việc tham gia vào xây dựng thể chế và phát triển đất nước. Với tầm quan trọng nêu trên, cho đến thời điểm này số lượng các công trình nghiên cứu liên quan về ứng dụng CNTT-TT, CPĐT và cung cấp DVCTT đã có nhiều công trình nghiên cứu hết sức quy mô và tầm cỡ. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu sâu về cung cấp DVCTT trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay chưa nhiều và vẫn chưa thống nhất văn bản, tài liệu nghiên cứu, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chung về phát triển CPĐT, về ứng dụng CNTT-TT và một số bài báo về DVCTT liên quan. Có thể thấy, những công trình nghiên cứu đa phần đề cập đế những hoạt động mang tính định hướng khái quát chung, phạm vi tương đối rộng hoặc chuyên biệt về góc độ kỹ thuật, các công trình nghiên cứu về Đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT trong hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước hiện nay còn khá khiêm tốn. Tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu trên, luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu về việc Đổi mới cung cấp DVCTT trên cơ sở thực tiễn nghiên cứu việc triển khai thực hiện cung cấp DVCTT tại Bộ Nông nghiệp và PTNT hiện nay. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài - Mục tiêu: Cung cấp luận cứ khoa học để từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT, phục vụ người dân, doanh nghiệp và các tổ chức mọi lúc, mọi nơi nhằm phát huy hiệu quả công tác QLNN, xử lý và giải quyết các TTHC nhanh chóng và hiệu quả, thực hiện công khai minh bạch trong các hoạt động. - Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nêu trên, nghiên cứu của đề tài có nhiệm vụ sau: - Xác định cơ sở lý luận về DVCTT tại cơ quan quản lý hành chính nhà nước. - Phân tích thực trạng cung cấp DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT hiện nay, những mặt còn hạn chế, tồn tại cần giải quyết trong hoạt động cung cấp DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT. - Từ đó đề xuất các giải pháp để từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Cung cấp DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT. - Phạm vi nghiên cứu: Không gian nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trong phạm vi khách thể là các đơn vị QLNN của Bộ Nông nghiệp và PTNT (các Tổng cục và Cục), có chức năng cung cấp DVCTT. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 – đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
  6. Nghiên cứu của đề tài dựa trên quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về cung cấp DVC, DVCTT, CPĐT, cải cách nền hành chính theo hướng hiện đại hóa. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng: - Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp; - Phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê: Khảo sát, thu thập, đánh giá các thông tin về thực trạng thực hiện các nội dung về hoạt động cung cấp dịch DVCTT nói chung và công việc ứng dụng CNTT trong QLNN nói riêng; - Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động quản lý, chỉ đạo và điều hành về phát triển và ứng dụng CNTT trọng tâm là việc thực hiện DVCTT của lãnh đạo các đơn vị liên quan của Bộ; - Phương pháp chuyên gia: trao đổi, phối hợp, tiếp thu ý kiến từ các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực trong và ngoài Bộ trong quá trình khảo sát, đánh giá trực trạng; đề xuất giải pháp; tầm nhìn và định hướng phát triển. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Những giải pháp đề xuất của luận văn là tài liệu tham khảo chung cho việc xây dựng, quản lý và tổ chức thực hiện cung cấp DVCTT cấp Bộ, cơ quan ngang Bộ và có thể áp dụng vào thực tiễn của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Cụ thể là: - Đóng góp vào hệ thống lý thuyết và thực tiễn trong việc xây dựng, quản lý và tổ chức thực hiện cung cấp DVCTT trong tiến trình CCHC, phát triển CPĐT ở nước ta nói chung và tại Bộ Nông nghiệp và PTNT nói riêng; - Đưa ra một số giải pháp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động, quản lý cung cấp DVCTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT nói riêng và các Bộ, cơ quan ngang Bộ nói chung góp phần làm thay đổi thói quen tiếp cận chính quyền truyền thống của cơ quan, tổ chức và công dân nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của QLNN. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 03 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ công trực tuyến tại Cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Chƣơng 2: Thực trạng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Chƣơng 3: Giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 4
  7. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN TẠI CƠ QUAN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC 1.1. Khái niệm 1.1.1. Dịch vụ công Theo nghĩa rộng, “dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, toà án… cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng”. Theo nghĩa hẹp, “dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng”. Vì vậy, khái niệm DVC được hiểu là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của cá nhân vì lợi ích chung của xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện) nhằm bảo đảm ổn định và công bằng xã hội. - Phân loại DVC: Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tiêu chí chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành 3 loại, như sau: Loại thứ nhất, Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp. Loại hứ hai, Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp. Loại thứ ba, Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân phối hợp thực hiện. Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công thành các loại sau: Loại thứ nhất, Dịch vụ sự nghiệp công. Loại thứ hai, Dịch vụ công ích. Loại thứ ba, Dịch vụ hành chính công. 1.1.2 Dịch vụ hành chính công 1.1.2.1 Khái niệm Đến nay trong các văn bản của Đảng và Nhà nước đã đề cập đến loại dịch vụ này, thực chất dịch vụ hành chính công (DVHCC) là một phần rất cơ bản của DVC nên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đề cập tại Nghị định 43/2011/NĐ-CP quy định về DVHCC như sau: “Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân”. 5
  8. 1.1.2.2 Đặc điểm Qua phân tích cho thấy các DVHCC có các đặc điểm sau: Thứ nhất, việc cung ứng DVHCC luôn gắn với thẩm quyền Hành chính - Pháp lý của CQHCNN. Thứ hai, DVHCC là các hoạt động phục vụ cho hoạt động quản lý của Nhà nước. Thứ ba, DVHCC là những hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận, nếu có thu thì thu dưới dạng lệ phí (chỉ dành cho những người cần dịch vụ) nộp ngân sách nhà nước. Thứ tư, mọi công dân đều có quyền ngang nhau trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ này với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. 1.1.3 Dịch vụ công trực tuyến 1.1.3.1 Khái niệm Tại Chương I, Điều 3, Khoản 4 trong Nghị định số 43/2011/NĐ-CP về DVCTT tuyến như sau: “Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng” 1.1.3.2 Đặc điểm Thứ nhất, DVCTT tăng cường kênh giao tiếp, là môi trường giúp người sử dụng truy cập đến các hệ thống thông tin CPĐT. Thứ hai, DVCTT được hiểu là áp dụng phương thức xử lý tự động hóa vào trong việc cung cấp dịch vụ (thông qua các phương tiện hiện đại). - Giảm số lần giao dịch “trực tiếp” với công chức (giảm thời gian gửi/nhận hồ sơ, giảm thời gian đi lại cho người sử dụng các DVHCC dưới hình thức trực tuyến) dẫn đến tăng tính minh bạch của các cơ quan cung cấp dịch vụ. 1.1.3.3 Phân loại Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 Đối với DVCTT mức độ 3 và 4 thì các dịch vụ này cho phép tương tác hai chiều trực tuyến với công dân (mọi thủ tục như: nộp - tiếp nhận - xử lý - bổ sung - trả kết quả hồ sơ - thanh toán) đều thông qua hình thức trực tuyến. Mọi giao dịch đều sẽ thông qua hệ thống tự động, đảm bảo tính minh bạch và tính vô nhân xưng trong hoạt động cung cấp dịch vụ. Vì vậy, triển khai các DVCTT ở mức độ 3 và 4 nghĩa là công dân, doanh nghiệp có thể giao tiếp với chính quyền qua các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện tự động. Khi đó công dân, tổ chức không cần quan tâm đến địa chỉ trụ sở của cơ quan cung cấp dịch vụ ở đâu, công chức nào là người quản lý, và có thể công dân sẽ nhận kết quả tại nơi mình lựa chọn (và thanh toán lệ phí tại nhà được chấp nhận), chứ không nhất thiết phải đến CQNN. 6
  9. 1.1.4 Hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở cơ quan hành chính Nhà nước Dịch vụ hành chính công gắn với chức năng phục vụ và quản lý của Nhà nước, do các CQHCNN thực hiện để phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là một khâu quan trọng trong việc thực hiện chương trình cải cách nền hành chính cả về thể chế, thủ tục, tổ chức bộ máy và đội ngũ CBCC. Nhà nước đã bắt đầu áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử, tin học để nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công, như việc cung cấp thông tin về thể chế, tổ chức, đấu thầu các dự án chi tiêu công, đăng ký cấp phép kinh doanh, cấp phép đầu tư, hỏi đáp pháp luật hay đăng ký xe máy…Nhìn chung việc cung ứng DVCTT có một số tiến bộ, nhưng không đều. Người dân và doanh nghiệp được tạo thuận lợi và dễ dàng hơn trong một số việc cần giải quyết với CQNN, như đăng ký kinh doanh, làm thủ tục hộ tịch, tìm hiểu luật pháp….song còn gặp nhiều rắc rối, phiền hà trong nhiều lĩnh vực khác, như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất, cho thuê dất, cấp phép xây dựng nhà, công chứng, hộ khẩu….Người dân và doanh nghiệp vẫn tiếp tục là “nạn nhân” của tình trạng phiền nhiễu, bất hợp lý, chậm trễ, thiếu hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính các cấp. 1.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng hưởng đến hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến Để hoạt động cung ứng DVCTT được hiệu quả, CQNN cần quan tâm đến những yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến việc triển khai việc cung ứng dịch vụ trên môi trường mạng như sau: 1.1.5.1 Khung pháp lý 1.1.5.2 Đối tượng sử dụng 1.1.5.3 Cơ sở hạ tầng thông tin 1.1.5.4 Tổ chức triển khai 1.1.6 Các tiêu chí đánh giá việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến Để nâng cao hiệu quả của DVCTT, việc đánh giá chất lượng của dịch vụ là việc cần làm để các cơ quan cung cấp dịch vụ nhận thức được các yêu cầu cơ bản cần có khi xây dựng và cung cấp dịch vụ cho người sử dụng. Luận văn nghiên cứu về một số tiêu chí đánh giá DVCTT để từ đó đề xuất các yêu cầu, tiêu chí đánh giá chất lượng DVCTT của CQNN nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của dịch vụ. 1.1.6.1 Tiếp cận đánh giá chất lượng DVCTT như một phần mềm Từ góc độ nhà phát triển, đối với DVCTT mức độ 3, mức độ 4 được xem như một ứng dụng (một phần mềm). Khi đó, theo tiêu chuẩn ISO/IEC TR 9126, chất lượng của DVCTT được đánh giá theo 06 tiêu chí là: (1) Chức năng; (2) Tính tin cậy; (3) Tính khả dụng; (4) Tính hiệu quả; (5) Khả năng bảo trì; (6) Tính khả chuyển. 7
  10. 1.1.6.2 Tiếp cận đánh giá chất lượng DVCTT từ góc độ người sử dụng Từ góc độ của người sử dụng, chất lượng của DVCTT tập trung vào chất lượng của cổng cung cấp dịch vụ và sự hài lòng đối với dịch vụ. Sự hài lòng của người sử dụng đối với DVCTT được tác động từ sự nhận thức của người sử dụng về chất lượng dịch vụ và kỳ vọng của họ cho các dịch vụ này. Theo nghiên cứu “Các tiếp cận và mô hình đánh giá chất lượng của DVCTT”, chất lượng của DVCTT được đánh giá dựa trên sáu tiêu chí chính bao gồm: (1) Dễ dùng; (2) Độ đảm bảo chắc chắn (Tính bảo mật, an toàn); (3) Tin cậy; (4) Sự hỗ trợ người dân; (5) Nội dung và sự xuất hiện thông tin; (6) Chức năng môi trường tương tác. 1.2 . Các thành phần của dịch vụ công trực tuyến 1.2.1 Mục tiêu cung cấp dịch vụ công trực tuyến Thứ nhất, Giảm thời gian gửi/nhận hồ sơ, giảm thời gian đi lại cho người sử dụng. Thứ hai, Tăng tính minh bạch của các cơ quan cung cấp dịch vụ. Thứ ba, Tăng khả năng giám sát của công dân và các cơ quan cấp trên. Thứ tư, Tạo cơ hội cho việc cải cách hành chính. Thứ năm, Hiệu quả kinh tế cho cả người sủ dụng dịch vụ và cơ quan cung cấp dịch vụ. 1.2.2 Mô hình tổng thể Khung kiến trúc Chính phủ điện tử cấp Bộ Căn cứ văn bản số 1178/BTTTT-THH ngày 21/4/2015 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc Ban hành khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 1.0 Xét trên quy mô cấp Bộ. Mô hình Khung Kiến trúc CPĐT cấp Bộ bao gồm 9 chức năng , chức năng cung cấp DVCTT là một nội dung chính và là một thành phần quan trọng của triển khai “Chính phủ điện tử”. Vì vậy, vai trò của CPĐT đối với sự phát triển trong hoạt động cung cấp DVCTT của CQNN là mối liên hệ tương hỗ qua lại. Định hướng phát triển CPĐT cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động cung cấp DVCTT. 1.2.3 Quy trình của hệ thống dịch vụ công trực tuyến - Người dân, doanh nghiệp tương tác với hệ thống DVCTT thể tìm kiếm lựa chọn loại DVCTT đang cần. - Sau đó người dân, doanh nghiệp nhập vào các thông tin liên hệ của người cần liên hệ. Các thông tin này được dùng để liên hệ với người dân, doanh nghiệp và cũng như tiêu chí được xác định để tra cứu tình trạng hồ sơ mà người dân đã nộp. - Sau đó người dân tiến hành soạn hồ sơ, bao gồm các công việc như: soạn hồ sơ, đính kèm các giấy tờ liên quan đi cùng (dưới dạng file word, pdf,..). Việc soạn hồ sơ theo mẫu x-Form đã được định nghĩa sẵn. - Khi hồ sơ soạn xong, hệ thống DVCTT sẽ hiển thị thông tin cho doanh nghiệp xem được thông tin hồ sơ đã đăng ký và cho phép in hồ sơ đăng ký. - Sau khi hồ sơ đăng ký đã được đẩy về phần mềm một cửa điện tử của các đơn vị, hệ thống DVC sẽ ra thông báo thanh toán đến doanh nghiệp và doanh nghiệp khi nhận được thông báo đó sẽ tiến hành thanh toán trực tuyến. 8
  11. - Vì đây là qui trình khi người dân chọn theo hình thức dịch vụ là DVC mức độ 3 và 4. Nên những hồ sơ mà doanh nghiệp đã nộp trên hệ thống DVC sẽ được chuyển đến đơn vị liên quan. - Người dân, doanh nghiệp sau đó sẽ ký đơn và chuẩn bị các loại giấy tờ yêu cầu cần thiết mà trong lúc đăng ký hồ sơ trên hệ thống DVC theo thông tin hướng dẫn. - Hồ sơ đã nộp, nếu có thiếu sót giấy tờ gì trong quá trình xử lý tại phần mềm một cửa điện tử các đơn vị thì bộ phận một cửa tại các đơn vị thụ lý hồ sơ sẽ liên hệ với người dân, doanh nghiệp để yêu cầu nộp bổ sung. - Người dân, doanh nghiệp cung cấp những giấy tờ bổ sung có thể qua 2 hình thức là đường điện tử (thông qua hệ thống DVCTT) và đường công văn. - Sau khi đã có những giấy tờ cần bổ sung, bộ phận một cửa sẽ chuyển tới các đơn vị tiếp tục xử lý hồ sơ. - Khi có kết quả hồ sơ, bộ phận một cửa của các đơn vị giao trả kết quả về cho người dân, doanh nghiệp. - Trong quá trình thụ lý hồ sơ, các phần mềm xử lý nghiệp vụ của các đơn vị sẽ cập nhật các trạng thái hồ sơ về cho hệ thống DVCTT. Thông tin được biết bao gồm: hồ sơ đang nằm ở đâu, ai đang tham gia xử lý và ngày hẹn trả,… - Người dân, doanh nghiệp cũng có thể truy cập vào hệ thống DVCTT để xem thông tin và trạng thái hồ sơ đăng ký (dựa vào các thông tin đã đăng ký liên hệ trước đó, cũng như mã số hồ sơ). 1.2.4 Đối tượng sử dụng dịch vụ công trực tuyến a) Công dân, doanh nghiệp b) Bộ phận một cửa c) Bộ phận chuyên môn d) Lãnh đạo 1.3 Kinh nghiệm cung cấp dịch vụ công trực tuyến 1.3.1 Kinh nghiệm ở một số nước tiên tiến trên thế giới Thứ nhất, Mô hình của Hồng Kông Thứ hai, mô hình của Úc1 Thứ ba, Mô hình của Hoa Kỳ2 1.3.2 Kinh nghiệm ở một số Bộ, Ngành tại Việt Nam Mô hình cung cấp DVCTT ở các Bộ, Ngành ở nước ta hiện nay về mặt kiến trúc tuân thủ Khung kiến trúc Chính phủ điển tử cấp Bộ, một trong những thành phần quan trọng là Hệ thống cung cấp DVCTT, hạt nhân của hệ thống DVCTT là một hệ thống phần mềm lõi. Phần mềm này đóng vai trò là trung tâm kết nối với các hệ thống bên ngoài gồm Cổng DVCTT quốc gia, Cổng Hải quan một cửa quốc gia (NSW), với Cổng DVCTT của Bộ, Ngành và phần mềm một cửa điện tử, các DVCTT của các đơn vị trực thuộc. Hệ thống thành phần tại các đơn vị trực thuộc được phân tách thành các mô đun một cửa điện tử và xử lý nghiệp vụ thủ tục hành chính. 1 http://aita.gov.vn/tin-tuc/1416/kinh-nghiem-trien-khai-dich-vu-cong-truc-tuyen-cua-chinh-phu-uc 2 http://aita.gov.vn/tin-tuc/1418/kinh-nghiem-trien-khai-dich-vu-cong-truc-tuyen-cua-hoa-ky 9
  12. Mô hình kiến trúc này đảm bảo tính linh hoạt dễ dàng mở rộng hệ thống với nhiều cơ quan kết nối vào Hệ thống DVCTT và có thể mở rộng thêm số lượng DVCTT bằng cách thêm các mô đun xử lý nghiệp vụ. Toàn bộ hệ thống thành phần lõi, Cổng DVCTT của Bộ, Ngành, một cửa điện tử trong hệ thống DVCTT sẽ không phải đầu tư lại khi thực hiện mở rộng số lượng DVCTT cũng như số lượng cơ quan thực hiện thủ tục. Triển khai thực hiện Nghi quyết 36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử bên cạnh Cổng thông tin hải quan một cửa quốc gia hiện nay đã có 6 Bộ, Ngành triển khai xây dựng Cổng dịch vụ công trực tuyến tập trung gồm: Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài nguyên và Môi trương, Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch (Bộ Nông nghiệp và PTNT đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Cổng dịch vụ công trực tuyến và dự kiến sẽ khai trương trong quý I/2017). Tình hình triển khai tại một số Bộ, cơ quan ngang Bộ tiêu biểu như: Thứ nhất, Bộ Tài Chính Thứ hai, Bộ Công thương 1.3.3 Bài học kinh nghiệm Một là, Các cấp lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, cùng toàn thể đội ngũ CBCCVC phải có quyết tâm chính trị và tạo được sự đồng thuận cao. Việc chuyển đổi mô hình xử lý, giải quyết công việc từ lề lối làm việc cũ sang quy chuẩn làm việc mới như cấp dịch vụ DVCTT vẫn là điều khá mới mẻ, do đó đòi hỏi quyết tâm cao của lãnh đạo, sự ủng hộ của các Bộ, Ngành liên quan và của Chính phủ. Hai là, Phải tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức đến toàn thể cán bộ, công chức, người dân, tổ chức và doanh nghiệp về những lợi ích mang lại. Sự vào cuộc, tham gia của các cấp, ngành, đơn vị liên quan phải thực sự chủ động, tích cực và đồng thuận. Ba là, Đào tạo và phát triển nhân lực CNTT cả về quản lý, triển khai, ứng dụng là khâu quan trọng đảm bảo sự thành công của việc cung cấp DVCTT tới người dân, tổ chức và doanh nghiệp. Đội ngũ làm việc phải chuyên nghiệp, khoa học, năng lực quản lý tốt, chuyên môn nghiệp vụ phải vững vàng, có kinh nghiệm trong quản lý nhà nước để đảm bảo nguyên tắc “Tiếp nhận, thẩm định và phê duyệt” tại các đơn vị quản lý nhà nước thuộc Bộ tạo sự chính xác, công khai, minh bạch và niềm tin cho người dân và doanh nghiệp. Bốn là, Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng CNTT đồng bộ bao gồm việc đầu tư phần cứng (Trung tâm tích hợp dữ liệu, trụ sở, thiết bị, đường truyền,…) và phần mềm (Các phần mềm dịch vụ công, hệ thống cơ sở dữ liệu,…). Năm là, Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc trong công tác chuẩn bị, công tác tổ chức phối hợp, kịp thời uốn nắn, điều chỉnh những nội dung chưa phù hợp trong công tác đầu tư, trong việc thiết lập hệ thống, quy trình trao đổi, xử lý công việc và cả trong ý thức, thái độ của CBCC. 10
  13. CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN Ở BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 2.1. Hoạt động quản lý nhà nƣớc của Bộ Nông nghiệp và PTNT 2.1.1. Tổng quan về ngành Nông nghiệp và PTNT Từ ngày 03/10 - 28/10/1995, tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá IX thông qua Nghị quyết về việc thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên cơ sở hợp nhất 3 Bộ: Bộ Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm và Bộ Thuỷ lợi; Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá XII (tháng 8/2007) đã quyết định hợp nhất Bộ Thuỷ sản vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ngày 26/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 199/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nghị định quy định “Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, thủy lợi và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý Nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Nhiệm vụ chính trị của Bộ Nông nghiệp và PTNT được đặt ra không chỉ là nhiệm vụ của các ngành trước đây về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản một cách riêng rẽ mà còn là sự đòi hỏi cao hơn về việc phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn một cách bền vững, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên đất - nước - rừng - thuỷ sản, gắn chặt hơn nữa sự phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và thuỷ lợi với việc phát triển nông thôn với đối tượng phục vụ chủ yếu hơn 60 triệu dân sống ở nông thôn, chiếm gần 78% dân số cả nước và đảm bảo an ninh lương thực cho hơn 90 triệu dân. Trong 5 năm trở lại đây (từ 2010-2015) giá trị xuất khẩu các loại nông lâm, thuỷ sản tăng bình quân 10,8%/năm, riêng năm 2015 đạt 30.42 tỷ USD, chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Một số sản phẩm có thị phần lớn và vị thế cao trên thị trường thế giới, gồm: gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, sản phầm đồ gỗ, thuỷ sản. 2.1.2. Bộ máy và cơ cấu tổ chức của của Bộ Nông nghiệp và PTNT Căn cứ Nghị định số 199/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Điều 3 của Nghị định quy định về cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và PTNT. 2.2.Thực trạng cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và PTNT 2.2.1. Tình hình ứng dụng CNTT 2.2.1.1 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT 100% các đơn vị thuộc Bộ đã có mạng LAN, đường truyền internet riêng. Về kết nối mạng diện rộng (WAN), Bộ Nông nghiệp và PTNT đã thực hiện kết nối các mạng LAN tại trụ sở chính với các mạng LAN tại trụ sở số 10 Nguyễn Công Hoan qua đường truyền kết CPNET 10 Mbps. Hệ thống máy chủ tại Bộ có 30 máy, trong đó 50% đã triển khai giải pháp máy chủ ảo hóa trên nền tảng Vmware. 11
  14. 2.2.1.2 Bảo đảm an toàn thông tin Cấu trúc logic hệ thống mạng LAN của Bộ tại trụ sở chính được thiết kế gồm có 3 lớp: Core, Distribution và Access. Việc kiểm soát kết nối từ trong ra ngoài internet và từ ngoài internet vào mạng LAN của Bộ được thực hiện bởi thiết bị Firewall cứng, với thiết kế như trên mới chỉ cơ bản đảm bảo đối với những đơn vị sử dụng hạ tầng mạng LAN chung của Bộ. Việc đảm bảo an toàn thông tin mạng cũng được đơn vị chuyên trách của Bộ thường xuyên cập nhật, thông tin, hướng dẫn người dùng cách thức giao dịch, trao đổi, làm việc trong môi trường điện tử. Hàng năm, Bộ phối hợp với Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam - Bộ Thông tin và Truyền thông (Vncert) và Cục bảo vệ An ninh chính trị nội bộ (A68- Bộ Công an) trong công tác điều tra, khắc phục lỗ hổng của hệ thống mạng và các Trang/Cổng TTĐT và các hoạt động phối hợp ứng cứu khẩn cấp, chống tấn công và chống khủng bố trên mạng khi xảy ra. Triển khai ứng dụng chữ ký số: Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng đã chú trọng xây dựng, triển khai hệ thống chứng thực điện tử và chữ ký số trong các giao dịch điện tử. Các đơn vị chuyên trách đã phối hợp với Ban Cơ yếu chính phủ tổ chức cấp tổng cộng 138 thiết bị chứng thư số cá nhân; 23 chứng thư số dành cho các tổ chức và 1 chứng thư số dành cho máy chủ hosting phần mềm văn phòng điện tử của Bộ. 2.2.1.3 Ứng dụng CNTT a) Ứng dụng CNTT trong hoạt động nội bộ các đơn vị Hệ thống quản lý văn bản điều hành Hệ thống thư điện tử Xây dựng cơ sở dữ liệu và phần mềm chuyên ngành b) Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp Đến nay, 80% các đơn vị thuộc Bộ đã có Cổng/Trang TTĐT đáp ứng theo yêu cầu khoản 2, Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin. Trung bình hàng năm đã cung cấp hàng nghìn tin bài lên Trang/Cổng thông tin điện tử. Các mục tin theo quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ cũng đã được các cơ quan đơn vị thuộc Bộ bổ sung hoàn thiện đáp ứng nhu cầu quản lý điều hành, nhu cầu tìm hiểu, tra cứu, khai thác thông tin của người dân và doanh nghiệp. Cổng TTĐT của Bộ tại địa chỉ www.mard.gov.vn có tần xuất khoảng 3.500-4.000 lượt người truy cập mỗi ngày. Cổng TTĐT cung cấp các thông tin chỉ đạo điều hành, văn bản chính sách pháp luật và các thông tin khoa học công nghệ thuộc các lĩnh vực hoạt động của Bộ. Các thông tin chuyên ngành và thông tin chỉ đạo điều hành từ các trang tin của các đơn vị trực thuộc Bộ được tích hợp lên Cổng TTĐT. Bên cạnh đó, cung cấp thông tin về giá cả thị trường của 14 mặt hàng chủ lực và các thông tin về dự báo, tình hình sản xuất, thị trường nông lâm thủy sản. 12
  15. DVC được đưa lên các trang tin điện tử của các đơn vị và đồng thời lên Cổng TTĐT của Bộ thuộc các lĩnh vực chuyên ngành như: Trồng trọt, Bảo vệ thực vật, Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản,… tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tra cứu thông tin. Tính đến hết tháng 12 năm 2016, tổng số DVC của ngành Nông nghiệp và PTNT là: 452 TTHC, chia theo lĩnh vực QLNN của Bộ. Hầu hết DVC của Bộ đã được công khai trên Cổng TTĐT của Bộ đạt mức độ 2. Đặc biệt, đã có 15 DVCTT đạt mức độ 3 và 08 DVCTT mức độ 4 được cung cấp phục vụ người dân và doanh nghiệp. Nhìn chung, công tác ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp thời gian quan của Bộ đã có sự cải thiện đáng kể. Đặc biệt Bộ đã thành lập Văn phòng CCHC, tổ công tác xây dựng DVCTT phối hợp với Tập đoàn viễn thông Viettel nhằm đẩy mạnh công tác CCHC của Bộ, cung cấp DVCTT mức độ 3 và 4 phục vụ người sử dụng. Trong thời gian tới việc cung cấp các DVCTT mức độ cao cần được tập trung thực hiện, thống nhất tại một địa chỉ, bên cạnh đó tăng cường hướng dẫn sử dụng dịch vụ cho người sử dụng. 2.2.1.4 Nguồn lực CNTT 2.2.1.5 Tổ chức, chính sách CNTT 2.2.2. Thực trạng triển khai giải quyết thủ tục hành chính công ở Bộ Nông nghiệp và PTNT 2.2.2.1 Tiếp nhận, xử lý và giải quyết thủ tục hành chính theo cách thức truyền thống ở Bộ Nông nghiệp và PTNT Cách thức chung cung cấp TTHC của các đơn vị QLNN của Bộ Nông nghiệp và PTNT tới người dân, tổ chức và doanh nghiệp có nhu cầu tuân thủ theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 theo mô hình tiếp nhận - xử lý - giải quyết TTHC theo quy trình “một cửa” liên thông. Mô tả các bước thực hiện: Bước 1. Chuẩn bị hồ sơ. Bước 2. Tiếp nhận hồ sơ. Bước 3. Thẩm định hồ sơ. Bước 4. Trình lãnh đạo ký giấy phép. Bước 5. Ký giấy phép. Bước 6. Phát hành giấy phép. Bước 7. Trả kết quả. Bước 8. Lưu trữ. Theo kết quả khảo sát thực tế tổng số hồ sơ tiếp nhận qua bộ phận một cửa tại các đơn vị QLNN của Bộ trung bình hàng năm từ 700.000 – 760.000 bộ, số lượng hồ sơ được giản quyết đúng hạn đạt mức 80%. Với số lượng hồ sơ tiếp nhận lớn nêu trên, có thể thấy với cách thức tiếp nhận, xử lý và giải quyết các thủ tục theo cách thức truyền thống sẽ rất mất thời gian, chi phí đi lại, nguồn lực,… trung bình để xử lý xong một bộ hồ sơ giữa đơn vị quản lý nhà nước với người dân và doanh nghiệp (với đầy đủ giấy tờ) thường mất 7-10 ngày, thậm chí nửa tháng (tùy thuộc từng TTHC). 13
  16. 2.2.2.2 Thực hiện dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và PTNT a) Quá trình triển khai xây dựng, cung cấp DVCTT - Ưu tiên triển khai xây dựng, cung cấp DVCTT mức độ 3 và 4 trước đối với các TTHC có tần xuất giao dịch cao trong năm, còn lại các TTHC thực hiện DVCTT đối với các TTHC đề nghị xử lý giải quyết có tần suất thấp, nhiều DVC không có hồ sơ giải quyết trong năm, nên đề nghị thực hiện trực tuyến ở mức độ 2 để đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi trong lộ trình thực hiện triển khai; - Giai đoạn 2011-2014, triển khai xây dựng, cung cấp DVCTT mức độ 3 trở lên cho ít nhất 15 TTHC (trong đó có 9 TTHC cung cấp DVCTT thực hiện theo cơ chế Hải quan một cửa quốc gia của Bộ); - Giai đoạn 2015-2016 triển khai cung cấp DVCTT mức độ 3 trở lên cho 65 TTHC, trong đó 18 TTHC cung cấp DVCTT thực hiện theo cơ chế Hải quan một cửa quốc gia của Bộ. Phấn đấu đến hết năm 2016, Bộ sẽ có 80 DVCTT mức độ 3 và 4 được xây dựng, trong đó 27 TTHC cung cấp DVCTT thực hiện theo cơ chế Hải quan một cửa quốc gia của Bộ và 53 TTHC trong hệ thống DVCTT mức độ 3 và 4 của Bộ; - Đến hết quý I/2017 hoàn tất việc xây dựng Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ theo tinh thần của Nghị quyết 36a của Chính phủ. b) Kết quả triển khai, xây dựng và cung cấp DVCTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT đến nay - Triển khai cung cấp DVCTT mức độ 3 và 4 thuộc hệ thống DVCTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT: Trong tổng số 452 TTHC của Bộ đã được chuẩn hóa thì 429 TTHC đã được tin học hóa, thực hiện cung cấp trực tuyến mức mức độ 1 và 2; 15 TTHC thực hiện DVCTT mức độ 3 và 08 TTHC thực hiện DVCTT mức độ 4. Trong số các DVCTT nói trên, theo đánh giá từ phía đơn vị cung cấp chỉ có các thủ tục DVCTT mức độ 3 và 4 của Cục Bảo vệ thực vật, Cục Chăn nuôi, Tổng cục Lâm nghiệp, Cục Thú ý được đầu tư xây dựng mới nêu hiệu quả hoạt động tương tốt, đáp ứng được nhu cầu của người dân và doanh nghiệp khi sử dụng, còn các DVCTT mức độ 3 của Tổng cục Thủy sản, Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản do công nghệ xây dựng và phát triển đã cũ dẫn tới việc giải quyết các TTHC chưa đáp ứng được yêu cầu và chưa hiệu quả. - Triển khai cung cấp DVCTT mức độ 3 và 4 thuộc cơ chế Hải quan một cửa quốc gia tại Bộ Nông nghiệp và PTNT: Thực hiện Quyết định số 48/2011/QĐ-TTg ngày 31/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thí điểm cơ chế Hải quan một cửa quốc gia, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiến hành triển khai thí điểm cơ chế Hải quan một cửa Quốc gia của Bộ áp dụng thực hiện DVCTT cho 9 TTHC tại 7 đơn vị của Bộ. Phần mềm hệ thống cung cấp DVCTT đã được hoàn thiện và đưa vào vận hành chính thức với tất cả 9 TTHC, đáp ứng yêu cầu xử lý hồ sơ của các đơn vị. Phần mềm xử lý các qui trình nghiệp vụ chạy ổn định. Tính đến ngày 30/11/2016, đã tiếp 14
  17. nhận qua Cổng thông tin một cửa quốc gia tổng số 36.343 hồ sơ, xử lý, giải quyết và cấp phép/Giấy chứng nhận điện tử 32.331 hồ sơ. Đến nay, cả 9 quy trình hoạt động thông suốt với lượng hồ sơ xử lý lớn. Hồ sơ xử lý trên môi trường điện tử đã tiết kiệm cho người dân và doanh nghiệp về thời gian: 03 ngày/ hồ sơ (01 ngày nộp hồ sơ, 01 ngày trả kết quả, 01 ngày do xử lý trên môi trường điện tử); về kinh phí, tiết kiệm 20.000đ/ hồ sơ phí cước chuyển hồ sơ qua bưu điện. Danh sách các DVCTT mức độ 3 và 4 của Bộ Nông nghiệp và PTNT được cung cấp tại Cổng TTĐT của Bộ tại địa chỉ www.mard.gov.vn; Cổng thông tin Hải quan một cửa quốc gia https://vnsw.gov.vn hoặc trên các Trang TTĐT của các đơn vị cung cấp DVCTT. c) Số lượng TTHC công trực tuyến mức độ 3 và 4 được giải quyết hàng năm tại đơn vị quản lý nhà nước của Bộ. d) Đội ngũ CBCC tham gia phục vụ, vận hành DVCTT Mặc dù sự tham gia của đội ngũ CBCC vào xử lý, giải quyết DVCTT tại các đơn vị QLNN của Bộ đã giảm so với xử lý, giải quyết các TTHC truyền thống, nhưng qua số liệu nêu trên có thể thấy nhân sự tham gia phục vụ hệ thống DVCTT vẫn còn đông trong khi đã ứng dụng, thực hiện các TTHC trực tuyến. đ) Mức độ quan tâm của cá nhân, doanh nghiệp đối với DVCTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT - Về hình thức giao dịch của cá nhân và doanh nghiệp đối với các đơn vị QLNN của Bộ hiện nay. Đối với người dân thì kênh giao tiếp chủ yếu là trực tiếp đến các đơn vị QLNN của Bộ chiếm tỷ lệ cao nhất với 53%; giao tiếp thông qua môi trường mạng chiếm tỷ lệ 29%; gửi thư qua đường bưu điện chiếm tỷ lệ 12% và các kênh giao tiếp khác là: 6%. Đối với doanh nghiệp, kênh giao tiếp chủ yếu là qua môi trường mạng chiếm tỷ lệ cao nhất 47%, trực tiếp đến các đơn vị QLNN của Bộ chiếm tỷ lệ 29%; gửi thư qua đường bưu điện chiếm tỷ lệ 14%; kênh giao tiếp khác chiếm tỷ lệ 10%. Qua các con số thống kê, khảo sát thực địa trên, có thể thấy mặc dù đã có sự cải thiện nhưng đa số người dân hay doanh nghiệp vẫn sự dụng kênh giao tiếp truyền thống với Bộ là trực tiếp đến gặp CBCC, thay vì sử dụng qua môi trường mạng. Do vậy, tỷ lệ cá nhân, doanh nghiệp quan tâm đến DVCTT vẫn còn khiêm tốn, mà chỉ quan tâm theo nhu cầu. (các số liệu chi tiết liên quan về hiện trạng có ở bản đầy đủ) 2.3 Đánh giá hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và PTNT Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rà soát và chuẩn hóa các TTHC của Bộ tương đối tốt và sát với thực tế với tổng số TTHC tính đến thời điểm này là 452 thủ tục, việc triển khai thực hiện tin học hóa đưa các TTHC đã chuẩn hóa chuyển sang DVCTT mức 1 và mức 2 đáp ứng đúng theo lộ trình đề ra (đạt 100%). Việc triển khai thực hiện DVCTT mức độ cao (mức độ 3 và 4) trong thời gian đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn gặp một số khó khăn nhất định. 15
  18. Căn cứ kết quả khảo sát và phân tích hiện trạng, có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá như sau về hiện trạng cung cấp DVCTT của Bộ nhất là việc triển khai DVCTT cấp độ 3, 4 cụ thể như sau: 2.3.1. Những mặt đạt được và lợi thế - Hầu hết các TTHC của các đơn vị QLNN của Bộ đã được xây dựng, áp dụng theo quy trình chuẩn hóa ISO, là điều kiện thuận lợi cho việc tin học hóa các quy trình. - Bộ đã thành lập tổ công tác xây dựng DVCTT mức độ 3 và 4 của Bộ, Cơ quan thường trực đặt tại Vụ Tổ chức cán bộ để định hướng, chỉ đạo thực hiện cho mọi hoạt động liên quan đến triển khai, xây dựng và cung cấp DVCTT của Bộ. - Ban chỉ đạo ứng dụng CNTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT được thành lập theo Quyết định số 4815/QĐ-BNN-TCCB ngày 05/11/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, để chỉ đạo, điều phối, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án về phát triển và ứng dụng CNTT, cung cấp DVCTT của Bộ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Bộ đã ban hành nhiều văn bản pháp lý về CNTT, trong đó lĩnh vực DVCTT của Bộ được quan tâm đặc biệt nhằm tạo điều kiện hành trang pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho các đơn vị trong Bộ phát triển và đẩy nhanh ứng dụng cung cấp DVCTT phục vụ người dân và doanh nghiệp theo đúng lộ trình. - Bộ đã và đang thường xuyên chỉ đạo trực tiếp các cơ quan, đơn vị thực hiện cung ứng DVC theo phương thức nền hành chính phục vụ, nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp tiếp cận, giải quyết TTHC và những công việc liên quan thuận lợi hơn. - Hạ tầng kỹ thuật phục vụ ứng dụng CNTT cơ bản hoàn chỉnh từ hệ thống kết nối mạng diện rộng (WAN) đã kết nối các mạng LAN tại các đơn vị của Bộ đảm bảo sẵn sàng cho việc truyền dẫn thông tin. 2.3.2. Những mặt khó khăn, tồn tại Thứ nhất, Về hạ tầng kỹ thuật CNTT: mặc dù đã có thể kết nối phục vụ các ứng dụng hoạt động, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn, chưa đồng bộ, thống nhất; tổng thể còn phân tán, chưa tập trung thành một hệ thống. Thứ hai, Về ứng dụng CNTT: chưa đồng nhất về công nghệ do sử dụng công nghệ và nền tảng khác nhau tại các thời điểm khác nhau; Sự lạc hậu về công nghệ xây dựng các Cổng/Trang TTĐT, phần mềm ứng dụng, DVCTT,.. điều này đã tạo ra những lỗ hổng về bảo mật, không được các nhà cung cấp hỗ trợ kỹ thuật dẫn đến mất quyền truy cập hoặc tạo diều kiện cho các tấn công, xâm nhập trái phép. Thứ ba, Về an toàn, an ninh thông tin: nhận thức của phần lớn cán bộ công chức, viên chức của Bộ còn chưa thực sự đầy đủ, thiếu các kỹ năng xử lý về an toàn thông tin. Thứ tư, Về phát triển nguồn nhân lực CNTT: Nhân sự phụ trách CNTT tại các đơn vị chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm nên thời gian và trình độ để đầu tư vào ứng dụng CNTT còn hạn chế. 16
  19. Thứ năm, Về tổ chức bộ máy: đơn vị đầu mối thực hiện quản lý nhà nước về CNTT của Bộ chưa phải là đơn vị chuyên trách về CNTT. Thứ sáu, Về cơ chế, chính sách CNTT: hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành chưa chủ động; văn bản mang tính thiết chế còn chậm ban hành; vẫn còn khoảng cách giữa quá trình CCHC và ứng dụng CNTT tại Bộ Nông nghiệp và PTNT. Thứ bảy, Về đầu tư cho CNTT: đầu tư chưa đủ để đưa CNTT thành động lực góp phần CCHC, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; đa số nguồn kinh phí cho ứng dụng CNTT còn hạn chế, chưa có mục chi riêng cho các hoạt động thường xuyên về CNTT. Có thể nói những khó khăn và tồn tại nêu trên phần nào đã ảnh hướng trực tiếp đến kế hoạch, lộ trình phát triển và ứng dụng CNTT nói chung và lộ trình cung cấp DVCTT nói riêng của Bộ. 2.3.3. Nguyên nhân của khó khăn, hạn chế 2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan - Cung cấp DVCTT là công việc khó khăn, phức tạp, đụng chạm đến những tư tưởng, thói quen, thậm chí đến cả lợi ích của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Tồn tại và hậu quả của cơ chế quan liêu, bao cấp trong tư duy và hành động chậm được khắc phục. Thách thức lớn nhất khi chuyển sang tự động hóa là đội ngũ cán bộ, công chức phải thay đổi mối quan hệ với người dân, doanh nghiệp, phải coi họ là khách hàng, phải thay đổi thói quen, văn hóa, hành vi để tiếp nhận công nghệ, cách thức, quy trình ứng dụng CNTT trong CCHC. - Nguyên tắc tập trung dân chủ đã được quy định thực hiện trong hoạt động công vụ, tuy nhiên việc thực hiện vẫn chưa nghiêm túc đã ảnh hưởng đến công việc xây dựng CPĐT của Bộ nói chung và cung cấp DVCTT nói riêng. - Mặc khác, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động đến hầu hết các nước trên thế giới, Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó do vậy Chính phủ đã ban hành chính sách thắt chặt đầu tư công giai đoạn 2011-2015, vì vậy tác động đến nguồn ngân sách của Bộ, nên việc cắt giảm hoặc dừng đầu tư các dự án CNTT (trong đó có các dự án xây dựng DVCTT độ cao) chưa thật cấp bách để ưu tiên vốn cho các dự án khác. 2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan - Nhân sự của Ban chỉ đạo ứng dụng CNTT của Bộ luôn thay đổi, các cuộc họp của Ban chỉ đạo còn ít, dẫn tới công tác chỉ đạo, điều hành trong phát triển và ứng dụng CNTT nói chung và cung cấp DVCTT nói riêng . - Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của CNTT ở nhiều cấp, nhất là người đứng đầu chưa thực sự đầy đủ. - Bên cạnh những CBCC rất tích cực trong việc ứng dụng CNTT trong giải quyết TTHC thì vẫn còn nhiều người chưa quyết liệt trong việc ứng dụng công nghệ mới dẫn đến không đồng bộ trong giải quyết các thủ tục đã ứng dụng CNTT. 17
  20. - Cung cấp DVCTT mức độ cao còn chậm, việc triển khai thực tế đôi khi dừng ở mức thí điểm trên những TTHC đơn giản, số lượng giao dịch ít gây ra sự lãng phí, mức độ tin học hóa tại các bộ phận một cửa chưa cao, chủ yếu hỗ trợ quá trình theo dõi, quản lý thông tin trong quá trình xử lý TTHC. - Thiếu sự kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và cung cấp DVCTT hàng năm của các đơn vị, chưa phân công rõ ràng chức năng nhiệm vụ của các đơn vị quản lý và thực hiện các dự án CNTT. - Công tác tuyên truyền về DVCTT tới người dân, tổ chức và doanh nghiệp còn hạn chế cả về số lượng, nội dung và cách thức triển khai, tiếp cận. Mặc dù trên cổng TTĐT của Bộ và trên các trang TTĐT của các đơn vị đã cung cấp 100% DVCTT mức độ 2 và các DVCTT mức độ 3 thuộc các lĩnh vực: Trồng trọt, Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản, Thủ sản, Bảo vệ thực vật tuy nhiên người dân, tổ chức và doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc sử dụng các DVCTT này do thiếu sự hướng dẫn, giải thích tỉ mỉ, cặn kẽ. Tóm lại, những hạn chế, tồn tại trong đổi mới thực hiện DVCTT phần nào đã ảnh hưởng đến việc phát huy các nguồn lực của Bộ để phát triển kinh tế xã hội, tạo ra những khó khăn, bức xúc đối với công dân, tổ chức và doanh nghiệp khi giao dịch với Bộ. CHƢƠNG 3 GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN TẠI BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT 3.1. Căn cứ xây dựng các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lƣợng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và PTNT 3.1.1. Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc Nhận thức sâu sắc về vai trò của CNTT trong giai đoạn phát triển mới, ngày 01 tháng 7 năm 2014, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 36- NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Quan điểm, chủ chương của Nghị quyết nhận định: (1) Công nghệ thông tin là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; là một trong những động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững đất nước; (2) Ứng dụng, phát triển CNTT là một yếu tố quan trọng bảo đảm thực hiện thành công ba đột phá chiến lược, cần được chú trọng, ưu tiên trong các chiến lược, quy hoạch, kết hoạch phát triển kinh tế xã hội; (3) Ứng dụng, phát triển CNTT trong tất cả các lĩnh vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là các lĩnh vực liên quan tới doanh nghiệp, người dân như giáo dục, ý tế, giao thông, nông nghiệp. Ưu tiên phát triển công nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với thu hút các tập đoàn công nghiệp công nghệ thông tin đa quốc gia, hình thành các trung tâm nghiên cứu-phát triển. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2