BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN THỊ NGỌC
TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA CƢ DÂN ĐỒNG BẰNG
BẮC BỘ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 9229001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Bùi Thị Thanh Hƣơng 2. PGS.TS Trần Đăng Sinh
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban Đào tạo, Khoa Triết học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Bùi Thị Thanh Hương và PGS.TS Trần Đăng Sinh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ................................................. 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ................................... 3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................................ 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ........................................................... 4
7. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 4
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ..................................................................................................... 5
1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý, triết lý nhân
sinh, truyện cổ tích Việt Nam .............................................................................. 5
1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý ........................... 5
1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh .......... 6
1.3. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến truyện cổ tích
Việt Nam ........................................................................................................... 8
2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh
của ngƣời Việt ................................................................................................ 14
3. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh
của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam .................. 18
3.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến cơ sở hình thành
triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ ......................................... 18
3.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam .............................. 23
4. Giá trị các công trình đã tổng quan, những vấn đề đặt ra và cần tiếp
tục nghiên cứu trong luận án ........................................................................... 26
4.1. Giá trị các công trình đã tổng quan .......................................................... 26
4.2. Những vấn đề đặt ra và cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ............ 27
Chƣơng 1: TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA CƯ DÂN ĐỒNG BẰNG
BẮC BỘ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN ..................................................................................................... 29
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 29
1.1.1. Triết lý ................................................................................................... 29
1.1.2. Triết lý nhân sinh .............................................................................. 34
1.1.3. Truyện cổ tích Việt Nam ................................................................... 38
1.1.4. Triết lý nhân sinh người Việt trong truyện cổ tích Việt Nam ........... 47
1.2. Cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam ..................................................................... 50
1.2.1 Điều kiện địa lý, tự nhiên và kinh tế-xã hội ảnh hưởng đến sự
hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ ....................... 51
1.2.2. Cơ sở văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến sự hình
thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ ............................... 55
1.2.3. Cơ sở nhận thức và tâm lý ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ ..................................................... 61
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 67
Chƣơng 2: NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA CƢ DÂN
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM ...... 68
2.1. Triết lý về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên .......................... 68
2.1.1. Triết lý sống hài hòa với tự nhiên ..................................................... 68
2.1.2. Triết lý cải tạo, chinh phục tự nhiên ..................................................... 70
2.2. Triết lý về mối quan hệ giữa con ngƣời với gia đình, xã hội .............. 73
2.2.1. Triết lý về mối quan hệ giữa con người với gia đình ....................... 73
2.2.2. Triết lý về mối quan hệ giữa con người với xã hội ............................... 81
2.3. Triết lý về mối quan hệ giữa con ngƣời với chính bản thân mình .... 88
2.3.1. Triết lý về cuộc đời của con người ....................................................... 88
2.3.2. Triết lý nhận thức của con người về chính mình .............................. 94
2.4. Một số đặc trƣng của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng
Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam ....................................................... 100
2.4.1. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam phản ánh tồn tại xã hội một cách phong phú và chân thật 100
2.4.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo ..... 102
2.4.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ là hình thức
phản kháng chống lại sự bất công trong xã hội ........................................ 111
2.4.4. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ là hình thức phản
ánh cái hài, cái bi, cái cao cả trong xã hội .................................................... 113
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................ 118
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA
CƢ DÂN ĐỒNG BẮC BỘ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY ................................................................................................... 119
3.1. Giá trị của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam .............................................................................. 119
3.1.1. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam thể hiện tinh thần nhân văn và nhân đạo sâu sắc .............. 119
3.1.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam có tính biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt ....................................... 122
3.1.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam đề cao vai trò của người phụ nữ ........................................ 129
3.2. Hạn chế của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam ................................................................... 130
3.2.1. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam còn chứa đựng yếu tố duy tâm .......................................... 130
3.2.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam thể hiện nhận thức kinh nghiệm của người nông dân Bắc bộ ...... 133
3.2.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam thể hiện tư duy tiểu nông ................................................... 134
3.3. Ý nghĩa của triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay ......... 137
3.3.1. Những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay ........... 137
3.3.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện
cổ tích Việt Nam góp phần giáo dục quan niệm sống tốt đẹp và lối
sống nhân văn........................................................................................... 140
3.3.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện
cổ tích Việt Nam góp phần giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ................................................................................................ 146
Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 152
KẾT LUẬN .................................................................................................. 153
DANH SÁCH TRUYỆN CỔ TÍCH SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN .... 155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC .............................................. 157
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 158
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nền văn học dân gian Việt Nam, truyện cổ tích là thể loại văn học
rất gần gũi và có vị trí quan trọng với đời sống tinh thần của nhân dân. Thông
qua truyện cổ tích, người đọc, người nghe không chỉ khám phá được cái hay, cái
đẹp của một loại hình văn học dân gian mà còn hiểu hơn về văn hóa truyền
thống, phong tục tập quán và đặc biệt là triết lý nhân sinh của người Việt chứa
đựng trong đó.
Đồng bằng Bắc bộ là vùng đất có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời của
người Việt. Đây là cái nôi hình thành văn hóa người Việt ngay từ buổi ban đầu và
hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống. Truyện cổ
tích là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn học dân gian, nó ra đời từ chính
cuộc sống của con người, đồng thời là tấm gương phản ánh cuộc sống của người
Việt nói chung và cư dân đồng bằng Bắc bộ nói riêng. Nghiên cứu kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam, chúng ta sẽ thấy được những nét đặc trưng trong triết lý nhân
sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam là tinh hoa trong triết lý sống của người Việt, được lưu truyền và bảo tồn
qua nhiều thế hệ. Đây chính là những kinh nghiệm sống mà cha ông đã truyền lại
cho con cháu được đúc kết từ hoạt động lao động sản xuất, đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc, từ cách ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Bằng ngôn từ mộc
mạc, dung dị, gần gũi, triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam đã trở
thành những chỉ dẫn quý giá, định hướng cho người Việt và cư dân đồng bằng
Bắc bộ trong sinh hoạt, lao động, học tập.
Mặc dù những tri thức chứa đựng trong truyện cổ tích Việt Nam là những
tri thức dân gian, là kết quả của sự phản ánh những cái cụ thể, kinh nghiệm, lẽ
phải thông thường, nhưng nó lại chứa đựng trong đó những giá trị tinh thần to
lớn. Mấy nghìn năm tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam là mấy nghìn
năm triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ được hình thành, bồi đắp
2
cũng như thực hiện chức năng định hướng của mình. Thông qua truyện cổ tích,
cư dân đồng bằng Bắc bộ đã gửi gắm những ước mơ, khát vọng, kinh nghiệm
sống quý báu cho các thế hệ sau. Vì vậy, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam cần phải được nghiên cứu, bảo tồn và tiếp
tục phát triển.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, giao lưu, hội nhập và
phát triển. Nhiều mặt của đời sống văn hóa, xã hội đã có những thay đổi tích
cực. Tuy nhiên bên cạnh đó, lối sống của con người trong xã hội lại đang có
những biểu hiện xuống cấp, nhiều giá trị đạo đức truyền thống dần mai một. Từ
thực trạng đạo đức và lối sống của xã hội Việt Nam đương thời, vấn đề bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, vấn đề giáo dục đạo đức truyền
thống cho người Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ đã trở nên vô cùng quan trọng và cấp
thiết. Việc nghiên cứu triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong việc khẳng định những giá trị
tinh thần quý báu của nền văn hóa dân tộc, đồng thời giúp giáo dục những giá trị
đạo đức truyền thống, từ đó củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho mỗi người Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Mặc dù chứa đựng nhiều giá trị to lớn nhưng hiện nay việc nghiên cứu,
tìm hiểu về triết lý nhân sinh của người Việt cũng như triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam vẫn còn hạn chế, chưa có
nhiều tài liệu chuyên sâu về vấn đề này. Do đó, nghiên cứu triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam là rất cần thiết. Xuất
phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam” cho luận án của mình, nhằm mục
đích tìm hiểu sâu hơn về triết lý nhân sinh của người Việt, đặc biệt là triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam, những
giá trị, hạn chế của triết lý nhân sinh và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở
nước ta hiện nay. Từ đó, góp phần bổ sung, hoàn thiện kho tàng tư tưởng triết
học Việt Nam ngày càng đa dạng, phong phú và có hệ thống hơn.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc
bộ trong truyện cổ tích Việt Nam, đánh giá các giá trị, hạn chế và rút ra ý nghĩa
của triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về triết lý, triết lý nhân sinh, triết lý
nhân sinh người Việt trong truyện cổ tích Việt Nam.
- Phân tích nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
- Chỉ ra những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam đối với đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Một số truyện cổ tích tiêu biểu (của người Kinh) trong cuốn Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam của tác giả Nguyễn Đổng Chi (có danh sách kèm theo).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
tộc, văn hóa; đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong tình hình mới.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và các phương
pháp cụ thể như phương pháp, quy nạp – diễn dịch, tổng hợp- phân tích, logic -
lịch sử, so sánh- đối chiếu…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã xác định được những nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh
của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam
- Luận án đã chỉ ra những nét đặc trưng cơ bản trong triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
- Luận án đã phân tích và đánh giá một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong
triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích, từ đó rút ra
ý nghĩa của triết lý đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung và nội dung cơ bản
về triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
- Luận án giúp chỉ ra ý nghĩa của triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam trong lĩnh vực
văn học dân gian.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu và
giảng dạy những môn học liên quan đến tư tưởng triết học Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tổng quan tình hình nghiên cứu và danh
mục tài liệu tham khảo, các công trình đã công bố, nội dung của luận án được
trình bày trong 3 chương, 9 tiết.
5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý, triết lý nhân
sinh, truyện cổ tích Việt Nam
Để có thể hiểu và phân tích được những tư tưởng triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam thì trước hết cần phải hiểu
được thế nào là triết lý, triết lý nhân sinh. Hiện nay đã có một số tài liệu, công
trình được công bố có giá trị liên quan đến vấn đề triết lý, triết lý nhân sinh,
truyện cổ tích Việt Nam.
1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý
Cuốn Từ điển và danh từ triết học (1966) của tác giả Trần Văn Hiến Minh
[73]. Đây là cuốn từ điển rất phong phú bao gồm cả thuật ngữ của triết học cổ,
triết học kinh viện, triết học cận đại, hiện đại và đặc biệt trong phần từ điển, tác
giả đã cắt nghĩa rất nhiều danh từ triết học phương Đông. Trong cuốn sách này,
có các khái niệm quan trọng đối với luận án như khái niệm triết lý, nhân sinh.
Triết lý là “Cái lý sâu xa, cái lẽ huyền diệu của một học thuyết hay của một sinh
hoạt, một hiện tượng, một cử chỉ” [73, tr.280], khái niệm nhân sinh là “đời
người” [73, tr.167]
Bài viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý của Hồ Sĩ Quý đăng trên tạp
chí Triết học số 3/1998 đã có sự so sánh giữa hai khái niệm triết học và triết lý
“Nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp hơn về
tính hệ thống độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết vấn đề về
mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy. Nói một cách khác, nếu không phải là tất cả
thì cũng là trong đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến
diện hơn và có nhiều khả năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học"[95]
Bài viết của Tô Duy Hợp, Giá trị bền vững của triết lý dân gian trong
toàn cầu hóa [53] trong hội thảo quốc tế tại Viện Triết học năm 2005: “sức
mạnh của triết lý được thể hiện không chỉ thông qua quá trình ứng dụng triết lý
đó vào đời sống … mà có ngay trong nội dung của nó. Có điều là phải nhờ công
6
cụ của triết học và khoa học hiện đại mới sáng tỏ được sức mạnh tiềm ẩn đó…
Chắc chắn là sẽ còn nhiều thách thức có thể còn to lớn hơn so với những thách
thức trong lịch sử. Nhưng sức sống và giá trị của triết lý dân gian sẽ bền vững
trong tiến trình đẩy mạnh quốc tế hoá và toàn cầu hoá”.
Trong bài viết Văn hóa, triết lý và triết học (2008) [33] của Lương Đình
Hải đã làm rõ được nội hàm khái niệm về triết lý. Tác giả cho rằng, trong các
triết lý đã thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các mặt
hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội, đời sống tinh
thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm ấy ẩn chứa bên
trong các nội dung, chương trình phương thức hoạt động chung của xã hội và
được cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định hướng cho hoạt động
của các cá nhân và cộng đồng.
Vũ Minh Tâm với bài viết Triết lý truyền thống ở Việt Nam về vũ trụ (2009)
[113] đã chỉ rõ vai trò của triết lý đối với đời sống của con người. Tác giả đã cho
rằng, đối với người xưa, triết lý là phương thức, công cụ hữu dụng, hiệu nghiệm để
nắm bắt thế giới hiện thực, đưa dẫn nhận thức có tính bách khoa, tổng hợp, khái
quát, trừu tượng và dự báo vào đời sống thực tiễn và giáo dục con người.
Các công trình nghiên cứu này đã đưa ra những quan điểm khác nhau của
các tác giả về khái niệm “triết lý”, là cơ sở lý luận cho nghiên cứu sinh tham
khảo trong luận án của mình.
1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh
Tìm hiểu về vấn đề triết lý nhân sinh đã có một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu có thể kể đến như:
Cuốn Những hiểu biết về cuộc đời [32] (2001) của Trịnh Hiếu Giang và
Nguyễn An đã cung cấp cho người đọc trí tuệ phong phú của các nhà hiền triết
trong lịch sử nhân loại về bản chất sinh mệnh, nội dung của đời người, trạng thái
sinh tồn, các kỹ xảo cần thiết để có cuộc sống hạnh phúc. Đặc biệt các tác giả đi
sâu phân tích cuộc đời của các nhà hiền triết Trung Quốc thời xưa, từ đó liên hệ
các trạng thái đời người hiện đại.
7
Trong cuốn Mạn đàm nhân sinh (2008) [127] của Nguyễn Thế Trắc,
những vấn đề nhân sinh quan như mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân với kiếp
người, quan niệm về họa, phúc với đời người; quan niệm tu thân, tích đức, hoàn
thiện nhân cách...đã được trình bày khá rõ nét. Tác giả đã phân tích một cách sâu
sắc những triết lý sống cần thiết cho con người hiện nay, cũng như hướng con
người tới những giá trị của cuộc đời.
Cuốn sách Triết lý nhân sinh cuộc đời (2009) [78] của Nguyễn Gia Linh,
Duyên Hải, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội có cách trình bày logic và
khoa học, các vấn đề nhân sinh, ý nghĩa nhân sinh trên các bình diện khác nhau,
qua đó người đọc có thể rút ra những suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề của bản
thân một cách hiệu quả. “Triết lý nhân sinh của cuộc đời chính là cây đèn soi
sáng để bạn đi đến lý tưởng, thành công”.
Cuốn Hành trình nhân sinh quan: Phản tính trên đường trải nghiệm
(2011) [122] của tác giả Nguyễn Tất Thịnh đã đề cập nhiều vấn đề của cuộc
sống. Nhằm chia sẻ những trải nghiệm sống, giúp người đọc tìm cho mình
những bài học quý giá của nhân sinh, những kỹ năng sống, cách ứng xử chân –
thiện – mỹ để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn và luôn có cái nhìn lạc quan
vào cuộc sống.
Trong cuốn Triết lý nhân sinh trong văn hóa Việt Nam (2016) [134] của tập
thể khoa Triết học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trần Đăng Sinh đã đưa ra
khái niệm về triết lý nhân sinh “Triết lý nhân sinh là quan điểm, quan niệm của
con người và cuộc sống của họ, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và
con người với con người, là sự định hướng, phương trâm hành xử của con người
trong cuộc sống” [134, tr.275]. Cũng trong cuốn sách này, Lê Văn Đoán cũng đưa
ra một quan niệm khác về triết lý nhân sinh “triết lý nhân sinh là quan niệm chung
sâu sắc của con người về cuộc sống, về mối quan hệ và cách ứng xử giữa người
với người trong đời sống từ gia đình cho đến ngoài xã hội. Về thực chất thì triết lý
nhân sinh là một bộ phận thuộc nhân sinh quan, trong đó bao gồm những quan
niệm về cuộc sống của con người, nó trả lời cho các câu hỏi: Lẽ sống của con
8
người là gì? Mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như
thế nào cho xứng đáng? [134, tr.285].
Luận án tiến sĩ của Ngô Gia Tuệ (2018) [117] về“Triết lý nhân sinh của Đạo
gia và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII”.
Trong quá trình nghiên cứu triết lý nhân sinh của Đạo gia, tác giả cũng đã đưa ra
những nhận định về khái niệm triết lý nhân sinh: “nhân sinh là đời người, mà đời
người là những vấn đề về con người, về đời sống con người, bao gồm đời sống vật
chất và tinh thần, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển con người và xã hội…Triết lý
nhân sinh là cái lý sâu xa, cái lẽ huyền diệu về đời người, được con người rút ra từ
hoạt động thực tiễn của mình và chỉ dẫn, định hướng cho cách ứng xử, hành động của
mỗi cá nhân hoặc cộng đồng”[117, tr.61].
Các công trình nêu trên đã đưa ra những cách hiểu khác nhau về khái niệm
triết lý nhân sinh. Đây là những tư liệu quý giá để từ đó giúp nghiên cứu sinh có thể
định nghĩa về khái niệm triết lý nhân sinh cũng như tạo cơ sở để phân tích được nội
dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
1.3. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến truyện cổ tích
Việt Nam
Do đóng vai trò là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn học dân
gian nên truyện cổ tích giành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
trong nước. Những công trình này hầu hết đều nghiên cứu về truyện cổ tích dưới
góc độ văn học. Bằng cách đưa ra khái niệm, đặc trưng, nguồn gốc hình thành,
phân loại truyện cổ tích và bước đầu phân tích những nội dung cơ bản của truyện
cổ tích Việt Nam. Có thể kể đến các công trình:
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi [12]. Công trình
này gồm 5 tập được công bố lần lượt trong vòng 25 năm, từ năm 1958 đến 1982,
được nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội in và tái bản năm 2000. Công trình đã
nghiên cứu tỉ mỉ về khái niệm, đặc trưng, phân loại truyện cổ tích Việt Nam.
Trong Phần thứ Nhất (in ở Tập I) nhan đề “Nghiên cứu truyện cổ tích nói
chung và truyện cổ tích Việt Nam”, tác giả đã đưa ra những nghiên cứu của ông về
9
bản chất của truyện cổ tích, những vấn đề về truyện cổ tích nói chung cũng như
truyện cổ tích Việt Nam nói riêng. Để nhận dạng thế nào là một truyện cổ tích,
Nguyễn Đổng Chi nêu lên 3 tiêu chí sau đây: 1.Phải có phong cách cổ; 2. Phải gần
gũi với bản sắc dân tộc; 3. Phải có tính tư tưởng và tính nghệ thuật cao. Đồng thời
ông cũng đã đưa ra những quan điểm của mình về việc phân loại truyện cổ tích. Áp
dụng cho cổ tích, ông đưa ra một bảng phân loại mới gồm 3 loại như sau: 1. Cổ tích
thần kỳ (trong lần in thứ nhất, 1957, ông gọi là cổ tích hoang đường; lần in thứ 5,
1972, mới đổi là cổ tích thần kỳ); 2. Cổ tích thế sự; 3. Cổ tích lịch sử. Ông đã dựa
vào nội dung những truyện cổ tích tiêu biểu và những tài liệu sưu tầm ghi chép
quen thuộc trong thư tịch về truyện cổ Việt Nam, phác họa nên một bức tranh
“Truyện cổ Việt Nam qua các thời kỳ”, từ “Thần thoại, truyền thuyết, loại truyện
xưa nhất của người Việt” qua “Truyện cổ tích thời phong kiến tự chủ” tới “Thời kỳ
suy tàn của truyện cổ tích Việt Nam”.
Trong Phần thứ Ba (in ở Tập V) nhan đề “Nhận định tổng quát về truyện
cổ tích Việt Nam”, tác giả cung cấp cho người đọc một sự khảo sát đặc sắc và
những kết luận quan trọng về “đặc điểm của truyện cổ tích Việt Nam”. Nguyễn
Đổng Chi còn tiếp tục đào sâu vào đặc điểm tư duy của người Việt, lấy đó làm
chỗ dựa chính để khái quát các đặc điểm của truyện cổ tích Việt Nam. Cách khái
quát của ông thoạt nhìn không có gì đao to búa lớn, nhưng lại được đặt trên một
nền tảng tri thức rộng và sâu, nên chứa đựng trong đó nhiều điều mới mẻ. Ông
cho rằng, truyện cổ tích thần kỳ của người Việt chiếm một số lượng có phần ít ỏi,
quy mô phóng đại của hình tượng thần kỳ không lớn và tần số phóng đại cũng
không nhiều. Để có được kết luận này, ông đã phải làm nhiều bảng thống kê tỷ
mỷ, về số lượng truyện thần kỳ và về các kiểu loại môtíp thần kỳ. Không những
thế, ông còn đặt truyện cổ tích thần kỳ dân tộc với sắc thái riêng của nó như đã tìm
thấy trong tương quan so sánh với các biểu hiện tư duy của con người Việt Nam:
"ít khi xa rời lý trí thế tục" [12, tr.2426], "chịu sự ràng buộc của tâm lý thực tiễn "
[12, tr.2428], "ít chứa đựng cảm quan tôn giáo" [12, tr.2428]... và vạch ra biểu đồ
về sự chi phối của các dấu ấn tư duy nói trên đối với quá trình hình thành "tâm lý
10
sáng tạo nghệ thuật dân tộc" [12, tr.2428], nhất là "con đường vận hành của truyện
cổ tích..., trong đó sự thanh lọc các yếu tố siêu nhiên đã diễn ra thường xuyên và
gần như vô thức để đồ thị phát triển của cổ tích ngày càng gần tới trục biểu hiện
nhân tính" [12, tr.2428]. Đó là một kiến giải thật sâu sắc và thỏa đáng. Ông cũng
đưa ra những nhận định về truyện cổ tích Việt Nam: "Tóm lại, sức hấp dẫn của
hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam không phải là ở cấp độ phi lý của bản thân
câu chuyện, mà ở khả năng phối hợp và hoán chuyển tài tình cái huyền ảo và cái
hiện thực. Cái hiện thực bị nhầm ra cái phi lý, cái phi lý nằm ngay trong cái hợp
lý" [12, tr.2439 – 2440]. Những nghiên cứu của Nguyễn Đổng Chi về truyện cổ
tích có ý nghĩa rất to lớn đối với nghiên cứu sinh trong việc tìm hiểu truyện cổ tích
cũng như triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam.
Báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 316 năm 1994 có đăng bài viết
của Nguyễn Tấn Phát và Bùi Mạnh Nhị [92], trong đó có đoạn viết: “Không có
một truyện cổ tích thần kỳ nào lại có tuổi trẻ hơn tuổi ông bà chúng ta và cũng
không có một truyện cổ tích nào già nua trong ngàn vạn đôi mắt trẻ thơ của biết
bao thế hệ” [92]. Như vậy, các tác giả khẳng định truyện cổ tích đã có từ rất lâu
nên tựa đầu của mỗi câu chuyện đều bắt đầu từ câu “Ngày xửa, ngày xưa” như là
lời nhắn về khoảng thời gian mà chính tác giả chưa xác định được. Bởi các câu
chuyện cổ tích là các sáng tác dân gian, do nhân dân lao động trong quá trình sản
xuất đã tạo ra qua lời kể truyền lại trong dân gian. Với bài viết này, các tác giả đã
góp phần ca ngợi sự hấp dẫn của truyện cổ tích trong lòng bạn đọc, nâng cao vị trí
và vai trò của truyện cổ tích trong việc định hướng về mặt tư tưởng cùng với việc
giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ.
Cuốn sách Văn học dân gian Việt Nam của nhà xuất bản Giáo dục do
Đinh Gia Khánh chủ biên xuất bản năm 2010 [57] đã giới thiệu về các thể loại
của văn học dân gian Việt Nam trong đó có truyện cổ tích Việt Nam. Tác giả đã
chỉ ra rằng: “truyện cổ tích là bộ phận quan trọng nhất trong các thể loại tự sự
dân gian” [57, tr.294]. Tác giả cũng phân biệt truyện cổ tích với các thể loại văn
học dân gian khác như là thần thoại, truyện ngụ ngôn, truyện cười. Tác giả đã
11
chia truyện cổ tích ra thành hai loại là truyện cổ tích lịch sử và truyện cổ tích thế
sự. Trong cuốn sách tác giả còn chỉ ra nguồn gốc hình thành của truyện cổ tích
Việt Nam “nguồn gốc chính của truyện cổ tích Việt Nam là cuộc sống xã hội
Việt Nam ngày xưa, là những sự kiện vô cùng phong phú của cuộc sống ấy.
Thường thì cốt truyện đầu tiên bắt nguồn từ một sự việc xảy ra ở một địa phương
nào đó và có liên quan đến những nhân vật có thực. Sự việc hấp dẫn sự chú ý
của nhân dân vì nhưng lý do nào đó, rồi vì thế mà được lưu truyền từ đời này
qua đời khác…” [57, tr.301]. Trong cuốn sách này tác giả cũng đưa ra nhiều
đánh giá, phân tích và nhận định cá nhân về đặc điểm và nội dung của truyện cổ
tích Việt Nam như “truyện cổ tích Việt Nam là tấm gương phản chiếu một cách
phong phú và chân thực đời sống dân tộc, rất phong phú mặc dầu những hạn chế
trong quan điểm của nhân dân ngày trước, rất chân thật ngay cả trong những sự
tưởng tượng đầy tính chất lãng mạn” [57, tr.312]. “Truyện cổ tích trước hết phản
ánh phong cảnh thiên nhiên của nước ta…Lại có nhiều truyện phản ánh một cách
phong phú và kì thú lối sống của dân tộc ta ngày trước. Từ tập quán canh tác,
chăn nuôi của người nông dân cho đến khoán ước, luật lệ, tổ chức của làng quê
từ những nét sinh hoạt liên quan đến những vật nhỏ mọn như cái chổi, ông đầu
rau, cho đến hội hè đình đám, cúng lễ, từ những thị hiếu về ăn, mặc, ở cho đến
tín ngưỡng, tôn giáo lưu hành trong xã hội ngày trước…” [57, tr313].
Cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam [115] của nhà xuất bản Giáo
dục, xuất bản năm 2012 do Vũ Anh Tuấn chủ biên. Trong cuốn giáo trình này có
chương 3, trình bày rất chi tiết về chuyện cổ tích với ba vấn đề lớn là:
I) Những vấn đề chung về thể loại
II) Đặc trưng của truyện cổ tích
III) Nội dung và nghệ thuật của các tiểu loại cổ tích
Trong Phần I tác giả đã trình bày khá chi tiết về thời đại ra đời của truyện
cổ tích: “Truyện cổ tích ra đời ngay trong thời kì thần thoại hưng thịnh (loại
truyện cổ tích thần kì), tuy nhiên phần lớn truyện cổ tích ra đời sau thời kì thần
thoại, khi chế độ công xã thị tộc tan rã được thay thế bằng gia đình riêng lẻ…”
[115, tr.112].
12
Cuốn sách cũng đưa ra những quan niệm khác nhau về truyện cổ tích, bản
thân tác giả cũng rút ra những nhận định của chính mình về truyện cổ tích:
“Truyện cổ tích là những sáng tác dân gian thuộc thể loại tự sự, chủ yếu sử dụng
yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống,
bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như công lí xã hội và ước mơ một cuộc sống
tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [115, tr. 116]
Trong phần II tác giả đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích
và chứng minh những đặc trưng này thông qua việc phân tích một số truyện cổ
tích tiêu biểu.
- Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo
- Truyện cổ tích là câu truyện đã hoàn tất trong quá khứ, đã trọn vẹn về
cốt truyện, nhưng đồng thời cũng mang tính mở đặc trưng của văn bản văn học
dân gian ở cấp độ chi tiết, môtip.
- Truyện cổ tích mang tính giáo huấn cao, mỗi câu truyện là một bài học
về đạo đức, ứng xử, công bằng, thưởng phạt công minh.
Trong phần III nội dung và nghệ thuật của các tiểu loại cổ tích, tác giả đã
đề cập đến nội dung cũng như nghệ thuật của ba tiểu loại cổ tích đó là truyện cổ
tích sinh hoạt, truyện cổ tích về loài vật, truyện cổ tích thần kì. Bước đầu có
những phân tích sâu hơn về những tư tưởng, triết lý của người Việt thông qua
một số truyện cổ tích tiêu biểu. Đây là những tư liệu quý giá để nghiên cứu sinh
có thể tìm hiểu sâu hơn về triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam.
Cuốn sách Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại [47] xuất bản năm
2012, của Kiều Thu Hoạch đã giới thiệu một số tiểu luận, chuyên khảo, bài viết
ngắn của về văn học dân gian người Việt theo hướng nghiên cứu thể loại. Trong
cuốn sách này cũng có những bài viết về truyện cổ tích Việt Nam.
Trần Hoàng với cuốn Giáo trình văn học dân gian Việt Nam [50], do nhà
xuất bản Đại học Sư phạm xuất bản năm 2013, tác giả đã nói khá nhiều về cuộc
đời của các nhân vật trong truyện cổ tích, song cũng chỉ ra đặc điểm chung giữa
các nhân vật: “ Phần lớn là những người trẻ tuổi đói nghèo, có số phận của người
13
bị áp bức bóc lột: trẻ mồ côi (Thạch Sanh truyện Thạch Sanh ), người con riêng
(cô Tấm truyện Tấm Cám), người em ( truyện Cây khế), người làm thuê (anh nông
dân truyện Cây tre trăm đốt),…” [50, tr.39]. Thông qua đó tác giả cũng rút ra
những tư tưởng cơ bản trong triết lý về con người trong truyện cổ tích Việt Nam.
Cuốn Đề cương bài giảng đại cương văn học dân gian [91] của Nguyễn
Hằng Phương và Ngô Thanh Thúy, được phát hành năm 2014, trong đó các tác
giả đưa ra nhận định: “Để định vị các biến thể của thể loại và các tác phẩm của thể
loại truyện cổ tích trong tiến trình văn học dân gian, người ta căn cứ vào đề tài và
tính chất xung đột xã hội trong truyện. Nói chung, những truyện mà xung đột diễn
ra trong cuộc sống sinh hoạt gia đình, mà sự lý giải (bằng hư cấu nghệ thuật) mọi
bất hòa, bất hạnh... Những truyện vỡ ra từ hình thức phôi thai của sử thi anh hùng
Việt cổ và được cổ tích hóa (Sự tích trầu cau, Chử Đồng Tử, Sự tích dưa hấu,…)
cũng mang tiêu chí nói trên” [91, tr47-48]. Mặc dù không đi sâu vào nghiên cứu
thể loại truyện cổ tích, nhưng nhóm tác giả đã chỉ cho người đọc thấy rõ nguồn
gốc sản sinh ra truyện cổ tích Việt Nam.
Ngoài ra cũng có một số các cuốn sách khác như cuốn sách Các vùng văn
hóa Việt Nam [59] do Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (chủ biên) năm 1995 ; nhà
xuất bản Văn học Hà Nội xuất bản, Văn học dân gian Việt Nam của các tác giả
Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn được nhà xuất bản Giáo dục
xuất bản năm 2003 cũng đều đề cập đến truyện cổ tích Việt Nam, chỉ ra những
khái niệm, nội dung, kết cấu của những câu truyện cổ tích.
Ngoài ra cũng có một số công trình nghiên cứu về truyện cổ tích Việt
Nam qua những câu truyện cụ thể, chủ đề cụ thể. Có thể kể đến như:
Năm 1999, Nguyễn Thị Huế đã xuất bản cuốn Nhân vật xấu xí mà tài ba
trong truyện cổ tích Việt Nam [45]. Trong cuốn sách tác giả đi sâu vào tìm hiểu
các motip đặc trưng cấu tạo nên nhân vật xấu xí, các nhân vật xấu xí kiểu như
anh Trương Chi, xấu về ngoại hình nhưng lại có tài năng. Qua đó khẳng định,
thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình và tài năng là một thủ pháp xây
dựng nhân vật đặc trưng trong truyện cổ tích Việt Nam.
14
Công trình Sơ bộ tìm những vấn đề trong truyện cổ tích qua truyện Tấm
Cám [58] năm 2009 của tác giả Đinh Gia Khánh. Đây là công trình đi sâu tìm hiểu
truyện cổ tích Tấm Cám trên nhiều bình diện, tác giả một mặt, đã có sự bổ sung
thêm nhiều dị bản có cùng kiểu truyện Tấm Cám ở Việt Nam. Từ đó tác giả khái
quát những đặc trưng về nội dung, nghệ thuật và quy luật lưu truyền truyện cổ
tích. Tác giả cũng đã phân tích những chủ đề cơ bản của truyện cổ tích Tấm Cám,
như là chủ đề đấu tranh xã hội và chủ đề phong tục tập quán.
Cuốn sách Khảo sát nhóm truyện cổ tích thần kỳ "Người - Tiên" của
người Việt [43] của Đặng Thị Thu Hiền, Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2009 đã
trình bày một số khái niệm: truyện cổ tích, kiểu truyện, típ, môtíp, nhóm truyện,
khảo sát diện mạo nhóm truyện cổ tích thần kỳ "Người-Tiên" của người Việt.
Tìm hiểu một vài phương diện cơ bản về nghệ thuật, nội dung ý nghĩa của nhóm
truyện cổ tích thần kỳ "Người-Tiên" của người Việt qua đó thấy được ảnh hưởng
của tôn giáo, tín ngưỡng dân gian tới nhóm truyện cổ tích thần kỳ "Người-Tiên"
của người Việt nói riêng và truyện cổ tích thần kỳ nói chung.
Truyện cổ tích Việt Nam - một trong những thể loại văn học dân gian Việt
Nam, được rất nhiều các tài liệu nghiên cứu bàn đến. Nhưng các tài liệu nghiên
cứu vẫn còn mang tính chung chung nặng về liệt kê, thiếu tính thống nhất về mặt
quan điểm. Chủ yếu là nghiên cứu truyện cổ tích dưới góc độ văn học. Vì vậy,
cần phải có công trình nghiên cứu sâu hơn, đưa ra được một khái niệm cụ thể nói
rõ về thể loại truyện cổ tích cũng như sự ra đời của nó, đặc biệt là chỉ ra được
triết lý nhân sinh chứa đựng trong những câu truyện cổ tích này. Đây chính là cơ
hội cho tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa về vấn đề này.
2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh của
ngƣời Việt
Bên cạnh các công trình nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu về triết lý
nhân sinh nói chung còn phải kể đến các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến triết
lý nhân sinh của người Việt được thể hiện trong các hình thức văn hóa dân gian
Việt Nam. Tiêu biểu như văn học dân gian Việt Nam (cao dao, tục ngữ, hò, vè,
15
truyền thuyết, thần thoại, cổ tích…), các tín ngưỡng dân gian, trò chơi dân gian....
Những hình thức văn hóa dân gian này này đều chứa đựng trong đó những triết lý
nhân sinh sâu sắc mà các tác giả dân gian muốn gửi gắm. Đây là những tài liệu
tham khảo rất cần thiết đối với nghiên cứu sinh để có thể khái quát được về triết lý
nhân sinh của người Việt, từ đó có sự liên hệ với triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam. Có thể kể đến một số các công trình
như sau:
Cuốn sách Tiếng cười dân gian Việt Nam [17] của Trương Chính, Phong
Châu năm 1986. Tác phẩm không chỉ là tập hợp những cuốn truyện cười dân gian
của Việt Nam mà còn chỉ ra giá trị triết lý nhân sinh chứa đựng trong những câu
truyện cười. Đó là triết lý đấu tranh bảo vệ lẽ phải và sự tiến bộ xã hội. Đồng thời
đả kích, hạ bệ các đối tượng gian ác, lừa mị, bài trừ các thói hư tật xấu của con
người. Thông qua những câu truyện cười, tác giả dân gian hướng con người đến
những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Bên cạnh đó còn có những tài liệu nghiên cứu về vai trò của triết lý nhân
sinh trong văn học dân gian đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Có thể kể đến cuốn
Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam [56] của Đinh
Gia Khánh đã cung cấp một cách có hệ thống những giá trị truyền thống và những
ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với sự phát triển của xã hội trong giai đoạn
mới. Cuốn sách khẳng định văn hóa dân tộc và bản sắc dân tộc của văn hóa luôn
trường tồn cùng lịch sử, giúp dân tộc ta trụ vững qua bao cuộc xâm lăng, bao biến
thiên của xã hội. Với những truyền thống tốt đẹp của mình văn hóa dân gian đã
đóng vai trò tích cực trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, đồng thời đang phát
huy ảnh hưởng rộng lớn với toàn xã hội trên bước đường xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài báo Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ, thơ ca dân gian
Việt Nam [111] của tác giả Lê Huy Thực đăng trên tạp chí triết học số 2, tháng 2
năm 2004 cũng đã đưa ra những quan điểm chỉ ra triết lý nhân sinh về tình yêu
đôi lứa, về hôn nhân, hạnh phúc gia đình trong tục ngữ và cao dao Việt Nam. Bài
16
báo cũng chỉ ra trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, việc bảo vệ, giữ gìn
hạnh phúc, hôn nhân còn được thực hiện bằng cách ứng xử, hành động đúng
mức, hợp lý của con người.
Bài báo Văn hóa dân gian trong di sản văn hóa dân tộc [123] của Ngô
Đức Thịnh trên tạp chí Di sản văn hóa năm 2005 đã chỉ ra những giá trị và ý
nghĩa của văn hóa dân gian Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra văn hóa dân gian chính
là khởi nguồn, sản sinh và nuôi dưỡng các hình thức khác của văn hóa dân tộc.
Văn hóa dân gian là văn hóa của quần chúng lao động do quần chúng sáng tạo ra
nên chúng mang tính cộng đồng rất cao. Vì vậy mà văn hóa dân gian chứa đựng
những giá trị phổ quát của dân tộc như lòng yêu nước, tính cộng đồng, tính cần
cù và sáng tạo trong lao động. Tác giả cũng chỉ ra văn hóa dân gian mang giá trị
thẩm mỹ cao và thể hiện tâm hồn dân tộc.
Luận án “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế” [52]
năm 2011 của tác giả Cao Thị Hoa đã đi sâu phân tích và làm sáng tỏ triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn
về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới quan) của con người Việt Nam ở tỉnh
Thừa Thiên Huế, vận dụng nó ở góc độ kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống
văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, phạm
vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, mà chưa đi sang được các vùng miền khác hoặc các
thể loại khác trong đó có truyện cổ tích Việt Nam.
Cuốn sách Một nhận thức về văn học dân gian Việt Nam [64] của tác giả
Nguyễn Xuân Kính xuất bản năm 2012 đã khái quát tính triết lý của văn học dân gian
Việt Nam “ phản ánh nhận thức của các cư dân về thiên nhiên, đất nước, ca ngợi quê
hương, tổ quốc, ghi nhận và lưu truyền những tri thức về lao động sản xuất, đánh bắt,
chăn nuôi và buôn bán, về đối nhân xử thế, cất tiếng cười chế giễu thói hư, tật xấu,
phản kháng lại áp bức, bất công, ca ngợi điều thiện, thể hiện những cung bậc tình cảm
trong tình yêu đôi lứa, phản ánh những mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình và xã hội.”
Cuốn Văn học dân gian, cái hay, vẻ đẹp [72] của tác giả Lê Xuân Mậu
17
xuất bản năm 2012 đã chỉ ra những vẻ đẹp của một tư duy logic sắc sảo của
những người bình dân cùng những triết lý sâu sắc đậm đà màu sắc minh triết
Việt qua ca dao, tục ngữ, câu đố dân gian. Tác giả còn phát hiện giá trị tạo hình
đặc sắc ở nhiều câu tục ngữ phản ánh một tư duy hình tượng mạnh mẽ của
những người bình dân ít học.
Luận án tiến sĩ Nhân sinh quan người Việt qua Folklore Việt Nam [80]
của Phùng Thị An Na đã làm rõ nhân sinh quan của người Việt thể hiện qua
Folklore Việt Nam, cụ thể là qua lễ hội và tín ngưỡng dân gian, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, khắc phục những hạn chế
trong nhân sinh quan đó.
Cuốn Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam [74] của Hoàng
Thúc Lân (chủ biên) xuất bản năm 2017. Cuốn sách đã tiếp cận một cách khoa
học, hệ thống triết lý nhân sinh của người Việt trong ca dao, tục ngữ. Đó là vấn
đề về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, con người với con người và
con người với chính bản thân mình. Từ đó giúp cho người đọc hiểu được yếu tố
triết học thâm thúy, sâu sắc trong tục ngữ, ca dao mà ông cha ta đã tạo dựng từ
ngàn đời.
Luận án tiến sĩ triết học Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay [106] của nghiên
cứu sinh Nguyễn Thị Tình (2018). Luận án đã làm rõ những nội dung cơ bản của
triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Từ đó khẳng định giá trị
trường tồn của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Luận án cũng
đã lý giải vì sao cần phải vận dụng những triết lý nhân sinh trong văn hóa truyền
thống vào góp phần định hướng giá trị cho xã hội. Tác giả luận án cũng đã đưa
ra những ý nghĩa của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay.
Nội dung triết lý nhân sinh của người Việt được thể hiện trong các hình
thức văn hóa dân gian được các nhà nghiên cứu đưa ra chính là tài liệu tham khảo
quý giá để nghiên cứu sinh có thể tiếp thu và vận dụng trong việc tìm hiểu triết lý
18
nhân sinh của người Việt cũng như triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc
bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
3. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh
của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam
3.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến cơ sở hình thành
triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ
Đồng bằng Bắc bộ là một trong những vùng văn hóa lớn của cả nước có
truyền thống và lịch sử lâu đời. Chính vì vậy đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu
về các điều kiện tự nhiên, vị trí địa lí, điều kiện kinh tế- xã hội, phong tục, tập
quán, tín ngưỡng – tôn giáo cũng như những đặc trưng về văn hóa của vùng. Đây
là những tài liệu giá trị cung cấp cho tác giả những kiến thức tổng quan về vùng
đất này để từ đó nghiên cứu cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của cư dân Đồng
bằng Bắc bộ.
Cuốn sách Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng [76] do Vũ Tự Lập
chủ biên được nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội ấn hành năm 1991. Đây là
công trình nghiên cứu về đồng bằng sông Hồng dưới góc độ địa lý văn hóa. Tìm
hiểu văn hóa đồng bằng sông Hồng như một vùng văn hóa đặc thù của đất nước,
có những đặc trưng mà các vùng khác của đất nước không có hoặc không đậm
nét. Từ việc phân tích khung cảnh môi trường tự nhiên và đặc trưng của cư dân
đồng bằng sông Hồng, các tác giả tập trung phân tích những vấn đề về văn hóa
đồng bằng sông Hồng, cần kế thừa, gìn giữ tinh hoa văn hóa truyền thống khi
xây dựng một nền văn hóa mới.
Cuốn sách Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam [123] của
Ngô Đức Thịnh, xuất bản năm 1993, tại nhà xuất bản Trẻ đã phác thảo phân
vùng và giới thiệu một số vùng văn hóa ở Việt Nam như vùng văn hóa đồng
bằng Bắc bộ, vùng văn hóa xứ Lạng, xứ Huế. Đồng thời với việc phân vùng tác
giả còn chỉ ra những nét văn hóa, đặc trưng văn hóa của từng vùng trong đó có
những đặc trưng văn hóa của đồng bằng Bắc bộ. Tác giả cũng chỉ ra được văn
hóa người Việt ở đồng bằng Bắc bộ là văn hóa lâu đời và tiêu biểu nhất của văn
19
hóa truyền thống của người Việt. Được thể hiện qua đời sống tâm linh, tôn giáo,
tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tiêu biểu nhất là qua lễ hội, qua
các hoạt động văn hóa nghệ thuật như hệ thống truyền thuyết lịch sử, truyện kể
dân gian, ca dao tục ngữ, phương ngôn, các loại dân ca tiêu biểu, hình thức diễn
sướng và sân khấu cổ truyền.
Công trình của Trần Đăng Sinh Những khía cạnh triết học trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay [96].
Trong công trình này Trần Đăng Sinh đã phân tích và chỉ ra những quan niệm
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ về không gian, thời gian và con người
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến những
quan niệm nhân sinh trong loại hình tín ngưỡng này như: tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ thể hiện đạo hiếu, đạo làm người,
thể hiện ý thức nhớ về nguồn cội, là nét đẹp văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng.
Ngoài những quan niệm về vũ trụ, những quan niệm về nhân sinh, tác giả cũng
phân tích và chỉ ra thực trạng và khuynh hướng biến đổi tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.
Cuốn sách Tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội dân gian người Việt ở châu thổ
Bắc bộ (2010) [107] của Vũ Anh Tú được xây dựng trên một khung lý thuyết hiện
đại của văn hóa dân gian gắn liền với một hệ thống tư liệu đậm đặc chất phồn
thực. Tác giả đi sâu vào lý giải nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng phồn thực, coi
đó là một hoạt động mang “tính thiêng” của con người với những biểu hiện phối
ngẫu để cầu mong sự sinh sôi, nảy nở cho cây trồng và vật nuôi. Nội dung cuốn sách
đi sâu phân tích nguồn gốc hình thành, những biểu hiện, sự phân bố, đặc điểm… của
tín ngưỡng phồn thực trong đời sống văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa của
người Việt ở đồng bằng châu thổ Bắc bộ nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất một
số giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển loại hình tín ngưỡng phồn thực trong đời sống
văn hóa Việt Nam đương đại.
Bài báo Truyện cổ tích xứ Bắc và dấu ấn địa phương hóa [9] của Nguyễn
Huy Bỉnh đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số tháng 3 năm 2011. Bài báo đề
20
cập đến một tính chất của các truyện cổ tích xứ Bắc hay khu vực đồng bằng Bắc bộ
đó là dấu ấn địa phương hóa. Truyện cổ tích gắn với tên ngọn núi, dòng sông diễn
ra khá phổ biến ở xứ Bắc. Địa danh chính là môi trường để câu truyện ra đời hoặc là
gắn vào đó. Tiêu biểu như truyện cổ tích Tấm Cám thì gắn với ngọn núi Dạm,
truyện Vương Chất gặp tiên và Từ Thức gắn với núi Phật Tích, truyện Trương Chi
trên dòng sông Tiêu Tương. Tác giả bài viết cũng khẳng định rằng, khi truyện cổ
tích được địa danh hóa thì chúng sẽ trở nên sống động và tăng thêm niềm tin cho
nhân dân vào sự thần kì. Chính việc địa danh hóa các câu truyện cổ tích của xứ Bắc
đã góp phần để lại dấu vết trong việc lưu truyền và tồn tại của các câu truyện cổ tích
trong đời sống của con người.
Luận án Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc bộ [120] năm 2013 của Nguyễn Hữu Thụ đã phân tích khía
cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ.
Luận án đã chỉ ra những cơ sở ảnh hưởng đến sự hình thành và tồn tại của tín
ngưỡng thờ mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, khái lược lịch sử phát
triển, nội dung của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ.
Luận án cũng đã khái quát những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị.
Cuốn sách Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa xứ Bắc của
Nguyễn Huy Bỉnh, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2015 [8]. Tác phẩm đi
sâu vào phân tích nội dung và hình thức của các truyện kể như truyền thuyết,
truyện cổ tích, truyện cười để từ đó phục dựng lại đời sống văn hóa tinh thần cổ
truyền của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Tác giả đã dành chương 3 để phân tích về
truyện cổ tích của xứ Bắc bộ. Tác giả đã phân tích truyện cổ tích xứ Bắc trên hai
thể loại là truyện cổ tích thần kì xứ Bắc và truyện cổ tích sinh hoạt xứ Bắc. Trên
cơ sở khảo sát các văn bản truyện cổ tích lưu truyền ở xứ Bắc tác giả đã rút ra
kết luận: “truyện cổ tích thần kì phản ánh vấn đề rộng lớn của xã hội như bi kịch
gia đình từ quần hôn đến hôn nhân một vợ một chồng, từ chế độ mẫu quyền sang
phụ quyền, từ chế độ chưa có giai cấp sang chế độ có giai cấp” [8, tr.33]. Bên
21
cạnh đó tác giả cũng phân tích một số những truyện cổ tích sinh hoạt xứ Bắc và
chỉ ra rằng “các câu truyện đã phần nào nói lên được hiện thực cuộc sống văn
hóa của người dân xứ Bắc” [8, tr.34]. “Có thể nói truyện cổ tích sinh hoạt xứ
Bắc đã gắn với đời sống tinh thần của người dân xứ Bắc từ bao đời nay” [8,
tr.35]. Cũng trong cuốn sách này tác giả còn cho ta thấy được truyện cổ tích xứ
Bắc được lưu truyền rộng rãi trong dân gian từ bao đời nay và trong quá trình
lưu truyền đó nó không chỉ gắn với những địa danh, những vùng đất cụ thể của
xứ Bắc mà nó còn gắn với đời sống sinh hoạt văn hóa tâm linh của con người
nơi đây.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thuý Hằng “Ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo đến đời sống tinh thần cư dân đồng bằng sông Hồng hiện nay”
[38] (2015). Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề về nhân sinh quan Phật giáo
nói chung và nhân sinh quan Phật giáo vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng,
cùng với đời sống tinh thần của cư dân đồng bằng sông Hồng hiện nay, luận án
phân tích thực trạng ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh
thần cư dân đồng bằng sông Hồng hiện nay, từ đó đưa ra quan điểm và một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần cư dân đồng bằng sông
Hồng hiện nay.
Luận án tiến sĩ “Không gian văn hóa người Việt đồng bằng Bắc bộ qua tư
liệu của ca dao tục ngữ” [2] của Nguyễn Thị Phương Anh tại đại học Quốc Gia
Hà Nội. Luận án đã khai thác trực tiếp nội dung của các câu ca dao, tục ngữ theo
cả nghĩa đen và nghĩa bóng từ đó góp phần nghiên cứu một cách toàn diện và sâu
sắc hơn những nét đặc trưng văn hóa và tinh thần của cư dân vùng đồng bằng Bắc
bộ, từ đó góp phần lưu giữ lại những đặc điểm, tư duy, lối sống và những tri thức
văn hóa dân gian truyền thống của con người nơi đây.
Bài báo Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc bộ [37] của tác giả Thân Thị
Hạnh đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 1(98) năm 2016 đã nghiên
cứu một nét đặc trưng trong đời sống văn hóa người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ
22
đó là văn hóa làng. Tác giả bài viết đã đưa ra những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa
làng của người Việt khu vực đồng bằng Bắc bộ, đó là tính cộng đồng, tính tự trị,
tính dung hợp trong tư duy. Đồng thời cũng chỉ ra những giá trị và hạn chế của văn
hóa làng vùng đồng bằng Bắc bộ đó là, văn hóa làng có vai trò to lớn đối với việc
hun đúc nên tâm hồn Việt, các giá trị đạo đức, nhân văn. Tuy nhiên, văn hóa làng
vùng đồng bằng Bắc bộ cũng có những hạn chế, không phù hợp với yêu cầu của
việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
Bài báo Các yếu tố ảnh hưởng đến tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc bộ [25] của hai tác giả Bùi Văn Dũng và Nguyễn Thị Cẩm
Tú đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 6 (115) năm 2017 đã phân
tích những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử và
văn hóa tới việc hình thành tín ngưỡng dân gian của người Việt ở đồng bằng Bắc
bộ. Ngoài ra, bài viết còn chỉ ra ba tôn giáo ngoại lai là Phật giáo, Nho giáo, Đạo
giáo cũng có những vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành tín ngưỡng dân
gian của người Việt ở vùng này.
Cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Quốc Vượng năm 1998
[136] đã khái quát một cách đầy đủ và chi tiết về vùng văn hóa châu thổ Bắc bộ về
đặc điểm tự nhiên và môi trường xã hội. Những nét đặc trưng về văn hóa của vùng
đất này. Lối ứng xử với tự nhiên, văn hóa ăn, mặc, ở của người Bắc bộ. Những đặc
điểm về kho tàng văn hóa vô thể và hữu thể ở vùng đất này. Cuốn sách còn chỉ ra
những đặc điểm trong tín ngưỡng cũng như tôn giáo của người dân nơi đây.
Tất cả các công trình nghiên cứu có liên quan đến sự hình thành triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ đã cung cấp cho nghiên cứu sinh những
tư liệu phong phú và đầy đủ về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, đặc điểm nổi
bật về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Đây là
những tư liệu hết sức quý giá để nghiên cứu sinh có thể tìm hiểu và nghiên cứu về
cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Từ đó khái quát
lên được những nét đặc trưng riêng biệt trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ so với cư dân các vùng đất khác ở Việt Nam.
23
3.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh
của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam
Cuốn sách Việt Nam truyện cổ, triết lý và tình thương xuất bản năm 1991
của tác giả Bùi Văn Nguyên [84], nghiên cứu về văn học dân gian trong đó có
truyện cổ tích dưới góc độ triết học Phương Đông. Trên cơ sở phân tích một số
truyện cổ dân gian để lý giải tình thương và tính ghen ghét, hận thù, Bùi Văn
Nguyên đã viết: “Cái gọi là “đạo” là nguyên tố ban đầu của Mẹ Đất và Mẹ
Người cội nguồn của Tình thương loài người. Oái ăm thay, trong quá trình sinh
thành, có âm dương, như cả bốn chương tập chuyên luận này đã minh chứng,
thì Tình thương mới chỉ là mặt thuận, chiều thuận, bên cạnh mặt nghịch, chiều
nghịch của nó, là tính ghen ghét, tính hận thù… Bởi vì cuộc sống bao giờ cũng
có hai mặt: tương sinh và tương khắc” [84, tr.182].
Luận án “Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt Nam” [39]
(2006) của tác giả Phạm Thị Thúy Hằng cũng đã trình bày một số tư tưởng triết học
về thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đề cập đến những ảnh
hưởng của truyện kể dân gian đối với việc xây dựng nền văn hóa của dân tộc.
Văn học dân gian những công trình nghiên cứu [87] của Bùi Mạnh Nhị
(chủ biên), Hồ Quốc Hùng và Nguyễn Thị Ngọc Diệp, nhà xuất bản Giáo dục năm
2012. Cuốn sách đã tổng hợp những công trình nghiên cứu về thể loại văn học dân
gian, trong đó có truyện cổ tích. Tác giả cho rằng, cuộc đời của các nhân vật “đều
sống lẻ loi, không tài sản, không nơi nương tựa, có địa vị thấp kém, bị thua thiệt
và bị ức hiếp. Nhân vật thiếu một cuộc sống gia đình bình thường, bị ruồng bỏ và
bị đẩy vào cảnh sống côi cút. Những mụ dì ghẻ, những người anh, những lão phú
ông tham lam, xảo quyệt đã lừa dối, bóc lột sức lao động, tài sản của các nhân vật
và dè bỉu, khinh miệt, hắt hủi, tìm mọi cách giết hại họ”[87, tr.209]. Cuốn sách đã
đưa ra những nhận định về số phận, cuộc đời của con người qua các nhân vật
trong truyện cổ tích. Những nghiên cứu và phân tích chi tiết của tác giả rất có ý
nghĩa đối với nghiên cứu sinh trong việc nghiên cứu triết lý nhân sinh về con
người trong truyện cổ tích.
24
Cuốn sách Tư tưởng tiến bộ - triết lý nhân sinh thực tiễn của nhân dân và
vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân gian của Vũ Tố Hảo và Hà Châu
[49]. Trong chương III của cuốn sách tác giả đã phân tích những triết lý nhân
sinh thực tiễn của nhân dân ta thông qua việc phân tích một số truyện cổ tích tiêu
biểu. “Từ xa xưa dân tộc Việt Nam đã có một lẽ sống riêng, một bản lĩnh riêng,
đó là tính cách không khuất phục trước kẻ thù, trước quyền hành và bạo lực”
[49, tr.44]. “Với một triết lý nhân sinh thực tiễn mang tính nhân văn sâu sắc,
nhân dân đã phủ định triết lý siêu hình, hư vô chủ nghĩa ấy của đạo Phật. Với họ
cuộc sống hiện tại mới là đáng quý, đáng trân trọng. Hạnh phúc phải được đền
bù ở kiếp này, tội ác cũng phải bị trừng trị ở ngay cõi đời này” [49, tr.49].
“Truyện cổ tích là một giấc mơ, là sự mong mỏi về một xã hội công bằng, bác ái
được xây dựng trên cuộc sống có thực của con người chứ không phải ở thế giới
siêu thực bên kia” [49, tr.49].
Cuốn sách Triết lý nhân sinh trong văn hóa Việt Nam của tập thể khoa Triết
học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nhà xuất bản Lý luận Chính trị Hà Nội năm
2016 [134]. Cuốn sách có những bài viết đề cập khá chi tiết về triết lý nhân sinh
trong truyện cổ tích Việt Nam. Tiêu biểu như bài viết của Nguyễn Thị Vân và
Nguyễn Diệu Hoa về Triết lý về mối quan hệ của con người với gia đình trong
truyện cổ tích Việt Nam. Bài viết chỉ ra triết lý về tình cảm gia đình trong truyện
cổ tích được thể hiện ở tình yêu đôi lứa, bất chấp những quan niệm cổ hủ như môn
đăng hộ đối để bảo vệ tình yêu của mình. Hay triết lý về tình cảm vợ chồng thủy
chung, son sắt, tình anh em ruột thịt keo sơn… Tác giả còn đưa ra triết lý về các
loại mâu thuẫn cách giải quyết mâu thuẫn trong truyện cổ tích bằng việc phân tích
các loại mâu thuẫn trong một số truyện cổ tích tiêu biểu: “truyện cổ tích Việt Nam
rất ít nói về thế giới bên kia mà tập trung vào giải quyết mẫu thuẫn xung đột,
những mâu thuẫn ở cuộc sống hiện tại dương gian” [134]. Cuốn sách còn có bài
viết của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hương và Nguyễn Thị Diệp Triết lý về mối
quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong truyện cổ tích Việt Nam. Bài viết
đã lý giải nguồn gốc, đặc điểm của các sự vật, hiện tượng, các loài sinh vật trong
thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong truyện cổ tích.
25
Luận án tiến sĩ “Nhân sinh quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam”
( 2018) của Phạm Thị Oanh đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và nội dung cơ
bản của nhân sinh quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam, từ đó làm rõ
các giá trị và hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt
Nam. Luận án đã góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản của nhân sinh quan
Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam về cuộc đời con người, về nguyên nhân
dẫn đến nỗi khổ và con đường giải thoát. Về truyện cổ tích, luận án cũng làm rõ
khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm, nội dung, vai trò của truyện cổ tích. Phân tích
làm rõ nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo trong một số truyện cổ tích
Việt Nam. Trên cơ sở đó, chỉ ra những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan Phật
giáo trong truyện cổ tích Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được trong
luận án này là tài liệu tham khảo giúp nghiên cứu sinh hoàn thiện hơn hướng
nghiên cứu của mình.
Ngoài ra còn có một số các bài viết đăng trên các tạp chí đã có những
phân tích cụ thể về các câu truyện cổ tích để từ đó rút ra những triết lý nhân sinh
chứa đựng trong đó. Có thể kể đến các bài viết:
"Những nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn học dân gian", đăng
trên tạp chí Triết học, số 6 (169) năm 2005 của tác giả Đỗ Lan Hiền đã phân tích
một số truyện cổ tích Việt Nam như truyện Tấm Cám, Sự tích dưa hấu, để rút ra
những triết lý nhân sinh độc đáo trong tư duy của người Việt “chúng ta có thể
tìm thấy bản sắc tư duy Việt trong truyện Sự tích quả dưa hấu. Mai An Tiêm
dám chống lại vua cha và cuối cùng, chiến thắng đã thuộc về chàng. Điều đó có
nghĩa rằng, quan hệ vua - tôi, cha - con hoàn toàn không tuân theo lý
thuyết Tam cương, mà cụ thể là tư tưởng Trung quân/Quân - Thần nhất nhất của
Nho giáo”. “Truyện Tấm Cám, là thể loại chuyện phổ biến có thể tìm thấy ở
nhiều dân tộc khác vì đều có chung một chủ đề: mâu thuẫn giữa dì ghẻ - con
chồng. Song, điểm khác biệt trong truyện Tấm Cám của Việt Nam là tính đấu
tranh bền bỉ, quyết liệt của một cô Tấm nhỏ bé, thảo hiền với người mẹ kế độc
ác, gian manh. Hình tượng đó phản ánh truyền thống của dân tộc ta, phản ánh
26
tinh thần đấu tranh kiên cường, bền bỉ của một dân tộc nhỏ bé dám chống lại một
kẻ thù xâm lược hung hãn, lớn mạnh” [42]. Những bài viết này đều là những tài
liệu tham khảo quý giá giúp nghiên cứu sinh hoàn thiện hơn công tình nghiên
cứu của mình.
Bài viết Tư tưởng Phật giáo trong truyện Tấm Cám ( 2009) [46] của Lê Thị
Huệ trên tạp chí Tôn giáo. Tác giả cho rằng, nguyên nhân dẫn đến cái chết của nhân
vật là: “Cám do tham lam và ngu dốt đã tự giết mình” [46, tr.32]. Tác giả bài viết
cũng rút ra những triết lý nhân sinh từ câu truyện cổ tích Tấm Cám này: “ Truyện
biểu dương, cổ vũ tất cả những cố gắng của con người hướng về cái đẹp, cái lẽ công
bình của đạo lý dân tộc và có tác dụng đào luyện con người tạo nên sức mạnh, niềm
tin vào bản thân để vượt qua những sóng gió trong cuộc đời, vững bước tiến về phía
trước [46, tr.35].
Cùng chủ đề về truyện cổ tích Tấm Cám tác giả Lê Xuân Chiến có bài viết
Triết lý nhân quả trong truyện cổ tích Tấm Cám [18] được đăng trên tạp chí Văn
học, tháng 6 năm 2016. Ông cho rằng, mỗi câu chuyện cổ tích đều mang nặng ý
nghĩa nhân sinh quan Phật giáo, và coi đó như là những bài học làm người, đồng
thời khẳng định cần phải giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức được giá trị nhân văn
sâu sắc, sự cần thiết phải vận dụng vào thực tiễn hiện nay.
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý nhân sinh trong
truyện cổ tích của các tác giả đã trình bày được một số nội dung cơ bản của triết
lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam. Mặc dù còn sơ lược và chưa thành
hệ thống nhưng những công trình này là tài liệu giá trị giúp cho nghiên cứu sinh
tiếp tục tìm hiểu và hoàn thiện trong nghiên cứu triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
4. Giá trị các công trình đã tổng quan, những vấn đề đặt ra và cần
tiếp tục nghiên cứu trong luận án
4.1. Giá trị các công trình đã tổng quan
Qua quá trình khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Triết
lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam” có thể
nhận định khái quát về giá trị mà các công trình đã đạt được như sau:
27
Vấn đề “triết lý, triết lý nhân sinh, truyện cổ tích Việt Nam” đã được
nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm và có nhiều công trình khoa học
trong nước khảo cứu vấn đề này. Các tài liệu này đã đưa ra cách hiểu, cách
định nghĩa khác nhau đối với các khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài như
“triết lý”, “triết lý nhân sinh”, “truyện cổ tích”. Đây chính là những tiền đề lý
luận quan trọng để nghiên cứu sinh có thể tiếp thu và vận dụng trong quá trình
nghiên cứu về triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam.
Với vấn đề “triết lý nhân sinh của người Việt” các công trình được khảo
cứu đã đưa ra những nghiên cứu của nhiều tác giả về triết lý nhân sinh của người
Việt thể hiện trong các hình thức văn hóa dân gian như: văn học dân gian, lễ hội
dân gian, hay tín ngưỡng dân gian. Các công trình này đã xây dựng được hệ
thống nội dung phong phú về triết lý nhân sinh của người Việt. Thông qua
những nội dung này, nghiên cứu sinh có cơ sở để tìm hiểu sâu hơn về triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
Vấn đề “triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam” hiện vẫn chưa có công trình nghiên cứu cụ thể. Hầu hết các công
trình mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến cơ sở hình
thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ như: tìm hiểu về vị trí địa
lý, địa hình, những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội, những đặc trưng về văn
hóa, tín ngưỡng, đời sống tinh thần của cư dân nơi đây. Trên cơ sở những kết quả
nghiên cứu này tác giả luận án sẽ có thể tham khảo để khái quát lên được cơ sở
hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Ngoài ra cũng đã có
những công trình nghiên cứu trình bày được một số nội dung cơ bản của triết lý
nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam. Đây là những tài liệu quan trọng, là tiền
đề để nghiên cứu sinh có thể phân tích và làm sáng tỏ nội dung triết lý nhân sinh
của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
4.2. Những vấn đề đặt ra và cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Trên cơ sở kế thừa kết quả từ những công trình nghiên cứu của các học giả đi
trước, luận án sẽ tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:
28
Thứ nhất: Luận án cần làm rõ một số vấn đề lý luận chung như các khái
niệm triết lý, triết lý nhân sinh, truyện cổ tích, triết lý nhân sinh của người Việt và
triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
Đồng thời luận án cũng cần làm sáng tỏ cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ trên cơ sở phân tích những điều kiện tự nhiên, tiền đề kinh
tế- xã hội, tiền đề văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng – tôn giáo nơi đây.
Thứ hai: Luận án cần làm rõ nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ trên cơ sở phân tích những câu truyện cổ tích Việt Nam tiêu biểu gắn với
vùng đồng bằng Bắc bộ mang đặc trưng của lối sống, cách tư duy của người Việt. Từ
đó khái quát lại nội dung triết lý nhân sinh của cư dân Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam. Đó là triết lý về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, triết lý về mối
quan hệ giữa con người với gia đình, xã hội và triết lý về mối quan hệ giữa con người
với chính mình. Trên cơ sở đó luận án sẽ rút ra được những đặc trưng cơ bản trong
triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
Thứ ba: Luận án cần chỉ ra những giá trị tích cực, những điểm còn hạn chế
trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam, đồng thời rút ra ý nghĩa của những triết lý này đối với đời sống xã hội nước
ta hiện nay.
29
Chƣơng 1
TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA CƯ DÂN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Để làm rõ khái niệm triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam thì cần phải xác định nội hàm của các khái niệm triết lý,
triết lý nhân sinh, truyện cổ tích.
1.1.1. Triết lý
Khái niệm triết lý rất gần với khái niệm triết học, trong nhiều trường hợp
chúng được dùng với nội hàm giống nhau. Song, để hiểu một cách khoa học hai
khái niệm này cần thấy được sự khác nhau nhất định giữa chúng
Triết học
Triết học được ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước
công nguyên ở một số quốc gia được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại
như Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp. Ở Phương Đông, đối với người Trung Quốc cổ
đại thì chữ “triết” xuất hiện trong Kinh Thi với nghĩa là “Trí” tức là sự hiểu biết
sâu rộng. Còn với người Ấn Độ triết học được hiểu là “Darshana” có nghĩa là
“chiêm ngưỡng” nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy
ngẫm dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất
hiện ở Hy lạp là “Phylosophia”, nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái.
Như vậy Phylosophia vừa mang tính định hướng lại vừa nhấn mạnh đến khát
vọng tìm kiếm chân lý của con người. Tuy nhiên cho dù là ở phương Đông hay
phương Tây, triết học luôn được xem là hình thái cao nhất của tri thức và những
nhà triết học là những nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có
thể làm sáng tỏ bản chất của thế giới sự vật, hiện tượng.
Trong cuốn Từ điển từ và ngữ tiếng Việt thì triết học là “Khoa học nghiên
cứu những quy luật chung nhất của thế giới và sự nhận thức thế giới” [74,
tr.1899]. Còn cuốn Từ điển và danh từ triết học thì triết học được định nghĩa là
30
“khoa học về các quy luật chung nhất mà cả tồn tại (tức giới tự nhiên và xã hội)
lẫn tư duy của con người, quá trình nhận thức phải phục tùng” [74].
Có nhiều định nghĩa khác nhau về triết học nhưng hầu hết những định nghĩa
này đều thể hiện rằng, triết học nghiên cứu toàn bộ vũ trụ và con người ( thế giới,
con người, xã hội và tư duy) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó, giải
thích tất cả các quan hệ trong và ngoài chỉnh thể đó, chỉ ra những quy luật phổ biến
nhất chi phối quy định sự vận động của các sự vật, hiện tượng, quá trình…trong thế
giới, bao gồm cả xã hội, con người và tư duy. Triết học thể hiện toàn bộ sự hiểu biết
của con người dưới dạng tri thức hệ thống. Triết học hình thành thế giới quan và
nhân sinh quan định hướng cho con người trong nhận thức và hành động. Mỗi định
nghĩa tùy theo cách tiếp cận ở từng góc độ khác nhau mà nhấn mạnh chức năng, đối
tượng, nhiệm vụ của triết học khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống
nhau đó là: triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật
chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người,
của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ
thống dưới dạng duy lý. Khái quát lại ta có thể hiểu: “Triết học là hệ thống tri thức
lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vai trò và vị trí của con người trong
thế giới đó” [10, tr.35].
Triết lý
Trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây, nói đến lĩnh vực tư tưởng là nói
tới khái niệm triết học như triết học chính trị, triết học tôn giáo, triết học đạo
đức…Ngược lại ở phương Đông, khái niệm triết lý lại được sử dụng một cách phổ
biến, rộng rãi, phản ánh những tư tưởng, quan niệm về các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội như triết lý nhân sinh, triết lý đạo đức, triết lý sống…Cho đến nay
thì việc định nghĩa triết lý đã được đưa ra trong từ điển và một số công trình khoa
học. Từ điển Tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê (chủ biên) thì: “Triết lý được hiểu
theo nghĩa thứ hai; thứ nhất là lý luận triết học, thứ hai là quan niệm chung và sâu
sắc của con người về vấn đề nhân sinh và xã hội” [89, tr.1035]. Theo Từ điển từ và
ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân triết lý được định nghĩa như sau: “triết là sự sáng
suốt; lý là lẽ; triết lý là lý luận về triết học” [74, tr.1899].
31
Một số công trình nghiên cứu gần đây cũng đưa ra những quan niệm về
triết lý. Theo tác giả Phạm Xuân Nam, trong cuốn sách Triết lý phát triển Việt
Nam mấy vấn đề cốt yếu “triết lý là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm và
đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất
về cuộc sống cũng như về hoạt động thực tiễn đa dạng của con người trong xã
hội, chúng có vai trò định hướng trực tiếp ngược trở lại đối với cuộc sống và
những hoạt động thực tiễn đa dạng ấy” [81, tr.31]. Nguyễn Văn Huyên trong bài
viết Triết lý phát triển của C.Mác và Ph.Ănghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh cho
rằng: “Triết lý có thể hiện bằng một mệnh đề hàm súc những ý nghĩa về nhân
tình thế thái, về tự nhiên và xã hội, nó cũng có thể là một hệ mệnh đề tạo thành
một quan niệm, một luận thuyết (…) triết lý đúng và khoa học thì nó trở thành
cơ sở lý luận khoa học cho một hệ thống quan điểm học thuyết, nó làm công cụ
lý thuyết cho hành động hiệu quả của con người [44, tr.9]. Trong Đối thoại văn
hóa tác giả Hoàng Trinh viết: “Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những tư
tưởng cơ bản được dùng để làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người
về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân làm phương
châm cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hàng
ngày…Có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu chưa có triết học
với hệ thống khái niệm của nó”[130, tr.8]. Còn Nguyễn Minh Đức trong bài viết
Triết lý quân sự truyền thống Việt Nam lại cho rằng: “so với triết học, triết lý có
thể được hiểu ở một trình độ thấp hơn, chỉ là cơ sở lý luận của một hệ thống
quan điểm, một học thuyết và theo nghĩa ở mức độ cao, nó chính là những quan
niệm, tư tưởng sâu sắc nhất của con người về các lĩnh vực đời sống, xã hội” [29].
Các công trình nghiên cứu và khảo sát ở trên đã mang lại nghĩa tường
minh cho khái niệm triết lý. Bản thân nghiên cứu sinh nhận thấy rằng, nếu như
triết học thường được thể hiện một cách có hệ thống, có tính khái quát hóa, trừu
tượng hóa cao qua các nguyên lý, quy luật, phạm trù thì triết lý lại là những tư
tưởng giản đơn, bình dị, được khái quát lên từ những sinh hoạt hoạt vật chất đời
thường và hoạt động lao động sản xuất hàng ngày của con người. Ở mỗi giai
32
đoạn phát triển của lịch sử, triết lý đều là sự suy ngẫm, đúc kết, tổng kết những
điều cơ bản nhất về các mối quan hệ kinh tế, xã hội trong đời sống của mỗi cá
nhân và đời sống của cộng đồng. Trên cơ sở sự chiêm nghiệm đó rút ra những
quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội để phục vụ cho thực tiễn của đời sống.
Triết lý còn là những tư tưởng, quan điểm phản ánh bản chất của các mối
quan hệ diễn ra trong đời sống sinh hoạt mọi mặt của cá nhân hay cộng đồng
theo hướng khẳng định niềm tin, giá trị, đạo lý có tác dụng chỉ đạo cho cách ứng
xử, phương châm sống, suy nghĩ hành động của con người trong những hoàn
cảnh nhất định. Nói cách khác, triết lý là kết quả của sự suy ngẫm chiêm nghiệm
và đúc kết thành những quan điểm và luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi
nhất về cuộc sống cũng như những hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con
người trong xã hội.
Triết lý có vai trò định hướng trực tiếp trở lại đối với cuộc sống cũng như
hoạt động thực tiễn. Triết lý được thể hiện qua ngôn ngữ, nói lên những suy nghĩ
của con người, niềm tin, thái độ, cách nhìn nhận của họ về bản thân hay thế giới
là như thế nào. Triết lý là nỗ lực xây dựng một thế giới quan thống nhất làm cơ
sở cho suy nghĩ, hành động. Sự hình thành một triết lý thường có ý thức, nhưng
cũng có thể vô thức. Nếu triết học lấy tiêu chuẩn khách quan để đánh giá thì triết
lý lại là cái chủ quan của cá nhân, của nhóm, tầng lớp…thậm chí của cả dân tộc.
Triết lý được hình thành tùy vào từng khu vực, từng địa phương sẽ có
những đặc điểm và tính chất riêng biệt. Triết lý cũng được thể hiện ở nhiều lĩnh
vực khác nhau của cuộc sống, có triết lý nhân sinh, triết lý vũ trụ, triết lý lịch sử,
triết lý kinh tế, triết lý đạo đức, triết lý pháp luật. Triết lý rất đa dạng, đủ cỡ, đủ
mức, nếu triết học được hình thành do nghiên cứu thì triết lý lại do trải nghiệm
trong cuộc sống nhằm ứng phó với một thực tiễn. Tùy góc độ, một thực tiễn có
thể sản sinh nhiều triết lý, triết lý có thể thay đổi khi thực tiễn thay đổi.
Như vậy, Triết lý là những quan điểm, quan niệm được rút ra thông qua
trình suy ngẫm, chiêm nghiệm của con người về giới tự nhiên, xã hội và chính
bản thân mình nhằm giải quyết những vấn đề được đặt ra trong thực tiễn cuộc
33
sống. Với nghĩa đó triết lý đóng vai trò là cơ sở giúp định hướng, chỉ đạo cho
hoạt động thực tiễn của con người. Giúp cho con người có cách ứng xử phù hợp
với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình.
Phân biệt triết học với triết lý
Từ những căn cứ về nội hàm hai khái niệm triết học và triết lý đã tìm hiểu
phía trên, chúng ta cần xác định rõ hai khái niệm này dùng để biểu đạt và phản ánh
những đối tượng hoàn toàn khác nhau. Ở Việt Nam chúng ta vẫn có sự phân biệt
giữa triết học và triết lý, tuy nhiên tài liệu phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm này
chưa nhiều, vẫn có những tranh luận xung quanh hai khái niệm này.
Làm rõ sự khác biệt và mối quan hệ giữa triết học và triết lý nhà nghiên
cứu Phạm Xuân Nam đã viết: “khác với triết học, triết lý không phải là môn
khoa học … nhưng triết lý có quan hệ khá mật thiết với triết học, bởi từ hệ thống
những nguyên lý, những luận điểm của một số triết thuyết nhất định, người ta có
thể rút ra những triết lý về cách ứng xử, phương châm sống và hành động của
những cá nhân và cộng đồng nào đó tin theo”[81, tr.31]
Phân biệt giữa triết lý và triết học, trong bài viết Giá trị bền vững của triết
lý dân gian trong toàn cầu hóa (hội thảo quốc tế toàn cầu hóa: Những vấn đề
triết học ở Châu Á – Thái Bình Dương do Viện Triết học tổ chức tại Hà Nội,
tháng 11 năm 2005) tác giả Tô Duy hợp cho rằng: “Triết lý và triết học đều cùng
một phạm trù, đó là thế giới quan và nhân sinh quan. Những triết lý là thế giới
quan kinh nghiệm nó khác với triết học là thế giới quan lý luận” [53]. Trong bài
viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý trên tạp chí Triết học số 3/1998, theo Hồ
Sỹ Quý: “Mặc dù ở nước ta có một số người dịch Philosophy là triết lý nhưng
trong tiếng việt, chúng ta đều biết triết lý và triết học là các khái niệm khác nhau,
dùng để biểu đạt phản ánh những đối tượng khác nhau. Nếu như trong đời sống
xã hội thuật ngữ triết học chỉ được sử dụng như một danh từ và đôi khi được sử
dụng như một tính từ, thì triết lý thường xuyên được sử dụng với cả ba tư cách
danh từ, tính từ, động từ” [95].
Qua một số nghiên cứu và nhận định của các nhà khoa học chúng ta có
34
thể rút ra nhận xét về mối quan hệ giữa triết lý và triết học:
- Triết học và triết lý là hai khái niệm riêng biệt nhưng giữa chúng có
những mối quan hệ nhất định với nhau. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận
chung nhất, khái quát nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và
vị trí của con người trong thế giới đó, vì vậy nó là một hệ thống lý luận chặt chẽ,
còn triết lý không phải là một hệ thống và chưa được kiểm chứng bởi khoa học,
triết lý cũng hẹp hơn triết học. Triết học còn bao gồm cả triết lý.
- Triết lý được hình thành trước triết học, có thể trở thành tiền đề cho sự
hình thành của triết học. Ở một số các quốc gia trong đó có Việt Nam, khi chưa
có triết học đã có triết lý. Triết lý được con người khái quát lại, tổng kết lại từ
chính thực tiễn hoạt động sống, lao động và sinh hoạt của con người.
1.1.2. Triết lý nhân sinh
Nhân sinh
Nhân sinh trong tư tưởng triết học Phương Đông là chủ đề lớn, chiếm vị
trí quan trọng và chính điều đó làm nên nét đặc trưng của triết học Phương
Đông. Khái niệm nhân sinh không khó hiểu, không đa nghĩa nhưng thường hay
bị hiểu sai, về đại thể nhân sinh là quan niệm về đời sống con người, về cuộc đời,
về giá trị làm người. Điều phức tạp ở khái niệm nhân sinh là ngoại diên của khái
niệm quá rộng nên khi nói đến nhân sinh có thể mỗi người lại đặt sự chú ý của
mình vào những đối tượng khác nhau khiến cho nội dung của quan niệm nhân
sinh vô cùng phong phú. Hầu hết các vấn đề được bàn đến trong triết học ở
Phương Đông đều có xu hướng giải đáp các vấn đề nhân sinh.
Triết học Mác là khoa học về các quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội
và tư duy nên nhân sinh cũng là một nội dung mà triết học Mác đề cập đến. Tuy
vậy, trong triết học Mác nội dung nhân sinh được bàn luận ở một góc độ khác so
với các nền triết học trong lịch sử. Triết học Mác chỉ rõ hoạt động của con người
tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua đó mà con người tự hoàn thiện
bản thân mình, xây dựng cũng như thúc đẩy cho sự tiến bộ và phát triển của xã
hội. Nhân sinh trong triết học Mác là những quan điểm duy vật về đời sống của
35
con người như con người là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, về vấn
đề giải phóng con người…
Nhân sinh quan
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân khái niệm
“nhân sinh quan” được hiểu như sau “nhân: người”, “sinh: sống”; nhân sinh là
cuộc sống của con người, “quan: xem xét” là lập trường của một người trong
việc nhận xét mọi mặt của cuộc sống, nhân sinh quan tức là quan niệm về sự
sống của con người [74]. Khi nói tới nhân sinh quan là ta nói tới quan điểm,
quan niệm sống bao gồm hệ thống các giá trị như giá trị cá nhân, giá trị xã hội.
Hệ thống giá trị này sẽ có tác dụng định hướng cho hành vi của con người. Như
vậy, nhân sinh quan chính là quan niệm về cuộc đời, về ý nghĩa, mục đích của
cuộc sống con người.
Khác với động vật, con người ai cũng có quan niệm của mình về cuộc
sống. Đó có thể là nhân sinh quan tự phát, “ngây thơ” của thời cổ đại, sau đó nó
đã được các nhà tư tưởng khái quát lại, nâng lên thành lý luận, tạo ra nhân sinh
quan tự giác, mang tính nguyên lý triết học. Nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã
hội của con người. Nội dung của nó biểu hiện những nhu cầu, lợi ích, khát vọng
và hoài bão của con người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể. Trong xã hội có giai
cấp, nhân sinh quan có tính giai cấp. Nhân sinh quan có tác dụng lớn đến hoạt
động của con người. Nó trở thành niềm tin, lối sống, tạo ra phương hướng, mục
tiêu cho hoạt động (lí tưởng sống). Nếu phản ánh đúng khuynh hướng khách
quan của lịch sử thì nó là nhân tố mạnh mẽ để cải tạo xã hội một cách hợp lí; nếu
phản ánh không đúng thì nó có tác dụng ngược lại, cản trở xã hội tiến lên.
Trong lịch sử xã hội trước đây, hoạt động của một bộ phận người bị tha
hoá. Từ đó sinh ra những loại hình nhân sinh quan lạc hậu hoặc phản động, phản
khoa học có những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của con người. Triết học
Mác – Lênin với tư cách là một hệ thống lý luận khoa học, cách mạng đã xây
dựng thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn, tích cực cho con người, chỉ rõ
36
hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua đó
giúp con người tự cải tạo chính bản thân. Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc
đẩy quá trình phát triển xã hội, những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã
hội, đem lại một xã hội tốt đẹp tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời
qua đó mà hoàn thiện những năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình. Đó là
nhân sinh quan cách mạng, mang tính khoa học của giai cấp vô sản và của con
người mới trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Triết lý nhân sinh
Trong nền văn hóa tinh thần của người Việt Nam có một hệ thống triết lý
hết sức đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực như triết lý nhân sinh, triết lý
quân sự, triết lý giáo dục, triết lý đạo đức. Trong đó triết lý nhân sinh đóng một
vai trò rất quan trọng và bao quát những nội dung còn lại.
Việc định nghĩa khái niệm triết lý nhân sinh đã xuất hiện trong một số từ
điển và công trình nghiên cứu. Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì triết lý
nhân sinh được tạo thành từ hai khái niệm là triết lý và nhân sinh. “Triết lý là lý
luận về triết học hay là quan niệm của con người về các vấn đề nhân sinh và xã
hội, nhân sinh còn có nghĩa là cuộc sống của con người” [89]. Trong cuốn Triết
lý nhân sinh của Lê Kiến Cầu đã đề cập đến khái niệm nhân sinh với ba nghĩa là
sinh mệnh, cuộc sống và phương hướng của con người [11]. Tác giả cho rằng:
“nói về sinh mệnh con người là nói đến sự sinh tồn của con người. Những yếu tố
cơ bản duy trì sự sinh tồn của con người là tinh thần và vật chất. Trong sự sinh
tồn con người cần đến những yếu tố vật chất đó là nguồn tài nguyên của tự
nhiên. Đồng thời, sự sinh tồn cũng cần được nuôi dưỡng bởi lý tưởng, tri thức và
phẩm hạnh. Sự kết hơp giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần là nền tảng cho sinh
mệnh của con người tồn tại và phát triển. Nói đến cuộc sống của con người là
nói đến mục đích sống, đời sống nội tâm, đời sống ngoại cảnh, đời sống vật chất
và đời sống tinh thần. Nói đến phương hướng của con người là mục tiêu, lý
tưởng của cuộc sống. Đó là cái đích để con người hướng tới. Nó như ngọn hải
đăng soi đường giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách để đạt tới
khát vọng của mình.
37
Định nghĩa về triết lý nhân sinh tác giả Trần Đăng Sinh trong cuốn Triết
lý nhân sinh trong văn hóa Việt Nam cho rằng “Triết lý nhân sinh là quan điểm
của con người về chính con người và cuộc sống của họ, về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và con người với con người, là sự định hướng, phương châm
hành xử của con người trong cuộc sống” [134, tr. 275]. Cũng trong cuốn sách
này tác giả Lê Văn Đoán nhận định “Triết lý nhân sinh là quan niệm chung và
sâu sắc của con người về cuộc sống, về mối quan hệ và cách ứng xử giữa người
với người trong đời sống từ gia đình cho đến ngoài xã hội. Về thực chất triết lý
nhân sinh là bộ phận thuộc nhân sinh quan, trong đó bao gồm những quan niệm
về cuộc sống của con người, nó trả lời cho các câu hỏi lẽ sống của con người là
gì? Mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như thế
nào cho xứng đáng?” [134, tr.181]. “Triết lý nhân sinh là những quan niệm, quan
điểm chung của một con người, một cộng đồng người, trong việc xem xét mọi
mặt của cuộc sống, là những quan niệm của con người về cuộc sống, là tâm tư
tình cảm, ước mơ, khát vọng, lý tưởng sống của con người” [134, tr.15]. Trong
cuốn Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tác giả Hoàng Thúc Lân cho rằng
“Triết lý nhân sinh là những quan niệm về cuộc sống, lẽ sống, mục đích, ý nghĩa,
giá trị sống và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của con người trong mối
quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình”. [75, tr.17]
Thông qua một số nghiên cứu về triết lý nhân sinh ta có thể kết luận triết
lý nhân sinh được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, đây là những quan niệm
về cuộc sống của con người nhằm lý giải cụ thể lẽ sống của con người là gì?
Mục đích, ý nghĩa giá trị cuộc sống của con người, đưa ra những chuẩn mực phù
hợp cho con người trong cuộc sống. Triết lý nhân sinh theo nghĩa hẹp, là hệ
thống quan điểm của con người về bản thân mình, về mối quan hệ của bản thân
con người với tự nhiên và mối quan hệ của con người với con người trong xã
hội. Bên cạnh đó, triết lý nhân sinh còn thể hiện nhu cầu và lợi ích, khát vọng,
hoài bão, mong ước của con người về tự nhiên cũng như về các mối quan hệ
giữa những con người với nhau. Triết lý nhân sinh có tác động to lớn đến đời
38
sống con người, nó trở thành niềm tin, lối sống, tạo ra phương hướng, mục tiêu
cho hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội của con người.
Có thể kết luận, triết lý nhân sinh là những quan niệm, quan điểm về cuộc
sống, lẽ sống, mục đích, giá trị sống, về mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, xã hội và bản thân mình, từ đó định hướng cho hoạt động thực tiễn của
con người.
1.1.3. Truyện cổ tích Việt Nam
Nguồn gốc của truyện cổ tích Việt Nam
Truyện cổ tích là một thể loại thuộc loại hình tự sự của văn học dân gian
Việt Nam, nó có quá trình hình thành, phát triển lâu dài trong nền văn học dân
tộc. Phần lớn truyện cổ tích được ra đời trong thời kì công xã nguyên thủy tan
rã và phát triển mạnh trong xã hội phong kiến. Khi chế độ công xã thị tộc tan
rã, được thay thế bằng gia đình riêng lẻ, xã hội có sự phân chia giai cấp một
cách sâu sắc, nhà nước được hình thành, trong lòng xã hội lúc này xuất hiện
những giai cấp, tầng lớp mới và đi kèm với đó là những mâu thuẫn, xung đột
gay gắt. Truyện cổ tích ra đời như một hình thức nghệ thuật nhằm lí giải các
vấn đề xã hội theo xu hướng bảo vệ, bênh vực, cho những nạn nhân của xã hội
trước sự thay đổi lớn lao của đời sống mà con người rất dễ bị đẩy vào những
hoàn cảnh bi kịch.
Trong quá trình hình thành và tồn tại, truyện cổ tích Việt Nam đã phản ánh
chân thực, sống động về cuộc sống, quá trình lao động, sản xuất của người Việt
trong lịch sử. Lấy cốt truyện từ những sự việc xảy ra ở một làng quê nào đó và liên
quan đến các nhân vật có thực, truyện cổ tích Việt Nam đã thu hút sự được sự chú
ý, quan tâm và yêu thích của nhân dân. Vì thế truyện cổ tích Việt Nam được các
thế hệ gìn giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trong quá trình truyền
khẩu, dưới tác động của không gian và thời gian, xung quanh cốt truyện có những
tình tiết mới tiếp tục được bổ sung, thêu dệt thêm tùy theo trí tưởng tượng của
nhân dân. Ở mỗi thời kì, các tác giả dân gian có thể thêm bớt, bổ sung, tái tạo
cho truyện cổ tích bằng những chi tiết mang tính thời đại theo nhu cầu của con
39
người ở những cộng đồng và những địa phương khác nhau. Chính sự bổ sung này
mà truyện cổ tích Việt Nam ngày càng trở nên hoàn thiện.
Khái niệm truyện cổ tích Việt Nam
Truyện cổ tích là loại hình quan trọng, phong phú nhất của truyện tự sự
dân gian. Nó có rất nhiều thể loại, nhiều kiểu nhân vật và mỗi dạng thức đều tạo
nên sự hấp dẫn riêng biệt với đông đảo tầng lớp nhân dân. Trong ngôn ngữ của
các dân tộc trên thế giới đều có những khái niệm riêng để chỉ truyện kể dân gian
có tính chất hoang đường, kì ảo, và ý nghĩa của chúng trong đời sống, sinh hoạt
cộng đồng. Người châu Âu gọi truyện cổ tích là những truyện kể bên bếp lửa để
liên hệ đến sinh hoạt ra đình, những cuộc trò truyện ấm cúng của các thành viên
gia đình, cộng đồng. Đến với truyện cổ tích người ta có thể cảm nhận được vẻ
đẹp kì ảo, phong phú đầy tính bất ngờ thể hiện sự lạc quan yêu đời, tràn đầy ước
mơ bay bổng và trí tuệ sâu sắc của nhân dân.
Tình hình tư liệu của truyện cổ tích rất phong phú, ranh giới của nó với
các thể loại tự sự dân gian khác cũng không thật rõ ràng (có tình trạng giao thoa
với thần thoại, truyền thuyết). Vì thế, cách hiểu về khái niệm truyện cổ tích của
các nhà nghiên cứu cũng rất đa dạng.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê đưa ra khái niệm: “Truyện
cổ tích là truyện cổ dân gian phản ánh cuộc sống đấu tranh trong xã hội thể hiện
tình cảm, đạo đức, ước mơ của nhân dân, về hình thức thường mang yếu tố thần
kì, tượng trưng và ước lệ” [ 89 , tr.16].
Cuốn Giáo trình văn học dân gian, Vũ Anh Tuấn đã đưa ra nhận định khái
quát về truyện cổ tích “Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ
yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với
đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như công lý xã hội và ước mơ một cuộc
sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [115, tr.116].
Trong cuốn Văn học Việt Nam những công trình nghiên cứu do Bùi Mạnh
Nhi (chủ biên) được xuất bản năm 2012, bài viết của Chu Xuân Diên cho rằng
việc đưa ra khái niệm cụ thể về truyện cổ tích là rất khó. Trên cơ sở các định
40
nghĩa trước đó theo tác giả, truyện cổ tích có thể hiểu như sau: “1. Truyện cổ tích
đã xảy ra từ trong xã hội nguyên thủy, do đó có những yếu tố phản ánh thần
thoại của nội dung về các hiện tượng tự nhiên và xã hội và có ý nghĩa ma thuật.
Song truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp nên chủ đề của nó
là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn
màu muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử khi đã có chế
độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp;
2. Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực tại,
đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan điểm về công lý xã hội
và mơ ước của người lao động về cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại; 3.
Truyện cổ tích là sản phẩm trí tưởng tượng thần kỳ, đa dạng và phong phú của
nhân dân, và ở một bộ phận chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kỳ tạo nên một đặc
trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ” [87, tr.204].
Trong Giáo trình văn học dân gian của Trần Hoàng, ông cho rằng: “Truyện cổ
tích là sản phẩm của trí tưởng tượng dân gian, nhưng so với thần thoại, ở truyện cổ tích,
tưởng tượng đã có sự biến đổi, và phát triển mới” [50, tr.38].
Nhà văn Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của
mình, đưa ra quan điểm: “Khi nói mấy tiếng “truyện cổ tích” hay “truyện đời
xưa”, chúng ta đều sẵn có quan niệm rằng, đấy là một danh từ chung bao gồm
hết thảy các loại truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các
thời đại” [12, tr.43]. Theo Nguyễn Đổng Chi khái niệm truyện cổ tích bao hàm
nội dung rộng lớn thường dùng để chỉ nhiều loại truyện khác nhau về đề tài,
phương pháp sáng tác.
Hai tác giả là Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên trong cuốn Văn học dân
gian Việt Nam đã nhận định “Thần thoại là những truyện mà nhân vật là thần, còn
truyện cổ tích thì nhân vật là người; thần thoại là sáng tác dân gian thời nguyên
thủy, còn truyện cổ tích là sản phẩm của xã hội thị tộc dã tan rã, phản ánh đấu
tranh xã hội, thần thoại hấp dẫn bằng những hình tượng mỹ lệ, táo bạo, còn truyện
cổ tích lôi cuốn chúng ta vào những niềm vui, nỗi khổ, không khí đấu tranh chống
lại cường quyền…”[60, tr.64].
41
Tác giả Xuân Tửu trong tạp chí Văn học số 3 năm 1979 đã khái quát lại
định nghĩa truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là loại truyện dân gian có tính
phổ biến, hình thành từ thời cổ đại, phát triển, tồn tại qua nhiều thời kì xã hội
khác nhau, gắn chặt với quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành gia
đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề
cơ bản, những số phận, những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ
biến trong xã hội có giai cấp (ở Việt Nam chủ yếu là xã hội phong kiến). Nó
dùng một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là tưởng tượng và hư cấu
truyện cổ tích) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống
và khát vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ và
tiêu khiển của nhân dân” [133, tr.86-89].
Như vậy, khi nói về khái niệm truyện cổ tích, mỗi nhà nghiên cứu lại đưa
ra những cách hiểu riêng về khái niệm này. Có khái niệm đầy đủ nhưng phức
tạp, có những khái niệm ngắn gọn, đơn giản. Tuy nhiên, những khái niệm này
đều có điểm chung cơ bản khi chỉ ra được truyện cổ tích là sản phẩm của trí
tưởng tượng thần kỳ, đa dạng và phong phú của nhân dân, thể hiện ước mơ của
con người về một xã hội công bằng, bình đẳng, nơi đó có tình yêu và hạnh phúc,
không còn áp bức, bóc lột.
Trên cơ sở khảo cứu những tài liệu liên quan đến khái niệm truyện cổ tích,
tác giả luận án rút ra khái niệm về truyện cổ tích Việt Nam như sau:
Truyện cổ tích Việt Nam là thể loại truyện tự sự dân gian được sáng tác
bởi các tác giả dân gian có cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định,
kể về số phận con người trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan, mơ
ước cháy bỏng của nhân dân lao động về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng
trong xã hội, về phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người. Truyện cổ tích
được chia làm ba loại: cổ tích về loài vật, cổ tích thần kì, cổ tích sinh hoạt.
Đặc điểm truyện cổ tích Việt Nam
Truyện cổ tích Việt Nam ra đời trong xã hội có sự phân chia giai cấp, vấn
đề được đặc biệt quan tâm là số phận cuộc đời của con người trong xã hội.
42
Truyện cổ tích với chức năng cơ bản là an ủi, bênh vực và chia sẻ hoàn cảnh khó
khăn của những nhân vật xấu số. Do đó, trong mỗi câu chuyện cổ tích, người dân
lao động luôn gửi gắm ước mơ về một xã hội tốt đẹp.
Trong cuốn Giáo trình văn học dân gian của Vũ Anh Tuấn được nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam ấn hành năm 2016, tác giả nhận định về đặc điểm của
truyện cổ tích như sau: Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo;
Truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất trong quá khứ, đã trọn vẹn về cốt
truyện, nhưng đồng thời cũng mang tính mở đặc trưng của văn bản văn học dân
gian ở cấp độ chi tiết, môtip; truyện cổ tích mang tính giáo huấn cao, mỗi câu
chuyện là một bài học về đạo đức, ứng xử, về lẽ công bằng, thưởng phạt công
minh” [115, tr.117].
Ở cuốn Một vài vấn đề về văn học dân gian của Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam, xuất bản năm 2012, các tác giả đưa ra đặc điểm về truyện cổ tích trên
cơ sở đặc điểm của các loại truyện tiêu biểu cho các bộ phận hợp thành thể loại
truyện cổ tích gồm có: Truyện cổ tích loài vật; truyện cổ tích thần kì và truyện cổ
tích sinh hoạt.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đó, tác giả luận án cho rằng, truyện cổ tích Việt Nam có những đặc điểm
cụ thể như sau:
Một là, truyện cổ tích Việt Nam phần lớn nội dung chứa đựng yếu tố tưởng
tượng. Trong đó, thể loại truyện sinh hoạt chiếm tỷ lệ không nhỏ, ngoài ra là thể
loại truyện thần kì hay truyện về loài vật hoặc truyện phiêu lưu mạo hiểm.
Hai là, truyện cổ tích Việt Nam phản ánh đời sống xã hội của người Việt
xưa, thể hiện bản chất tâm hồn người Việt với lối sống hiền hòa, lòng nhân ái,
bao dung.
Ba là, tính phê phán hiện thực đời sống xã hội khá sâu sắc trong truyện cổ
tích Việt Nam, nhân vật chính thường tỏ ra bất mãn với những tập quán lạc hậu,
cổ hủ, phản ứng lại cái nhỏ mọn, tầm thường.
Bốn là, truyện cổ tích Việt Nam thường đề cao vai trò tích cực của người
43
phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, thể hiện mơ ước về tình yêu và được tự do
hôn nhân.
Nội dung chủ yếu của truyện cổ tích Việt Nam
Truyện cổ tích phản ánh những xung đột, mâu thuẫn diễn ra trong gia đình
và ngoài xã hộị.
Do ra đời và phát triển song song với quá trình tan rã của gia đình thị tộc,
mẫu hệ, sự hình thành của gia đình phụ quyền và quá trình phân hóa giai cấp của
xã hội, nên truyện cổ tích chủ yếu phản ánh những mối quan hệ, giải quyết xung
đột mâu thuẫn giữa người với người trong gia đình và ngoài xã hội. Phần lớn
truyện cổ tích tiêu biểu và quen thuộc với quần chúng nhân dân đều xoay quanh
đề tài sinh hoạt gia đình, phản ánh, lý giải các xung đột hay mâu thuẫn có tính
chất riêng tư nhưng phổ biến, như anh em trai trong truyện Cây khế; chị em gái
trong truyện Sọ Dừa; giữa dì ghẻ với con chồng và anh chị em cùng cha nhưng
khác mẹ trong truyện Tấm Cám; giữa con đẻ và con nuôi trong truyện “Thạch
Sanh”… Hay những xung đột mang tính chất bi kịch trong hôn nhân và gia đình,
như truyện Giết chó khuyên chồng; truyện Trầu cau, truyện Ba Ông Bếp, truyện
Quan Âm Thị Kính... Các xung đột trong xã hội diễn ra bên ngoài quan hệ gia đình
cũng được truyện cổ tích bàn tới, nhưng có phần ít hơn.
Việc lên án, tố cáo những nhân vật bề trên, những người anh, người chị,
người dì ghẻ trong truyện cổ tích cũng chính là sự chống lại những tôn ti, tập tục
bất công, vô lý của gia đình phụ quyền (nghĩa là phê phán sự phân biệt con
trưởng, con thứ, con đẻ, con chồng,…). Trên cơ sở đó, tác giả dân gian có thái
độ thẩm mỹ, phân biệt yêu ghét hay phủ định đối với các nhân vật “đàn anh” và
“đàn em”, “chính diện” và “phản diện” trong truyện cổ tích.
Truyện cổ tích cũng động đến những vấn đề xung đột thuộc phạm vi cộng
đồng làng xã: việc tranh chấp ruộng đất giữa làng này và làng kia truyện Gốc
tích ruộng thác đao hay truyện Lê Phụng Hiểu…, mâu thuẫn giữa chủ và tớ,
giữa người giàu và kẻ nghèo truyện Cây tre trăm đốt, Sự tích con khỉ…; rộng
hơn nữa là những vấn đề liên minh hoặc thôn tính giữa bộ lạc này với bộ lạc
44
khác, những cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt trên quá
trình hình thành Nhà nước như truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy, Sự tích thành Lồi,
Người ả đào với giặc Minh….
Truyện cổ tích phản ánh khát vọng xây dựng một xã hội lý tưởng của
quần chúng nhân dân, thông qua việc xây dựng các loại hình tượng nhân vật
thần kì và nhân vật đế vương ở trong truyện.
Việc xã hội loài người chuyển từ hình thái xã hội cộng sản nguyên thủy
sang những hình thái xã hội có giai cấp là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử nhân
loại tuy nhiên những hình thái xã hội mới này cũng không thể mang lại cho nhân
dân một cuộc sống tốt đẹp như họ mong muốn. Bước sang thời kì xã hội có giai
cấp, những người bị thiệt thòi, mất mát và khổ đau nhiều nhất, trước hết là nhân
dân lao động, những người bề dưới, họ luôn bị các giai cấp thống trị áp bức, bóc
lột nặng nề. Họ bị tước đi quyền dân chủ, luôn phải chịu thiệt thòi cả về mặt vật
chất lẫn tinh thần.
Trong truyện cổ tích thần kì, những nhân vật người em hay người bề dưới
thường được nhìn nhận, miêu tả như những người đẹp nhất trong gia đình hay
ngoài xã hội. Họ mang vẻ đẹp về hình dáng, vẻ đẹp tâm hồn là hiền lành, thật thà
và luôn dành tình yêu thương với muôn loài. Thế nhưng những nhân vật này là
nạn nhân của những xung đột trong gia đình phụ quyền đang hình thành, đáng lẽ
phải đứng lên phá vỡ tôn ti trật tự bất công của kiểu gia đình này để xây dựng
nên một kiểu gia đình mới và tự giải phóng cho bản thân thì họ lại tỏ ra hoàn
toàn bất lực.
Truyện cổ tích còn phản ánh khá rõ sự cùng quẫn, bế tắc của người dân
thời xưa trong việc nhận thức con đường tự giải phóng cho mình. Chính vì vậy,
để khắc phục khó khăn này với trí tưởng tượng phong phú các tác giả dân gian
phải hết sức tích cực, khai thác nguồn tài liệu từ thần thoại, truyền thuyết cổ đại,
tôn giáo… để xây dựng hình tượng các nhân vật phụ như ông Bụt, ông vua,
hoàng tử, công chúa… Tuy vai trò và tính chất khác nhau nhưng những nhân vật
phụ này đều gắn với việc thực hiện lý tưởng thẩm mỹ và mơ ước về cuộc sống
tốt đẹp của nhân dân lao động trong truyện cổ tích.
45
Truyện cổ tích thể hiện nhận thức của nhân dân về các giá trị chân-
thiện – mỹ
Truyện cổ tích đã thể hiện cảm quan thẩm mỹ lành mạnh, nhân văn của nhân
dân ta về các giá trị chân- thiện – mỹ. Trong các câu truyện cổ tích, các tác giả dân
gian thường đề cao sự chân thật của con người trong cuộc sống, cho rằng sự thật
nhất định sẽ thắng sự dối trá. Truyện cổ tích còn bảo vệ cho cái thiện, khẳng định
cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác, cái tích cực trước sau sẽ đè bẹp cái tiêu cực.
Trong quan niệm về cái đẹp, truyện cổ tích không chỉ ca ngợi vẻ đẹp trí tuệ và thể
chất của con người như sự thông minh, tài trí, sức khỏe phi thường mà còn ca ngợi
vẻ đẹp tâm hồn của người Việt với những phẩm chất thủy chung, ngay thẳng, tính
cương trực, hành động vì lẽ phải,... Thông qua các câu truyện, tác giả dân gian cũng
lên án những thế lực hắc ám, tàn ác, những thói hư tật xấu của con người từ đó góp
phần giáo dục, định hướng nhân cách con người Việt Nam theo các giá trị chân,
thiện, mỹ mà cha ông ta đã đúc kết qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Truyện cổ tích thể hiện triết lý sống, đạo lý làm người và mơ ước công lý
của quần chúng nhân dân.
Nội dung truyện cổ tích bao giờ cũng chứa đựng triết lý sống, đạo lý làm
người của nhân dân, phần cốt lõi nhất của triết lý sống và đạo lý làm người là tinh
thần lạc quan, với niềm tin vào cuộc sống và tình yêu thương với muôn loài. Nói
đến tinh thần lạc quan trong truyện cổ tích, người ta thường nghĩ đến kết thúc có
hậu ở thể loại truyện này. Thực ra kết thúc truyện có hậu chỉ là biểu hiện dễ nhận
thấy nhất chứ không phải là duy nhất. Vì có rất nhiều truyện cổ tích có kết thúc bi
thảm, các nhân vật chính phải chết hoặc ra đi biệt xứ, nhưng tinh thần vẫn tỏa sáng
thể hiện niềm tin vào cuộc sống, như truyện Trầu cau, truyện Đá vọng phu, truyện
Sự tích ba ông đầu rau là điển hình.
Truyện cổ tích nào cũng ít nhiều có mục đích, nội dung bàn đến việc giáo
dục đạo đức. Có những truyện hướng hẳn vào vấn đề đạo đức, với mục đích ca
ngợi và biểu dương hành vi đạo đức cao thượng; đồng thời, lên án những thói
hư, tật xấu đang phá vỡ những chuẩn mực đạo đức xã hội như truyện Sự tích con
muỗi, truyện Tam và Tứ, truyện Đứa con trời đánh.
46
Bên cạnh triết lí sống lạc quan, tích cực, truyện cổ tích còn thể hiện ước
mơ công lý của nhân dân với niềm tin “ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ”. Mỗi
truyện cổ tích đều xây dựng nên một hiện thực hết sức đẹp đẽ, ở đó nhân dân lao
động thực thi lý tưởng, thể hiện mong ước của mình về sự công bằng trong xã
hội. Với mong muốn người hiền lành, lương thiện được hưởng hạnh phúc sung
sướng, kẻ xấu xa ác độc bị trừng trị, xã hội được sắp xếp lại theo trật tự hợp lý,
người lao động được làm chủ cuộc sống của mình, kẻ bóc lột bị tước bỏ mọi
quyền vị, những cuộc đời cùng khổ sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp. Đây là
những viễn cảnh chỉ có thể có được trong thế giới cổ tích, là một nội dung thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của truyện cổ tích Việt Nam.
Ý nghĩa của truyện cổ tích Việt Nam
Truyện cổ tích Việt Nam còn có ý nghĩa to lớn với việc giáo dục đạo đức
truyền thống, giúp cho con người có thể nhận thức, hình thành các chuẩn mực
đạo đức cơ bản, hình thành nhân cách. Thông qua truyện cổ tích thế hệ trẻ sẽ rút
ra được những bài học cho bản thân mình, để rèn luyện phấn đấu sống và làm
theo những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp đó.
Truyện cổ tích Việt Nam còn có ý nghĩa quan trọng trong việc khơi gợi
tình yêu quê hương, đất nước trong mỗi con người. Từ những cảnh đẹp, những
danh thắng nổi tiếng đến không gian làng xóm thân thuộc, những cây cỏ, giống
vật đều gần gũi và thân thiết với đời sống người Việt, tất cả đã đi vào truyện cổ
tích một cách hài hòa, tự nhiên. Bằng việc mô tả chân thực những hình ảnh về
quê hương, đất nước, lối sống, phong tục tập quán, những nét đẹp văn hóa trong
đời sống của người Việt, truyện cổ tích đã giúp cho các thế hệ sau thêm hiểu,
yêu mến và tự hào về Tổ quốc của mình.
Truyện cổ tích Việt Nam còn phản ánh chân thực, sâu sắc tất cả những
vấn đề bức thiết nhất của đời sống xã hội thời phong kiến. Bằng những hình
tượng nghệ thuật sinh động, truyện cổ tích đã trình bày những vấn đề mới nảy
sinh trong xã hội có giai cấp và thể hiện rõ quan điểm của nhân dân về công lý
xã hội, về đạo đức, nhân sinh. Truyện cổ tích phản ánh đời sống nhân dân, đồng
47
thời phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của người lao động. Trên cơ sở đó
thể hiện khát vọng cải tạo hiện thực, tố cáo những bất công trong xã hội và cổ vũ
nhân dân đấu tranh xây dựng cuộc sống mới công bằng hơn, nhân đạo hơn.
Truyện cổ tích Việt Nam đã thể hiện được vẻ đẹp và sức sống của tâm
hồn, tình cảm, trí tuệ dân gian Việt Nam, tràn đầy tinh thần lạc quan và chủ
nghĩa nhân đạo. Song điều kì diệu đặc biệt làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ
tích là những nội dung triết lý sâu sắc và thẫm đẫm tình người được thể hiện bởi
hình thức có tính nghệ thuật cao với những hình tượng sinh động, kết cấu hài
hòa có tầm khái quát lớn. Nhất là với sự xuất hiện của yếu tố thần kỳ, những nỗi
đau của cá nhân trong xã hội có giai cấp đã không chuyển hẳn thành bi kịch mà
trái lại đã trở thành những ước mơ lành mạnh, lạc quan đầy sức sống.
1.1.4. Triết lý nhân sinh người Việt trong truyện cổ tích Việt Nam
Ở bất kỳ dân tộc nào, khi chưa có sự xuất hiện của triết học với tư cách là
những học thuyết về các nguyên lý chung và các quy luật của thế giới thì văn học
dân gian là phương tiện hiệu quả nhất để thể hiện những quan niệm, triết lý
nguyên sơ nhất của con người về thế giới, về bản thân và cuộc sống của con
người. Đối với người Việt Nam, các tác phẩm văn học dân gian nói chung và
truyện cổ tích nói riêng là phương thức tốt nhất để truyền tải một cách cô đọng,
ngắn gọn những khám phá, nhận thức biểu hiện thành quan niệm khái quát của
các tác giả về vấn đề nhân sinh và xã hội. Chất triết lý trong tác phẩm văn học dân
gian đặc biệt là truyện cổ tích đã in dấu của trí tuệ vô cùng nhạy bén và sắc sảo
của các tác giả về những vấn đề thiết thân, phổ quát của con người trong cuộc
sống hàng ngày. Vì vậy, kho tàng triết lý của người Việt nằm trong truyện cổ tích
rất đa dạng và phong phú.
Triết lý nhân sinh của người Việt do chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của con người
nơi đây do đó nó có tính đặc thù riêng, không thể pha trộn hay nhầm lẫn với triết
lý nhân sinh của các quốc gia, dân tộc khác.
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam rất đa dạng với những câu truyện cổ tích
48
được các tác giả dân gian sáng tác được tập hợp lại ở trên mọi miền của Tổ quốc.
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam có chứa những câu truyện cổ tích rất thân
thuộc gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt, thể hiện rõ nét tâm tư, tình
cảm, quan niệm về cuộc sống, lẽ sống của người Việt Nam.
Sự ra đời và phát triển của truyện cổ tích gắn liền với quá trình xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của người Việt. Vì vậy mà truyện cổ tích
đã góp phần phản ánh mọi mặt trong đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Truyện cổ tích có sự gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của người
dân lao động Việt Nam, là bức tranh toàn diện về cuộc sống lao động và đời
sống tinh thần của người dân. Tìm hiểu về truyện cổ tích Việt Nam ta thấy
rằng, suy đến cùng đối tượng phản ánh trong truyện đều do những điều kiện
lịch sử, do những hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần của đời sống nhân
dân quy định. Quá trình sống, lao động sản xuất và chiến đấu của người dân
đã góp phần hình thành nên những câu truyện cổ tích, sau đó những câu
truyện này lại quay trở lại phục vụ cho đời sống tinh thần của nhân dân, làm
phong phú đời sống tinh thần của người lao động, đồng thời nó còn mang lại
những bài học quý báu về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đối nhân xử thế của
ông cha truyền lại cho các thế hệ sau.
Truyện cổ tích Việt Nam và những triết lý nhân sinh chứa đựng trong đó
là những sáng tạo, là sản phẩm tinh thần mang tính tập thể do các tác giả dân
gian tạo nên, các tác giả chính là những người lao động, những người vẫn hàng
ngày, hàng giờ tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Triết lý nhân
sinh trong truyện cổ tích Việt Nam được truyền lại các thế hệ sau bằng hình thức
truyền miệng. Bởi vì bản thân truyện cổ tích là loại hình nghệ thuật văn học dân
gian truyền miệng thông qua lời kể của bà, của mẹ cho con cháu. Do đó, cốt
truyện có sự biến thể ở mỗi một khu vực, qua mỗi một giai đoạn lịch sử, nhưng
những triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam vẫn không hề bị mất đi
mà luôn có sự chắt lọc và gìn giữ được những giá trị truyền thống của dân tộc ở
trong đó. Nhờ hình thức lưu truyền đặc biệt này mà những giá trị nhân sinh có
49
thể dễ dàng đến với người nghe một cách tự nhiên, đi sâu vào tâm trí, tâm hồn
của con người, và được người dân lao động vận dụng vào cuộc sống đời thường
của mình. Cũng nhờ cách thể hiện gần gũi này mà triết lý nhân sinh trong truyện
cổ tích Việt Nam có thể đến gần với người dân lao động, có ý nghĩa và tác dụng
thiết thân với cuộc sống của họ chứ không kinh viện, sách vở như những tư
tưởng triết học.
Như vậy có thể hiểu, triết lý nhân sinh của người Việt trong truyện cổ tích
Việt Nam là những quan điểm, quan niệm của người Việt về cuộc sống, mục
đích, lẽ sống của con người, về cách ứng xử của con người trong mối quan hệ
với tự nhiên và xã hội, được thể hiện thông qua các câu truyện cổ tích, nhằm
giáo dục con người hướng tới những hành vi, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, từ đó
định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
Triết lý nhân sinh của người Việt trong truyện cổ tích Việt Nam chủ yếu
xoay quanh ba nội dung cơ bản đó là: mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên, mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình và xã hội, mối
quan hệ giữa con người với chính bản thân mình. Triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam là một bộ phận quan trọng
thuộc triết lý nhân sinh của người Việt. Vì vậy, nội dung cơ bản trong triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam cũng có
nhiều điểm tương đồng, gần gũi với nội dung triết lý nhân sinh của người Việt
trong truyện cổ tích Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm chung, điểm
tương đồng thì nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam cũng có những đặc trưng riêng biệt được quy định bởi
các yếu tố như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở văn hóa, tín
ngưỡng, cơ sở nhận thức và tâm lý của vùng đồng bằng Bắc bộ. Do đó, muốn
nghiên cứu về triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam trước hết cần phải tìm hiểu về cơ sở hình thành triết lý nhân sinh
của vùng đất này.
50
1.2. Cơ sở hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam
Trong truyện cổ tích Việt Nam có nhiều câu truyện được sáng tác bởi các
tác giả dân gian là cư dân của vùng đồng bằng Bắc bộ. Những câu truyện này đã
phản ánh được nét đặc trưng trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nơi đây. Cũng giống như triết lý nhân sinh của người Việt, triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam cũng rất phong phú và
đa dạng, được thể hiện trên nhiều mặt của cuộc sống xã hội, từ cách ăn, mặc, ở,
tín ngưỡng, tôn giáo đến cách đối nhân xử thế… Những triết lý này được hình
thành thông qua những kinh nghiệm sống, đó là sự suy tư, là những quan điểm,
quan niệm được khái quát lên trong quá trình lao động sản xuất, sinh hoạt vật
chất và tinh thần, quá trình chống ngoại xâm. Có thể nói, truyền thống văn hóa,
giá trị lịch sử tiếp biến cùng với các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội đã hình
thành nên triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam đã phản ánh tồn tại xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử. Là công cụ thể hiện thế giới quan, tình cảm, tâm
trạng, quan niệm của người dân Bắc bộ nên nó mang những đặc trưng riêng biệt
của con người ở vùng đất này. Những triết lý này được nảy sinh trên cơ sở cảm
xúc thẩm mỹ của cư dân đồng bằng Bắc bộ, vì vậy nó phản ánh quan điểm, cách
nhìn nhận của con người nơi đây về cuộc sống thông qua các mối quan hệ với
giới tự nhiên, gia đình, xã hội và với chính bản thân mình. Đồng thời nó cũng
gửi gắm những tâm trạng của con người về cuộc sống như: khát vọng về hạnh
phúc, tình yêu, sự công bằng, bình đẳng, tự do cá nhân.
Như vậy, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam là những quan điểm, quan niệm của cư dân đồng bằng Bắc bộ về cuộc
sống, mục đích, lẽ sống, về cách ứng xử của con người trong mối quan hệ với tự
nhiên, xã hội và với bản thân mình, được thể hiện thông qua các câu truyện cổ tích
Việt Nam, nhằm giáo dục con người hướng tới hành vi, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp,
từ đó định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
Sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện
51
cổ tích Việt Nam được dựa trên những điều kiện về địa lý, tự nhiên và kinh tế-xã
hội của vùng đồng bằng Bắc bộ cũng như những cơ sở về văn hóa tín ngưỡng, cơ
sở nhận thức và tâm lý đặc trưng của vùng. Chính những yếu tố này đã tạo ra sự
khác biệt trong nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ so với
triết lý nhân sinh của người Việt và các vùng đất khác.
1.2.1 Điều kiện địa lý, tự nhiên và kinh tế-xã hội ảnh hưởng đến sự
hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
Điều kiện địa lý, tự nhiên của đồng bằng Bắc bộ
Đồng bằng Bắc bộ là vùng đất giàu truyền thống và mang những nét văn
hóa đặc trưng nhất của Việt Nam. Nơi đây được coi là cái nôi của văn hoá -
lịch sử dân tộc. Đồng bằng Bắc bộ có những điều kiện tự nhiên rất khác biệt so
với các vùng khác. Đây là khu vực có những hệ thống sông lớn: sông Hồng,
sông Thái Bình. Có thể xác định đồng bằng Bắc bộ bao gồm các tỉnh: Hà Tây
cũ, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội,
thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Ninh.
Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc bộ là tâm điểm của con đường giao lưu
quốc tế theo hai trục chính: tây- đông và bắc-nam. Vị trí này khiến cho nó trở
thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục
tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả các thế lực xâm lược muốn bành trướng thế lực
vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho cư dân trong vùng giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung
lũng thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 –
15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình
cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương
(Bắc Ninh); có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định; Hà Nam là
vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v…
Khí hậu vùng đồng bằng Bắc bộ rất độc đáo. Đồng bằng Bắc bộ có một
52
mùa đông lạnh với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ, do có dạng khí
hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được ít vụ lúa
hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa
đông bắc vừa lạnh và ẩm, mùa hè lại nóng ẩm, nhiệt độ cao trên 35 độ. Về môi
trường nước, đồng bằng Bắc bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng
0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, cùng
các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai
mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai
mùa rõ rệt: mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước
đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có
một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố địa lý, địa hình, khí hậu
và môi trường nước đã tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú,
tâm lí, ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên
nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái
riêng độc đáo của mình.
Đồng bằng Bắc bộ có đặc điểm riêng về vị trí địa lý cũng như địa hình, tài
nguyên, sinh thái, khí hậu, nơi đây thiên nhiên phong phú và đa dạng, chứa đựng
nhiều tiềm năng to lớn cũng như đặt ra không ít những thách thức với con người.
Người lao động sống ở vùng đất này vừa phải thích nghi, vừa phải khai phá tài
nguyên để phát triển sản xuất, duy trì cuộc sống lại phải chống lại sự bất lợi của
thiên nhiên và môi trường. Chính vì lẽ đó mà một trong những đặc điểm cơ bản
của con người nơi đây là tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Đây cũng là một
triết lý nhân sinh phổ biến được đề cập đến trong nhiều câu truyện cổ tích. Những
cư dân của vùng đồng bằng Bắc bộ đã liên kết với nhau tạo nên một khối thống
nhất để đấu tranh chống lại thiên tai, địch họa bảo vệ của cải, mùa màng và cuộc
sống của cộng đồng. Rất nhiều câu truyện cổ tích đã ra đời thể hiện sức sống
mãnh liệt, tinh thần lạc quan, yêu đời của cư dân vùng đất này trong quá trình lao
động, sản xuất, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng cộng đồng, quê hương.
53
Điều kiện kinh tế - xã hội
Những điều kiện về tự nhiên đã ảnh hưởng rất lớn đến đặc trưng về kinh
tế - xã hội. Cư dân nơi đây sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp là
chính. Phương thức canh tác cơ bản của cư dân đồng bằng Bắc bộ vẫn là trồng
lúa nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Cùng với cây lúa,
cây trồng ở Bắc bộ rất phong phú, còn nhiều loại cây khác nhau phù hợp với chất
đất từng vùng và khí hậu từng mùa. Do đất đai ở đây không nhiều, dân cư lại
đông, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã
làm thêm nghề thủ công. Ở đồng bằng Bắc bộ, trước đây, người ta đã từng đếm
được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp
với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử
phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng … Bắc bộ là
một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc
khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương
cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá
tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên,
ba canh điền.
Trong lịch sử phát triển kinh tế của khu vực đồng bằng Bắc bộ thì kinh tế
nông nghiệp luôn đóng vai trò chủ đạo với một phương thức sản xuất phong kiến
kiểu châu Á đặc trưng kéo dài hàng nghìn năm trong lịch sử phát triển của vùng
đất này. Do nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đó đã tạo nên những đặc điểm trong
tư duy của con người như tính bảo thủ, trì trệ, khuôn thước chật hẹp, gò bó trong
tư duy, tư tưởng. Nhưng cũng do gắn liền với nghề nông nghiệp trồng lúa nước
theo thời vụ như vậy mà tư duy của cư dân đồng bằng Bắc bộ có nhiều đặc tính
giống như nước, mềm mại, uyển chuyển như nước, linh hoạt nhưng cũng rất bền
bỉ, thiên về nhu, về tĩnh.
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng là nơi
sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau: Văn hóa Đông Sơn,
văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan
54
truyền vào Trung bộ rồi Nam bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống
mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt.
Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng đồng bằng Bắc bộ có những nét đặc
trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng của vùng này.
Về mặt tổ chức xã hội, những người dân Bắc bộ sống quần tụ thành làng.
Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn ở đồng bằng Bắc bộ, tế bào sống của
xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy chuyển sang
công xã nông thôn. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng của người Việt ở Bắc
bộ mang đặc trưng của một kiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu
nông, nói như Nguyễn Từ Chi trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả
Trần Quốc Vượng là “một biển tiểu nông tư hữu” [136, tr.203]. Về mặt sở hữu
ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của
làng Việt Bắc bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây “nhạt nhòa” – chữ dùng của
Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng
của nền kinh tế tự cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự “bằng vai”,
“bằng vế” như kiểu câu tục ngữ “giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần”.
Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là
quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng,
chùa làng v.v…, mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã
hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước
của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt
chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy
định về sản xuất và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức
cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ
nhận. Những đặc điểm ấy của làng Việt vùng đồng bằng Bắc bộ sẽ góp phần
tạo ra những đặc điểm riêng biệt của vùng văn hóa Bắc bộ cũng như ảnh hưởng
đến sự hình thành tư tưởng và triết lý nhân sinh của người dân nơi đây.
Bên cạnh điều kiện địa lý, tự nhiên thì điều kiện kinh tế - xã hội cũng có
ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
55
Bắc bộ. Phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống kết hợp với quan hệ xã
hội theo kiểu tổ chức làng xã đã làm nên lối tư duy rất đặc trưng của con người
nơi đây và được thể hiện một cách rất rõ nét qua các câu truyện cổ tích.
1.2.2. Cơ sở văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến sự hình
thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
Cơ sở văn hoá
Vùng đồng bằng Bắc bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi
khai sinh của các vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền
văn hóa Đông Sơn, Thăng Long – Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa,
văn minh người Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu
được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Văn hóa Bắc bộ bao gồm cả văn hóa vật
thể và văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa phi vật thể của đồng bằng Bắc bộ cũng khá đa dạng và
phong phú. Kho tàng văn học dân gian Bắc bộ có thể coi như một loại mỏ với
nhiều khoáng sản quý hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục
ngữ, từ truyện cười đến truyện trạng và đặc biệt là truyện cổ tích. Mỗi thể loại
đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của đồng bằng Bắc bộ, chẳng hạn
truyện trạng ở Bắc bộ như truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn v.v… sử dụng các
hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng
khác. Có những thể loại chỉ ở đồng bằng Bắc bộ mới tồn tại, như thần thoại. Ca
dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam bộ. Truyện cổ tích ở đây cũng
mang những đặc trưng riêng biệt, khác hẳn với những vùng văn hóa khác ở Việt
Nam. Các thể loại thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và
mang sắc thái vùng đậm nét. Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát
chầu văn, hát chèo, múa rối v.v…
Vùng đồng bằng Bắc bộ, theo tác giả Đinh Gia Khánh còn là “nơi phát
sinh nền văn hóa bác học” [59, tr.206]. Sự phát triển của giáo dục, truyền thống
trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí thức ở
Bắc bộ. Nói tới văn hóa tri thức không thể không nhắc tới ảnh hưởng của Nho
56
giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Nho giáo
bắt đầu được du nhập vào Việt Nam cũng như khu vực đồng bằng Bắc bộ vào
thời kì Bắc thuộc, trong những thế kỷ đầu công nguyên. Tuy nhiên phải đến
thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ XI trở đi, Nho giáo mới được nhà nước phong kiến
chú trọng đề cao. Do sự truyền bá chủ động và kiên trì của giai cấp phong kiến,
trong thời trung đại, Nho giáo đã thẩm thấu vào một một bộ phận của chủ thể
văn hóa Việt Nam là giai cấp quý tộc, quan lại và tầng lớp nho sĩ, quan viên.
Nho giáo cũng bén rễ vào một bộ phận văn hóa tinh thần của xã hội, làm hình
thành dòng văn hóa quan phương chính thống bên cạnh các hoạt động văn hóa
tinh thần của dân gian. Văn hóa tinh thần của Việt Nam đã bị Hán hóa một
phần. Tuy nhiên, bản thân Nho giáo cũng bị Việt hóa trong quá trình thâm nhập
vào văn hóa Việt Nam. Nho giáo góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử
(kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học mô
phỏng Trung Hoa (thơ Đường luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học, các
sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo, các tác phẩm văn học và nghệ thuật chịu
ảnh hưởng của Nho giáo. Các thể loại văn học dân gian Việt Nam trong đó có
truyện cổ tích cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng của các tư tưởng, triết lý Nho giáo.
Văn hóa đồng bằng Bắc bộ bên cạnh việc tiếp nhận vốn văn hóa dân gian
còn tiếp thu những tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo của Trung Quốc, Phật giáo
của Ấn Độ, sau này là văn hóa phương Tây, tạo ra dòng văn hóa bác học mang
đặc trưng riêng của cư dân Bắc bộ. Chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chính là sản phẩm
được tạo ra từ quá trình sáng tạo của trí thức, thể hiện rõ đặc điểm này. Nói đến
văn hóa bác học, không thể không kể đến văn học nghệ thuật. Những nhà văn
hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v… đều trưởng thành và
gắn bó với vùng văn hóa này.
Văn hoá cư trú
Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã chinh phục thiên nhiên, tạo nên
một diện mạo mới cho đồng bằng Bắc bộ như ngày nay, bằng việc đào mương,
đắp bờ, đắp đê. Biết bao cây số đê cũng được tạo dựng dọc các triền sông thuộc
57
hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông
Hồng, sông Thái Bình là kết quả của sự chinh phục thiên nhiên của người Việt ở
đồng bằng Bắc bộ. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa Bắc bộ
và các vùng khác trong cả nước được tạo ra từ sự thích nghi với thiên nhiên. Nhà
ở của cư dân Việt Bắc bộ thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kèo
phát triển. Người nông dân Bắc bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình
theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hòa hợp với cảnh quan thiên nhiên.
Người nông dân Bắc bộ thường có đặc điểm sống quần tụ thành làng. Làng là
đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc bộ. Hình làng quê Việt Nam với cây đa,
giếng nước, sân đình cũng thường xuyên xuất hiện trong các câu truyện cổ tích.
Văn hoá ẩm thực (ăn – uống)
Người dân Bắc bộ có nhiều nét riêng độc đáo trong văn hóa ẩm thực.
Nhưng nổi bật nhất và gắn liền với sinh hoạt thường ngày của người dân Bắc bộ
là tục ăn trầu. Ăn trầu trở thành một phong tục truyền thống của nhân dân ta thể
hiện tình cảm sắt son, thủy chung đẹp đẽ. Miếng trầu bao giờ cũng là “đầu câu
chuyện” để bắt mối lương duyên và những khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè,
ma chay... đều không thể thiếu miếng trầu. Chỉ là têm một miếng trầu mà dân
gian đã tinh tế sáng tạo ra nhiều kiểu dáng khác nhau: trầu cánh phượng, trầu
cánh kiếm, trầu mũi mác, trầu cánh quế... Tùy hoàn cảnh, tùy tình huống, miếng
trầu được têm theo những cách khác nhau và ý nghĩa tượng trưng của từng kiểu
dáng cũng thật rõ ràng. Người dân Bắc bộ nói riêng và người Việt Nam nói
chung xưa kia coi việc têm trầu là một nghệ thuật. Qua cử chỉ têm trầu, ăn trầu
để phán đoán phong cách, tính nết cũng như nếp sống của con người. Nói cách
khác, một cơi trầu têm khéo léo có thể nói lên tài hoa của người têm, qua đó còn
phần nào thấy được cả nền nếp giáo dục của gia đình. Nói đến trầu têm cánh
phượng là nói đến miếng trầu vùng Kinh Bắc. Cũng vẫn nguyên liệu ấy, nhưng
cách têm đẹp, kiểu cách, thể hiện sự khéo léo của những liền chị. Miếng trầu của
họ có sức hấp dẫn đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc cho bất cứ ai, dù chỉ một
lần được mời. Hình tượng trầu têm cánh phượng của cô Tấm trong truyện Tấm
58
Cám đã bước từ cổ tích ra ngoài cuộc sống rất bình dị, gần gũi, nhưng cũng
không kém phần cao sang, tập tục này vẫn tồn tại qua thời gian để thăng hoa nét
đẹp truyền thống dân tộc.
Văn hoá trang phục
Màu sắc trang phục của người dân Bắc bộ cũng là một sự lựa chọn, thích
ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm
là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sồng còn đàn bà lại là chiếc yếm, váy
thâm, chiếc áo nâu. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà
với áo dài mớ ba mớ bảy, chít khăn đen mỏ quạ, có nón quai thao đàn ông với
chiếc quần trắng, áo dài the. Những đặc trưng về văn hóa trang phục của cư dân
đồng bằng Bắc bộ cũng đã xuất hiện trong nhiều câu truyện cổ tích, tạo nên nét
riêng biệt của người dân nơi đây so với các vùng đất khác.
Di sản vật thể khác
Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc bộ là nói tới một vùng văn hóa có một
bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích
khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình,
chùa, miếu v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di
tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu
vực Cổ Loa, Hoa Lư, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương,
đình Tây Đằng v.v…
Có thể nói văn hóa của khu vực đồng bằng Bắc bộ rất phong phú và đa
dạng về các loại hình, và độc đáo về bản sắc. Chính những nét văn hóa này đã
góp phần làm nên bản sắc riêng của trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ.
Cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo
Về tín ngưỡng, đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư
dân người Việt ở đồng bằng Bắc bộ. Mọi tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước
như thờ tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề v.v…, có mặt
trên hầu khắp các làng quê Bắc bộ.
59
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí
hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các
thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản
dị: Người dân đồng bằng Bắc bộ tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào
cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai
ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu
khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...Trong
các gia đình Bắc bộ thường có bàn thờ tổ tiên trong nhà, ít nhất là có treo di ảnh
một cách trang trọng. Nó thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với cha mẹ,
ông bà, cụ kỵ. Đây là một tín ngưỡng rất quan trọng và không thể thiếu trong
phong tục người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là một tín ngưỡng khá phổ biến ở mỗi
làng xã của người Việt, không làng nào là không có đình, đền, miếu thờ thần.
Bởi thế, thần Thành hoàng là biểu tượng thiêng liêng nhất của cả làng, tín
ngưỡng thờ Thành hoàng là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con
người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.
Tín ngưỡng thờ Mẫu có lẽ là một trong những tín ngưỡng lâu đời nhất của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ. Do ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu mà một
loại hình tôn giáo biến thể từ Đạo giáo ra đời - Đạo Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở
đồng bằng Bắc bộ bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền
sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để
thành các Mẫu thần tương ứng. Thời kỳ từ thế kỷ XV trở về trước với việc phong
thần của nhà nước phong kiến là hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng
như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Âu Cơ, Quốc Mẫu
Tây Thiên, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương, Đinh Triều Quốc Mẫu...Từ
khoảng thế kỷ XVII-XVIII trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định
hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện các nhân vật như Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Cô Đôi Thượng Ngàn,... với các
nghi thức ảnh hưởng từ Đạo giáo.
60
Những tín ngưỡng này đều có sự ảnh hưởng nhất định đến đời sống tinh
thần người Việt và cũng được các tác giả dân gian đề cập đến thông qua các câu
truyện cổ tích. Các tín ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người và tồn tại
trong lễ hội. Dù thuộc loại nào, khởi nguyên, các lễ hội ấy đều là các hội làng của
cư dân nông nghiệp, nói khác đi là các lễ hội nông nghiệp. Tiến trình lịch sử đã
lắng đọng ở đây những lớp văn hóa, khiến cho trên lát cắt đồng đại, khó nhận ra
gương mặt ban đầu của lễ hội nông nghiệp. Tuy nhiên, những trò diễn trong các lễ
hội vẫn gợi lại các nghi lễ nông nghiệp. Chẳng hạn như các lễ thức thờ Mẹ lúa,
cầu mưa, thờ thần mặt trời, các trò diễn mang tính chất phồn thực như múa gà
phủ, múa các vật biểu trưng âm vật, dương vật v.v… Chính vì vậy mà lễ hội ở
đồng bằng Bắc bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều
các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Với cư dân ở làng quê
Bắc bộ, lễ hội là môi trường cộng cảm văn hóa.
Về tôn giáo, đồng bằng Bắc bộ có sự tiếp thu văn hóa tôn giáo Trung Hoa,
Ấn Độ, nổi bật hơn cả là Phật giáo và Đạo giáo.
Phật giáo là một tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng đã được truyền
bá rất sớm vào Việt Nam cũng như khu vực đồng bằng Bắc bộ và có ảnh hưởng
lớn tới đời sống tinh thần của con người nơi đây. Khi được truyền bá vào Bắc
bộ, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản địa
hóa thành Phật giáo dân gian. Những tư tưởng của Phật giáo có ảnh hưởng sâu
sắc tới triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam. Tư tưởng về thuyết luân hồi trong truyện Tấm Cám, tư tưởng về lòng từ bi,
cứu khổ cứu nạn trong truyện Quan âm Thị Kính, hay những tư tưởng trong đạo
Phật hướng con người đến cái thiện, việc giải thoát con người khỏi bể khổ trầm luân
được thể hiện trong truyện Sự tích con cá he…đều mang dáng dấp của những triết
lý Phật giáo.
Cùng với Phật giáo thì Đạo giáo cũng được du nhập vào đồng bằng Bắc bộ
từ rất sớm khoảng cuối thế kỷ thứ II. Khi đi vào khu vực đồng bằng Bắc bộ, Đạo
giáo đã tìm thấy nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng của người dân nơi đây nên
61
Đạo giáo đã dễ dàng ăn sâu vào đời sống và nhận thức cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển và hình thành những khuynh hướng
khác nhau. Trước hết là khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín
đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức
ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là những bậc trí thức Nho giáo, sinh
không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã
làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thì lui về ẩn dật, vui thú điền viên
cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ, chén rượu chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Chu
Văn An, Nguyễn Khuyến... với cuộc sống "tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri
nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn" của học thuyết Lão Trang. Bên cạnh đó,
Đạo giáo còn có những khuynh hướng khác như Đạo giáo thần tiên thờ Đức Ngọc
Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan
Thánh Đế Quân và Đạo giáo phù thủy. Đạo giáo khi du nhập vào vùng đồng bằng
Bắc bộ đã có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian của người dân nơi đây, vì vậy mà
Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của cư dân Bắc bộ như Đức thánh
Trần, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ… Những quan điểm của
Đạo gia cũng được đề cập đến trong các câu truyện cổ tích của cư dân đồng bằng
Bắc bộ như Sự tích động Từ Thức, Sự tích Thánh Láng…vv
Có thể nói những tư tưởng của Phật giáo và Đạo giáo đã có ảnh hưởng sâu
rộng đến nhận thức và đời sống tinh thần của người dân đồng bằng Bắc bộ. Dưới
ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian, tư tưởng của Phật giáo và Đạo giáo đã
được bản địa hóa trở thành công cụ để cư dân đồng bằng Bắc bộ gửi gắm niềm
tin, mong ước, khát vọng về cuộc sống. Những tư tưởng này đã trở thành một
phần không thể thiếu trong nội dung triết lý nhân sinh cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam.
1.2.3. Cơ sở nhận thức và tâm lý ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
Cơ sở nhận thức ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ
62
Cơ sở nhận thức ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ xuất phát từ nhu cầu tổng kết kinh nghiệm trong quá trình nhận
thức tự nhiên- xã hội của con người. Truyện cổ tích Việt Nam là sản phẩm tinh
thần, là hình thức sáng tác chủ yếu trong nền văn học dân gian nhưng nó lại phản
ánh những sinh hoạt vật chất của xã hội. Đây là công cụ để cư dân Bắc bộ tổng kết
lại những kinh nghiệm lao động, sinh hoạt vật chất diễn ra hàng ngày. Sự ra đời
của truyện cổ tích đánh dấu một bước phát triển của xã hội đã đạt đến giai đoạn
canh tác nông nghiệp, khi yêu cầu của nền sản xuất đòi hỏi con người phải giải
thích những vấn đề mà thực tiễn lao động sản xuất đặt ra. Người nông dân Bắc bộ
khi tham gia sản xuất nông nghiệp lúa nước, họ nhận thấy rằng các yếu tố như
thời tiết, đất, nước, cây trồng vv... đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và thiên
nhiên cũng là một phần rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Nhờ vậy
họ đã nắm bắt được những quy luật vận động của tự nhiên đối với hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Từ đó, người nông dân Bắc bộ luôn có ý thức tôn trọng và
sống hài hòa với tự nhiên và họ đã gửi gắm những triết lý giá trị này vào các câu
truyện cổ tích. Không chỉ tổng kết kinh nghiệm trong lao động sản xuất, cư dân
Bắc bộ còn nhận thức được những biến động trong đời sống xã hội của họ.
Cơ sở nhận thức ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam còn được xuất phát từ nhu cầu
giải thích tự nhiên và xã hội để phục vụ cho hoạt động thực tiễn của mình. Để tồn
tại và phát triển người dân đồng bằng Bắc bộ đã phải lao động, kiếm sống đấu
tranh chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và những thế lực thù địch. Trong
lao động và cuộc sống hàng ngày người dân đồng bằng Bắc bộ luôn không
ngừng tìm tòi và khám phá thế giới, trước hết là để thích nghi với môi trường,
phục vụ cho cuộc sống của mình. Sau đó là để khai thác và cải tạo môi trường,
đồng thời tích lũy những kinh nghiệm trong lao động, sản xuất. Nhờ vậy mà họ
dần nắm được ngày càng nhiều những quy luật của các sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan, tích lũy, hệ thống hóa ngày càng nhiều kinh nghiệm phong
phú đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt động. Truyện cổ tích được hình thành trong
63
thời kì phong kiến - giai đoạn xã hội Việt Nam có nhiều biến động, mâu thuẫn
giai cấp ngày một gay gắt. Các cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra đòi hỏi con người
cần phải giải thích xã hội, tìm hiểu về những thay đổi của xã hội, những nguyên
nhân dẫn đến những thay đổi này, thể hiện thái độ của mình đối với những cuộc
đấu tranh xã hội. Vì vậy mà trong truyện cổ tích Việt Nam, những vấn đề về xã
hội, những biến đổi của xã hội cũng được các tác giả là cư dân đồng bằng Bắc bộ
đề cập. Có thể nói về mặt lịch sử tư duy thì sự ra đời của truyện cổ tích Việt Nam
còn là kết quả của khả năng khái quát hóa và trừu tượng hóa trong tư duy của con
người đã phát triển đến một trình độ nhất định. Thông qua quá trình lao động, sản
xuất vật chất, sinh hoạt xã hội mà nhận thức của cư dân đồng bằng Bắc bộ đã
xuất hiện tư duy tổng hợp, biện chứng và khái quát. Bằng chính những triết lý
nhân sinh giá trị trong truyện cổ tích Việt Nam mà người dân Bắc bộ đã tổng kết
được những kinh nghiệm của mình trong việc nhận thức tự nhiên và xã hội, từ
đó có thể truyền lại cho các thế hệ sau.
Cơ sở tâm lý ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ
Cơ sở tâm lý ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ được xuất phát từ nhu cầu lưu giữ ký ức cộng đồng, lưu giữ các
giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc. Do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và
lịch sử hình thành quốc gia, dân tộc, văn hóa Việt Nam sớm có xu hướng giao lưu,
hội nhập, tiếp biến, nhờ vậy mà Việt Nam có nền văn hóa đa ngôn ngữ, giàu bản
sắc dân tộc. Nền văn minh Đại Việt được xếp là một trong 34 nền văn minh đầu
tiên của nhân loại. Đặc biệt bản sắc văn hóa của Việt Nam được tạo ra ở chính
vùng đồng bằng Bắc bộ nơi có con sông Hồng chảy qua cách đây hơn 2700 năm.
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển, văn hóa Việt Nam đã phải chịu sự xâm
lăng, đồng hóa của văn hóa phương Bắc trong suốt gần một ngàn năm đô hộ. Tuy
nhiên, văn hóa bản địa đã vượt qua sự đồng hóa của văn hóa ngoại lai để tiếp thu
những tinh hoa mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc của mình. Truyện cổ tích Việt
Nam là một trong những tinh hoa như thế. Nó đã giúp cho dân tộc ta lưu giữ được
64
những giá trị văn hóa tinh thần đặc trưng nhất của dân tộc, nhất là tư tưởng triết lý
nhân sinh. Truyện cổ tích Việt Nam là sản phẩm chung của cả cộng đồng, được
tạo nên từ khối óc, trí tuệ và sức sáng tạo của nhân dân lao động, nó chứa đựng
trong đó những hình ảnh, những sự kiện, những dấu mốc lịch sử của người Việt.
Vì vậy truyện cổ tích Việt Nam ra đời xuất phát từ chính nhu cầu lưu giữ kí ức của
cộng đồng. Trong điều kiện những phương tiện hiện đại như máy ảnh, máy quay
phim chưa xuất hiện, thì truyện cổ tích là công cụ hữu hiệu nhất để người dân lưu
giữ những nét đặc trưng, nổi bật trong sinh hoạt gia đình, sinh hoạt cộng đồng, lao
động sản xuất, chiến đấu bảo bảo vệ Tổ quốc, và nhận thức nhân sinh. Do đó, sức
sống của truyện cổ tích rất mạnh mẽ và được mọi tầng lớp xã hội đón nhận.
Truyện cổ tích với tư cách là một loại hình nghệ thuật dân gian lưu giữ kí ức của
cộng đồng người Việt, đặc biệt là của cư dân đồng bằng Bắc bộ đã góp phần
khẳng định nét văn hóa đặc trưng và hệ thống triết lý nhân sinh của người Việt
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn được
xuất phát từ việc cư dân Bắc bộ mong muốn gìn giữ và bảo lưu lại những giá trị
tinh thần được hình thành trong đời sống, sinh hoạt vật chất của xã hội. Từ khi ra
đời đến nay, truyện cổ tích Việt Nam luôn gắn với những sinh hoạt trong đời
sống của nhân dân Việt Nam. Nó là tấm gương phản ánh lại toàn bộ đời sống
của người Việt như hoạt động lao động, sinh hoạt hội hè, đình đám, hay cả
những sinh hoạt thường ngày đều được truyện cổ tích khắc họa một cách sống
động. Những sinh hoạt tinh thần này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cách t chức
cộng đồng của người Việt. Vì vậy, người Việt ở Bắc bộ thường sống quây quần
trong cộng đồng làng xã của mình. Sống trọng tình, hòa thuận, hòa hiếu với
nhau. Sự đoàn kết, hòa hiếu là một đặc trưng trong lối sống của người Việt.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyên cổ tích được
bảo lưu và truyền lại cho thế hệ sau theo cách rất đặc biệt, bởi vì truyện cổ tích là
một loại hình văn học dân gian truyền miệng nên có nhiều dị bản. Vì vậy mà nó
được người dân tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa và ngày càng trở nên đa dạng và
phong phú. Việc truyền miệng của ông bà, cha mẹ cho con cháu nghe cũng thấy
65
được sự sàng lọc, gọt giũa theo cảm quan của cả cộng động. Hình thức truyền
miệng từ đời này sang đời khác của truyện cổ tích là hình thức hoàn toàn phù
hợp với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ vì dưới thời phong kiến thì hơn 90% dân số
nước ta bị mù chữ. Vì vậy đây là cách tiếp cận tốt nhất của người dân Việt đối
với một sản phẩm tinh thần. Thông qua câu truyện mà bà kể cho cháu, mẹ kể cho
con nghe, những triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích đã được hình thành và đã
nuôi dưỡng tâm hồn người Việt hàng nghìn năm qua. Cũng vì lý do này mà sự
hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn được xuất phát từ
tâm lý của cư dân Bắc bộ mong muốn gìn giữ và bảo lưu lại những giá trị tinh
thần được hình thành trong đời sống, sinh hoạt vật chất của mình.
Sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn chịu ảnh
hưởng tâm lý của những người nông dân Bắc bộ thích sự ổn định, an yên, luôn
ước mong về một cuộc sống công bằng, hạnh phúc. Truyện cổ tích là một sản
phẩm tất yếu của đời sống xã hội đương thời. Xã hội Việt Nam thời kì phong
kiến là xã hội đầy rẫy những bất công và nhiều tầng áp bức. Những người dân
thường không chỉ bị bóc lột về vật chất mà còn bị đàn áp cả về mặt tinh thần.
Người nông dân không thể tự giải thoát cho mình trong thực tại nên họ chỉ còn
cách mượn truyện cổ tích để giải thoát cho mình trong tư tưởng. Đó cũng là lý
do vì sao có nhiều truyện cổ tích thể hiện khát vọng của con người về cuộc sống
tự do, ước mơ có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc. Truyện Cô gái lấy chồng hoàng
tử thể hiện ước mơ của cô gái nghèo ngoan ngoãn, xinh đẹp mong được làm vợ
hoàng tử, và cuối cùng ước mơ đó của cô đã trở thành sự thật, hay mong muốn
lấy được vợ hiền, có được hạnh phúc của anh trai cày trong truyện Cây tre trăm
đốt, khát vọng thoát khỏi sự xấu xí và được sống no đủ của cô gái nghèo đi ở
trong truyện Sự tích con khỉ. Đây là những mong ước rất giản dị của con người,
nhưng trong cuộc sống thực tại lại rất khó có thể trở thành hiện thực, vì vậy con
người đã mượn truyện cổ tích để tìm cách hiện thực hóa những mong muốn khát
vọng về cuộc sống của mình. Đa số cư dân nơi đây đều là người nông dân thấp
cổ, bé họng, chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, phải sống trong xã hội còn
66
đầy rẫy những bất công và nhiều tầng áp bức. Khi mà do những hạn chế về mặt
thế giới quan con người chưa thể tìm cách giải thoát được cho mình, thì thông
qua truyện cổ tích cư dân đồng bằng Bắc bộ đã gửi gắm vào đó những mong
muốn của bản thân. Đó là mong muốn về một cuộc sống tốt đẹp, yên bình, ấm
no, hạnh phúc, con người sống hài hòa với tự nhiên, người với người yêu thương
lẫn nhau. Từ đó hình thành nên những triết lý rất sâu sắc, đa dạng mang đậm nét
riêng của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Như vậy, cơ sở nhận thức cũng như cơ sở tâm lý đã ảnh hưởng trực tiếp
tới sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Triết lý nhân
sinh được gửi gắm trong truyện cổ tích Việt Nam chính là tấm gương phản chiếu
đời rõ nét sống kinh tế - xã hội của cư dân nơi đây qua các thời kì lịch sử. Đó là
kết quả quá trình nhận thức chủ động, tích cực của cư dân đồng bằng Bắc bộ về
con người, tự nhiên, xã hội cũng như đã chứa đựng những tâm tư, tình cảm của
người dân nơi đây về một cuộc sống tốt đẹp. Truyện cổ tích Việt Nam là một
loại hình nghệ thuật mang tính tập thể, là sáng tác của quần chúng nhân dân, là
thành quả của những người dân lao động, được lưu truyền từ đời này qua đời
khác. Qua các câu truyện cổ tích ta thấy được tư duy triết học, sự thông tuệ của
cư dân đồng bằng Bắc bộ khi lý giải về thế giới, về sinh hoạt vật chất của con
người, về quá trình lao động sản xuất. Đây chính là những chỉ dẫn quý giá cho
các thế hệ mai sau trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình.
67
Tiểu kết chƣơng 1
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong trong truyện cổ tích
Việt Nam là một bộ phận quan trọng của triết lý người Việt. Cũng giống như
triết lý nhân sinh của người Việt, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
là những kinh nghiệm sống, được hình thành thông qua quá trình lao động, sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân. Vì vậy, nó phản ánh những nét đặc trưng cơ bản
trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của cư dân vùng đất này.
Sự hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện
cổ tích Việt Nam chịu sự quy định của các yếu tố như điều kiện địa lý, tự nhiên,
kinh tế - xã hội, các yếu tố văn hóa - tư tưởng, cơ sở nhận thức, tâm lý đặc trưng
của vùng đồng bằng Bắc bộ. Do đó, nó mang những sắc thái riêng biệt so với
triết lý nhân sinh của các vùng đất khác. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam thể hiện đặc trưng riêng trong cách hành
xử, giải quyết vấn đề, những nguyên tắc sống và những giá trị riêng của con
người nơi đây. Triết lý sống sâu sắc của cư dân Bắc bộ đã được họ gửi gắm một
cách rất tinh tế qua các truyện cổ tích Việt Nam.
Trong truyện cổ tích Việt Nam cư dân đồng bằng Bắc bộ đã thể hiện
những nhận thức, tư duy, sự hiểu biết của mình về thế giới, về con người, về mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Vì vậy, nội dung triết lý nhân
sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ chứa đựng trong những câu truyện cổ tích
cũng rất đa dạng và phong phú như triết lý về đạo đức, triết lý giáo dục, triết lý
lao động sản xuất, triết lý đối nhân xử thế... Những triết lý này chính là bài học
quý báu để chúng ta có thêm những hiểu biết về lẽ sống, đạo làm người, cách
thức ứng xử với tự nhiên và xã hội, từ đó có sự vận dụng vào thực tiễn cuộc sống
hiện nay.
68
Chƣơng 2
NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA CƢ DÂN ĐỒNG BẰNG BẮC
BỘ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
2.1. Triết lý về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên
Đồng bằng Bắc bộ là một trong những vùng đồng bằng rộng lớn của Việt
Nam, với đặc trưng cơ bản là nền sản xuất nông nghiệp lúa nước nên ngay từ rất
sớm người dân nơi đây đã luôn ý thức được mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa
con người và giới tự nhiên. Cư dân đồng bằng Bắc bộ luôn coi giới tự nhiên như
người mẹ hiền cung cấp cho con người những sản vật thiết yếu cho cuộc sống như
đất để ở, thức ăn, nước uống...Vì vậy, họ luôn tôn trọng, bảo vệ giới tự nhiên, tuân
theo những quy luật tự nhiên, sống hài hòa với tự nhiên, biết chủ động khai thác
giới tự nhiên. Thông qua các câu truyện cổ tích, tác giả dân gian đã gửi gắm
những triết lý quan trọng về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đó là triết lý
sống hài hòa với giới tự nhiên và triết lý cải tạo, chinh phục tự nhiên.
2.1.1. Triết lý sống hài hòa với tự nhiên
Do chịu ảnh hưởng của nền sản xuất nông nghiệp nên mọi sinh hoạt của
đời sống vật chất và tinh thần của người Việt luôn gắn bó chặt chẽ, khăng khít
với giới tự nhiên. Giới tự nhiên đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống
con người, đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống và sự tồn tại của
con người. Khi tiến hành quá trình lao động sản xuất, con người đã tìm hiểu tự
nhiên và đúc kết thành những kinh nghiệm sống quý báu của mình, hình thành
nên triết lý sống hài hòa với tự nhiên.
Triết lý hài hòa với tự nhiên thể hiện trước hết ở việc con người đã biết
nương nhờ vào giới tự nhiên, tận dụng những sản vật của giới tự nhiên để phục
vụ cho cuộc sống và sự tồn tại của mình nhưng vẫn tuân theo những quy luật của
tự nhiên. Trong truyện Sự tích quả dưa hấu chàng Mai An Tiêm, vì tội bất kính
với Vua Hùng mà bị đầy ra ngoài hoang đảo, chàng cùng gia đình đã phải nương
nhờ vào tự nhiên để có thể tồn tại và sống qua ngày. Giới tự nhiên đã mang lại
cho gia đình chàng những thứ thiết yếu nhất như nước uống ở suối, cá và muối
69
muối dưới biển, cây gỗ để làm nhà, đất để trồng trọt. Vì vậy, cả gia đình Mai An
Tiêm vẫn có thể sống sót trên hoang đảo không bóng người. Nhờ nắm được quy
luật của tự nhiên cùng với sự thông minh, nhanh trí của mình Mai An Tiêm đã
tìm ra, gieo trồng thành công một giống cây mới, cho quả to tròn, ruột có màu
đỏ, ăn rất ngọt và mát mà ngày nay ta gọi là dưa hấu.
Triết lý sống hài hòa với tự nhiên của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn được
thể hiện trong mối quan hệ mật thiết, sự gắn bó chặt chẽ giữa con người với tự
nhiên trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt vật chất. Với người Việt nghề nông
chính là phương thức kiếm sống cơ bản. Do đó, điều kiện tự nhiên đóng vai trò
quyết định đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và cuộc sống của người dân. Tất
cả sự biến đổi của thời tiết và khí hậu đều có ảnh hưởng đến sản xuất cũng như
đời sống sinh hoạt của cư dân. Nếu thời tiết thuận lợi, hiền hòa thì người nông dân
được vụ mùa bội thu, có cuộc sống no đủ, ngược lại nếu thời tiết bất lợi thì mất
mùa, người dân đói khổ. Do đó, trong tâm thức của mình, cư dân đồng bằng Bắc
bộ luôn cầu mong mưa thuận, gió hòa để có thể yên tâm làm ăn sinh sống. Họ
luôn coi tự nhiên chính là nguồn sống của mình, như người bạn thân thiết, gắn bó
chặt chẽ, từ đó có thái độ ứng xử hòa nhã với tự nhiên, tôn trọng quy luật tự nhiên.
Cũng vì thế mà các nhân vật chính trong truyện cổ tích như cô Tấm, chàng Thạch
Sanh, anh Khoai đều sống bằng nghề nông hoặc làm những công việc có mối
quan hệ mật thiết với giới tự nhiên. Cô Tấm trong tryện Tấm Cám chăm chỉ cấy
cày, mò tôm, mò tép ngoài đồng; Anh Khoai truyện Cây tre trăm đốt, trời chưa
sáng đã lội bì bõm ở ngoài đồng, cho đến tận khuya vẫn còn trần lực xay lúa giã
gạo; người em trai trong truyện Cây khế chăm chỉ cấy hái làm ruộng, vườn; Chàng
Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh làm nghề đốn củi, săn thú rừng. Tất cả
những nhân vật này đều có điểm chung là người hiền lành, chăm chỉ, sống thuận
theo tự nhiên, hành động cũng thuận theo lẽ tự nhiên, không thái quá, vì vậy ở
trong truyện cổ tích họ đều có kết cục tốt đẹp và hạnh phúc.
Qua truyện cổ tích các tác giả dân gian cho ta thấy vai trò đặc biệt quan
trọng của tự nhiên đối với cuộc sống của con người. Đặc biệt, trong giai đoạn
70
đầu của xã hội loài người khi sản xuất vật chất chưa phát triển thì vai trò của tự
nhiên đối với con người là rất to lớn. Tự nhiên không chỉ mang lại những điều
kiện thiết yếu cho cuộc sống của con người mà còn tạo cơ sở để con người có thể
phát triển sản xuất, từ đó thỏa mãn những nhu cầu vật chất cơ bản của mình. Con
người trong quá trình lao động và sản xuất cũng đã biết nương nhờ tự nhiên, chủ
động khai thác giới tự nhiên trên cơ sở tuân theo những quy luật của giới tự
nhiên để có thể sống hài hòa với tự nhiên.
Sống hài hòa với tự nhiên còn là hành động hợp với tự nhiên, loại bỏ
những gì là trái tự nhiên. Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong truyện Sự tích Đầm
Nhất Dạ và Bãi Tự Nhiên tình cờ gặp gỡ nhau trong một tình huống éo le, dù có
địa vị có khác biệt, nhưng tình yêu của họ là hợp tự nhiên. Công chúa Tiên Dung
đã thuận theo lẽ tự nhiên này bất chấp rào cản về thân thế và địa vị, nàng đã
nhận Chử Đồng Tử làm chồng và theo chàng làm ăn sinh sống.
Triết lý về mối quan hệ hòa đồng giữa con người với tự nhiên trong
truyện cổ tích có rất nhiều tương đồng với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên: “Giới tự nhiên - cụ thể là
cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con
người - là thân thể vô cơ của con người. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân
thể của con người, thân thể mà với nó, con người phải ở lại trong quá trình
thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con
người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự
nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới
tự nhiên” [68, tr.135].
2.1.2. Triết lý cải tạo, chinh phục tự nhiên
Triết lý cải tạo tự nhiên
Mặc dù nhận thức mình là một bộ phận của tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên,
chủ trương sống hòa thuận với tự nhiên nhưng truyện cổ tích cũng chỉ ra cho ta
thấy, con người hoàn toàn có khả năng nhận thức và cải tạo tự nhiên. Con người
không chỉ lấy những cái có sẵn trong tự nhiên để phục vụ cuộc sống mà còn biết sử
dụng trí tuệ, sức khỏe để biến đổi tự nhiên, tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu
71
ngày càng tăng của mình. Câu truyện Sự tích bánh chưng bánh dày là một minh
chứng cho sự thông minh, khéo léo của con người trong việc tận dụng những sản
vật của tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống. Từ những sản vật vốn có trong
tự nhiên, dưới bàn tay tài hoa và trí tuệ của mình, con người đã tạo ra những sản
phẩm giá trị phục vụ cuộc sống. Trong câu truyện này, Lang Liêu - vị hoàng tử thứ
18 của vua Hùng đã biết dùng chính những sản vật bình dị của đất trời như gạo
trắng, đậu xanh, thịt mỡ mà con người làm ra để chế biến thành những món bánh
thơm ngon dâng lên vua cha, trong cuộc thi tài tìm người thừa kế ngôi báu chàng đã
làm ra hai thứ bánh đó là bánh chưng và bánh dày “Bánh chưng tượng trưng cho
đất. Đất có cây, có đồng, ruộng, núi rừng thì màu cũng phải xanh xanh hình phải
vuông vắn. Trong bánh phải bỏ thịt, bỏ đỗ để lấy ý nghĩa đất che chở cầm thú cỏ
cây...” [139, tr. 209] và “bánh dày là nếp thơm đồ lên cho dẻo, giã ra làm thứ bánh
tượng trưng trời: màu phải trắng, hình phải tròn và khum khum như vòm
trời..."[139, tr.209]. Nhờ vậy chàng đã được vua cha truyền ngôi báu cho. Truyện
Sự tích bánh chưng bánh dày cho thấy khả năng kết hợp tài tình những yếu tố của
tự nhiên, chứng tỏ con người phần nào nhận thức được bản chất của những yếu tố
tự nhiên và tính hệ thống của các yếu tố đó.
Trong câu truyện Sọ Dừa, cô Út vợ chàng Sọ Dừa khi bị hai chị gái hãm
hại, rơi xuống biển sâu rồi bị cá dữ ăn thịt, nàng đã không an phận chịu chết mà
đã tự cứu mình bằng cách lấy con dao (chồng dặn mang theo bên mình) rạch
bụng cá chui ra. Sống trên hoang đảo có một mình, nàng biết xẻ thịt cá ướp muối
ăn dần, biết dùng đá cuội để đánh lửa sưởi ấm, lấy lá cây làm nhà, sống qua ngày
trên đảo để chờ ngày chồng tới đón về. Thông qua hai câu truyện cổ tích trên ta
thấy, trong mối quan hệ với tự nhiên, con người đã không hề ỷ lại hay bị phụ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên mà luôn chủ động, tích cực cải tạo, biến đổi tự
nhiên cho phù hợp với nhu cầu sống, tồn tại và lợi ích của mình.
Triết lý mong muốn chinh phục tự nhiên
Không chỉ tích cực, chủ động trong quá trình cải tạo tự nhiên mà con
người còn có mong muốn chinh phục tự nhiên, khẳng định sức mạnh và sự tồn
tại của mình trước tự nhiên. Trong truyện cổ tích Trí khôn của ta đây, con người
72
đã thể hiện mình là chúa tể của muôn loài nhờ có trí khôn. Con người dù nhỏ bé
hơn so với con hổ nhưng nhờ có trí tuệ thông minh, sự nhanh nhẹn vẫn có thể
đánh bại những loại vật to lớn và hung tợn. Con hổ được mệnh danh là chúa tể
sơn lâm, là loài vật to lớn và hung dữ sống trong rừng sâu, đại diện cho sức
mạnh của tự nhiên. Còn người nông dân bé nhỏ nhưng nhờ có trí khôn đã chiến
thắng cả chúa sơn lâm khiến cho nó phải tâm phục, khẩu phục và sợ hãi chạy
thẳng vào rừng sâu. Câu truyện cổ tích này phần nào đã thể hiện triết lý, khát
vọng làm chủ tự nhiên của con người.
Khát vọng chinh phục tự nhiên, mong muốn biến đổi thiên nhiên theo
hướng có lợi cho cuộc sống còn được cư dân đồng bằng Bắc bộ thể hiện qua
hình tượng Cường Bạo Đại Vương ngạo nghễ không sợ trời, không sợ đất trong
truyện cổ tích Cường bạo đại vương. Hình ảnh Cường Bạo Đại Vương một mình
chống lại thiên lôi, Diêm Vương, Thủy Thần đã đại diện cho những người dân ở
vùng đồng bằng Bắc bộ luôn mong muốn chinh phục được sự hung dữ của giới
tự nhiên, nắm bắt được những quy luật của tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống và
hoạt động sản xuất của mình.
Các nhân vật chính trong truyện cổ tích đều là những người dân bình
thường, yêu lao động, yêu cuộc sống. Đối diện trước sức mạnh và sự rộng lớn,
biến đổi của tự nhiên họ không cảm thấy sợ hãi mà luôn mạnh mẽ, tự tin. Họ
muốn thay đổi những mặt tiêu cực của tự nhiên để làm cho cuộc sống của bản
thân và cộng đồng được tốt đẹp hơn. Thông qua hình tượng những nhân vật cổ
tích như bác nông dân dũng cảm, Cường Bạo Đại Vương cư dân Bắc bộ đã gửi
gắm khát vọng chinh phục tự nhiên từ bao đời nay của người Việt.
Trong mối quan hệ với tự nhiên, người Việt nói chung và cư dân đồng
bằng Bắc bộ nói riêng có mong muốn và tham vọng cải tạo, chinh phục tự nhiên.
Tuy nhiên nó không phải cách chinh phục tự nhiên của phương Tây: con người
tách ra khỏi giới tự nhiên, rồi quay trở lại cải tạo và biến đổi giới tự nhiên, mà
bản chất quá trình chinh phục tự nhiên của người Việt Nam là nương theo, lợi
dụng quy luật, điều kiện tự nhiên để định hướng hoạt động hiệu quả, biến cái bất
lợi thành có lợi. Tư tưởng của người Việt Nam truyền thống là sống thuận hòa,
73
làm bạn, hợp tác với tự nhiên một cách linh hoạt, uyển chuyển chứ không phải
thống trị tự nhiên. Điều này có nguyên nhân từ những tư tưởng tôn trọng, thần
thánh hóa tự nhiên đã ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức của người Việt xưa. Nó
được thể hiện khá rõ trong những truyện cổ tích của cư dân đồng bằng Bắc bộ,
trong đó giới tự nhiên được thần thánh hóa và nhân cách hóa thành các vị thần
có đặc điểm, tính cách và cuộc sống như con người. Trong truyện Sơn Tinh,
Thủy Tinh ta thấy Sơn Tinh là vị thần núi, cai quản vùng non cao, Thủy Tinh là
thần nước, cai quản vùng sông sâu, biển lớn. Sơn Tinh và Thủy Tinh vì tranh
giành nàng Mị Nương xinh đẹp mà gây chiến với nhau. Vì vậy, hàng năm có
hiện tượng nước dâng, lũ lụt. Nước dâng lên đến đâu thì núi lại dâng cao đến đó.
Tuy còn hạn chế trong cách thức giải thích tự nhiên nhưng truyện cổ tích đã
phần nào thể hiện được triết lý về mong muốn sống hòa hợp với tự nhiên của
người Việt từ xa xưa.
Thông qua truyện cổ tích Việt Nam, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã để lại
cho thế hệ sau những triết lý nhân sinh sâu sắc về mối quan hệ giữa con người
với giới tự nhiên: triết lý sống hài hòa và triết lý cải tạo, chinh phục giới tự
nhiên. Những triết lý này đã góp phần giáo dục vai trò và giá trị của giới tự nhiên
đối với cuộc sống của con người, từ đó hình thành cách ứng xử phù hợp để bảo
vệ và phát triển giới tự nhiên. Vì bảo vệ giới tự nhiên chính là bảo vệ cuộc sống
của chúng ta. Những triết lý này được lưu giữ, truyền lại qua nhiều thế hệ, nó đã
trở thành giá trị văn hóa truyền thống quan trọng cần được phát huy và có ý
nghĩa to lớn trong giai đoạn phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay.
2.2. Triết lý về mối quan hệ giữa con ngƣời với gia đình, xã hội
2.2.1. Triết lý về mối quan hệ giữa con người với gia đình
Truyện cổ tích Việt Nam không chỉ chứa đựng những triết lý của cư dân
đồng bằng Bắc bộ về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mà nó còn thể
hiện cái nhìn và quan điểm của người dân nơi đây về mối quan hệ giữa con
người với gia đình. Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích đã đề cập đến mọi
khía cạnh trong mối quan hệ gia đình. Về cơ bản đó là những quan điểm nhân
văn và giá trị như tư tưởng tự do trong tình yêu đôi lứa, ca ngợi sự thủy chung
74
son sắt trong tình cảm vợ chồng, nhắn nhủ con cái phải giữ trọn đạo hiếu với cha
mẹ, khuyên răn anh em ruột thịt trong gia đình phải biết yêu thương đùm bọc
cho nhau. Dù cách thể hiện rất mộc mạc và giản dị nhưng những triết lý mà các
tác giả dân gian muốn truyền tải cho người nghe lại rất đa dạng và ý nghĩa.
Triết lý về tình yêu đôi lứa
Tình yêu đôi lứa là một nội dung nổi bật trong truyện cổ tích Việt Nam.
Thông qua các câu truyện xoay quanh chủ đề tình yêu, các tác giả dân gian muốn
gửi gắm triết lý nhân văn và tiến bộ về mối quan hệ giữa con người trong tình
yêu đôi lứa. Triết lý thể hiện tiếng nói mạnh mẽ, dũng cảm của những đôi
trai gái dám đấu tranh cho tự do yêu đương, thoát khỏi những ràng buộc, định
kiến của xã hội phong kiến. Người đọc cảm thấy ở đó giá trị nhân văn sâu sắc
bởi những triết lý này đều xuất phát từ tình yêu, lòng trân trọng con người.
Truyện Sự tích đầm Nhất dạ và bãi Tự nhiên thể hiện tình yêu đẹp đẽ và
trong sáng của Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Một tình yêu hoàn toàn tự nhiên
không có sự phân biệt đẳng cấp hay sang hèn. Câu truyện tình yêu giữa hai nhân
vật Tiên Dung và Chử Đồng Tử phản ánh ước mơ, khát vọng về tình yêu tự
nguyện, xuất phát từ hai phía không bị chi phối bởi quyền lực hay lễ giáo của xã
hội phong kiến. Không chỉ ca ngợi tình yêu đẹp triết lý nhân sinh còn lên án
những quan điểm phong kiến lạc hậu đã cản trở tính yêu đôi lứa như “môn đăng
hộ đối”, hay việc kết hôn vì những lợi ích vật chất, địa vị như truyện Người cưới
ma, Duyên nợ tái sinh. Những truyện này cũng khuyến khích con người dám đấu
tranh, bảo vệ tình yêu và hạnh phúc đôi lứa, coi đó là quyền lợi chính đáng của
con người, không ai có quyền tước đoạt hay ngăn cấm họ. Đặc biệt, trong truyện
còn đưa ra những triết lý tiến bộ, khuyến khích sự chủ động và mạnh dạn của các
nhân vật nữ trong việc tìm kiếm và bảo vệ hạnh phúc lứa đôi của mình. Đi
ngược lại hoàn toàn với những quan điểm về tình yêu đôi lứa trước đó vẫn tồn
tại trong đời sống xã hội bấy giờ.
Trong truyện cổ tích cũng xuất hiện những tình yêu mang màu sắc kì ảo
như mối duyên giữa Từ Thức và Giáng Hương trong truyện Từ Thức gặp tiên.
Truyện mang màu sắc thần tiên vì Giáng Hương vốn là nàng tiên thuỳ mị, đoan
75
trang, xinh đẹp tuyệt trần còn Từ Thức là người phàm trần. Câu truyện tình yêu
đôi lứa giữa họ dường như không có khoảng cách giữa tiên và người. Câu truyện
tình yêu này là kết quả của sự tưởng tưởng phong phú và độc đáo của các tác giả
dân gian. Nhưng nó cũng phần nào thể hiện được khát vọng về một tình yêu đôi
lứa không có khoảng cách, giới hạn, bất tử với thời gian.
Triết lý về tình nghĩa vợ chồng
Trong gia đình, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ cơ bản luôn được
người Việt cũng như cư dân đồng bằng Bắc bộ coi trọng. Thông qua những câu
truyện cổ tích gần gũi và đời thường, các tác giả dân gian muốn gửi gắm những
triết lý nhân sinh sâu sắc giúp mỗi người nhận thức được giá trị to lớn của tình
nghĩa vợ chồng, từ đó có lối sống, cách ứng xử, đúng đắn, phù hợp, sống có tình,
có nghĩa.
Trước hết, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ đã ca ngợi tình
yêu thương, gắn bó không thể tách rời trong quan hệ vợ chống. Sự tích con Sam
là câu truyện cảm động về tình cảm vợ chồng. Đôi sam chính là hiện thân của
hai vợ chồng người đánh cá nghèo, rất mực yêu thương nhau nhưng chẳng may
bị chết đuối khi người chồng đang dìu vợ mình vượt biển. Hình ảnh con sam lúc
nào cũng có đôi có cặp, con đực ôm lấy con cái ở dưới nước thể hiện sự gắn bó
không thể tách rời của đôi vợ chồng nghèo đến chết không chia lìa. Câu truyện
đã gửi gắm triết lý của người xưa về mối quan hệ vợ chồng luôn cần phải có tình
yêu thương, gắn bó như vậy mới có thể cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách
của cuộc sống và đạt được hạnh phúc.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn đề cao sự thủy chung
trong mối quan hệ vợ chồng. Truyện Sự tích trầu cau xoay quanh mâu thuẫn gia
đình giữa ba nhân vật là người vợ, người chồng và người em trai chồng. Vì sự
hiểu lầm đáng tiếc giữa ba người mà hạnh phúc gia đình bị tan vỡ. Để giải quyết
những mâu thuẫn trong mối quan hệ gia đình, chứng minh cho sự trong sạch và
lòng thủy chung của mình họ đã cùng tìm đến cái chết, nhưng ngay cả khi chết
đi thì tình cảm vợ chồng, sự thủy chung, son sắt vẫn không hề thay đổi. Trong
76
truyện người chồng đã hóa thân thành cây cau, người vợ hóa thân thành dây trầu,
leo lên quấn quýt, ôm lấy thân cau, biểu hiện tình cảm vợ chồng, thủy chung,
gắn bó, không thể tách rời, dù là cái chết cũng không thể khiến họ chia lìa. Hình
ảnh dây trầu quấn lấy cây cau một biểu tượng đẹp đẽ về tình cảm vợ chồng thủy
chung. Trầu và cau khi ăn kèm với nhau tạo ra một màu đỏ tươi, như tình yêu
thắm nồng của đôi vợ chồng. Câu truyện cổ tích Sự tích trầu cau không chỉ là câu
truyện lý giải về sự hình thành của hai loại cây gắn bó với đời sống của cư dân vùng
đồng bằng Bắc bộ mà còn chứa đựng triết lý nhân sinh của con người nơi đây, luôn
đề cao sự thủy chung trong tình cảm vợ chồng. Dù có trải qua sự hiểu lầm, ghen
tuông, nghi kị, hoặc những biến động trong đời sống thì tình cảm gắn bó giữa vợ
chồng cũng không gì có thể lay chuyển được.
Triết lý về tình nghĩa vợ chồng còn gửi gắm những quan điểm về lòng vị tha, sự
hy sinh của người phụ nữ trong việc gìn giữ hạnh phúc gia đình. Trong truyện Gái
ngoan dạy chồng, người vợ dù phải chịu thiệt thòi, chịu nhiều khổ cực, nhưng vẫn yêu
thương và hy sinh vì chồng, vì gia đình, tìm mọi cách để giúp chồng nhận ra sai lầm,
thay tâm, đổi tính. Người vợ trong truyện Đồng tiền Vạn Lịch dù bị chồng đánh đuổi
nhưng vẫn không quên tình nghĩa vợ chồng, khi gây dựng lại được cơ nghiệp và trở
nên giàu có, cô đã tìm mọi cách để giúp người chồng mải chơi bời, bỏ bê vợ con trở về
chuyên tâm làm ăn. Bằng sự vị tha, người vợ trong truyện đã tha thứ cho sự bội bạc
của chồng, cùng chồng xây dựng lại cuộc sống và có được một gia đình hạnh phúc.
Như vậy thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam, cư dân đồng bằng
Bắc bộ đã gửi gắm những triết lý nhân sinh giá trị về tình nghĩa vợ chồng. Triết
lý đã đề cao tình yêu, lòng thủy chung, sự cảm thông, thấu hiểu lẫn nhau trong
mối quan hệ vợ chồng, đồng thời triết lý còn ca ngợi sự hy sinh, lòng vị tha của
người phụ nữ trong việc gìn giữ tổ ấm và hạnh phúc gia đình. Đây là những bài
học đúng đắn và ý nghĩa về cách ứng xử trong mối quan hệ vợ chồng không chỉ
ở quá khứ mà còn phù hợp với cả xã hội hiện đại ngày nay.
Triết lý về đạo hiếu
Người Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo và
Phật giáo vì vậy đạo Hiếu luôn được là đạo lý cơ bản của con người, là gốc của
77
nhân cách, là nền tảng của đạo đức xã hội. Đó cũng chính là lý do có rất nhiều
câu truyện cổ tích chứa đựng những triết lý về lòng hiếu thảo - một truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta. Thông qua những câu truyện cổ tích tác giả dân gian đã
thể hiện những triết lý giản đơn nhưng ý nghĩa trong mối quan hệ giữa con cái và
cha mẹ. Đó là con cái phải luôn ghi nhớ công lao sinh thành dưỡng dục của cha
mẹ, có trách nhiệm chăm sóc cho cha mẹ khi đau ốm, lúc về già.
Câu truyện Sự tích bánh chưng bánh dầy nói về Lang Liêu, vị hoàng tử
thứ mười tám, là người con hiếu thảo đã dâng lên vua cha thứ bánh chưng tượng
trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ
to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con cái sống an vui giữa đời. Do vậy
mà được vua Hùng trao truyền ngôi vua. Trong khi đó, những người con khác
dâng lên vua cha tiền bạc, vàng ngọc châu báu, của ngon vật lạ của đều bị đức
vua từ chối. Câu chuyện đã lưu truyền từ đời này sang đời khác và bánh chưng,
bánh dầy đã trở thành một sản phẩm cổ truyền thường được dâng cúng tổ tiên
trong dịp Tết Nguyên Đán và các lễ hội hàng năm, như để thể hiện lòng hiếu
thảo của con cháu đối với ông cha, tổ tiên.
Triết lý về lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ còn được thể hiện trong
truyện Sự tích đầm Nhất dạ và bãi Tự nhiên. Hồi đó ở làng Chữ Xá có ngư dân
là Chử Cù Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử. Chẳng may, nhà gặp hoả hoạn, của
cải sạch không, chỉ còn lại một cái khố vải, cha con ra, vào thay nhau mà mặc.
Người cha tuổi già, đau ốm, trước khi nhắm mắt gọi con đến và dặn rằng: “Cha
chết thì cứ để trần mà chôn còn con thì giữ lấy khố mà dùng”[12, tr.217]. Nhưng
Chử Đồng Tử không nỡ làm theo, dùng khố mà niệm cho cha bởi vì chàng là
người con rất có hiếu. Điều này thể hiện qua chi tiết chàng đã “đóng khố cho cha
rồi mới chôn” dù cả hai cha con chỉ có chung một chiếc khố trước đó. Nhưng
nghĩa tử là nghĩa tận, Chử Đồng Tử đã không nỡ để cha phải mình trần về nơi
chín suối.
Việc Chử Đồng Tử không nghe lời cha, nếu xét theo quan niệm chữ Hiếu
của Nho giáo không những không được coi là hiếu thuận mà ngược lại, còn bị
cho là bất hiếu. Thế nhưng, không ai không xúc động trước tấm lòng hiếu thảo
78
sâu nặng của chàng, cũng không ai chê trách mà tất cả đều đồng lòng ngợi ca
hành động hiếu nghĩa đó. Trong trường hợp này, dân tộc ta đã có quan niệm rất
thực tế về chữ Hiếu. Chử Đồng Tử, dù không nghe lời cha (là biểu hiện của sự
bất hiếu) nhưng việc chàng làm lại toả sáng một tấm lòng rất mực hiếu thảo. Chử
Đồng Tử đã được dân gian ban tặng “phần thưởng” là một cô công chúa xinh
đẹp để làm vợ. Quả thật đây là phần thưởng vô cùng cao quý mà không bạc vàng
nào sánh được (vì không thể dùng của cải vật chất làm thước đo lòng hiếu thảo
con người). Chi tiết này thể hiện cách nghĩ hết sức thâm thuý thấm đẫm tính chất
nhân văn và có thể coi là sự bổ sung cho quan niệm về chữ “Hiếu” của người
Việt Nam.
Bên cạnh những câu truyện cổ tích ngợi ca về sự hiếu thảo của con cái đối
với cha mẹ thì cũng có những câu truyện cổ tích thể hiện triết lý của đạo hiếu bằng
cách phê phán sự bất hiếu, vô tâm của con cái đối với cha mẹ. Câu truyện cổ tích
Tiếc gà chôn mẹ kể về một người con trai có tính vũ phu, lại ham chơi gà chọi.
Hắn đe dọa ai làm chết con gà của hắn thì phải đền mạng. Chị vợ chẳng may làm
chết con gà, mẹ chồng thương con dâu, thay con dâu nhận làm chết gà nhưng hắn
cũng không tha cho mẹ. Hắn lôi mẹ ra đồng đào huyệt định chôn sống bà cụ. Để
trừng phạt thằng con bất hiếu, Ngọc hoàng đã sai thiên lôi giáng sấm sét giết chết
hắn để trừng phạt.
Truyện cổ tích Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng
kể ngày cũng lên án sự bất hiếu của ba đứa con trai đối với cha mẹ. Khi cha mẹ
còn khỏe mạnh, làm ăn thuận lợi, có nhiều của cải, chúng thay nhau thề thốt hứa
sẽ chăm sóc cha mẹ. Đứa thứ nhất thề rằng dù các em có bỏ bố mẹ chăng nữa thì
cũng sẽ chăm lo cho bố mẹ đầy đủ. Đứa thứ hai thề rằng sẽ không để cho bố mẹ
phiền hà lấy một câu. Đứa thứ ba thề rằng dù có nghèo khổ đến đâu, thì cũng đi ăn
xin về nuôi bố mẹ. Nhưng kết cục cả ba người con đều sợ rằng lỡ ra bố mẹ chết
sớm thì người chưa nuôi sẽ có lợi, mà người đã nuôi sẽ bị thiệt thòi, nên việc thay
nhau nuôi cha mẹ bị rút xuống nửa năm, rồi lại rút xuống ba tháng. Mỗi ngày sự
chăm sóc cha mẹ mỗi tệ, thậm chí các con chỉ mong đến kỳ hạn để tống cha mẹ
79
đi. Cứ như vậy chưa đầy ba năm cha mẹ vì không chịu được đói và rét, lần lượt
qua đời. Do đó mới có câu: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ
con kể từng ngày” để phê phán sự bất hiếu của con cái đối với cha mẹ.
Thông qua những câu truyện cổ tích ta thấy người Việt luôn coi trọng
nhân nghĩa, đặc biệt là đạo hiếu. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ khi cha mẹ
đau ốm, bệnh tật không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là tình cảm thiêng liêng,
cao cả. Đây là một giá trị đạo đức truyền thống nhưng đã được các tác giả dân
gian, thông qua những câu truyện cổ tích bình dị đã phát triển nó thành một triết
lý sâu sắc, định hướng cho con người trong nhận thức cũng như cách cư xử với
cha mẹ của mình.
Triết lý về tình cảm anh em
Truyện cổ tích Việt Nam còn thể hiện những đạo lý sâu sắc của con người
trong mối quan hệ với anh, chị em trong gia đình. Các câu truyện viết về chủ đề
tình cảm anh, chị em dù có nội dung khác nhau nhưng đều có chung triết lý đó là,
khuyên anh chị em trong một gia đình, sống chung một nhà, có chung một dòng
máu, cần phải yêu thương, đùm bọc, tôn trọng, chia sẻ, giúp lẫn nhau trong cuộc
sống. Anh chị em không chỉ là người chia ngọt sẻ bùi trong lúc sung túc, đủ đầy
mà còn phải biết cùng nhau đồng cam, cộng khổ những lúc thất bại, khó khăn.
Triết lý về tình cảm anh em một mặt đề cao tình cảm thiêng liêng, luôn yêu
thương đoàn kết với nhau giữa anh, chị em. Mặt khác cũng phê phán, lên án
những trường hợp anh, chị em trong cùng một gia đình vì lợi ích cá nhân mà
quên đi tình cảm máu mủ, ruột thịt. Triết lý cũng nhấn mạnh, chỉ có sự hòa thuận
giữa anh chị em mới tạo nên được sự yên ấm, hạnh phúc cho mỗi gia đình.
Truyện cổ tích Ba anh em họ Điền là một câu truyện xúc động về tình cảm
anh em. Họ Điền, có ba anh em ăn ở với nhau rất hòa thuận. Cho đến khi người
thứ hai lấy vợ. Do người vợ tính tình ích kỷ, lại hay sinh sự, lắm lời, nên không
khí trong gia đình không còn được như xưa. Rồi một hôm người vợ nhất quyết đòi
chia gia tài của ba anh em và bắt ép chồng đi ở riêng. Người chồng ban đầu nghĩ
tình anh em bấy lâu sum họp không nỡ chia lìa, song vì người vợ ngày đêm cằn
80
nhằn khó chịu, kiếm chuyện gây gổ trong nhà, nên rồi cũng đành phải nghe theo
vợ, nói với anh em đi ở riêng. Người anh cả khuyên can không được cũng đành
phải chia của cải do cha mẹ để lại ra làm ba phần đều nhau. Chỉ còn một cây cổ
thụ trước nhà, cành lá sum suê xanh tốt, chưa biết làm cách nào để chia cho đều.
Ba anh em cùng nghĩ ngợi, rồi sau cùng quyết định gọi thợ về hạ cây xuống, cưa
xẻ thành ván để chia làm ba phần. Đến hôm định hạ cây xuống, buổi sáng ba anh
em ra vườn thì thấy cây cổ thụ đã khô héo tự bao giờ. Ba anh em thấy cây cỏ vô tri
nghe thấy sắp phải chia lìa mà còn biết buồn phiền khô héo đi liền nhìn rồi ôm
nhau cùng òa khóc. Người vợ xúi chồng đi ở riêng nghe thấy vậy, cũng rơm rớm
nước mắt, đâm ra hối hận, cúi đầu xin lỗi ba anh em và thề không bao giờ còn tính
đến việc chia lìa nhau nữa.Từ hôm đó, ba anh em ở lại với nhau êm ấm, vui vẻ
như trước. Câu truyện đã mang đến triết lý tình cảm anh em ruột thịt là tình cảm
không dễ gì chia lìa. Chỉ có sự đồng cảm, chia sẻ mới giúp cho tình cảm này càng
bền vững.
Trên cơ sở khái quát và tổng kết thực tiễn, truyện cổ tích cũng chỉ ra rằng,
muốn gìn giữ được tình cảm gia đình, quan hệ hòa thuận giữa anh chị em thì cần
phải có sự nhường nhịn và chia sẻ, không nên vì những lợi ích vât chất nhỏ nhặt
mà nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến mất đi sự đoàn kết, hòa hợp giữa anh chị em
ruột. Truyện cổ tích Cây khế mang lại bài học rất sâu sắc về tình cảm anh em
ruột thịt. Trong câu truyện, người anh người tham lam và ích kỉ chỉ vì lợi ích vật
chất của mình mà quên mất cả tình cảm anh em. Chiếm lấy toàn bộ tài sản cha
mẹ để lại, đẩy mọi khó khăn vất vả cho em để lấy về phần lợi cho bản thân mình.
Người em muốn giữ lấy hòa khí trong gia đình mà nhường nhịn anh, chịu nhận
phần thiệt thòi về bản thân mình. Chính sự vị tha, lòng nhân ái và sự siêng năng
chăm chỉ của mình mà sau này người em có được kết cục tốt đẹp, ngược lại
người anh trai tham lam đã phải trả giá đắt cho lòng tham và sự ích kỉ của mình.
Đối với người Việt, gia đình luôn là một phần rất quan trọng trong cuộc
sống của mỗi con người. Vì vậy, đây cũng là một nội dung được các tác giả dân
gian đặc biệt quan tâm và thể hiện thông qua những câu truyện cổ tích gần gũi
81
với đời sống. Những câu truyện cổ tích tuy ngắn gọn, giản dị nhưng đã xây dựng
lên được một hệ thống triết lý sâu sắc và đa diện về những mối quan hệ của con
người với các thành viên trong gia đình. Do đó, giúp cho người đọc, người nghe
thấy được những kinh nghiệm của ông cha ta trong vấn đề đối nhân xử thế, góp
phần xây dựng những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp. Những triết lý này
còn có giá trị giáo dục đạo đức cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong giai
đoạn hiện nay.
2.2.2. Triết lý về mối quan hệ giữa con người với xã hội
Cư dân đồng bằng Bắc bộ chịu ảnh hưởng của văn hóa làng, xã vì vậy
giữa mỗi cá nhân với cộng đồng, xã hội luôn có mối quan hệ mật thiết, không
thể tách rời. Trong truyện cổ tích Việt Nam các tác giả dân gian đã đưa ra những
triết lý sâu sắc giúp con người có cách nhận thức và ứng xử phù hợp trong mối
quan hệ với cộng đồng, xã hội như quan hệ với với thầy trò, bạn bè, những người
trong cùng một cộng đồng, dân tộc từ đó hình thành và xây dựng tình yêu với
quê hương, đất nước.
Triết lý tôn sư trọng đạo
Dân tộc Việt Nam từ bao đời này luôn có truyền thống tôn sư trọng đạo.
Vì vậy, mối quan hệ giữa thầy và trò cũng thường xuyên được các tác giả dân
gian đề cập đến trong truyện cổ tích Việt Nam. Thông qua những câu truyện này
các tác giả dân gian muốn truyền tải đến người đọc, người nghe những triết lý
sâu sắc mà cha ông ta đã đúc kết từ xa xưa về mối quan hệ giữa thầy và trò, về
truyền thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp của dân tộc ta.
Trước hết, triết lý tôn vinh vai trò quan trọng của người Thầy. Người Thầy
luôn là người được cả xã hội kính trọng, họ là những người không chỉ có học thức
uyên thâm, mà còn là những người có nhân cách và đạo đức. Người thầy có trọng
trách to lớn trong việc truyền thụ tri thức, sự hiểu biết cho học trò của mình, giúp họ
có kiến thức để phục vụ cuộc sống, có đạo đức để đối nhân xử thế, có kỹ năng để
giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Trong truyện cổ tích Thầy cứu trò, “người
thầy nổi tiếng tài cao học rộng, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, các môn
82
nhâm, cầm, độn, toán, tất thảy đều tinh thông”[12, tr.910]. Không chỉ là người dạy
học, truyền thụ tri thức cho học trò, người thầy còn rất thương yêu học trò của
mình. Nhờ khả năng xem tướng số nhìn trước lành dữ, người thầy đã chỉ cho anh
học trò những cách thoát khỏi điềm dữ trước khi chia tay người học trò để anh ta trở
lại quê nhà. Người học trò hết mực tin tưởng và làm theo những điều thầy chỉ dạy,
nhờ vậy mà đã tai qua nạn khỏi, biến dữ hóa lành.
Bên cạnh việc đề cao, tôn vinh tài năng, đạo đức và vị thế của người thầy
tác giả dân gian còn muốn gửi đến cho người học về triết lý đạo làm trò đó là:
phải biết ghi nhớ công ơn, tri ân công lao dạy dỗ của thầy, phải có trách nhiệm
báo đáp ơn nghĩa của thầy. Sự tích Đầm Mực là câu truyện cảm động về hai
người con trai thủy thần hiếu học, nguyện dùng cả tính mạng để trả nghĩa người
thầy đã dạy đỗ mình bấy lâu. Khi được thầy nhờ vả cứu dân khỏi hạn hán, hai
người con trai của thủy thần đã quyết làm trái lệnh “phong bế” mà trời đưa ra,
dùng nghiên mực và bút lông để làm mưa cứu hạn cho dân cả một vùng. Nhưng
vì làm trái lệnh trời, họ đã bị Ngọc Hoàng sai thiên lôi bắt về xử tội chết. Ẩn
chứa trong câu truyện cổ tích này là những triết lý vô cùng sâu sắc về tình cảm
thầy trò. Người học trò dù có là con trai của thủy thần nhưng cũng luôn giữ đúng
đạo làm trò, không tiếc mạng sống để tri ân công lao dạy dỗ của thầy cũng như
để giúp dân, giúp nước như lời thầy đã dạy.
Thông qua những câu truyện cổ tích về tình cảm thầy trò, cư dân đồng bằng
Bắc bộ đã giúp khẳng định lại giá trị của triết lý “ tôn sư trọng đạo”- một triết lý
nhân sinh tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ đó giúp giáo dục mỗi con người cần
phải giữ gìn và phát huy được những giá trị này trong cuộc sống hiện nay. Trong
thời buổi kinh tế thị trường, khi những giá trị truyền thống ngày càng bị mai một,
mối quan hệ thầy trò dần bị kinh tế hóa thì những giá trị mà triết lý nhân sinh này
mang lại đã và sẽ luôn có ý nghĩa quan trọng với cuộc sống của mỗi con người.
Triết lý về mối quan hệ bạn bè
Con người sống trong xã hội không chỉ có những mối quan hệ với các
thành viên trong gia đình mà còn có cả những mối quan hệ xã hội khác như quan
83
hệ với bạn bè. Đây là mối quan hệ tất yếu của con người vì trong quá trình sống,
lao động, học tập. Dù là sinh hoạt vật chất hay tinh thần luôn cần có sự động
viên, giúp đỡ, tương trợ, hợp tác của bạn bè. Vì vậy, người Việt rất coi trọng mối
quan hệ bạn bè, quan hệ bạn bè là quan hệ không thể thiếu được trong đời sống
con người. Cá nhân mỗi con người không ai có thể sống thiếu được bạn bè, bằng
hữu trong mọi giai đoạn, mọi hoàn cảnh của cuộc đời mình. Khi mạnh khỏe,
hạnh phúc, khi thành công người ta thường cần bạn bè để chia sẻ. Khi ốm đau,
bất hạnh, thất bại trong cuộc sống con người cũng cần có bạn bè để động viên,
giúp đỡ. Khi giàu sang thì đến giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với bạn, khi nghèo khó
ta lại cần đến bạn bè để nhờ cậy. Trong mọi hoàn cảnh, bạn bè cần đến nhau để
chia ngọt sẻ bùi. Tình bạn chỉ có thể tốt đẹp và bền vững khi hai bên có sự
nhường nhịn, thấu hiểu, cảm thông, trung thành với nhau.
Cách đối nhân xử thế trong mối quan hệ bạn bè đã được cư dân đồng
bằng Bắc bộ nâng lên tầm triết lý thông qua những bài học về tình bạn trong các
câu truyện cổ tích. Truyện Sự tích chim quốc đã cho chúng ta thấy được tình cảm
bạn bè, tình bằng hữu gắn bó keo sơn không toan tính giàu sang hay nghèo hèn
giữa hai người bạn là Quắc và Nhân. Từ lúc còn cơ hàn, khó khăn hai người đã
luôn nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau. Đến khi giàu sang, Nhân cũng không quên
người bạn của mình, không quên lời thề năm xưa với bạn “sướng khổ có nhau”,
nên đã đón Quắc về nhà và đối đãi với bạn rất tử tế. Nhưng vợ Nhân lại là người
hẹp hòi, ích kỉ xúc phạm đến bạn chồng nên Quắc đã bỏ đi mà không từ biệt.
Mất bạn, Nhân đi khắp rừng sâu tìm bạn đến chết hóa thành con cuốc miệng vẫn
kêu Quắc, Quắc gọi tên người bạn thân của mình.
Trong câu truyện Bán tóc đãi bạn, vợ chồng Mai dù nghèo khổ, kiếm
miếng ăn cũng chật vật, nhưng khi người bạn nối khố thân thiết của chồng tới
chơi nhà, hai vợ chồng vẫn nồng nhiệt đón tiếp. Nhà không có tiền và thức ăn để
đón bạn, vợ Mai đã phải bán đi cả mái tóc dài để lấy tiền mua thức ăn cho chồng
đãi bạn. Hành động đó của hai vợ chồng Mai đã khiến Tùng- người bạn thân vô
cùng cảm động.
84
Những câu truyện cổ tích này đã truyền tải đến người nghe triết lý sâu sắc
về tình bạn đó là cần trân trọng tình cảm bạn bè, giữa bạn bè, không nên so đo
tình toán hay phân biệt sang hèn. Trong quan hệ bạn bè, cần chú trọng tình nghĩa
trước sau như một thì tình cảm bạn bè mới có thể bền chặt.
Triết lý nhân ái
Nhân ái là tình cảm đạo đức, là một giá trị văn hoá cơ bản trong hệ giá trị
của người Việt Nam. Vì vậy, nhân ái đã trở thành một triết lý nhân sinh nổi bật
của người Việt cũng như của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong các câu truyện cổ
tích. Triết lý này thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ của con người. Đó là tình
yêu thương giữa những người trong gia đình; yêu thương làng xóm, cộng đồng;
yêu thương dân tộc.
Trong mối quan hệ gia đình triết lý nhân ái thể hiện ở sự yêu thương,
thuận hòa, trân trọng, sự hy sinh vì những người thân trong gia đình như cha mẹ,
vợ chồng, anh em...Truyện cổ tích Đồng tiền vạn lịch người vợ dù bị chồng đối
xử tệ bạc, đánh đuổi khỏi nhà nhưng vẫn yêu thương, tha thứ cho chồng khi
người chồng biết hối cải, người vợ đã cùng chồng làm ăn, gây dựng lại sự
nghiệp. Truyện Người con hiếu thảo thể hiện tình yêu thương, sự hiếu thảo của
người con út với người cha già mắc bệnh nặng. Để cứu cha chàng không ngại
vượt qua gian nguy, hiểm trở để tìm được thuốc quý cứu sống cha.
Trong mối quan hệ với làng xóm, cộng đồng triết lý nhân ái thể hiện qua
sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau giữa con người với con người khi gặp khó khăn,
hoạn nạn trong cuộc sống. Triết lý này có thể dễ dàng được bắt gặp trong nhiều
câu truyện cổ tích Việt Nam. Truyện Sự tích thằng cuội cung trăng kể về anh
chàng tiều phu nghèo tên là Cuội, nhờ may mắn tìm được loại thuốc quý khi đi
rừng có tác dụng cải tử hoàn sinh, Cuội đã cứu giúp biết bao người thoát khỏi cái
chết. Đó là một ông lão già yếu mà Cuội gặp ven đường, một cô gái không may
chết đuối, một chú chó nhỏ, tất cả đều được Cuội cứu sống một cách vô tư không
mong đền đáp. Trong truyện Sự tích con khỉ, cô gái nghèo đi ở cho gia đình lão
trưởng giả dù không đủ ăn nhưng khi thấy có ông cụ già rách rưới, ăn xin tới xin
85
đồ ăn và nước uống, cô đã tận tình nhường cả phần cơm cháy ít ỏi của mình cho
ông cụ mà không nề hà. Tầm lòng nhân ái của cô gái đã mang đến cho cô cuộc
sống hạnh phúc. Trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng, xã hội, tác
giả dân gian đã luôn đề cao và coi trọng triết lý nhân ái.
Trong mối quan hệ với dân tộc, triết lý nhân ái thể hiện trong tình yêu nước,
thương dân, yêu dân tộc, yêu đồng bào của mình. Triết lý nhân ái còn bao hàm cả
tấm lòng vị tha, bao dung nhưng không chỉ bó hẹp trong cộng đồng người Việt mà
còn mở rộng ra với cả với kẻ thù xâm lược. Chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích
cùng tên đã dùng tiếng đàn của mình để chiêu hàng quân sĩ mười tám nước, trước
khi họ ra về chàng còn sai người dọn cơm cho họ ăn, khiến họ vô cùng cảm phục
mà lui quân.
Có thể nói, triết lý nhân ái là một phần quan trọng trong giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc ta, nó đã tạo nên nét độc đáo trong chủ nghĩa nhân văn
Việt Nam, được nhân dân ta lưu truyền từ đời này sang đời khác. Cần phải tiếp
tục kế thừa giá trị tốt đẹp này trong xã hội hiện nay để góp phần xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Triết lý đoàn kết, cố kết cộng đồng
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết,
cố kết cộng đồng đã trở thành di sản vô giá, là truyền thống quý báu của dân tộc
ta. Thông qua các câu truyện cổ tích cư dân đồng bằng Bắc bộ gửi gắm những
triết lý sâu sắc về tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng của dân tộc. Triết lý này
chỉ ra rằng chỉ có đoàn kết, cố kết nhau lại, thì người dân Việt Nam mới có thể
tạo ra được sức mạnh tập thể, mới đủ sức chống chọi với thiên tai, kẻ thù xâm
lược. Trong lao động sản xuất con người cũng cần đoàn kết, đồng sức, đồng lòng
vì phương thức sản xuất chủ yếu của người Việt vẫn là nền sản xuất nông nghiệp
lúa nước, muốn tổ chức sản xuất được thì cần phải có một lực lượng đông đảo
nhân lực để đắp đê, ngăn lũ, trồng trọt, cấy hái. Vì vậy, đoàn kết và cố kết cộng
đồng vô cùng quan trọng.
Truyện Con rồng, cháu tiên không chỉ giải thích nguồn gốc của dân tộc Việt
86
là con Rồng, cháu Tiên mà còn giải thích truyền thống đoàn kết, cố kết cộng đồng
của dân tộc ta từ hàng ngàn năm qua. Tổ tiên của người Việt từ xa xưa chính là hai
vị thần khỏe mạnh, tài năng, xinh đẹp, đức độ là Long Quân – Âu Cơ. Cuộc hôn
nhân giữa Long Quân – Âu Cơ như một mối lương duyên tiền định và kết quả thật
lạ thường. Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con hồng hào,
đẹp đẽ. Dấu ấn thần tiên được thể hiện rất rõ trong câu truyện này. Hình ảnh bọc
trăm trứng, nở ra trăm người con mang ý nghĩa tượng trưng thiêng liêng. Nó khẳng
định rằng tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều chung một mẹ sinh ra,
do đó mối quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ anh em thân thiết. Hai tiếng
đồng bào (cùng một bọc) đã gợi lên đầy đủ và cảm động nghĩa tình keo sơn, máu
thịt ấy. Sự tích Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ, đem theo năm mươi con xuống
biển, còn năm mươi người con theo mẹ lên núi, ngoài lí do kẻ ở trên cạn, người ở
dưới nước, tính tình, tập quán khác nhau, khó mà ăn, ở cùng nhau một nơi lâu dài
còn nhằm giải thích sự phân bố vùng định cư của các dân tộc trên đất nước Việt
Nam. Ngay từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã tiến hành những cuộc sắp đặt
giang sơn. Địa bàn sinh sống rộng, các dân tộc đã biết phân chia nhau cai quản, kẻ ở
chốn núi rừng, kẻ đồng bằng, người biển cả… lập nghiệp khắp nơi, khắp chốn. Khi
có việc quan trọng, lớn lao, họ lại tìm đến nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó thể hiện
truyền thống đoàn kết tốt đẹp trong suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc ta.
Triết lý về lòng yêu nước
Trong hơn hai ngàn năm dựng nước và giữ nước dân tộc Việt Nam luôn
phải đồng sức, đồng lòng cùng nhau chống lại giặc ngoại xâm. Vì vậy, các cuộc
đấu tranh bảo vệ đất nước là một nội dung cơ bản của truyện cổ tích Việt Nam.
Lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu, hy sinh bảo vệ Tổ quốc là một truyền thống
quý báu của dân tộc. Nó được duy trì trong suốt thời kì Việt Nam bị các triều đại
phong kiến phương Bắc xâm chiếm, đô hộ cho đến tận ngày nay. Thông qua
truyện cổ tích cư dân đồng bằng Bắc bộ muốn gửi gắm những triết lý sâu sắc về
tình yêu quê hương, đất nước, của ông cha ta .
Triết lý về lòng yêu nước trong truyện cổ tích được thể hiện rất đa dạng và
87
phong phú. Trước hết yêu nước là sự tự hào, tự tôn dân tộc, dùng tài năng của
mình để làm rạng danh cho đất nước. Có nhiều câu truyện kể về những người
Việt tài giỏi, xuất thân chỉ là người nông dân chân lấm tay bùn, nhưng bằng sự
thông minh, tài trí của mình đã góp phần khẳng định vị thế và tên tuổi của tổ
quốc trước các nước lân bang, khiến cho những nước lớn cũng không thể coi
thường người Việt. Truyện Lê Như Hổ kể về người học trò nghèo họ Lê, tuy gia
cảnh khó khăn nhưng được cha mẹ cho ăn học đầy đủ. Sau này thành đạt làm
quan lớn trong triều, được vua tin tưởng cử đi xứ Trung Quốc. Nhờ có sự thông
minh, tài trí lại giúp được nước bạn thoát khỏi hạn hán mà Lê Như Hổ đã được
phong làm lưỡng quốc thượng thư. Hay trong truyện Em bé thông minh, dù nhỏ
tuổi, nhưng bằng trí tuệ của mình em bé đã nhiều lần giải đáp được các câu hỏi
hóc búa mà sứ thần đưa ra, giúp nhà vua và triều đình thoát khỏi những rắc rối,
đồng thời khiến cho nước lân bang phải khâm phục và kiêng nể tài trí của người
Việt.
Triết lý yêu nước của người Việt trong truyện cổ tích còn được thể hiện
trong tinh thần đấu tranh chống giặc cứu nước. Rất nhiều hình tượng các nhân vật
cổ tích được xây dựng để minh chứng cho tinh thần yêu nước mãnh liệt này. Trong
truyện Thánh Gióng dù tuổi còn nhỏ nhưng cậu bé Gióng đã sớm có lòng yêu nước
căm thù giặc, khi nghe tin vua cần tìm người diệt giặc Ân, cậu bé đã xin mẹ cho
mình ra trận đánh giặc cứu nước. Lòng yêu nước của người Việt không phân biệt
giới tính hay tuổi tác, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” truyện Hai nàng công chúa
nhà Trần, Người Ả Đào với giặc Minh đã thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm
chống giặc của những người phụ nữ Việt Nam. Vốn bị coi là phái yếu nhưng trước
cảnh nước mất, nhà tan, bằng tài năng và trí tuệ của mình những người phụ nữ này
đã cùng nhân dân tham gia diệt giặc cứu nước. Truyện cổ tích còn kể về những
nhân vật anh hùng có thật trong lịch sử. Yết Kiêu là anh hùng chống giặc ngoại xâm
vào đời nhà Trần, là một trong năm mãnh tướng dưới trướng Quốc công tiết chế
Trần Quốc Tuấn, ông là người có công giúp nhà Trần chống giặc Nguyên Mông
vào thế kỷ XIII với biệt tài thủy chiến. Truyện cổ tích Lê Lợi kể về Lê Lợi người
88
anh hùng có công lãnh đạo nhân dân chống giặc Minh, lập ra nhà hậu Lê. Mỗi câu
truyện đều thể hiện lòng dũng cảm, can đảm, bất khuất của các vị anh hùng dân tộc
đã chiến đấu, hi sinh vì nền độc lập của đất nước. Đây đều là những tấm gương
sáng về lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước để thế hệ trẻ đời sau noi theo.
Triết lý yêu nước đã góp phần ngợi ca tài năng đánh giặc cũng như tinh thần
đánh giặc cứu nước của người Việt trong lịch sử dân tộc. Chính sự quyết liệt trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của ông cha ta đã góp phần hun đúc cho
tinh thần yêu nước của các thế hệ người Việt hiện nay.
2.3. Triết lý về mối quan hệ giữa con ngƣời với chính bản thân mình
2.3.1. Triết lý về cuộc đời của con người
Trong truyện cổ tích Việt Nam, cư dân đồng bằng Bắc bộ không chỉ đúc
kết nên những kinh nghiệm sống của mình thông qua mối quan hệ với tự nhiên
và xã hội mà còn thể hiện cách nhận thức sâu sắc về cuộc đời mỗi con người, về
sự sống, cái chết, linh hồn và vấn đề số phận con người. Từ đó hướng con người
đến với mục đích sống, lẽ sống tốt đẹp, luôn lấy lẽ phải, sự thật và cái thiện là
đích đến. Đồng thời cảnh tỉnh, răn đe, phản tư để con người tự “giác ngộ”, tự
định hướng hành động, ứng xử của bản thân mình với môi trường ( tự nhiên, xã
hội) xung quanh mình.
Triết lý về sự sống của con người
Suốt quá trình lịch sử tồn tại phát triển lâu dài của dân tộc Việt Nam,
người Việt nói chung và cư dân đồng bằng Bắc bộ nói riêng luôn tìm mọi cách
để nhận thức và lý giải về sự sống. Trong điều kiện nhận thức của con người còn
nhiều hạn chế, khoa học tự nhiên chưa phát triển thì cách giải thích và nhận thức
của người Việt xưa về sự sống của mình chỉ chủ yếu dựa trên nhận thức kinh
nghiệm, mang tính chất phỏng đoán kết hợp với trí tưởng tượng phong phú.
Thông qua truyện cổ tích, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã cố gắng lý giải về sự tồn
tại của con người, từ đó xây dựng những triết lý sơ khai, mộc mạc đầu tiên của
người Việt về sự sống.
Theo quan niệm của cư dân đồng bằng Bắc bộ vũ trụ, thế giới hay muôn
89
loài không phải tự nhiên xuất hiện mà được ông Trời ( Ngọc Hoàng thượng đế)
tạo ra. Vì vậy, sự sống, sự tồn tại của con người và muôn vật đều chịu sự quyết
định của số Trời. Trong truyện Sự tích người làm chúa muôn loài tác giả dân
gian đã chỉ ra rằng Ngọc Hoàng sống trên thiên đình, cõi trời và cai quản tất cả
muôn loài dưới hạ giới, cũng chính Ngọc Hoàng đã giao cho con người là chúa
tể của muôn loài. Do chịu ảnh hưởng của triết lý vạn vật tương quan, trong quan
niệm của cư dân đồng bằng Bắc bộ giữa con người và vạn vật, vũ trụ có liên
quan mật thiết với nhau. Bằng trí tượng tượng phong phú của mình họ chỉ ra
rằng, cõi trần chính là nơi mà con người sống (hạ giới). Ngoài cõi trần còn có
Thượng giới (cõi trời) do Ngọc Hoàng thượng đế cai trị, Thủy Phủ (cõi nước),
Âm Phủ (cõi âm), ba thế giới này có ảnh hưởng chi phối thế giới loài người, ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người. Theo quan niệm của người Việt và cư dân
đồng bằng Bắc bộ mọi việc tốt hay xấu mà con người làm Ngọc Hoàng thượng
đế đều biết, nếu làm nhiều việc xấu, việc ác, gian dối khi còn sống thì người đó
sẽ phải chịu những hình phạt nghiêm khắc ở cõi âm.
Trong truyện Thủ Huồn xuất hiện hình ảnh “cõi âm”, theo tác giả dân gian
đó là nơi con người sẽ tới khi chết đi. Thủ Huồn vốn là một người từng làm
nhiều điều xấu, trong giấc mơ ông thấy mình bị đưa xuống dưới âm phủ, chứng
kiến thấy cuộc sống dưới cõi âm và kiếp sau của mình, khi tỉnh lại Thủ Huồn đã
tự “ giác ngộ”. Ông ta trở nên lương thiện, sống có đạo đức và làm nhiều việc tốt
với mong ước khi chết sẽ không bị bị chịu phạt dưới âm phủ. Trên cơ sở triết lý
nhận thức về sự sống, các tác giả dân gian muốn hướng con người đến cái thiện,
đến lối sống tốt đẹp, vì theo họ có làm nhiều việc tốt, sống lương thiện, đạo đức
con người mới tránh khỏi sự trừng phạt dưới cõi âm và có được cuộc sống hạnh
phúc ở kiếp sau.
Bằng nhận thức kinh nghiệm kết hợp với trí tượng tượng phong phú, cư
dân đồng bằng Bắc bộ đã đưa ra những lý giải đầu tiên về sự sống của con
người. Đó là sự sống của con người và muôn vật được tạo nên bởi Ngọc Hoàng
thượng đế. Quan niệm này có tính chất duy tâm, thần bí, là sản phẩm của một
90
kiểu tư duy chất phác, hồn nhiên của người bình dân nhưng nó cũng có những
những tác dụng nhất định trong việc hướng con người đến cái thiện, lẽ phải. Bởi
theo quan niệm của cư dân Bắc bộ để có được cuộc sống tốt đẹp trong kiếp sau,
thì kiếp này họ phải làm nhiều việc tốt, sống thật thà, lương thiện.
Triết lý về cái chết và linh hồn
Cư dân đồng bằng Bắc bộ thừa nhận sự sống và cái chết là một quy luật tất
yếu không thể tránh khỏi trong cuộc đời của mỗi con người. Truyện Nguồn gốc sinh
tử thể hiện rất rõ quan điểm này “sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có tử” vì vậy
cái chết xảy đến với con người cũng là lẽ thường theo tiến trình tự nhiên. Cái chết là
một bí mật mà con người luôn luôn sợ hãi vì chưa có kinh nghiệm về cõi đến sau
khi chết. Người ta tin rằng, sau khi chết con người sẽ xuống địa ngục, ở đó có quỷ
sứ, Diêm Vương phán xét việc mà con người đã làm khi họ còn sống ở trên thế
gian. Trong câu truyện cổ tích Người họ Liêu và Diêm vương, người họ Liêu vì
muốn biết tại sao dòng họ nhà anh ta ai cũng chỉ sống đến năm ba mươi tuổi là chết
non nhưng lại có ông lão họ Lã sống đến hơn ba trăm tuổi mà vẫn chưa chết. Vì
vậy, anh ta chấp nhận cái chết để xuống âm phủ, yết kiến Diêm Vương xin người
phân xử cho dòng họ mình. Xuống dưới âm phủ người họ Liêu đã gặp quỷ sứ, rồi
được gặp Diêm Vương, được chứng kiến cõi âm, nơi mà con người ta đến sau khi
chết. Câu truyện đã thể hiện trí tưởng tượng phong phú của dân gian về cõi âm cũng
như những quan điểm của họ về cái chết, về thế giới bên kia.
Theo cách nhận thức của người dân đồng bằng Bắc bộ, cái chết được định đoạt
bởi quyển sổ tử của Diêm Vương, trong quan niệm của họ cái chết không phải là sự
chấm dứt tuyệt đối. Chết là khởi đầu cho một cuộc sống mới của con người ở một thế
giới khác, dưới một hình hài khác. Cái chết của mỗi con người chỉ là một sự đứt đoạn
tạm thời vì ngay sau đó sẽ có sự tái lập tương ứng với sự xuất hiện một hình thể mới.
Truyện Thần Tử và Thần Sinh cho biết hai vị Thần Nam Tào, Bắc Ðẩu sẽ trông nom
loài người cũng như loài vật lúc sinh đến lúc chết, qui định số mạng giàu nghèo, lành
dữ của mỗi người và sau khi chết sẽ đầu thai kiếp gì. Người dân Bắc bộ tin tưởng ở sự
đầu thai của con người ở một kiếp khác theo luật luân hồi của đạo Phật.
91
Bên cạnh quan niệm về cái chết trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ còn có quan niệm về linh hồn. Với quan niệm thế giới vạn vật hữu
linh, người Việt cho rằng vạn vật trên thế giới này đều có linh hồn. Người - trời
tương thông, mọi vật tuần hoàn theo vòng quay luân hồi và luôn tồn tại một thế giới
vĩnh hằng, bất tử vượt thoát ra ngoài mọi lẽ thường tình của nhân gian. Xác thịt con
người chẳng qua chỉ là chỗ trú ngụ của linh hồn. Cái chết làm cho thân xác con
người tan rữa nhưng linh hồn vẫn tiếp tục sống một cuộc đời khác, ở một thế giới
khác. Người dân đồng bằng Bắc bộ quan niệm mỗi người sống có thể xác và có linh
hồn. Họ ý thức về sự tồn tại của linh hồn sau khi chết. Bên cạnh những quan niệm
về cõi Trời, về sự hiện hữu của Thượng Ðế, tín ngưỡng về đời sống sau khi chết,
người bình dân thời xưa còn tin rằng linh hồn là bất tử.
Truyện Hồn Trương Ba, da Hàng thịt là câu truyện thể hiện rất rõ quan
niệm về linh hồn của con người. Truyện chỉ ra rằng linh hồn phải có thể xác mới có
chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát. Nhưng
trong câu truyện cổ dân gian này, các tác giả đã tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn,
coi nhẹ thể xác, nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt để
nhập vào thì hồn Trương Ba vẫn coi mình là Trương Ba như ngày còn đang sống.
Dẫn đến trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn
gì về hình dạng của mình mà vẫn y như khi anh ta còn đang sống. Vợ Trương Ba dù
thấy chồng mang thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí, tính cách vẫn là anh chàng
Trương Ba ham cờ ngày nào thì cũng không hề băn khoăn gì mà nhận ra ngay và
sống hạnh phúc như ngày chồng còn chưa chết. Nhưng vợ anh Hàng thịt thấy chồng
mình sống lại nên tìm mọi cách đấu tranh khiếu kiện giành giật chồng mình về.
Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng chơi cờ thì quyết
định xử ngay cho anh Hàng thịt mang hồn Trương Ba về với vợ Trương Ba. Phép
thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể
giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí
tuệ, về năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là
một biểu hiện, một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh
92
hồn đó chỉ có thể là Trương Ba- người sinh thời chơi cờ rất giỏi. Câu truyện cổ tích
với cốt truyện ngắn gọn, mang thiên hướng duy tâm, huyền bí nhưng đã chứa đựng
một triết lý sâu sắc của tác giả dân gian đối với vấn đề linh hồn con người. Tuy
nhiên triết lý này cũng có nhiều điểm hạn chế khi tác giả đã quá tuyệt đối hóa linh
hồn, không thấy được mối quan hệ mật thiết giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh
hồn và thể xác, không thấy được vai trò của thể xác con người. Đặc biệt quan điểm
này mang đậm màu sắc duy tâm, tôn giáo và huyền bí khi cho rằng, linh hồn của
người đã chết có thể tồn tại và có thể nhập vào thể xác khác khi thể xác cũ mất đi.
Triết lý về số phận của con người
Do chịu ảnh hưởng của học thuyết “Thiên mệnh” trong Nho giáo nên cư
dân đồng bằng Bắc bộ tin tưởng vào sự hiện hữu của Trời (Ngọc hoàng thượng
đế). Họ coi đây là đấng sáng tạo ra vũ trụ, quyết định vận mệnh của muôn loài
và muôn người. Vì vậy, trong truyện cố tích Việt Nam có sự xuất hiện triết lý an
phận - chấp nhận số phận. Người dân đồng bằng Bắc bộ cho rằng số phận của
mỗi người đều được định đoạt từ trước bởi ông Trời.
Trong truyện Người dân nghèo và Ngọc Hoàng, anh học trò nghèo không
biết tại sao mà dù đã cố gắng chăm chỉ làm thuê làm mướn, nhưng cuộc đời anh
vẫn không thể thoát khỏi sự nghèo khổ. Để tìm câu trả lời cho số phận của mình
anh đã quyết tâm đi đến tận biển Đông xa xôi, nơi mà anh nghe có người kể lại
rằng Ngọc Hoàng thượng đế thường hay xuống để nghỉ ngơi. Trên đường đi tìm
Ngọc Hoàng để hỏi về số phận của mình, anh cũng được rất nhiều người khác
nhờ để hỏi Ngọc Hoàng về những trắc trở, khó khăn trong cuộc đời mà họ gặp
phải. Câu truyện phần nào cho ta thấy được quan điểm của cư dân đồng bằng
Bắc bộ về số phận con người. Theo đó, cuộc sống của con người luôn lệ thuộc
vào các lực lượng siêu nhiên như Ngọc Hoàng thượng đế và các vị thần tiên.
Những lực lượng siêu nhiên này có khả năng thấu hiểu, soi tỏ mọi việc của cõi
trần và có thể dùng sức mạnh thần tiên để thay đổi mọi việc, thay đổi số phận
con người. Người Việt coi Ngọc Hoàng như một bậc Quân Vương làm nhiệm vụ
cai quản thế gian, Vũ Trụ, quanh ngài cũng có các vị Thần nhà Trời như Thần
93
Sét, Thần Mưa, Thần Gió…Mỗi một vị thần có một nhiệm vụ riêng và có những
sức mạnh đặc biệt có thể chi phối số phận và cuộc sống của con người. Những
quan niệm của cư dân đồng bằng Bắc bộ khi lý giải về số phận của con người
mang nhiều màu sắc duy tâm, tôn giáo. Nó phản ánh sự bất lực của người xưa khi
lý giải về đời sống xã hội của họ. Quan niệm này cho rằng, bản chất mỗi con
người là cái tiền định, đồng thời họ thừa nhận sự phân biệt đẳng cấp và sự thống
trị của chế độ phong kiến trong xã hội trước đây như một lẽ tự nhiên.
Mặc dù tin vào thiên mệnh, tin rằng số phận của con người sinh ra là do
trời quyết định, tuy nhiên trong nhận thức của cư dân Bắc bộ cũng đã xuất hiện
những quan điểm rất tiến bộ khi cho rằng con người không thụ động trước thiên
mệnh. Trong nhiều trường hợp, truyện cổ tích Việt Nam còn bày tỏ rõ ràng
nguyện vọng của nhân dân ta khi muốn cải tạo thiên mệnh. Cô gái xinh đẹp
trong Cô gái lấy chồng hoàng tử vốn có một ước muốn được lấy chồng hoàng tử
nên ngày ngày đến đền để cầu xin thần linh cho cô được toại ước muốn. Nhưng
không may cho cô là gã buôn hương từ lâu có tình ý với cô đã lợi dụng lòng tin
của cô với thần thánh, hắn đóng giả là thần và phán rằng số của cô là phải làm vợ
người buôn hương ở chợ. Cô gái tưởng lời thần nói là thật, rằng số trời đã định
mình phải làm vợ gã buôn hương. Nhưng chính ý nguyện chân thành và tấm lòng
trong trắng vô tư của cô cuối cùng đã giúp cô toại nguyện, giúp cô vượt lên số
phận, và gặp được hoàng tử rồi trở thành vợ chàng như mong ước bấy lâu của cô
trong khi tên bán hương dối trá đã phải chuốc lấy kết cục bi thảm cho hành vi của
mình. Anh nho sinh trong truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng vốn dĩ có
một bản mệnh vô cùng tốt đẹp, trong sổ Thiên Tào đã sớm ghi anh đỗ tiến sĩ, làm
quan đến chức thượng thư. Nhưng anh ta ỷ vào điềm báo do người thủ từ cung
cấp, chưa đỗ ông nghè đã toan bỏ vợ và chiếm đất của người khác, kết quả anh bị
xóa tên trong sổ Thiên Tào, thi mãi không đỗ, cuộc đời dần dần tàn lụi. Qua
những câu truyện cổ tích này tác giả dân gian muốn gửi gắm một quan niệm rất
tiến bộ: dù thiên mệnh có được định đoạt tốt đẹp thế nào, nhưng nếu sống bất
nhân bất nghĩa, không hợp với đạo đức thì “mệnh trời” cũng có thể thay đổi.
94
Thiên mệnh dưới con mắt nhìn của tác giả dân gian rõ ràng không phải là một cái
gì bất biến, mà thực tế con người có thể tác động để thay đổi nó. Có những trường
hợp đặc biệt, khi con người phải đối diện với một sự bất công gay gắt của mệnh
trời mà không tài nào hiểu nổi, bằng tu dưỡng đạo đức cũng không tìm được lối
thoát ra, thì con người sẽ vùng lên chống lại cả “thiên mệnh” để làm chủ cuộc đời,
số phận của mình. Trong truyện Sự tích đầm Mực, hai anh em nhà Gàn, con thần
Nước, đã tự nguyện đánh đổi lấy cái chết, để giúp đỡ thầy học chống lại lệnh
"phong bế" vô lý của thiên đình. Họ chết nhưng lý trí sáng suốt đã chiến thắng sự
mù quáng tàn bạo của mệnh trời. Câu chuyện thể hiện sự lạc quan của con người
trước khát vọng làm chủ số phận. Đó là ước mơ thay đổi số phận, mong muốn có
được số phận tốt đẹp và có cuộc sống hạnh phúc hơn của người Việt nói chung
cũng như của cư dân đồng bằng Bắc bộ nói riêng.
Triết lý về số phận con người của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam bộc lộ tinh thần lạc quan và tình yêu tha thiết với cuộc sống. Dù
cuộc sống hiện thực còn nhiều khó khăn vất vả nhưng người dân nơi đây vẫn tin
vào cuộc sống, tin vào khả năng, năng lực của chính mình để vượt lên số phận,
hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù có khuynh hướng duy tâm nhưng chứa
đựng trong những triết lý đó là những tư tưởng hết sức tiến bộ, khẳng định con
người có khả năng cải tạo chính số phận của mình.
2.3.2. Triết lý nhận thức của con người về chính mình
Trong truyện cổ tích Việt Nam, cư dân đồng bằng Bắc bộ không chỉ gửi gắm
những triết lý về sự sống, cuộc đời, về số phận của con người mà còn có những triết
lý thể hiện sự nhận thức của họ về chính bản thân mình như triết lý lạc quan, triết lý
về giá trị chân- thiện - mỹ và vị thế của con người trong cuộc sống.
Triết lý lạc quan
Tinh thần lạc quan, yêu đời và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống là một
nội dung cơ bản, thể hiện nét đặc trưng trong triết lý về mối quan hệ giữa con
người với chính bản thân mình của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Trong truyện cổ tích, hầu hết các nhân vật chính đều rất yêu cuộc sống của
95
mình, luôn muốn gắn bó với cuộc sống. Dù không phải nhân vật nào cũng có một
cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc ngay từ đầu. Nhưng ngay cả khi gặp khó khăn, vất
vả trong cuộc sống thì các nhân vật này vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời,
tin tưởng vào cuộc sống, dám đấu tranh với các thế lực xấu xa để giành lấy hạnh
phúc của mình. Cuộc đời cô Tấm phải trải qua nhiều khó khăn, cực khổ, không
biết bao lần bị mẹ con Cám hại chết, nhưng chính niềm tin yêu với cuộc sống đã
tạo ra động lực để Tấm đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Cũng như Tấm, anh
chàng Thạch Sanh hiền lành cũng bị mẹ con nhà Lý Thông nhiều lần hãm hại
hòng cướp thành quả của chàng, nhưng bằng tinh thần lạc quan Thạch Sanh đã lần
lượt thoát khỏi những hiểm nguy để có được kết quả tốt đẹp.
Triết lý lạc quan còn là sự tin tưởng mãnh liệt của con người vào sức mạnh
bản thân để có thể đạt được những mục tiêu chính đáng mà mình tự đặt ra. Vì vây,
trong truyện cổ tích không phải lúc nào các nhân vật cũng thụ động trông chờ vào
số phận, sự may rủi mà cuộc đời đem đến cho họ. Tinh thần lạc quan tạo ra động
lực giúp con người vững tin vào cuộc sống. Cô em út trong truyện Sọ Dừa dù bị
hai người chị gái hãm hại, bị cá dữ ăn thịt, rồi bị lạc lên hoang đảo nhưng với
niềm tin mãnh liệt rằng chàng Sọ Dừa là chồng cô nhất định sẽ tìm ra và cứu được
cô về mà cô có thể vượt qua được những khó khăn và thử thách. Chỉ bằng một con
dao sắc, hai hòn đá cuội và hai quả trứng gà, cô đã giết được cá dữ, tự giải thoát
mình và sống sót trên hoang đảo cho đến ngày được chồng đón về đất liền.
Tinh thần lạc quan trong truyện cổ tích thường được các tác giả dân gian
thể hiện qua những kết thúc có hậu. Mặc dù, cũng có những câu truyện cổ tích kết
thúc khiến người đọc tiếc nuối, thương cảm, nhưng nó lại mang những giá trị nhân
văn sâu sắc, để lại bài học về lẽ phải, về đạo lý cao đẹp của con người trong cuộc
sống. Trong truyện sự tích Trầu Cau câu chuyện khép lại với cái chết của cặp vợ
chồng người anh, và người em trai nhưng cái chết của họ không gây bi lụy mà để
lại cho con người bài học về sự thủy chung trong tình cảm vợ chồng, về tình yêu
thương, gắn bó giữa anh em ruột thịt.
Triết lý lạc quan của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn thể hiện trong niềm tin
96
vào sự công bằng trong xã hội và việc công lý được thực thi. Theo đó, chính
nghĩa phải thắng gian tà, người ở hiền được gặp lành, người yếu đuối được bênh
vực. Ngược lại, cái xấu cần phải được vạch trần, kẻ làm điều xấu luôn luôn phải
bị trừng trị đích đáng. Để đạt được lý tưởng công bằng, không phải lúc nào nhân
vật chính diện cũng dễ dàng có được kết quả tốt đẹp. Nhiều khi các nhân vật
trong truyện cổ tích phải đấu tranh quyết liệt để dành được thắng lợi. Con người
đạt tới sự công bằng bởi chính hành động phản kháng của mình, đó là một quan
niệm, một triết lý nhân sinh ý nghĩa và giá trị. Truyện cổ tích đã mượn những yếu
tố thần kỳ trong thuyết luân hồi của đạo Phật để các nhân vật có thể được đầu thai,
chuyển thế quay trở lại đấu tranh đòi lại quyền lợi và cuộc sống của mình từ tay
kẻ ác, hay giai cấp thống trị. Trong truyện cổ tích Tấm Cám, nhân vật Tấm nhiều
lần bị mẹ con Cám làm hại đến khiến cô chết đi nhiều lần nhưng cô lại hóa kiếp
thành người, trở về đòi lại sự công bằng và hạnh phúc của bản thân mình. Chàng
Thạch Sanh trong câu truyện cổ tích cùng tên đã nhiều lần bị mẹ con Lý Thông
hãm hại, tranh công, nhưng với bản tính lương thiện và tấm lòng độ lượng của
mình chàng vẫn giành lại được hạnh phúc và tình yêu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội cũ, lý tưởng về một xã hội công bằng
trong truyện cổ tích vẫn chỉ nằm trong khuôn khổ và hệ tư tưởng và tâm lý xã
hội phong kiến, vì vậy những giải pháp đưa ra thường chỉ dừng lại ở giải pháp
tinh thần, lý thuyết chứ chưa thể trở thành hiện thực trong đời sống.
Triết lý về giá trị chân, thiện, mỹ
Chân, Thiện, Mỹ luôn là những giá trị quan trọng trong hệ giá trị cá nhân
của cư dân đồng bằng Bắc bộ cũng như của dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước. Ba giá trị này vừa là những đức tính vốn có của
người Việt, nhưng cũng là của lý tưởng cao đẹp mà mọi người mong muốn vươn
tới trong cuộc sống, là nội dung và mục tiêu mà thông qua truyện cổ tích ông cha
ta muốn giáo dục cho các thế hệ sau này.
Chân là cái thật, cái đúng, là lẽ phải, đối lập với cái giả, cái sai trái. Trong
truyện cổ tích, các tác giả dân gian thường đề cao sự chân thật, lên án sự giả dối của
97
con người, cho rằng sự thật nhất định sẽ thắng sự dối trá, từ đó khuyên răn con
người sống thật thà, lương thiện. Mỗi câu truyện cổ tích đều là bài học sâu sắc
hướng con người đến với cái “chân” ngay trong cuộc sống của mình. Trong truyện
Sự tích cái cân thủy ngân có hai vợ chồng chuyên buôn gian bán lận, đã chế tạo ra
chiếc cân thủy ngân để lừa lọc khách hàng vì vậy mà trở nên giàu có, do làm nhiều
việc thất đức nên hai đứa con trai của họ đều mất sớm. Đôi vợ chồng đã nhận ra
việc làm sai trái của mình, họ rủ nhau phá bỏ chiếc cân thủy ngân, ăn ở tu nhân
tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Sau đó, họ lại có được hai đứa con trai
hiền lành, ngoan ngoãn. Người em trai trong truyện Cây khế nhờ thật thà làm
đúng lời dặn của chim thần may “túi ba gang” đã có được châu báu, vàng bạc có
cuộc sống sung túc, giàu sang. Còn người anh trai không làm đúng lời dặn của
chim thần may túi “chín gang” cũng vì gian dối và tham lam mà đã phải bỏ
mạng nơi biển sâu.
“Thiện” là điều lành, điều tốt đẹp, đối lập với điều ác. Trong đời sống xã
hội, dân tộc ta luôn đề cao cái thiện và đấu tranh loại trừ cái ác. Cái “thiện” là
giá trị cốt lõi mà con người muốn hướng đến, hầu hết các câu truyện cổ tích của
cư dân đồng bằng Bắc bộ đều đã đề cập tới giá trị này ở những khía cạnh khác
nhau. Cái thiện được biểu hiện rất đa dạng qua từng nhân vật cụ thể và việc làm
cụ thể. Đó là cô gái nghèo xấu xí nhưng lương thiện, sẵn sàng hy sinh bữa ăn ít
ỏi của mình cho người ăn xin nghèo khổ trong truyện Sự tích con khỉ. Cái thiện
còn được hiện lên qua hình ảnh chàng Thạch Sanh hiền lành, tốt bụng dù bị
người anh kết nghĩa cướp công, hãm hại hết lần này đến lần khác nhưng vẫn
không hề oán trách. Sự lương thiện còn ẩn chứa ở hai mẹ con người phụ nữ quê
mùa trong truyện Sự tích bình vôi, họ tuy nghèo nhưng sống rất lương thiện, luôn
ăn chay niệm Phật. Chính tâm hồn trong sáng, từ bi, hỉ xả của họ đã làm động
lòng Đức Phật, được người cứu giúp và đón lên trời.
Trong truyện cổ tích của cư dân đồng bằng Bắc bộ các tác giả dân gian
cũng đề cao tính hướng thiện của con người. Để hướng thiện được, các nhân vật
98
đã phải đấu tranh với cái ác ở ngay trong bản thân họ. Trong truyện Con ma báo
thù "con ma" vốn tiền kiếp là một tên cướp bị xử trảm, là người khi sống vốn
làm nhiều điều ác. Khi chết đi "con ma" muốn báo thù kẻ đã từng nuốt lời, thất
hứa, khiến hắn vừa mất tiền vừa phải chịu tội tử hình. Thế nhưng chỉ mới sau
một lần trả thù, sự lương thiện của nhân vật đã kịp thời được đánh thức. Ở phần
kết thúc truyện "con ma" đã từ bỏ sự trả thù vô nghĩa của mình, như vậy trong
bản thân của nhân vật cũng đã diễn ra sự chuyển biến to lớn từ cái ác sang cái
thiện, có sự hướng thiện.
“Mỹ” chính là cái đẹp, truyện cổ tích không chỉ ca ngợi vẻ đẹp trí tuệ và thể
chất của con người như sự thông minh, tài trí, sức khỏe phi thường mà còn ca ngợi
vẻ đẹp tâm hồn của người Việt với những phẩm chất thủy chung, ngay thẳng, tính
cương trực, hành động vì lẽ phải. Trong truyện cổ tích các nhân vật hiện lên vừa
mang vẻ đẹp về thể chất, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn và cả nét đẹp trí tuệ. Vẻ đẹp
thể chất của con người được tác giả dân gian ngầm thể hiện qua các nhân vật cổ
tích. Vẻ đẹp của người con gái xứ Bắc được ẩn dụ qua sự dịu dàng thùy mị, nết na
của cô Tấm truyện Tấm Cám. Vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi của người nông dân Bắc
bộ được thể hiện trong hình ảnh Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh hay anh trai
cày trong truyện Cây tre trăm đốt. Không chỉ có vẻ đẹp thể chất mà họ còn có vẻ
đẹp tâm hồn, với lòng vị tha, nhân ái như chàng Sọ Dừa truyện Sọ Dừa, người em
trai trong truyện Cây khế…Hơn thế nữa họ còn là những người có trí tuệ, thông
minh, ham học hỏi như em bé thông minh, nhân vật Trạng Hiền…
Cái đẹp còn được thể hiện qua năng lực, những khả năng đặc biệt mà con
người có được. Trong truyện cổ tích mỗi nhân vật lại có những khả năng ưu việt
riêng, có nhân vật khỏe mạnh, có những người thông minh nhanh nhẹn, ứng đối tài
tình, lại có những người có khả năng phán xử sáng suốt. Những năng lực này được
thể hiện thông qua hoạt động hàng ngày của họ. Nhân vật Thạch Sanh vốn là một
chàng tiều phu nghèo mồ côi cha mẹ, quanh năm sống dưới gốc đa nhưng rất mạnh
khỏe và giỏi võ nghệ. Chỉ bằng lưỡi búa và tài năng của mình chàng đã chặt đầu
99
được trăn tinh, bảo vệ cuộc sống bình yên cho dân làng. Cũng bằng tài năng phi
phàm của mình Thạch Sanh còn cứu được công chúa thoát khỏi đại bàng. Nếu
Thạch Sanh có võ nghệ phi thường có thể trừ gian diệt ác thì Lê Như Hổ truyện Lê
Như Hổ lại là chàng nông dân có sức khỏe hơn người. Sức khỏe ấy được đo bằng
khả năng trong lao động. Lê Như Hổ chỉ trong một buổi đã phát luôn được ba mẫu
cỏ, nửa ngày gặt xong hai mẫu lúa. Ba chàng trai trong truyện Ba chàng thiện nghệ
thì lại có những năng lực siêu phàm hơn người thường. Một người có khả năng bắn
giỏi có thể bắn bất cứ một vật gì dù khó đến đâu, và dù xa bao nhiêu. Một người có
khả năng lặn giỏi có thể sống dưới nước hàng tuần mà không sợ nguy hiểm, có thể
tìm thấy những vật nhỏ bé ở dưới đại dương. Còn người thứ ba thì là một thầy thuốc
lành nghề, có thể cải tử hoàn sinh bất kỳ một con bệnh nào, kể cả những con bệnh
vừa tắt thở. Lại có những câu truyện ca ngợi sự thông minh tài trí của con người,
trong truyện Em bé thông minh, em bé dù mới có bảy, tám tuổi nhưng có trí thông
minh hơn người, có thể trả lời được những câu hỏi hóc búa mà các quan và nhà vua
đưa ra. Khi sứ thần lân bang đặt câu hỏi oái oăm mà cả vua quan đều phải bó tay,
em bé dễ dàng trả lời được.
Triết lý về giá trị chân, thiện, mỹ của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện
cổ tích Việt Nam không chỉ ca ngợi những giá trị chân, thiện, mỹ cao quý của người
Việt mà còn giúp mỗi người tự nhận thức, tự định hướng được hành động, cách
ứng xử của bản thân trong các mối quan hệ xã hội cho đúng với các giá trị chân,
thiện, mỹ mà cha ông ta đã xây dựng. Triết lý này còn góp phần lên án những thói
hư, tật xấu, giáo dục, định hướng nhân cách con người Việt Nam theo hệ giá trị đạo
đức chuẩn mực của dân tộc.
Vị thế của con người trong cuộc sống
Trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ, con người không chỉ
nhận thức về giá trị chân, thiện, mỹ của bản thân mà còn nhận thức được cả vị thế
của chính mình trong cuộc sống. Theo các tác giả dân gian, con người là sự kết
tinh hoàn hảo của các giá trị vật chất và tinh thần vì vậy, con người là sản phẩm
của tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao quý nhất, hoàn mỹ nhất của giới tự nhiên.
100
Con người có khả năng làm chủ cuộc sống của bản thân, có khả năng tác động vào
giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình. Chàng
Mai An Tiêm truyện Sự tích quả dưa hấu bằng sức lao động, sự sáng tạo của mình
có thể sống sót trên đảo hoang, nàng Út truyện Sọ Dừa bằng trí thông minh và
lòng dũng cảm đã thoát khỏi bụng cá dữ, sống một mình trên đảo chờ đến ngày
được Sọ Dừa rước về. Trong truyện Trí khôn của ta đây con người đã thể hiện
được vị trí của mình là chúa tể của muôn loài. Bác nông dân bằng trí khôn của
mình đã khiến cho con cọp to lớn phải tâm phục, khẩu phục, kinh sợ.
Thông qua những câu truyện cổ tích giản dị và ngắn gọn tác giả dân gian đã
truyền tải đến người đọc và người nghe những triết lý nhân sinh sâu sắc và giá trị về
cuộc đời của con người, từ việc nhận thức sự sống, cái chết, vấn đề linh hồn hay đến
thân phận của con người đều được đề cập và lý giải chi tiết. Đặc biệt, trong truyện cổ
tích Việt Nam, cư dân đồng bằng Bắc bộ còn thể hiện được những triết lý nhận thức về
bản thân mình, từ đó thấy được các giá trị chân - thiện- mỹ và vị trí của con người
trong cuộc sống, khẳng định vai trò là chủ thể thế giới của con người.
2.4. Một số đặc trƣng của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng
Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam
2.4.1. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam phản ánh tồn tại xã hội một cách phong phú và chân thật
Ý thức xã hội thuộc phương diện sinh hoạt tinh thần của đời sống xã hội,
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định. Triết lý nhân sinh mà các tác giả dân gian Bắc bộ thể hiện thông
qua những câu truyện cổ tích là tấm gương phản chiếu một cách phong phú và
chân thực về đời sống của con người ở vùng đất này.
Do tính chất của truyện cổ tích bao giờ cũng thông qua những vấn đề
thiên nhiên để đưa đến những vấn đề xã hội, những triết lý về sinh hoạt và cuộc
sống. Vì vậy, qua cách miêu tả của truyện cổ tích ta thấy cảnh sắc thiên nhiên,
muông thú, vạn vật, những nét đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ được hiện
lên khá sinh động. Những địa danh, vùng đất đặc trưng cho vùng đồng bằng Bắc
101
bộ cũng xuất hiện nhiều lần trong truyện cổ tích như Hồ Tây trong truyện Sự tích
Hồ Tây, hồ Gươm trong truyện Sự tích Hồ Gươm, Đầm Nhất Dạ, Bãi Tự Nhiên
trong truyện Sự tích Đầm Nhất Dạ, sông Tô Lịch truyện Vì sao sông Tô Lịch và
sông Thiên Phù hẹp lại?…
Bên cạnh đó ta còn thấy được thiên nhiên cũng có mối quan hệ mật thiết
với đời sống, sinh hoạt thường nhật, hoạt động lao động sản xuất vật chất của con
người nơi đây, thông qua mỗi câu truyện, lối sống của cư dân đồng bằng Bắc bộ
hiện lên rất sống động và đa dạng. Từ những tập quán canh tác, chăn nuôi gia súc
của người nông dân, cho đến các tập tục sinh hoạt cộng đồng của làng quê Bắc bộ
thời phong kiến như hình thức khoán ước, các luật lệ, cách thức tổ chức của cộng
đồng làng xã. Những nét đặc trưng riêng biệt trong sinh hoạt hàng ngày của cư
dân nơi đây cũng được mô tả chi tiết như tục cúng ông táo (ông đầu rau) đến hội
hè đình đám, hoạt động cúng lễ. Từ thị hiếu ăn mặc của người Việt vùng đồng
bằng Bắc bộ cho đến tín ngưỡng tôn giáo được lưu hành trong dân gian đã được
mô tả và phản ánh khá chi tiết trong các câu truyện cổ tích. Truyện sự tích Bánh
chưng, bánh giầy không chỉ lý giải về sự hình thành hai loại bánh truyền thống
của dân tộc, đưa đến triết lý về sự hiếu thảo của con cái đối với tổ tiên, ông bà cha
mẹ mà con giới thiệu một phong tục cổ truyền của dân tộc là ngày giỗ Tổ, hay vào
dịp năm mới người dân Bắc bộ thường dâng lên bàn thờ tổ tiên hai loại bánh này
để tỏ lòng thành kính. Truyện Sự tích trầu cau mang lại triết lý về cách đối nhân
xử thế của con người trong mối quan hệ vợ chồng, anh em ruột nhưng cũng lý giải
một phong tục độc đáo của cư dân Bắc bộ đó là tục ăn trầu.
Trong truyện Tấm Cám bên cạnh những triết lý về đạo đức, về lối sống mà
câu truyện đem lại, truyện cũng góp phần khắc họa nên những nét đặc trưng trong
văn hóa, tập quán, lối sống của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Truyện có chi tiết hai
chị em Tấm, Cám thi nhau mò cua, bắt ốc để giành lấy chiếc yếm đào là phần
thưởng mà dì ghẻ trao cho người chiến thắng. Chiếc yếm đào là một phần trong
trang phục truyền thống của người phụ nữ Bắc bộ bên cạnh chiếc áo mớ ba mớ
bảy, chiếc váy đụp và đôi hài thêu. Đây đều là những nét đặc trưng trong trang
102
phục của người phụ nữ đồng bằng Bắc bộ từ xa xưa. Đôi hài thêu không đơn
thuần chỉ để đi mà nó còn là tín vật trao duyên, định tình, nhờ đó mà nhà vua tìm
thấy Tấm. Truyện Tấm Cám cũng đã khắc họa nên hình ảnh những lễ hội làng xã
của cư dân nơi đây. Đi hội là một hoạt động sinh hoạt cộng đồng khá phổ biến của
người dân, đây là dịp mà già trẻ, trai gái được gặp gỡ, vui chơi, tự do tìm hiểu
nhau. Trong truyện cũng đề cập đến tập tục ăn trầu phổ biến của người dân đồng
bằng Bắc bộ. Ngày giỗ cha, Tấm phải trèo cây để hái trầu cúng cha, cũng nhờ
miếng trầu têm cánh phượng mà nhà vua nhận ra vợ mình là Tấm. Miếng trầu
không chỉ là “đầu câu truyện” mà còn là vật giao duyên giữa nam và nữ khi hai
người tìm hiểu nhau.
Truyện sự tích Ông đầu rau không chỉ phản ánh những triết lý ứng xử
trong quan hệ vợ chồng mà còn phản ánh một tín ngưỡng truyền thống của người
dân xứ Bắc. Táo Quân, theo sự tích là vua bếp, gồm táo bà và hai táo ông. Việc
thờ thần bếp ở mỗi gia đình là tín ngưỡng có từ xa xưa, ý mong muốn một cuộc
sống luôn đầm ấm, hạnh phúc, mọi người luôn thương yêu, quý trọng nhau.
Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước
đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ
thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Hàng năm, đúng vào
ngày hai mươi ba, tháng chạp là ngày Táo Công lên chầu trời nên có nơi gọi ngày
này là "Tết ông Công", người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời bẩm
báo với Ngọc Hoàng về những việc làm của gia chủ trong một năm.
Như vậy, thông qua những triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam người đọc, người nghe không chỉ hình dung được
phần nào về cảnh sắc thiên nhiên của vùng đất nơi đây mà còn hiểu thêm được
về những nét đặc trưng trong đời sống, sinh hoạt của con người Bắc bộ, những
nét sinh hoạt thường nhật, những phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người
dân xứ Bắc từ xa xưa.
2.4.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo
103
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt Nam từ lâu và đã
có những tác động lớn tới đời sống tinh thần của người dân Việt Nam nói chung
cũng như của cư dân đồng bằng Bắc bộ nói riêng. Những trào lưu tư tưởng ấy
được cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc và nhu cầu của
đất nước, đã trở thành nhân tố quan trọng của nền văn hóa và hệ tư tưởng ở Việt
Nam. Do vậy, mà đời sống văn hóa, tinh thần của cư dân đồng bằng Bắc bộ cũng
chịu nhiều chịu ảnh hưởng từ triết lý Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Những ảnh
hưởng này được thể hiện rõ nét trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ qua các câu truyện cổ tích.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo
Phật giáo du nhập vào nước ta khá sớm (khoảng từ thế kỷ II) và có ảnh
hưởng rất mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đặc biệt thời nhà Lý và
thời nhà Trần, Phật giáo đã trở thành quốc giáo, chi phối đời sống văn hóa tâm
linh và cả nền chính trị, quân sự, ngoại giao của đất nước. Tư tưởng Phật giáo
được thể hiện khá đậm nét qua truyện cổ tích Việt Nam và trong triết lý nhân
sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Một trong số những nội dung cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng đến triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ là thuyết nhân quả. Học thuyết này là cơ
sở giải thích mọi biến đổi trong thế giới hiện sinh theo quy luật tất yếu của sự liên
kết nhân quả. Theo quan điểm của Phật giáo, nhân là nguyên nhân, quả là kết
quả. Trong thế giới, mỗi sự vật hiện tượng đều có những nguyên nhân của
nó. Nguyên nhân cho sự có mặt của các hiện hữu tồn tại gọi là nhân, và sự hiện
hữu gọi là quả. Từ nhân đến quả phải trải qua quá trình tác động và ảnh hưởng to
lớn của yếu tố duyên theo một tiến trình tất yếu (nhân- duyên- quả). Trong thế
giới biến đổi vô thường, vô định, “sắc sắc, không không” thì nghiệp và luân hồi là
bánh xe quay tròn của sự vận động không ngừng, không nghỉ của vạn vật. Nhân quả
được thể hiện như một quy luật tất yếu của thế giới. Truyện cổ tích xây dựng rạch
ròi hai tuyến nhân vật: thiện- ác, chính - tà. Các nhân vật “thiện” thường là những
104
con người nghèo khổ hoặc mồ côi với rất nhiều phẩm chất tốt đẹp như hiền lành,
thật thà, hay giúp đỡ người khác, cần cù, siêng năng...Các nhân vật ác thì thường là
những người giàu có, có địa vị xã hội, giai cấp thống trị mang nhiều phẩm chất xấu
xa. Kết thúc của truyện cổ tích thường đi theo một mô - túyp “ở hiền gặp lành”, “ác
giả ác báo”: Trong truyện Tấm Cám, Tấm trở thành hoàng hậu, còn mẹ con mụ dì
ghẻ thì bị quả báo; truyện Sọ Dừa thì nhân vật Sọ Dừa lấy được cô gái út phú ông
xinh đẹp và tốt nết, hai cô chị tham lam, độc ác thì phải trốn đi biệt xứ vì xấu hổ;
truyện Thạch Sanh, Thạch Sanh lấy công chúa và lên làm vua, còn mẹ con Lý
Thông thì bị trời đánh chết và hóa kiếp thành con bọ hung. Luật nhân quả thể hiện
rất rõ ở hầu hết các chuyện cổ tích. Các tác giả dân gian muốn khẳng định luật nhân
quả như một quy luật bất khả kháng, qua đó nâng cao tính giáo dục nhân cách, đạo
đức con người, khuyên con người sống hướng thiện, khẳng định niềm tin và ước
mơ của nhân dân vào công lý, chính nghĩa.
Cách xây dựng nhân vật kì ảo trong truyện cổ tích cũng mang đậm màu
sắc của Phật giáo. Nhân vật Bụt trong truyện Tấm Cám chính là hình ảnh của
đức Phật. Trong tiếng Phạn phiên âm là Buddha (Bud là giác; dha là người,
người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ) đọc trại đi là Bụt. Mỗi lần các nhân
vật tốt, thiện trong truyện gặp khó khăn, bế tắc trong cuộc sống thì Bụt lại xuất
hiện. Nhân vật siêu nhiên, kì ảo này này đã đáp ứng những ước mơ từ nhỏ nhất
cho đến lớn nhất của những con người lương thiện. Như vậy, sự xuất hiện của
đức Phật như muốn khẳng định niềm tin về lòng bác ái, từ bi, cứu khổ cứu nạn
của nhân dân trước những khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Sự xuất hiện của
Bụt, của Phật mang đến sự mầu nhiệm cho cuộc sống, giúp cho các nhân vật
thiện tìm được hạnh phúc. Cách xây dựng nhân vật ông Bụt tượng trưng cho đức
Phật giúp cho những người nghèo khổ, bất hạnh, giúp cho con người luôn cảm
thấy Đức Phật, rất gần gũi, đời thường gắn với cuộc sống chứ không phải cao
siêu, xa lạ. Cách xây dựng nhân vật kì ảo mang màu sắc Phật giáo trong truyện
cổ tích Việt Nam đã có ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ.
105
Quan điểm về nghiệp của Phật giáo cũng ảnh hưởng đến nội dung triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Nghiệp là do những hoạt động của ta,
do hậu quả việc làm của ta, do hành động thân thể của ta (thân nghiệp), do phát
ngôn của ta (khẩu nghiệp), do ý nghĩ của ta, tâm tuệ của ta (ý nghiệp). Theo Phật
giáo mọi vật cứ sinh hóa vô thường cho nên các nhân vật trong truyện cổ tích
cũng vận động đi theo quy luật ấy, cái thiện, cái ác đều có nhân quả của nó như
một mệnh đề định sẵn. Trong truyện Tấm Cám sự xuất hiện của những sự vật, sự
việc từ con cá bống nhỏ nhoi rồi không may bị mẹ con Cám làm thịt chỉ còn lại
bộ xương, đàn chim sẻ nhặt thóc, bộ quần áo mới đến đôi hài đẹp đi lễ hội và
gặp Hoàng tử... Tất cả đều là nhân duyên, là nghiệp.
Thuyết luân hồi của đạo Phật cũng được thể hiện rất rõ trong truyện cổ
tích Tấm Cám. Tấm năm lần bị mẹ con mụ dì ghẻ bức hại và nhiều lần cô hóa
kiếp thành những hình hài khác nhau. Khi thành con chim vàng anh, khi thành
cây xoan đào, thành khung cửi, thành quả thị, rồi lại quay trở về với hình hài
xinh đẹp của mình. Các nhân vật trong truyện cổ tích là những người thường,
sống trên trần gian nhưng lại mang phép màu nhiệm của yếu tố siêu nhiên. Sự
đầu thai, hóa kiếp nhân vật trong truyện cổ tích vừa mang tính ly kỳ, tạo sự hứng
thú, hấp dẫn cho người nghe lại vừa thỏa mãn khát vọng, ước mơ của của cư dân
đồng bằng Bắc bộ về một sức mạnh siêu nhiên giúp con người thực thi công lý
và mang đến công bằng xã hội.
Triết lý giải thoát của Phật giáo cũng hiển hiện ở nhiều câu truyện cổ tích
của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Mượn tư tưởng giải thoát của đạo Phật, tác giả
dân gian muốn gửi gắm triết lý khuyên răn con người phải biết thành tâm, hướng
thiện để có được cuộc sống tốt đẹp. Theo quan điểm của của Phật giáo để thoát
khổ con người phải tu tập chuyên cần, nhẫn nhịn, hướng thiện và thành tâm. Có
những trường hợp hành động giác ngộ chỉ là tức thời nhưng thật sự thành tâm thì
cũng được Đức Phật chứng độ, ngược lại có cho dù tu hành chăm chỉ nhưng lại
không thành tâm thì cũng không có kết quả. Truyện Sự tích chim tu hú chính là
một minh chứng cho điều này. Hai nhà sư Năng Nhẫn và Bất Nhẫn cùng cạo đầu
106
xuất gia từ ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh. Sau một thời gian
dài tu luyện thì Năng Nhẫn được đức Phật độ cho thành chính quả. Bất Nhẫn
thấy mình tu hành không kém gì bạn mà không được hưởng may mắn như bạn
thì rất buồn bực. Chàng đến trước tòa sen hết sức kêu nài với đức Phật bày tỏ
lòng chân thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật
bảo chàng cần phải cố gắng tỏ rõ tấm lòng nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh
trường kỳ. Bất Nhẫn nghe Đức Phật lời bèn lên núi chọn một gốc cây bắt chước
người xưa ngồi xếp bằng tu theo lối trường định. Nhưng cả hai lần tu hành, khi
gần thành chính quả thì Bất Nhẫn lại không thể thành tâm nhẫn nhục vì thế mà
công sức tu luyện khi sắp hoàn thành đã bị vứt bỏ trong chốc lát. Kết cục Phật bà
Quan âm sau đó bắt Bất Nhẫn hóa thành một giống chim mà người đời sau quen
gọi là chim tu hú. [12, tr.103]. Trong truyện Sự tích bình vôi, hai mẹ con người
phụ nữ vốn là người dân quê mùa, nhưng sống rất lương thiện ăn chay niệm
Phật. Mặc dù bị sư nữ lừa đưa lên Tây Trúc tìm Phật, nhưng họ một lòng thành
kính tin theo. Chính tâm hồn trong sáng, từ bi, hỉ xả của họ đã làm động lòng
Đức Phật, được người cứu giúp và đón lên trời. Còn vị sư nữ kiêu ngạo là người
được học đạo mà làm điều trái đạo lý nên bị biến thành bình vôi, bị người đời
luôn luôn móc ruột. Đây chính là hình phạt cho những kẻ bất nhân nhưng mang
bộ dạng từ bi của nhà Phật. [12, tr.186]
Những tư tưởng, triết lý của Phật giáo chính là một phần sắc thái đặc biệt
làm nên nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Nhờ những
triết lý đời thường này của Phật giáo mà con người biết trân trọng cuộc sống,
sống từ bi, bác ái, sống hướng thiện. Triết lý của Phật giáo, thể hiện mong muốn
và khát vọng của người dân đồng bằng Bắc bộ về một xã hội tốt đẹp, công bằng.
Giúp cho con người có sức mạnh, niềm tin vào bản thân để vượt qua được những
khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện thực.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam chịu ảnh hưởng của triết lý Nho giáo
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính thống của Trung
Hoa cổ đại. Cũng giống như Phật giáo, Nho giáo cũng có ảnh hưởng không nhỏ
107
tới việc hình thành triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện
cổ tích Việt Nam.
Một trong những tư tưởng chi phối rất lớn đối với triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ là tư tưởng về “tam tài” (mối quan hệ thiên- địa- nhân),
trong đó thì “thiên nhân tương cảm”, con người và trời đất có mối quan hệ giao hòa
với nhau, con người sống trong vòng “ thiên phú địa tái”, tức là sự che trở của đất
trời, giữa con người và thiên nhiên luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau như
những người bạn tri kỷ. Nho giáo khuyến khích con người sống hài hòa với thiên
nhiên. Quan điểm này của Nho giáo đã ảnh hưởng đến triết lý của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.
Tư tưởng thiên mệnh của Nho giáo cũng là nội dung quan trọng có tác
động đến việc hình thành nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc
bộ trong truyện cổ tích. Theo Khổng Tử, con người phải biết thuận mệnh hay
vâng mệnh “Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời” (Tử sinh hữu mệnh, phú quý
tại thiên). Tin có thiên lý, thiên mệnh, Khổng Tử cũng tin có quỷ thần. Quỷ thần
là do khí thiêng trong trời đất tạo thành, tuy mắt ta không nhìn thấy, tai ta không
nghe thấy, tay ta không sờ thấy, nhưng quỷ thần vẫn tồn tại nên ông chủ trương
“tế thần như thần tại”. Có nhiều câu truyện đã chỉ ra con người và vạn vật cũng
như quỉ thần có sự liên hệ với nhau. Số phận của con người là do trời sắp đặt.
Mỗi hành động của con người đều có sự đồng thanh tương ứng với trời đất, quỷ
thần. Nhưng một khi con người kiêu căng tự cao hay một lời bất kính đối với quỉ
thần thì quỷ thần sẽ biết hết. Trong truyện Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng,
có anh học trò nghèo, trong sổ Thiên tào đã ghi sẵn cho anh ta sau này đỗ tiến sĩ
làm đến quan thượng thư. Từ lúc được người gác đền báo rằng sau này sẽ đỗ đạt
thành danh thì anh ra tự cao tự đại, làm nhiều việc thất đức “trước trăng bỏ vợ,
dưới nhà đòi sân” nên đã bị Ngọc Hoàng trừng phạt, tước mất sổ, không cho đỗ
đạt, gia cảnh từ đó sa sút dần [12, tr.356].
Trong truyện cổ tích Việt Nam cư dân đồng bằng Bắc bộ thường mượn
những phạm trù cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa, hiếu, đễ nhằm xây dựng
108
triết lý nhân sinh giúp giáo dục đạo đức, lối sống cho con người trong các mối
quan hệ với gia đình và xã hội. Truyện Sự tích chim quốc, Nợ duyên trong mộng,
Bà chúa ong, Bán tóc đãi bạn… đã mượn nội dung phạm trù “nhân” để giáo dục
con người trong mối quan hệ gia đình hay xã hội đều phải sống nhân đức, có tình
có nghĩa, có trước có sau. Truyện Sự tích đầm Nhất Dạ và bãi Tự Nhiên, Cha mẹ
nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày ... đã mượn nội dung
phạm trù “hiếu” để giáo dục con cái sống phải có hiếu, yêu thương và có trách
nhiệm phụng dưỡng cha mẹ. Truyện Sự tích trầu cau, Giết chó khuyên chồng,
Cây khế... mượn nội dung phạm trù “nhân, nghĩa” để giáo dục về lòng chung
thủy trong mối quan hệ vợ chồng, tình nghĩa thuận hòa giữa anh em trong gia
đình.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ cũng thường đề cập đến
các phẩm chất của người quân tử mà Nho giáo đề cao như nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín, dũng, xem đó là những phẩm chất cao quý của con người. Truyện Quân tử
đã thể hiện rất rõ nội dung của các phạm trù này trong hình tượng nhân vật anh
chàng mồ côi nghèo, sống một mình nhưng giàu lòng nhân đức, yêu thương con
người và cả động vật. Vì vậy mà người ta quen gọi anh là Quân Tử. Không chỉ
sống nhân nghĩa anh còn là người con có hiếu, nhà nghèo nhưng vào mỗi ngày
giỗ cha, bao giờ anh cũng cố sắm lễ cho tươm tất. Nhờ có lòng nhân đức, sự
thông minh mưu trí, dũng cảm cũng với sự giúp đỡ của các con vật mà Quân Tử
đã từng giúp đỡ, chàng đã vượt qua được ba thử thách mà đức vua giao và được
vua gả cho nàng công chúa xinh đẹp [12, tr.1056].
Đối với người phụ nữ những phẩm chất như công, dung, ngôn, hạnh, sự
nết na, thùy mị luôn được coi là chuẩn mực theo quan niệm Nho giáo. Các phẩm
chất này đã được cư dân đồng bằng Bắc bộ đưa vào trong truyện cổ tích thông
qua hình tượng nhân vật cô Tấm, nàng Tiên Dung, những cô gái nghèo mà chăm
chỉ, tốt bụng, siêng năng. Đây là hình mẫu lý tưởng đại diện vẻ đẹp và phẩm chất
cho người con gái Việt Nam. Thông qua những hình tượng này, ta thấy được ước
mong của người dân đồng bằng Bắc bộ về một cuộc sống hạnh phúc với những
109
gia đình thuận vợ, thuận chồng, có những người vợ hiền hậu, đẹp người, đẹp nết,
biết lo toan, vun vén, có những người chồng trí, dũng song toàn.
Có thể nói tư tưởng, quan niệm của Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc
đến nhận thức và nội dung triết lý nhân sinh của của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam. Tuy nhiên những tư tưởng này đều đã được chọn
lọc, và thay đổi cho phù hợp với văn hóa, truyền thống cũng như điều kiện sinh
hoạt vật chất và tinh thần của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam chịu ảnh hưởng của triết lý Đạo giáo
Đạo giáo cũng là một trong những tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam
trong lịch sử. Từ khi vào Việt Nam, Đạo giáo nhanh chóng chiếm được một chỗ
đứng quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Chịu ảnh hưởng
của Đạo giáo, người Việt ít nhiều đều tin vào những thế lực thần tiên, ma quỷ,
tin rằng những lá bùa, những câu phù trú có thể chữa khỏi bệnh, giúp con người
trường thọ và xua đuổi tà ma. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của Đạo giáo,
những truyện liên quan tới thần tiên như việc tu tiên, lạc vào động tiên, cõi tiên,
lấy tiên, truyện về ma quỷ, gọi hồn, âm binh…xuất hiện nhiều trong truyện cổ
tích. Truyện Sự tích động Từ Thức đã mô tả lại quá trình lạc vào cõi tiên của
chàng Từ Thức. Thế giới thần tiên trong truyện cổ Đạo giáo là thế giới bất tử,
một năm ở đó có thể dài bằng hàng trăm năm so với cuộc sống của con người
trần tục. Sau một năm lấy vợ tiên, sống ở cõi tiên, Từ Thức quay về thăm nhà,
nhưng mọi thứ đã hoàn toàn biến đổi, hơn tám mươi năm đã trôi qua. Còn với
chàng Vương Chất, sau khi xem một ván cờ tiên quay trở về thì cán rìu bằng gỗ
lim đã mục, mấy trăm năm đã trôi qua…Thế giới đó được xây dựng chắc hẳn
không phải chỉ từ quan niệm của Đạo giáo mà còn từ ước vọng muốn đạt tới sự
bất tử của con người, là nhận thức về sự ngắn ngủi của đời người.
Ảnh hưởng của Đạo giáo trong truyện cổ tích Việt Nam chủ yếu là những
yếu tố thần tiên, huyền bí còn triết lý được coi là cốt lõi của Đạo giáo như là triết
110
lý vô vi thì không được đề cập đậm nét. Vì vô vi là một tư tưởng triết học cao siêu
chỉ được tiếp thu bởi giới trí thức còn các tác giả của truyện cổ tích Việt Nam chỉ
là những người dân bình dị, trình độ nhận thức còn thấp nên triết lý này không
được các tác giả dân gian chú trọng. Dấu vết của Đạo gia vẫn còn thể hiện trong
một số truyện cổ tích như truyện Từ Đạo Hạnh hay là sự tích Thánh Láng. Trong
truyện người ta đã thần thánh hóa và huyền thoại hóa những vị tu sĩ tu Tiên như
Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không vv... Những vị có những phép thần thông do
sự tu luyện để khai mở những quyền năng tiềm tàng trong con người.
Những triết lý của Đạo giáo không được giữ nguyên vẹn khi truyền vào
Việt Nam mà nó đã bị Việt hóa, bản địa hóa. Ý thức về tín ngưỡng - tôn giáo dân
gian bản địa cộng thêm tư tưởng Đạo giáo từ Trung Hoa truyền sang đã khiến
cho truyện cổ tích Việt Nam mang tính chất thần tiên, huyền bí. Dù chịu ảnh
hưởng của Đạo giáo nhưng trong truyện cổ tích Việt Nam nội dung, chủ đề, kết
cấu của truyện đều mang màu sắc dân tộc.
Như vậy, sự ảnh hưởng của Đạo giáo tới triết lý nhân sinh cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam được thể hiện thông qua những câu
truyện về thế giới thần tiên với những vị tiên đã đắc đạo, về mối quan hệ giữa
người với tiên, về những cách thức tu tiên…Thông qua những câu truyện này
các tác giả dân gian đã thể hiện niềm tin của con người vào sự vĩnh hằng, vào cõi
tiên huyền ảo, thỏa mãn phần nào ước vọng của con người về sự bất tử. Giúp
nâng đỡ cho tâm hồn của con người những khi gặp khó khăn và bất lực với cuộc
sống thực tại.
Có thể khẳng định rằng, Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đã thực sự ăn
sâu vào đạo lý truyền thống dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống,
phong tục, tập quán và cả triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam. Tuy nhiên những tư tưởng này đều đã được nhân dân ta
cải biến cho phù hợp với truyền thống, văn hóa dân tộc, mang những những nét
đặc trưng riêng biệt đại diện cho quan niệm, lối sống, cách ứng xử của người
Việt cũng như của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Vì vậy, nó đã đi vào cuộc sống và
111
được nhân dân ta duy trì cho đến tận ngày nay.
2.4.3. Triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ là hình thức
phản kháng chống lại sự bất công trong xã hội
Truyện cổ tích được hình thành trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, đó là thời
kì tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, chế độ phong kiến được hình thành và tồn tại
kéo dài hàng nghìn năm ở Việt Nam. Đây là thời kì mà nhân dân lao động luôn bị áp
bức, luôn phải chịu sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Vì vậy “truyện cổ tích
dành sự ưu tiên cho việc phản ánh số phận cá nhân, lí giải những vấn đề, những mâu
thuẫn của đời sống gia đình, những hiện tượng xung đột của xã hội” [114, tr.113 ].
Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn chủ yếu trong lòng xã hội phong kiến, đó là mâu
thuẫn giữa địa chủ và người nông dân. Từ đó phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân
lao động chống lại sự áp bức của giai cấp thống trị, chống lại sự bất công trong xã hội.
“Dưới nhiều hình thái khác nhau, truyện cổ tích Việt Nam đã dám phản kháng cả quân
quyền và thần quyền. Về bản chất, đó là cuộc đấu tranh xã hội chủ chốt, lâu dài của
cộng đồng người Việt được phản ánh qua cổ tích…” [13. tr.1381]
Trong truyện cổ tích, tác giả dân gian đã vạch rõ mâu thuẫn giữa địa chủ
và người nông dân có nguồn gốc từ sự bóc lột của bọn địa chủ, cường hào đối
với những người nông dân, người lao động. Bọn chúng luôn tìm mọi cách để có
thể lừa gạt, dụ dỗ, và cướp đoạt thành quả của những người lao động khốn khổ.
Lão địa chủ trong truyện Cây tre trăm đốt dùng lời ngon ngọt dụ dỗ anh trai cày
nếu chăm chỉ làm không công cho lão, lão sẽ gả con gái cho. Vì tin tưởng lời lão
địa chủ mà anh trai cày đã không tiếc công sức của mình để làm giàu cho lão. Lý
Thông trong truyện Thạch Sanh bằng sự xảo quyệt của mình đã đánh lừa Thạch
Sanh và âm mưu đẩy chàng đến chỗ chết để chiếm đoạt thành quả do tài năng và
sức lao động mà chàng có được. Trong xã hội phong kiến thì sự áp bức, bóc lột
của bọn địa chủ là nguồn gốc của mọi tai họa đối với nhân dân, là sức mạnh vô
hình đẩy những những người dân lao động lao cảnh khó khăn, cùng cực. Đối với
nhân dân lao động, ngoài bọn địa chủ, phú ông ở nông thôn, bọn quan lại cấp
dưới thì bọn quan lại cấp cao và vua chúa phong kiến cũng là kẻ thù không đội
112
trời chung, là đại diện cho giai cấp thống trị chuyên hà hiếp, áp bức dân lành.
Truyện Phạm Tải- Ngọc Hoa đã lên án tội ác của Trang Vương, một tên bạo
chúa chuyên làm điều xấu, đàn áp nhân dân. Kết cục hắn đã bị đày xuống địa
ngục và bị Diêm Vương xử tội. Hay trong truyện Tại sao sông Tô Lịch và sông
Thiên phù hẹp lại? đã vạch trần tội ác xấu xa của một vị vua của triều đại phong
kiến vì lợi ích của bản thân đã không tiếc tính mạng của những người dân vô tội.
Dẫn đến sự căm phẫn oán hận tột cùng của những người dân mà cụ thể là vợ
chồng ông Dầu, bà Dầu trong câu truyện.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ phản ánh sự đấu tranh của
nhân dân chống lại giai cấp thống trị trên cơ sở vạch rõ những tội ác của giai cấp
thống trị, đồng thời đề cao những nhân vật dám đứng lên đấu tranh chống lại
chúng. Motip thường gặp nhất trong cuộc đấu tranh này được các tác giả dân
gian thể hiện thông qua cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Cái ác ban đầu
bao giờ cũng mạnh hơn, còn cái thiện thì yếu hơn. Nhưng qua diễn biến của
truyện cổ tích thì cái ác sẽ yếu dần, còn cái thiện lại mạnh lên và sau cùng cái
thiện luôn dành chiến thắng. Cái thiện giành được chiến thắng và cái ác thất bại
cũng như phải chịu những hình phạt thích đáng là kết cục có hậu diễn ra trong
các câu truyện cổ tích. Những kết thúc có hậu của truyện cổ tích đã thể hiện khát
vọng của tác giả dân gian về sự thất bại của giai cấp phong kiến trong cuộc đấu
tranh với nhân dân lao động.
Trước sự bóc lột và đàn áp của giai cấp thống trị, những người dân lao
động không còn còn đường nào khác là phản kháng, đấu tranh chống lại bọn địa
chủ, cường hào, quan lại, vua chúa phong kiến, dù những cuộc đấu tranh này
diễn ra vô cùng khó khăn, gian khổ. Tham gia vào cuộc đấu tranh đó là đủ mọi
thành phần người lao động, đó có thể là anh trai cày trong truyện Cây tre trăm
đốt, cô thôn nữ trong Sự tích con khỉ, chàng Thạch Sanh trong truyện cùng tên,
cho đến nàng Ngọc Hoa trong truyện Phạm Tải- Ngọc Hoa, mỗi người mỗi hoàn
cảnh, nhưng họ đều là đại diện tiêu biểu cho ý chí kiên cường của người dân lao
động dám đứng lên đấu tranh đến cùng chống lại giai cấp thống trị và giành
113
được thắng lợi. Lão phú ông đã phải đầu hàng anh trai cày chất phác, Lý Thông
gian xảo nhiều thủ đoạn cũng phải thua Thạch Sanh, nàng Ngọc Hoa còn theo
xuống cả Diêm Vương để hỏi tội Trang Vương. Những nhân vật cổ tích này
chính là đại diện tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh chống lại sự bất công trong xã hội.
2.4.4 Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ là hình thức
phản ánh cái hài, cái bi, cái cao cả trong đời sống xã hội
Không chỉ là hình thức phản kháng chống lại sự bất công trong xã hội,
triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn là hình thức phản ánh cái
“bi”, cái “hài”, cái “cao cả” trong đời sống. Thông qua cái bi, cái hài, cái cao cả,
các tác giả dân gian muốn gửi gắm những bài học về vấn đề đạo đức, lối ứng xử
của con người đồng thời phê phán những quan niệm, hành vi lệch lạc, sai trái đi
ngược với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc tới mọi tầng lớp và các
thế hệ người Việt.
Cái “hài” vốn là một phạm trù thẩm mỹ phổ biến không chỉ có trong nghệ
thuật mà còn cả trong đời sống xã hội. Trong truyện cổ tích Việt Nam cái hài
vừa mang lại tiếng cười nhẹ nhàng, thoải mái giúp con người giải trí sau những
giờ làm việc vất vả, vừa mang tiếng cười châm biếm, mỉa mai, mang màu sắc
phê phán khiến con người phải suy nghĩ, tự nhận thức lại chính mình. Có thể kể
đến những câu truyện cổ tích như Chàng ngốc đi buôn, Làm theo lời vợ
dặn...đây đều là những câu truyện cổ tích chứa đựng yếu tố hài hước, gần gũi với
đời sống hàng ngày của người dân Bắc bộ. Truyện thể hiện cái nhìn hóm hỉnh,
vui tươi của nhân dân với những nhân vật hiền lành nhưng ngốc nghếch. Chuyện
cũng phê phán một cách nhẹ nhàng sự bắt chước máy móc của chàng ngốc khi đi
buôn mà không có tính toán của riêng mình. Bên cạnh tiếng cười giải trí cái hài
truyện cổ tích còn phê phán thói hư, tật xấu của con người, truyện Phượng
hoàng đất vừa chứa đựng sự hài hước nhưng lại thâm thúy, sâu sắc. Lão phú ông
vì sự ngốc nghếch và tham lam của mình đã bị chàng trai nghèo lừa hết lần này
đến lần khác, kết cục phú ông đã phải chịu hình phạt thích đáng. Câu truyện hài
hước nhưng lại mang đến nhiều bài học về cách ứng xử cho con người.
114
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam không chỉ phản ánh cái “hài” mà còn có cả cái “bi”. Cái “bi” thường đi liền
với mất mát, hy sinh gợi cảm xúc đau buồn, thương tiếc ở con người, tuy nhiên
cái “bi” hiện lên trong những câu truyện cổ tích không phải chỉ có mất mát, đau
thương mà còn có cả hy vọng, niềm tin, khát vọng vào cuộc sống.
Trong nhiều câu truyện cổ tích chính cái “bi” đã khiến các nhân vật bất
hạnh phát huy những sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm ẩn, giúp họ vượt qua
mọi khó khăn và trở ngại trong cuộc sống, chiến thắng cái ác, cái xấu xa. Cô
Tấm, chàng Thạch Sanh đều phải trải qua nhiều cực khổ, bị người thân hãm hại,
thậm chí là đối mặt với cái chết nhưng bằng khả năng, ý chí của bản thân họ đã
chiến thắng cái ác, cái xấu và có được cuộc sống tốt đẹp. Như vậy, cái “bi” trong
truyện cổ tích đã có tác dụng khơi dậy những tình cảm lành mạnh, khuyến khích
con người hành động nhằm tích cực cải tạo hoàn cảnh, củng cố niềm tin vào
cuộc sống tốt đẹp.
Cái “bi” trong một số câu truyện cổ tích còn mang ý nghĩa giáo dục về
đạo đức, lối sống cho con người. Truyện Sự tích trầu cau kết thúc với cái chết
của cả ba nhân vật là cặp vợ chồng người anh và người em trai. Họ chết đi hóa
thành cây cau, dây trầu, tảng đá vôi. Trầu, cau quấn quýt bên nhau như tình cảm
vợ chồng không thể tách rời. Đây là một cái kết đầy thương cảm nhưng nó lại
không hề bi lụy, nó mang lại cho người đọc, người nghe bài học về tình yêu
thương giữa những người trong một gia đình đó là tình cảm vợ chồng, tình cảm
anh em, giúp con người có cách nhận thức và ứng xử phù hợp trong cuộc sống.
Như vậy, ngoài ý nghĩa giáo dục thì cái bi còn có ý nghĩa nhận thức sâu sắc, nó
giúp cho con người nhìn nhận cuộc sống với tất cả sự phong phú, đa dạng, có
“bi” có “hài”. Củng cố niềm tin, tình yêu của con người với cuộc sống.
Cùng với cái “bi”, cái “hài”, cái “cao cả” cũng là một nội dung được triết
lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ phản ánh thông qua hình tượng các
nhân vật cổ tích. Trước hết cái “cao cả” được hiện lên trong hình tượng các vị
anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn với đất nước và được nhân dân tôn vinh.
Thánh Gióng truyện Thánh Gióng là người anh hùng dân tộc có công lao đánh
115
đuổi giặc Ân cứu nước. Thánh Gióng với tầm vóc to lớn, phi thường mặc áo giáp
sắt, đầu đội mũ sắt, tay mang gươm sắt cưỡi trên con ngựa sắt lớn ra trận đánh
tan quân giặc đã trở thành hình ảnh đại diện cho sức mạnh, lòng yêu nước của
người dân Việt Nam. Cái “cao cả” còn được thể hiện trong sự hy sinh vì nước
quên mình của hai nàng công chúa Bảo Nương, Ngọc Nương truyện hai nàng
công chúa nhà Trần. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, hai nàng công chúa đã
không tiếc thân mình, dùng tài năng và trí tuệ của mình để đánh giặc cứu nước.
Thông qua hình ảnh các nhân vật anh hùng cái “cao cả” đã mang đến cho người
đọc, người nghe sự khâm phục, tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc, sự tự tin
vào chính sức mạnh của bản thân con người trong quá trình con người vươn lên
làm chủ tự nhiên; xã hội và bản thân mình. Cái “cao cả” cũng thúc đẩy con
người có động lực cố gắng không ngừng vuơn lên thực hiện những nhiệm vụ có
ý nghĩa cho xã hội và cho đất nước.
Những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, những giá trị văn hóa, tín
ngưỡng, giá trị lịch sử đã góp phần hình thành nên nét đặc trưng riêng biệt trong
triết lý nhân sinh của người dân Bắc bộ. Việc nghiên cứu và tìm hiểu những nét
đặc trưng trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống, tư tưởng, con người
của một vùng đất có lịch sử lâu đời và giàu truyền thống văn hóa. Từ đó góp
phần bổ sung và làm phong phú hơn cho lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.
Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, đặc trưng văn hóa, tín
ngưỡng mà nội dung triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ có nhiều nét
khác biệt so với triết lý nhân sinh của cư dân Nam bộ và dân cư khu vực miền
núi phía Bắc. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam đã khắc họa những đặc trưng trong đời sống, sinh hoạt, phong tục,
tập quán và tín ngưỡng của người dân đồng bằng Bắc bộ. Do chịu ảnh hưởng của
văn hóa làng xã, mỗi cá nhân luôn gắn với gia đình, cộng đồng, xã hội thành một
khối không thể tách rời nên triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ chủ
yếu được phản ánh thông qua những mối quan hệ giữa con người với gia đình và
cộng đồng. Qua đó thể hiện những triết lý nhân sinh như triết lý về lòng hiếu
116
thảo của con cái với cha mẹ, triết lý tôn sư trọng đạo, triết lý nhân ái, triết lý về
lòng yêu nước... Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ phản ánh rõ nét
tồn tại xã hội và chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng nên hệ
thống triết lý vừa đa dạng, vừa sâu sắc.
Khác với khu vực đồng bằng Bắc bộ, đồng bằng Nam bộ là miền đất của
sông ngòi, kênh rạch, cây trái tốt tươi, thiên nhiên rộng lớn, hoang dã có nhiều ưu
đãi “cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn”, nhưng cũng có không ít nguy hiểm và khó
khăn từ thiên nhiên rộng lớn, bí ẩn đe dọa cuộc sống của con người. Cư dân Nam
bộ cần phải bản lĩnh, dũng cảm, bền bỉ mới có thể thích nghi, tồn tại và phát triển
ở vùng đất này. Với đặc trưng về địa hình là một vùng đất của kênh rạch, đồng
bằng Nam bộ có hệ thống sông ngòi chằng chịt. Đặc điểm này đã ảnh hưởng
không nhỏ tới lối sống, cách suy nghĩ của người dân Nam bộ. Triết lý nhân sinh
của cư dân Nam bộ thể hiện rõ nét nhất trong mối quan hệ giữa con người và giới
tự nhiên. Các câu truyện của cư dân Nam bộ thường thông qua mối quan hệ với tự
nhiên để gửi gắm, nhắn nhủ những bài học về tình yêu, cuộc sống, các mối quan
hệ xã hội như truyện Sự tích trái Sầu Riêng giải thích về nguồn gốc của một loại
quả nhưng lại chứa đựng triết lý về sự thủy chung, trọng tình trọng nghĩa của
chàng trai đối với người vợ đã mất. Quả sầu riêng xấu xí, có mùi hôi nhưng bên
trong múi sầu riêng lại đẹp đẽ như tình cảm của đôi vợ chồng trẻ.
Triết lý nhân sinh của cư dân Nam bộ mang hơi thở của vùng văn minh
sông nước, miệt vườn nên thường trọng tình nghĩa, thẳng thắn, phóng khoáng
trong quan hệ với cộng đồng. Đặc trưng trong cá tính của con người Nam bộ là
trọng tình trọng nghĩa. Vì trọng tình nghĩa mà con người Nam bộ rất hào hiệp,
hiếu khách, sống hết mình và sẵn sàng giúp đỡ nhau khi hoạn nạn. Đây là những
yếu tố làm nên nét đặc trưng riêng trong tính cách con người Nam bộ.
Hình ảnh Chàng Lía trong truyện cổ tích Chàng Lía đã phản ánh phần nào
hình ảnh của con người Nam bộ bản lĩnh, ngang tàng nhưng trọng tình, trọng nghĩa.
Chàng Lía là một chàng trai nghèo có sức khỏe phi thường và có tài võ nghệ cao
cường. Chàng cầm đầu bang cướp Chuông Mây chuyên cướp của người giàu chia
cho người nghèo, được người dân nghèo yêu quý và ca tụng, khiến bọn quan lại
117
triều đình khiếp sợ. Chàng vượt qua được sự truy lùng, đuổi bắt, chém giết của quan
quân triều đình nhưng cũng vì sự nóng nảy, thẳng thắn, bộc trực mà chàng Lía và
bang cướp chuông mây đã thất thủ. Chàng chọn cách kết liễu đời mình để trả ơn
ông lão nghèo đã giúp đã chàng khi chàng hoạn nạn. Chàng Lía là đại diện cho con
người Nam Bộ dám nghĩ dám làm. Họ thẳng thắn, bộc trực trong giao tiếp, dứt
khoát rõ ràng trong hành động, dám mạo hiểm, thích tự do và có óc thực tế. Trong
lề lối suy nghĩ và làm việc, họ biết đoàn kết và có tinh thần dân chủ cao. Trong
nhận thức, người Nam Bộ chuộng tính thiết thực, họ không quá câu nệ nguyên tắc
sẵn sàng rũ bỏ cái lạc hậu để tiếp nhận cái mới tốt đẹp hơn. Điều này thể hiện sự
linh hoạt trong suy nghĩ và làm việc của con người Nam Bộ, góp phần giúp họ dễ
dàng hòa nhập với cuộc sống năng động, trở thành những con người tiên phong
trong lao động, có khả năng hợp tác cao, biết tự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh
qua đó góp phần hình thành nên cá tính Nam Bộ rất đặc trưng.
Không đa dạng và sâu sắc như triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng
Bắc bộ. Triết lý nhân sinh của cư dân thuộc khu vực miền núi phía Bắc chủ yếu
thể hiện thông qua những câu truyện cổ tích lý giải thích về sự hình thành nguồn
gốc loài người và các dân tộc, hay những câu truyện cổ tích về sinh hoạt, lao
động sản xuất hàng ngày của họ. Truyện Trời và đất của dân tộc Dao kể lại sự
hình thành của đất trời là do Ngọc Hoàng thượng đế. Đất trời ngày càng cách xa
nhau là do mỗi khi giã gạo, người trần lại cầm chày đẩy trời cao lên một tý. Vì
vậy mà trời cứ thế cao dần, ngày càng cách xa mặt đất. Trong thần thoại Trời đất
và muôn loài của người Thái thì lại chỉ ra rằng trời và đất ban đầu nối liền với
nhau bằng dây “chựa khảo cát”. Một bà góa có đứa con trai hay trốn lên trời
chơi, trong lúc bực mình bà cầm chày chặt đứt dây, từ đó không ai lên trời được
nữa. Những câu truyện này thể hiện cách suy nghĩ rất hồn nhiên, đơn giản trong
nhận thức về thế giới của các dân tộc khu vực miền núi phía Bắc.
118
Tiểu kết chƣơng 2
Nghiên cứu kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, chúng ta không những
được tiếp cận những triết lý nhân sinh sâu sắc của người Việt mà còn được thấy
những nét đặc trưng trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Những triết lý này đã phản ánh tư tưởng, quan điểm của nhân dân lao động về
các vấn đề của đời sống xã hội. Tính triết lý được biểu hiện khá đầy đủ trong
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với gia đình, cộng
đồng, xã hội và giữa con người với chính bản thân mình.
Trong truyện cổ tích Việt Nam cư dân đồng bằng Bắc bộ đã xây dựng nên
triết lý giá trị trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Đó là triết lý
sống hòa hợp với tự nhiên và triết lý cải tạo, chinh phục tự nhiên. Những triết lý
này đã thể hiện tư tưởng đúng đắn và tiến bộ của cha ông ta từ xa xưa đối với tự
nhiên, đó là phải biết dựa vào tự nhiên, tận dụng, khai thác giới tự nhiên để tồn
tại và phát triển nhưng cũng cần bảo vệ, bảo tồn, tôn trọng những quy luật tự
nhiên. Triết lý này có vai trò quan trọng trong việc góp phần giáo dục con người
nhận thức về vai trò của giới tự nhiên và có cách ứng xử phù hợp với tự nhiên.
Bên cạnh triết lý về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, cư dân
đồng bằng Bắc bộ còn thể hiện những cái nhìn sâu sắc của mình về cuộc sống, số
phận con người, giá trị của con người trong cuộc đời. Các tác giả dân gian cũng đã
xây dựng một hệ thống triết lý khá toàn diện và đầy đủ về mối quan hệ giữa con
người với con người, đó là quan hệ giữa những người trong một gia đình như vợ
chồng, anh chị em hay ngoài xã hội như quan hệ thầy trò, bạn bè, những người trong
cộng đồng, xã hội. Thông qua đó, nhằm giáo dục con người hướng tới những hành vi,
thái độ, phù hợp với giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Truyện cổ tích Việt Nam đã cung cấp cho chúng ta một hệ thống những
triết lý nhân sinh sâu sắc và toàn diện về các lĩnh vực trong mối quan hệ với tự
nhiên, con người và xã hội. Tuy chưa đạt đến tầm triết học, tính phổ quát và tính
trừu tượng hóa chưa cao nhưng những triết lý nhân sinh này cũng đã phản ánh
được hiện thực xã hội, thể hiện sự nhận thức của con người về thế giới, góp phần
định hướng cho hoạt động sống của con người Việt Nam nói chung và cư dân
Đồng bằng bắc bộ nói riêng.
119
Chƣơng 3
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH
CỦA CƢ DÂN ĐỒNG BẮC BỘ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Giá trị của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam
Truyện cổ tích là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn học dân gian
Việt Nam, được hình thành, phát triển trong một giai đoạn lịch sử lâu dài và được
lưu truyền rộng rãi trong đời sống, sinh hoạt của nhân dân lao động. Nội dung của
truyện cổ tích là tấm gương phản chiếu đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam suốt
chiều dài lịch sử. Trong truyện cổ tích, những triết lý về đời sống hiện thực muôn
màu muôn vẻ của nhân dân, nhất là của cư dân đồng bằng Bắc bộ được đúc kết lại
một cách sâu sắc và chân thực. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy mầu
sắc, bản sắc Việt Nam, thể hiện một cách tinh tế, cô đọng nhân sinh quan của người
Việt. Truyện cổ tích Việt Nam không chỉ đơn giản là sản phẩm tinh thần của con
người mà nó còn là kho tri thức về kinh nghiệm cuộc sống và đạo lý làm người,
chứa đựng nhiều triết lý nhân sinh mang giá trị tích cực và sâu sắc.
3.1.1. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam thể hiện tinh thần nhân văn và nhân đạo sâu sắc
Tinh thần nhân văn và nhân đạo là một giá trị văn hóa tốt đẹp của con
người Việt Nam. Đối với cư dân đồng bằng Bắc bộ thì đây cũng là giá trị luôn
được trân trọng, đề cao và được các tác giả dân gian gửi gắm trong những câu
truyện cổ tích.
Tinh thần nhân văn của triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích được thể
hiện ở tình yêu thương, sự cảm thông, trân trọng những người lao động nghèo
khổ, bất hạnh và việc ca ngợi vẻ đẹp trong tâm hồn, phẩm chất của họ. Truyện
cổ tích là truyện của người dân lao động mô tả về đời sống, sinh hoạt của nhân
dân vì vậy tác giả dân gian luôn đề cao, bênh vực, và thể hiện tình yêu thương
120
với những con người nghèo khổ, bất hạnh, những con người gặp khó khăn
trong cuộc sống. Các nhân vật chính trong phần lớn truyện cổ tích thường gặp
nhiều đau khổ, oan trái như chàng Thạch Sanh, Cô Tấm, Chàng Sọ Dừa, anh
nông nô, thế nhưng bất chấp số phận tủi cực của mình, những người nghèo khổ
trong truyện cổ tích luôn thể hiện niềm tin, tình yêu thương với cuộc sống, con
người và cộng đồng. Họ mang trong mình những phẩm chất cao quý, là hiện
thân cao đẹp của đạo đức. Trong họ tiềm ẩn sức mạnh, vẻ đẹp kỳ diệu và bất
ngờ của trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí bất khuất…
Những nhân vật cổ tích luôn có niềm tin mãnh liệt vào sức sống của điều
thiện, của chính nghĩa. Để có được hạnh phúc, những con người nghèo khổ và giàu
lòng nhân hậu phải đấu tranh chống lại các thế lực bạo tàn mà đại biểu là bọn người
giàu có, xảo quyệt, như mẹ con nhà Cám, Lý Thông, phú ông… Các tác giả dân gian
đã thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội phong kiến thông qua cuộc đấu tranh
giữa cái thiện và cái ác trong những câu truyện cổ tích. Cuộc đấu tranh ấy trải qua
nhiều cam go, thử thách nhưng cuối cùng, dưới sức mạnh chính nghĩa, những con
người đại diện cho cái thiện cũng luôn chiến thắng với sự tham gia trợ giúp của yếu
tố kỳ diệu, siêu nhiên. Vì lẽ đó mà mỗi câu truyện cổ tích đều thấm đẫm tinh thần
nhân văn rất sâu sắc và tích cực.
Truyện cổ tích đã góp phần thể hiện những mơ ước và khát vọng của nhân
dân- những con người nghèo khổ, dưới đáy xã hội, muốn vươn lên giành chiến thắng
trước các thế lực tàn ác và xây dựng được cho mình cuộc sống hạnh phúc. Ước mơ
của họ thể hiện một niềm tin bất diệt vào sức mạnh của con người, vào chính nghĩa.
Bao nhiêu khổ đau vùi dập là bấy nhiêu mơ ước, khát vọng hướng về một cuộc sống
công bằng hơn tốt đẹp hơn. Đặc biệt, tác giả dân gian còn luôn tin vào bản chất tốt
đẹp của con người, đề cao các mối quan hệ đậm chất nhân văn của con người: tình
mẫu tử thiêng liêng, tình yêu đôi lứa son sắt, tình bạn bè keo sơn, sự hy sinh. Người
đọc cảm thấy ở đó giá trị nhân văn sâu sắc của truyện cổ tích bởi nó xuất phát từ tình
yêu, lòng trân trọng con người. Nhà nghiên cứu văn học người Nga Eleazar
Moisevich Meletinski từng nhận xét “Truyện cổ tích là truyện của lòng thương
121
người, là nơi lắng đọng tinh thần nhân văn muôn thuở… Trong đau khổ và nước mắt,
tác giả cổ tích vẫn mỉm cười dìu dắt nhân loại vượt qua trăm ngàn gian khổ, đến với
ánh sáng lạc quan. Từ trong chết chóc, tác giả dân gian cầm tay dắt loài người đến
với sự sống, đến với cái thiện… Cổ tích là tiếng thét căm giận trước bất công và là
tiếng hô hào yêu thương trong bình đẳng”[12, tr.1088].
Tinh thần nhân văn của triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam
còn thể hiện ở nội dung ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của con người.
Truyện Sọ Dừa, nhân vật Sọ Dừa có một vẻ ngoài xấu xí, kì dị, không có chân
tay, mình tròn lăn lông lốc như sọ quả dừa. Mặc dù mang vẻ ngoài xấu xí nhưng
Sọ Dừa lại là một chàng trai thông minh, nhanh nhẹn, nên đã vượt qua tất cả
những thử thách mà phú ông đưa ra để trở lại hình dáng làm người là một chàng
trai tuấn tú, tốt bụng và kết hôn với cô út nhà phú ông. Truyện xây dựng sự đối
lập giữa hình dáng bên ngoài xấu xí, dị dạng của nhân vật với phẩm chất bên
trong là tốt đẹp và tài năng để muốn thể hiện triết lý vẻ đẹp của con người nằm ở
đạo đức, tài năng bên trong chứ không phải hình dáng bên ngoài. Truyện cũng ca
ngợi vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ và phẩm chất của con người.
Cùng với tinh thần nhân văn, tinh thần nhân đạo được thể hiện ở tấm lòng
khoan dung, độ lượng, sự cao thượng của con người. Trong truyện cổ tích
thường thấy xuất hiện hai tuyến nhân vật cơ bản: nhân vật chính diện và nhân
vật phản diện. Bên cạnh tuyến nhân vật chính diện mang phẩm chất tốt đẹp thì
nhân vật phản diện lại đại diện cho các xấu và cái ác. Mặc dù nhân vật chính
diện hầu như luôn bị các nhân vật phản diện tìm mọi cách hãm hại nhưng trong
truyện, các nhân vật này luôn có tấm lòng bao dung, độ lượng. Đây là biểu hiện
của tinh thần nhân đạo mà các tác giả muốn gửi gắm. Trong truyện Thạch Sanh,
nhân vật Lý Thông lừa lọc, xảo trá, bất nhân, bất nghĩa, bất chấp đạo lí làm
người tìm mọi cách hãm hại người em kết nghĩa là Thạch Sanh. Mặc dù bị mẹ
con Lí Thông năm lần bảy lượt tìm cách hãm hại, nhưng Thạch Sanh vẫn không
oán hận, mà xin tha chết cho họ. Rồi quân sĩ mười tám nước chư hầu, vì ganh
ghét mà đem quân sang gây chiến. Bằng tài năng của mình, chàng khiến cho tất
122
cả quân địch phải tâm phục rút về nước, khẩu phục mà lui quân. Một lần nữa,
dũng sĩ họ Thạch lại thể hiện tấm lòng khoan dung, độ lượng hiếm có. Chàng
không những tha chết mà còn khoản đãi những người trước vốn là kẻ thù. Chính
bản chất lương thiện đó đã giúp Thạch Sanh nhận được hạnh phúc lớn lao của
đời mình.
Trong truyện cổ tích Sọ Dừa, hai cô chị cũng là những kẻ vô cùng độc ác,
vì lòng tham, họ bất chấp tình nghĩa chị em ruột thịt để đẩy cô em út vào chỗ
chết hòng chiếm giữ hạnh phúc mà cô Út vất vả mới có được. Họ sung sướng và
hãnh diện với niềm hạnh phúc mà họ nghĩ chắc chắn sẽ nằm trong tầm tay mình.
Nhưng cuối cùng cô Út vẫn bình yên trở về cùng chồng. Vợ chồng cô Út không
vì thế mà trừng phạt hai người chị, ngược lại, họ cư xử vô cùng độ lượng, không
phán xét chuyện cũ. Vì vậy, hai cô chị cảm thấy vô cùng xấu hổ và hối hận mà
tự trừng phạt mình, bỏ đi biệt xứ. Sự khoan dung, độ lượng là dấu hiện rõ nét thể
hiện tinh thần nhân đạo cao quý trong tâm hồn người Việt. Nó là động lực giúp
mỗi chúng ta ngày càng hướng thiện hơn.
Có thể khẳng định rằng, tinh thần nhân văn, nhân đạo trong truyện cổ tích
chính là những giá trị tốt đẹp mà nhân dân ta muốn gửi gắm cho thế hệ sau. Bởi
vậy, truyện cổ tích dù được hình thành từ xa xưa nhưng đến hôm nay, mỗi khi
đọc lại chúng ta vẫn thấy vẻ đẹp nồng hậu, giản dị toát lên qua từng câu
truyện. Tinh thần nhân văn, nhân đạo là nét nổi bật trong triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ cũng như của con người Việt Nam.
3.1.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam có tính biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt.
Tư duy người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng vốn
khá uyển chuyển, linh hoạt. Những đặc điểm này đã được tác giả dân gian sử
dụng để mô tả, phản ánh cuộc sống một cách sinh động, luôn biến đổi không
ngừng trong các câu truyện cổ tích. Trong truyện, mọi sự vật, hiện tượng, quá
trình được đặt trong những mối liên hệ chằng chịt, nhiều phương diện, nhiều
mức độ từ đó tạo nên tính biện chứng mềm dẻo và linh hoạt cho triết lý nhân
123
sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam. Có thể xem
xét những tính chất này trên một số nội dung sau đây.
Tính biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt trong cách nhận thức và giải quyết
mâu thuẫn
Tác giả dân gian đã thể hiện tính biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt của
mình qua cách nhận thức cũng như giải quyết mâu thuẫn trong nội dung của một
số câu truyện cổ tích tiêu biểu. Những câu truyện này đã phản ánh và lý giải
những mâu thuẫn thông thường trong gia đình và xã hội. Mâu thuẫn chủ yếu
trong gia đình thường được thể hiện trong truyện cổ tích như mâu thuẫn giữa anh
em trai Cây khế, Hầm vàng hầm bạc, mâu thuẫn giữa các chị em gái trong một
gia đình như Sọ Dừa, Chàng Dê, mâu thuẫn giữa dì ghẻ con chồng, giữa chị em
cùng cha khác mẹ trong truyện Tấm Cám, mâu thuẫn giữa con ruột và con nuôi
trong truyện Thạch Sanh, mâu thuẫn về hôn nhân, gia đình ở truyện Trầu cau,
Ba ông Bếp, Sao hôm - sao mai. Với mỗi loại mâu thuẫn, các tác giả dân gian lại
đưa ra những cách nhận thức và giải quyết mâu thuẫn rất riêng, độc đáo.
Tấm Cám là câu truyện cổ tích điển hình về mâu thuẫn giữa dì ghẻ con
chồng, giữa chị em cùng cha, khác mẹ. Trong truyện, mâu thuẫn liên tục được
hình thành, phát triển xuyên suốt chiều dài của câu truyện và gắn với nhân vật
Tấm. Mâu thuẫn đầu tiên xuất hiện trong truyện là Tấm bị Cám lừa và giành mất
chiếc yếm đỏ. Chiếc yếm đỏ là ước mơ nhỏ bé của Tấm mà cô mong mỏi bao lâu,
cũng là phần thưởng cho sự chăm chỉ tháo vát mà Tấm xứng đáng được hưởng.
Cám lừa lấy đi chiếc yếm đỏ là tước đoạt đi không chỉ quyền lợi chính đáng mà
còn là ước mơ của Tấm. Đây là mâu thuẫn đầu tiên, mâu thuẫn được tạo nên bởi
lòng tham của Cám, cô em gái cùng cha khác mẹ. Mâu thuẫn tiếp theo là từ con cá
bống- một sinh vật nhỏ bé nhưng là người bạn gần gũi gắn bó nhất của Tấm, là
món quà quí giá mà ông Bụt đem đến cho cô Tấm hiền lành. Tấm đã chia sẻ với
bống không chỉ bát cơm ít ỏi hàng ngày mà còn là tất cả tâm tình giản dị hồn hậu
của mình. Cho bống ăn, trò chuyện với bống là niềm vui, là giá trị tinh thần lớn
nhất thời điểm đó đối với Tấm. Mẹ con Cám bắt bống làm thịt là hủy hoại đi niềm
124
hạnh phúc duy nhất thuộc vể Tấm. Đây là mâu thuẫn trên lĩnh vực quyền lợi tinh
thần, mâu thuẫn được tạo nên bởi sự ích kỉ, ganh ghét độc ác của mẹ con Cám.
Mâu thuẫn lại tiếp tục xuất hiện trong ngày hội, Tấm muốn đi trẩy hội, đó là khao
khát được giao hòa trong đời sống cộng đồng. Mẹ con Cám trộn thóc lẫn gạo bắt
Tấm nhặt thể thiện rõ ý đồ sẵn sàng vùi dập mọi niềm vui của Tấm, quyết không
cho Tấm được hưởng bất kỳ niềm hạnh phúc nào. Tấm thử giày và may mắn trở
thành Hoàng hậu, bước lên đỉnh cao của hạnh phúc. Sự kiện này cũng khiến mâu
thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám được đẩy lên đỉnh điểm, trở thành một mâu thuẫn
sâu sắc khó có thể dung hòa mà cần được giải quyết. Đến đây, mâu thuẫn giữa
Tấm và mẹ con Cám đã chuyến thành xung đột dữ dội mang tính chất sống còn.
Vì nó đụng đến quyền lợi vật chất, gắn với vinh hoa, phú quý, giàu sang. Tác giả
dân gian đã đưa ra cách giải quyết mâu thuẫn là để Tấm chết. Đây là kết cục tất
yếu phải xảy ra bởi lẽ trong mâu thuẫn này, Tấm hoàn toàn yếu ớt và bị động, còn
mẹ con Cám lại quá tàn nhẫn và mang dã tâm muốn tiêu diệt Tấm đến cùng. Tuy
nhiên, Tấm chết đi và quá trình hóa thân là bước phát triển mới của diễn biến
truyện. Đầu tiên, Tấm hóa thành chim vàng anh, báo hiệu sự có mặt của mình, lên
tiếng cảnh cáo kẻ thù. Bị giết, cô lại hóa thân thành cây xoan đào làm chiếc khung
cửi và công khai tuyên chiến với kẻ thù. Bị hủy hoại một lần nữa, Tấm ẩn mình
trong quả thị thơm quay trở về với đời và trừng phạt kẻ thù của mình một cách
không thương tiếc. Những lần chết đi sống lại của Tấm phản ánh tính chất gay gắt,
quyết liệt của xung đột. Mẹ con nhà Cám quyết truy đuổi Tấm đến cùng, tìm mọi
cách tiêu diệt Tấm. Tấm cũng không chịu để mình phải chết oan ức trong im lặng
nên liên tiếp khẳng định sự tồn tại của mình và tấn công kẻ thù, càng về sau càng
mạnh mẽ, cương quyết.
Như vậy, diễn biến của các sự kiện cho thấy sự phát triển từ thấp đến cao
của mâu thuẫn dẫn đến xung đột gay gắt giữa Tấm và mẹ con Cám. Ban đầu mới
chỉ là những mâu thuẫn xoay quanh quyền lợi vật chất và tinh thần trong cuộc
sống gia đình hàng ngày, về sau là mâu thuẫn xoay quanh quyền lợi xã hội và
biến thành xung đột một mất một còn. Mâu thuẫn và xung đột ngày càng cao độ
125
do sự phát triển của hai tuyến nhân vật. Mẹ con nhà Cám thì tàn nhẫn độc ác và
quyết tâm muốn chiếm đoạt tất cả những gì thuộc về Tấm, muốn tiêu diệt Tấm
đến cùng. Tấm ban đầu bị động, cam chịu, nhưng càng về sau càng mạnh mẽ và
cuối cùng đã tự vùng lên chiến đấu tiêu diệt kẻ thù.
Qua truyện cổ tích Tấm Cám tác giả dân gian phải chăng đã có những phát
hiện tinh tế và hợp lý đối với những mâu thuẫn của cuộc sống, thể hiện tính biện
chứng mềm dẻo và linh hoạt của mình trong cách nhận thức và giải quyết những
mâu thuẫn gia đình. Mâu thuẫn là không thể tránh khỏi, nó là tất yếu khách quan
trong cuộc sống, mâu thuẫn cũng có sự vận động và phát triển, khi mâu thuẫn lên
tới đỉnh điểm thì nhất thiết cần phải được giải quyết. Cách giải quyết mâu thuẫn
trong câu truyện này thể hiện rất rõ những đặc điểm trong tư duy và nhận thức của
người nông dân Việt Nam nói chung và cư dân đồng bằng Bắc bộ nói riêng. Họ là
nhân dân lao động vốn dĩ hiền lành, nhẫn nhịn, chỉ mong hưởng hạnh phúc, thanh
bình. Nhưng nếu bị dồn đến đường cùng thì họ sẽ phản ứng rất mạnh mẽ để bảo vệ
cuộc sống và hạnh phúc của mình.
Ngoài những mâu thuẫn trong đời sống gia đình, truyện cổ tích còn đề cập
nhiều đến những mâu thuẫn xã hội, đó mà mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong một xã
hội. Trong xã hội có giai cấp, tất yếu sẽ có sự phân chia giai cấp, có sự chênh lệch về
địa vị và quyền lợi giữa các giai cấp thống trị và bị trị. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng
này đã tạo nên những mâu thuẫn không thể điều hòa giữa hai giai cấp. Khi mâu thuẫn
đó lên tới đỉnh điểm thì chắc chắn cuộc đấu tranh giai cấp sẽ nổ ra. Đó là cuộc đấu
tranh quyết liệt bền bỉ liên tục, không khoan nhượng giữa hai giai cấp thống trị và
giai cấp bị trị trong xã hội phong kiến. Mâu thuẫn xã hội trong truyện cổ tích được
nhận thức đó là mâu thuẫn quyền lợi kinh tế và mâu thuẫn về địa vị chính trị. Những
mâu thuẫn, xung đột được xây dựng chủ yếu là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối
kháng. Những người nghèo, địa vị thấp kém trong xã hội mâu thuẫn với những kẻ
bóc lột, có địa vị cao sang, như vua quan, địa chủ. Sự phản kháng và đấu tranh này đã
tạo ra động lực thúc đẩy cho quá trình phát triển của xã hội.
Câu truyện Cây tre trăm đốt là một ví dụ điển hình cho cách nhận thức và
126
giải quyết mâu thuẫn giữa những giai cấp đối lập trong xã hội Việt Nam thời kì
phong kiến. “Có một anh nông phu nhà nghèo, phải đi ở cho một phú ông tính rất
keo kiệt. Đối với kẻ ăn người ở, hắn có rất nhiều mánh khóe để bòn công mà không
phải trả thêm tiền. Để anh nông phu yên tâm làm việc cho mình lão đã hứa gả con
gái cho anh. Vốn tính thật thà nên khi nghe lời đường mật của lão địa chủ, anh nuôi
hy vọng làm rể phú ông. Từ đó, anh đổ sức ra làm việc không biết mệt. Trời chưa
sáng anh đã lội bì bõm ở ngoài đồng; cho đến tận khuya vẫn còn trần lực xay lúa
giã gạo, kéo trục, bện thừng, v.v..”[12, tr.760]. Bao nhiêu công việc của chủ giao,
dù khó khăn nặng nhọc thế nào, anh cũng không từ chối. Mâu thuẫn lớn dần khi lão
địa chủ thất hứa gả con gái cho một nhà giàu có ở làng bên và lừa anh nông phu
phải vào rừng tìm được cây tre có trăm đốt tre mới gả con gái cho. Mâu thuẫn được
giải quyết khi các tác giả dân gian đã để cho anh chàng nông phu nhận được sự giúp
đỡ của ông Bụt. Bằng câu thần chú khắc nhập, khắc nhập anh đã ghép được trăm
ống tre thành cây tre trăm đốt theo yêu cầu của lão địa chủ. Còn lão địa chủ tham
lam, gian xảo, bóc lột sức lao động của người làm thuê đã phải trả giá cho tội lỗi
của mình khi bị dính chặt vào cây tre trăm đốt và chỉ được thả ra khi thực hiện đúng
lời hứa gả con gái cho chàng nông phu.
Qua cách nhận thức và giải quyết mâu thuẫn trong truyện, tác giả dân gian đã
phần nào thể hiện thái độ bất bình đối với giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột, đồng
thời thể hiện khát vọng giải phóng những người lao động nghèo, mong muốn một
cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy. Ở đây có thể thấy rằng, hầu hết các câu chuyện cổ
tích đều có chung một cách giải quyết mâu thuẫn đó là kẻ ác, kẻ thống trị, kẻ
chuyên đi bóc lột bị trừng phạt, còn nhân vật chính lại được lên ngôi vua và hưởng
hạnh phúc. Như vậy, với hạn chế trong nhận thức thì lý tưởng cao nhất mà những
người dân bị áp bức muốn đạt được vẫn chỉ là được làm vua. Do những hạn chế về
thế giới quan mà những người nông dân vẫn chưa đặt ra được vấn đề xóa bỏ giai
cấp, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thay đổi chế độ phong kiến lạc hậu, tàn bạo
bằng một xã hội khác, văn minh tiến bộ hơn.
Trên cơ sở phân tích một số truyện cổ tích tiêu biểu ta đã thấy được tính
127
biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt trong cách nhận thức và giải quyết mâu thuẫn của
cư dân đồng bằng Bắc bộ. Các tác giả dân gian đã phát hiện được những mâu
thuẫn đời thường nảy sinh trong cuộc sống và sinh hoạt của con người, từ đó chỉ
ra những cách thức phù hợp để giải quyết mâu thuẫn. Dù những cách thức này rất
giản đơn, nhưng nó hoàn toàn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh xã hội phong
kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, tác giả còn nhận ra được những mâu
thuẫn sâu sắc hơn quyết liệt hơn trong xã hội là mâu thuẫn giai cấp. Mặc dù cách
giải quyết mâu thuẫn xã hội mà tác giả dân gian đưa ra vẫn chưa thực sự triệt để
do hạn chế về mặt nhận thức. Nhưng có thể nói, đây là tư tưởng tiến bộ trong nhận
thức của nhân dân, là cơ sở để nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn phức tạp
hơn trong đời sống xã hội.
Tính biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt, trong việc nhận thức vai trò quyết
định của nền sản xuất vật chất đối với cuộc sống của con người
Thông qua truyện cổ tích Việt Nam, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã cho thấy
nhận thức của mình về vai trò quyết định của nền sản xuất vật chất đối với cuộc
sống của con người. Những cảnh làm ruộng, chăn trâu, cắt cỏ, đánh giậm, đốn
củi, mổ lợn, chống đò ngang, chợ búa,... được phản ánh thường xuyên trong các
câu truyện cổ tích. Những hoạt động này không chỉ thể hiện cung cách làm ăn
vốn có của người Việt mà còn cho ta thấy được cuộc sống của người Việt xưa
luôn gắn liền với lao động sản xuất, là phương thức cơ bản và chủ yếu nhằm
đảm bảo sự tồn tại của con người.
Truyện Sự tích quả dưa hấu là minh chứng rõ nhất cho quan điểm này.
Mai An Tiêm là con nuôi của vua Hùng được vua rất yêu quý nhưng do phạm
tội bất kính với vua mà chàng và gia đình đã bị đày ra ngoài hoang đảo. Bằng
sự thông minh, nhanh trí, cũng với sự chịu khó của mình, chàng đã trồng
thành công cây dưa hấu từ hạt dưa do những con chim lạ mang tới. Nhờ chăm
chỉ lao động, sản xuất mà cả gia đình Mai An Tiêm đã sống và tồn tại được
trên hoang đảo.
Ở trong truyện cổ tích, hầu hết các nhân vật chính diện đều là những
128
người siêng năng, chăm chỉ lao động và sự cần cù đó đã mang lại cho họ kết quả
tốt đẹp, cuộc sống hạnh phúc. Cô Tấm trong truyện Tấm Cám là người rất chăm
chỉ lao động “Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn chân luôn tay, hết chăn trâu,
gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết
việc”[139, tr.188]. Chàng Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh cũng ngày ngày
chăm chỉ vào rừng kiếm củi để nuôi sống bản thân. Cô gái nghèo trong truyện Sự
tích con khỉ quanh năm suốt tháng, cũng phải làm đủ mọi việc, từ việc đồng áng,
đến việc nhà để phục vụ cho gia đình lão trưởng giả tham lam. Nhờ lao động mà
những hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng của con người được hình thành, cũng nhờ
lao động mà các nhân vật chính trong truyện cổ tích có thể vượt qua khó khăn,
thử thách của cuộc sống và có được hạnh phúc.
Tính chất biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt trong nhận thức của cư dân
đồng bằng Bắc bộ về vai trò quyết định của nền sản xuất vật chất với cuộc sống
của con người còn được thể hiện ở sự tác động của lao động sản xuất tới số phận
của các nhân vật chính. Trong truyện cổ tích, số phận của con người luôn thay
đổi, có thể từ một người nông dân nghèo khổ, trở thành người giàu sang phú
quý; từ một cô gái nghèo bất hạnh trở thành hoàng hậu quyền quý; từ chàng tiều
phu hiền lành, chăm chỉ trở thành phò mã. Sự thay đổi này không phải tự nhiên
xảy ra, nó còn phụ thuộc vào phẩm chất, khả năng và đạo đức của các nhân vật.
Đây là những yếu tố chỉ được hình thành, rèn rũa trong quá trình lao động sản
xuất chứ không thể có được một cách ngẫu nhiên. Trong nhận thức của cư dân
đồng bằng Bắc bộ không ai chăm chỉ, hay lam hay làm mà phải sống cả đời cơ
cực, không ai lười biếng mà giàu sang quyền quý cả đời.
Cư dân đồng bằng Bắc bộ không chỉ nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của
sản xuất vật chất mà còn muốn khẳng định một triết lý khách quan là chỉ có
chăm chỉ, cần cù và siêng năng lao động thì mới có được cuộc sống hạnh phúc
và no ấm. Thông qua tư tưởng biện chứng này, tác giả dân gian cũng muốn ca
ngợi truyền thống cần cù, yêu lao động của nhân dân ta. Tình yêu lao động xuất
phát từ cuộc sống khó khăn, đói khổ nhưng thể hiện được ý chí, niềm tin của
người lao động về một tương lai tươi sáng và tốt đẹp.
129
3.1.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam đề cao vai trò của người phụ nữ
Trong xã hội phong kiến, vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng
như trong xã hội luôn thấp kém hơn so với nam giới. Thế nhưng, cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam đã thể hiện tư tưởng tiến bộ khi đề
cao vai trò cũng như ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người phụ nữ
Việt Nam.
Trước hết, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc ca ngợi vẻ đẹp về
nhân cách của người phụ nữ Việt Nam, đó là những con người thủy chung, đảm
đang, khéo léo hết lòng hy sinh cho gia đình, chồng con. Câu truyện cổ tích Trầu
Cau, thể hiện tình yêu son sắt và sự thủy chung của người vợ đối với chồng, dù
bị chồng hiểu lầm nhưng quyết dùng cái chết để chứng tỏ sự thủy chung của
mình. Trong truyện Gái ngoan dạy chồng, nhân vật chính là một người phụ nữ
đức hạnh và giàu lòng vị tha, hết lòng hy sinh cho chồng con. Chị không trách
người chồng phụ bạc, phũ phàng đuổi mình ra khỏi nhà mà ngược lại khi ăn nên
làm ra, gặp lại chồng trong hoàn cảnh túng quẫn, chị đã khéo léo dạy chồng, chỉ
bảo cho chồng để chồng trở thành người tốt, biết làm ăn. Rồi vợ chồng lại được
đoàn tụ, sống hạnh phúc bên nhau.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam còn đề cao những người phụ nữ không chỉ xinh đẹp, giỏi giang mà còn có
khí phách anh hùng, có nghĩa cử cao đẹp không khác gì bậc trượng phu. Khi gặp
hoàn cảnh cam go, nước sôi lửa bỏng, họ sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì người
thân và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Trong truyện cổ tích Hai nàng công chúa
nhà Trần, hai nàng công chúa Bảo Nương và Ngọc Nương con vua Trần chứng
kiến cảnh thấy đất nước và dân cư bị tàn phá vì lũ giặc Nguyên hung hãn, hai
nàng xiết bao căm tức. Họ bèn bàn với nhau cho người về xin phép vua cha một
phen liều mình diệt giặc. Hai nàng đã dùng chính sắc đẹp và sự thông minh khéo
léo của mình để tiêu diệt hai tên tướng giặc và cả đạo quân Nguyên, nhờ vậy mà
quân ta đã giành chiến thắng, đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi. Rõ ràng, các tác giả
dân gian đã ngầm khẳng định vai trò quan trọng của người phụ nữ Việt Nam trong
cuộc sống cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
130
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam còn có nhiều tư tưởng tiến bộ như tư tưởng giải phóng phụ nữ, tư tưởng
bình quyền, bình đẳng nam nữ, tự do yêu đương, thoát khỏi những quan điểm hà
khắc lạc hậu phản tiến bộ của chế độ phong kiến đương thời. Ở truyện Sự tích
đầm Nhất Dạ và Bãi Tự Nhiên nàng công chúa Tiên Dung đã vượt qua những lễ
giáo phong kiến “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” tự quyết định việc hôn nhân đại
sự của mình. Nàng quyết tâm lấy chàng Chử Đồng Tử nghèo khổ nhưng hiếu
thảo sau lần gặp gỡ duyên trời định dù là trái ý vua cha. Công chúa Tiên Dung
đã từ bỏ vinh hoa phú quý, địa vị cao sang để đi theo người mình yêu thương.
Hành động của nàng đã thể hiện khát vọng của người phụ nữ đương thời về tình
yêu đôi lứa, về sự tự do thoát khỏi những ràng buộc của luật lệ lạc hậu.
Phải khẳng định rằng triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam đã xây dựng được những tư tưởng rất cởi mở và
tiến bộ về vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũ, một xã hội vốn trọng nam
khinh nữ. Trong thực tế quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, người
phụ nữ Việt nam có một vai trò không thể thay thế. Có những người phụ nữ đã
đảm đương vai trò thủ lĩnh trong một phòng trào nào đó. Với cái nhìn khách
quan nhất người dân Việt Nam và cư dân đồng bằng Bắc bộ đã thấy được công
lao, khả năng, sự cống hiến của những người phụ nữ đối với đất nước, họ trân
trọng và ghi nhớ điều đó trong các sáng tác của mình. Triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ đề cao vai trò của người phụ nữ đã cho thấy vị trí và tầm
ảnh hưởng của người phụ nữ đối với cuộc sống, thể hiện khát vọng tiến bộ của
nhân dân lao động về sự bình đẳng giữa nam nữ dù sống trong xã hội còn nhiều
lễ giáo phong kiến lạc hậu.
3.2. Hạn chế của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam
3.2.1. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam còn chứa đựng yếu tố duy tâm
Bên cạnh những triết lý mềm dẻo, linh hoạt, biện chứng thì triết lý nhân
sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam vẫn còn tồn tại
cả những yếu tố duy tâm.
131
Nguyên nhân khiến cho các yếu tố duy tâm thường xuất hiện phổ biến
trong truyện cổ tích phần lớn là do những hạn chế trong nhận thức của cư dân
đồng bằng Bắc bộ. Tác giả dân gian – những người trực tiếp sáng tác ra các
câu truyện cổ tích vốn là những người nông dân chân lấm tay bùn, quanh năm
gắn bó với ruộng đồng, làng xóm. Vì vậy, tri thức mà họ có được chủ yếu là
tri thức thông thường, là kinh nghiệm tích lũy trong quá trình lao động sản
xuất và sinh hoạt hàng ngày. Khi đứng trước thế giới rộng lớn, vũ trụ bao la
huyền bí, người dân lao động cảm thấy lo sợ, không thể hiểu, giải thích, cũng
không thể nắm bắt được bản chất, quy luật của giới tự nhiên, cũng như sự vận
động của xã hội. Chính vì vậy, để có thể giải thích được những hiện tượng
của tự nhiên và xã hội họ chỉ còn cách là dựa vào một lực lượng siêu nhiên
nào đó giúp hình thành cũng như chi phối sự vận động của các sự vật, hiện
tượng và cả con người. Hình ảnh của ông Trời ( Ngọc Hoàng thượng đế), thần
Mưa, thần Sấm, thần Sét, Diêm Vương, Sơn Tinh, Thủy Tinh... xuất hiện
trong rất nhiều truyện cổ tích Việt Nam chính là biểu hiện của yếu tố duy tâm
trong nhận thức của cư dân đồng bằng Bắc bộ.
Các tác giả dân gian là cư dân đồng bằng Bắc bộ vốn phải sống trong xã
hội phong kiến, nơi người dân lao động luôn bị giai cấp thống trị áp bức và bóc
lột nặng nề. Sự cai trị hà khắc của giai cấp thống trị phong kiến đã làm cho cuộc
sống của người nông dân vốn đã vất vả, khó khăn lại càng thêm cùng cực. Hầu
hết những người dân này không dám đứng dậy đấu tranh giành quyền lợi cho
mình, mà lại thường chấp nhận, cam chịu trước sự thống trị và rơi vào bế tắc
trong cuộc sống. Vì vậy, khi không còn lối thoát nào khác nữa thì việc cầu
mong, ước ao về sự xuất hiện của thần linh hay lực lượng siêu nhiên là một tất
yếu trong nhận thức của họ.
Cùng với đó là tác động của tư duy tiểu nông, kết quả của phương thức
canh tác nông nghiệp mang tính tự nhiên, tự cung, tự cấp, trong một xã hội khép
kín với đặc trưng văn hóa làng, xã truyền thống, lạc hậu đã làm những yếu tố
duy tâm có cơ hội hình thành, tồn tại và trở thành một phần tất yếu trong nhận
132
thức của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Tất cả những lí do trên đã khiến cho nhận
thức và tư duy của người dân đồng bằng Bắc bộ vừa có yếu tố duy vật nhưng
cũng đan xen cả yếu tố duy tâm.
Những yếu tố duy tâm thường xuất hiện khá nhiều trong truyện cổ tích.
Có thể kể đến như quan niệm về luân hồi hoặc thiên mệnh thường được các tác
giả dân gian sử dụng. Do quan niệm luân hồi, nhân vật chính diện hoặc phản
diện trong truyện thường không chết mà hóa thân sang nhiều kiếp khác, hoặc
thành người, hoặc thành thú vật. Do tư tưởng thiên mệnh, các nhân vật không
phải lúc nào cũng làm chủ được vận mệnh của mình mà thường bị một lực vô
hình dẫn dắt, để chịu đựng hết nạn nọ đến nạn kia, từ thử thách này sang thử
thách khác. Ngoài ra, trong truyện cổ tích thường xuất hiện các nhân vật đặc biệt
có sức mạnh siêu nhiên, có khả năng kì diệu có thể giúp con người giải quyết
những vẫn đề khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc sống của mình như là “Ngọc
Hoàng”, “ông Bụt”, “ ông tiên”… cùng với gậy thần, viên ngọc ước. Trong
truyện Người dân nghèo và Ngọc Hoàng, anh học trò nghèo nhờ có sự chỉ dẫn
của Ngọc Hoàng mà đã thoát khỏi kiếp nghèo, được đổi vận, có cuộc sống sung
túc. Anh Khoai trong truyện Cây tre trăm đốt trong lúc tuyệt vọng nhất vì không
tìm được cây tre trăm đốt như lời thách cưới của lão phú ông thì lại nhận được
sự giúp đỡ của ông Bụt. Bụt đã chỉ cho anh cách tạo ra cây tre trăm đốt qua hai
câu thần chú “ Khắc nhập và khắc xuất”. Cô Tấm xinh đẹp trong truyện Tấm
Cám đã nhiều lần được ông Bụt giúp đỡ trong những lúc cô khó khăn và tuyệt
vọng nhất. Bụt giúp cô gọi đàn chim sẻ đến nhặt thóc và gạo, giúp cô có được
xiêm y, hài thêu và ngựa trắng đi dự hội.
Sự xuất hiện của các nhân vật siêu nhiên với phép màu giúp cho các nhân
vật trong truyện cổ tích vượt qua những khó khăn và vất vả của cuộc sống, chính
là cách mà nhân dân lao động gửi gắm ước mơ, khát vọng về sự công bằng, về
một cuộc đời mới tốt đẹp. Tuy nhiên, nó cũng thể hiện trình độ nhận thức còn
hạn chế của người dân trong xã hội phong kiến. Họ đã sống bằng niềm tin, sức
mạnh dựa trên những điều không có thực, làm hạ thấp vị trí, vai trò của chính
133
mình trong xã hội. Vì vậy, họ không thể giải quyết một cách triệt để các vấn đề
hay những mâu thuẫn gặp phải trong đời sống thực tại. Sự tồn tại của các yếu tố
duy tâm là một hạn chế cơ bản trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc
bộ trong truyện cổ tích Việt Nam.
3.2.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam thể hiện nhận thức kinh nghiệm của người nông dân Bắc bộ
Thông qua việc phân tích triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam ta nhận thấy rằng, nội dung cơ bản của những triết
lý nhân sinh này phản ánh nhận thức kinh nghiệm của người nông dân trong quá
trình sống, lao động và trải nghiệm thực tiễn của họ.
Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức mà con người rút ra những tri
thức về sự vật, hiện tượng khách quan, chủ yếu thông qua con đường khái quát, quy
nạp những kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp
trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người nhằm mục đích cải biến khách thể.
Nó thường phản ánh những thuộc tính, tính chất của các đối tượng có tác động trực
tiếp tới con người. Đối tượng phản ánh của nó là những thuộc tính, tính chất của
khách thể hiện thực, ngược lại đối tượng của tư duy lý luận là những khách thể trừu
tượng. Sự khác nhau về mặt đối tượng được xem là dấu hiệu căn bản để phân biệt hai
giai đoạn kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức. Hoạt động lao động sản xuất và
hoạt động xã hội của con người là thực tiễn sinh động và đa dạng. Các hoạt động đó
luôn đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ, tình huống cần phải giải quyết. Tư duy kinh
nghiệm giúp con người vận dụng những kinh nghiệm mà con người có được, tích lũy
được trong quá trình nhận thức trước đó để giải quyết một cách có hiệu quả nhiều vấn
đề mới phát sinh và các nhiệm vụ đặt ra trước mắt. Do được hình thành trực tiếp
trong quá trình con người cải tạo thế giới khách quan nên nhận thức kinh nghiệm vẫn
còn mang tính tự phát trong việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tính tự
phát làm cho tư duy kinh nghiệm không có tầm chiến lược, không tiếp cận được vấn
đề ở tầm nguyên lý, nên thường dẫn đến cách nghĩ, cách làm thiển cận, mò mẫm và
kém hiệu quả.
134
Tác giả của các câu truyện cổ tích vốn là những người nông dân quanh
năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, những triết lý mà họ đưa ra qua mỗi
câu truyện là kết quả từ sự quan sát trực tiếp sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Do đó những triết lý này vẫn rất
giản đơn, mộc mạc. Tri thức chứa đựng trong các triết lý chỉ là biểu hiện bề
ngoài, riêng lẻ của sự vật, chưa thấy được cái bản chất bên trong hay những quy
luật của sự vật, hiện tượng, nhiều tri thức vẫn còn chưa chính xác và chưa được
kiểm chứng. Trong các câu truyện cổ tích, tác giả dân gian đã vận dụng nhận
thức kinh nghiệm của mình để lý giải về tính chất hay nguồn gốc các sự vật, hiện
tượng có trong giới tự nhiên. Truyện cổ tích Gốc tích bộ lông quạ, bộ lông công
lý giải về mầu lông của hai con vật là công và quạ. Lông công đẹp, lại nhiều màu
sắc là do quạ khéo léo và tỉ mẩn vẽ cho, còn lông quạ đen là do công vụng về
làm đổ cả lọ mực tàu lên người quạ, từ đó trở đi quạ đen như cột nhà cháy.
Truyện Trí khôn của ta đây giải thích những đặc tính của con cọp sinh ra trên
mình có những vằn đen dài vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng
con nào có răng ở hàm trên cả là do trong lúc trâu cười cọp bị người lừa hàm
răng va vào đá nên không còn chiếc nào. Truyện Sự tích chim đa đa đã chỉ ra
nguồn gốc tiếng kêu của chim đa đa là tiếng khóc “bát cát, quả cà” của cậu bé bị
cha dượng lừa vào rừng sâu với một bát cát phủ cơm và một quả cà. Cậu bé khi
chết đi hóa thành chim đa đa, luôn luôn kêu lên những tiếng "Bát cát quả cà! Bát
cát quả cà”[12, tr.115].
Những nhận thức kinh nghiệm dẫn đến nhiều tri thức được phản ánh trong
truyện cổ tích không được chính xác, không thể hiện đúng nội dung và bản chất
của sự vật. Vì vậy, khi áp dụng vào giải quyết những vấn đề trong hoạt động
thực tiễn sẽ không tránh khỏi những sai lầm, hạn chế. Dẫn đến tư duy chủ quan,
cố chấp, lạc hậu, cản trở sự phát triển.
3.2.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam thể hiện tư duy tiểu nông
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
135
Nam không chỉ hạn chế trong tư duy, nhận thức kinh nghiệm, mà còn mang đậm
lối tư duy tiểu nông của con người. Lối sống tiểu nông của người nông dân Bắc
bộ được hình thành và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nền sản xuất nông nghiệp lúa
nước lạc hậu và những điều kiện sinh hoạt xã hội trong công xã nông thôn, văn
hóa làng xã.
Lối sống này là kết quả của nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, lạc hậu,
manh mún tồn tại hàng nghìn năm ở đồng bằng Bắc bộ. Lực lượng lao động sản
xuất chủ yếu trong xã hội là người nông dân. Người nông dân nơi đây coi việc
trồng trọt, cấy hái, chăn nuôi là nghề lao động chính của mình. Cuộc sống, hoạt
động lao động sản xuất của họ gắn liền với đất đai, thời tiết, sông nước…Quanh
năm ngày tháng, họ chỉ biết có ruộng vườn. Với nền sản xuất nông nghiệp nhỏ,
lạc hậu, tự cấp tự túc, thuần túy đã ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức và lối tư
duy của người nông dân nơi đây. Đó cũng là lí do mà phần lớn các nhân vật
chính những câu truyện cổ tích đều là người nông dân, với các hoạt động thường
nhật như cấy hái, chăn trâu, cắt cỏ, vớt tôm, vớt tép, đốn củi…Người nông dân
đồng bằng Bắc bộ không coi trọng buôn bán và trao đổi hàng hóa, họ lao động,
sản xuất vốn dĩ chỉ cần để đảm bảo có nhu cầu đời sống và sinh hoạt thường nhật
của họ. Vì vậy, như một lẽ tất nhiên họ không có nhu cầu tìm tòi cái mới, ngại
thay đổi. Đó cũng là lý do khiến tư duy của họ bị bó hẹp, hạn chế, không được
mở mang. “Có thể nói thế giới quan trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam nhìn
trên tổng thể là thế giới quan của người nông dân gia trưởng trong cộng đồng
làng xã. Nó có những mặt lành mạnh, tiến bộ và cả những giới hạn tất yếu, do
tính chất tĩnh và khép kín của sinh hoạt làng xã quy định.” [12, tr.1381].
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan, kết quả của nó là
sự hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhận thức nói chung và
tư duy nói riêng của người sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, cảm tính
và chủ quan. Dẫn đến cách nhận thức và lối suy nghĩ thường đơn giản, đại khái,
phiến diện, thiếu tính hệ thống và lôgic. Quá trình nhận thức thường lấy cái cổ
xưa làm chỗ dựa, lấy ý thức của ông cha làm chân lý…Tư duy của họ chủ yếu
136
dựa vào cái trực quan, trực tiếp thiếu đi sự khát quát, tổng hợp, do đó không rút
ra được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân, nguồn gốc bên trong của sự vật,
hiện tượng. Đây chính là kết quả của lối tư duy tiểu nông, chỉ thấy cái ngắn hạn,
trước mắt, không có sự nhìn xa trông rộng, bảo thủ, trì trệ, ngại thay đổi, ít sáng
tạo mà nặng về bắt chước, làm theo, không có căn bản, chưa được khoa học
chứng minh.
Đây cũng là lý do các câu truyện cổ tích không thể lý giải một cách chính
xác những biến đổi của tự nhiên và xã hội. Nhiều câu truyện có đề cập đến mâu
thuẫn xã hội, cụ thể là mâu thuẫn giai cấp giữa người nông dân nghèo, địa vị thấp
với giai cấp thống trị như địa chủ, vua quan. Do những hạn chế về nhận thức mà
người dân Bắc bộ mới chỉ đưa ra được những xung đột thông thường trong cuộc
sống, chưa chỉ ra được nguyên nhân dẫn đến sự đối kháng giai cấp, hay chỉ ra cách
giải quyết triệt để mâu thuẫn này. Các câu truyện đều có chung một motip kết thúc
là những người nông dân nghèo hèn, người có đức có tài sẽ có được cuộc sống hạnh
phúc, còn những kẻ ác, kẻ thống trị sẽ phải chịu hình phạt thích đáng. Trong truyện
Sự tích con khỉ nhân vật cô gái làm thuê và những người giúp việc nhà trưởng giả là
đại diện cho những người nghèo, có địa vị thấp trong xã hội, bị giai cấp thống trị
phong kiến cụ thể là lão trưởng giả bóc lột sức lao động. Nhờ sự giúp đỡ của Đức
Phật cô gái làm thuê trở nên xinh đẹp, còn gia đình lão trưởng giả và họ hàng bị
biến thành khỉ, phải sống chui lủi trong rừng sâu. Cô gái cùng những người hầu
nghèo khó được hưởng hết những của cải mà gia đình lão trưởng giả để lại, có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Còn kẻ thống trị là gia đình lão trưởng giả và họ hàng nhà
lão thì bị trừng phạt đích đáng. Anh nông phu nghèo, chăm chỉ, hiền lành trong
truyện Cây tre trăm đốt dù bị lão phú ông lừa gạt, bóc lột sức lao động nhưng kết
cục cũng được hưởng hạnh phúc và lấy được con gái phú ông như mong muốn. Lão
phú ông, keo kiệt, gian xảo thì bị trừng phạt thích đáng, bị dính chặt vào thân tre
trăm đốt.
Cách xây dựng môtíp trong các câu truyện cổ tích đã thể hiện rõ nét lối tư
duy tiểu nông của cư dân đồng bằng Bắc bộ thời kì phong kiến. Nó phần nào đã
137
phản ánh trình độ sản xuất thấp kém, kĩ thuật lạc hậu trong sản xuất, cũng như
hiểu biết hạn chế của người nông dân trong giai đoạn này. Những hạn chế trong
lối tư duy tiểu nông của cư dân đồng bằng Bắc bộ chính là khởi nguồn cho
những quan điểm mê tín, bảo thủ, lệ thuộc tập quán mà chúng ta thấy trong một
số câu truyện cổ tích cũng như trong thực tiễn xã hội.
3.3. Ý nghĩa của triết lý nhân sinh của cƣ dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam đối với đời sống xã hội ở nƣớc ta hiện nay
3.3.1. Những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
Sau hơn ba mươi năm đổi mới, mở cửa, hội nhập và giao lưu quốc tế, Việt
Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển đất nước,
đồng thời tạo ra sự chuyển biến to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như
kinh tế, chính trị, văn hóa… Đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng được
quan tâm, nâng cao hơn trước, nó đã phản ánh chân thực và kịp thời những thay
đổi của đời sống vật chất. Đi cùng với những thay đổi trong đời sống vật chất và
tinh thần của con người là những biến đổi sâu sắc về lối sống, đạo đức của người
Việt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang có những tác
động nhất định đến đời sống xã hội Việt Nam. Ngoài những ảnh hưởng tích cực,
tạo ra cơ hội, điều kiện cho sự phát triển kinh tế, xã hội quá trình này cũng mang
đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực tác động đến đạo đức, lối sống, làm mai một
những giá trị văn hoá truyền thống của người Việt. Dưới tác động của nền kinh
tế thị trường, trong xã hội đã có sự xuất hiện của lối sống công nghiệp, thực
dụng, sòng phẳng và tư tưởng coi trọng vật chất, coi trọng đồng tiền, xem nhẹ
các giá trị tinh thần và dẫn đến sự hình thành lối sống hưởng thụ, xa hoa lãng
phí. Lối sống thực dụng lấy đồng tiền làm mục đích đã dẫn đến sự xuống cấp
nghiêm trọng về mặt đạo đức, của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
nhân dân, làm xói mòn những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của người
Việt Nam. Lối sống này còn làm mối quan hệ giữa con người với con người trở
nên xa cách, mờ nhạt, thiếu tình người. Vì vậy, sự vô cảm, thờ ơ của con người
138
với nhau trong xã hội hiện đại ngày càng trở nên phổ biến. Đồng tiền còn làm
đảo lộn nhiều giá trị truyền thống trong quan hệ gia đình, vì vật chất, tiền bạc mà
con cái bất hiếu với cha mẹ, anh em mâu thuẫn, vợ chồng lục đục... Không ít
trường hợp vì lợi ích kinh tế nhiều người sẵn sàng bán rẻ nhân phẩm, làm những
việc sai trái, thậm chí là vi phạm luật. Thực tế cho thấy, tình trạng tội phạm hình
sự ở Việt Nam trong thời gian gần đây ngày một gia tăng đến mức nghiêm trọng
cả về số lượng lẫn tính chất nguy hại so với trước đó. Đặc biệt, các vụ phạm tội
do lứa tuổi vị thành niên thực hiện có chiều hướng gia tăng.
Quá trình mở cửa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo ra cơ hội để
người dân Việt Nam có thể tiếp cận với những nền văn hóa, lối sống, phong tục
tập quán, đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của nhiều quốc gia khác nhau trên
thế giới. Từ đó chia sẻ, hợp tác, mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn
hóa của các nước, làm phong phú kho tàng văn hóa dân tộc của mình tuy nhiên
nó cũng đang đặt ra những thách thức lớn đối với yêu cầu giữ gìn bản sắc văn
hóa truyền thống của dân tộc. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, một bộ phận
không nhỏ trong nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh, thiếu niên đã có những
biểu hiện coi nhẹ hoặc không quan tâm đến các giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc, chạy theo lối sống, tâm lý, thị hiếu không lành mạnh, xa lạ, trái với
thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Cùng với sự phát triển của các phương tiện
thông tin đại chúng, hàng ngày, hàng giờ, trên các mạng thông tin toàn cầu liên
tục tuyên truyền các hình ảnh, tin tức, ấn phẩm độc hại, không phù hợp với
truyền thống văn hóa dân tộc. Bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống có nguy
cơ bị xói mòn trước sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai. Văn hóa ngoại lai dần
lấn át lối sống truyền thống của dân tộc. Xu hướng xính ngoại, lai căng trong
hành vi, ngôn ngữ, văn hóa xuất hiện ngày một phổ biến trong giới trẻ cũng như
các tầng lớp xã hội.
Trong bối cảnh hình hình xã hội đang có diễn biến phức như tạp hiện nay,
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc chính là nền tảng vững
chắc cho xã hội Việt Nam có thể vượt qua khó khăn, thách thức trong thời kì đổi
139
mới để phát triển đúng hướng. Trong điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế ngày
càng phổ biến, bên cạnh việc chọn lọc những giá trị văn hóa tiến bộ thì người
Việt cần phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc như
tinh thần yêu nước, thương người, bao dung, độ lượng, sáng tạo trong lao động,
học tập để có thể thực hiện thành công những nhiệm vụ kinh tế - chính trị mà
Đảng ta đã đề ra. Đó là thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trên cơ sở nhận
thức được sự thống nhất cũng như sự tác động qua lại giữa hai lĩnh vực là đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Đảng ta đã chủ trương “Xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa
trong chính trị và kinh tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn
hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường
văn hóa. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực văn hóa”[26].
Trên cơ sở phân tích thực trạng đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, ta
thấy được việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
trong xu thế toàn cầu hoá là một yêu cầu tất yếu, một nhiệm vụ nặng nề nhưng
cấp bách và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, vấn đề được đặt ra lúc này là
cần giáo dục những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho mọi người, nhất
là đối với thế hệ trẻ. Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho con người, giúp
định hướng, chỉ đạo cho con người trong hoạt động thực tiễn của mình, tránh
được những ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập quốc tế hiện nay.
140
3.3.2. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích
Việt Nam góp phần giáo dục quan niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn
Truyện cổ tích ra đời từ chính đời sống hiện thực muôn màu, muôn vẻ của
nhân dân, là bức tranh chân thực phản ánh lại đời sống, sinh hoạt, phong tục tập
quán cũng như tư tưởng, nhận thức của con người trong các giai đoạn lịch sử.
Thông qua truyện cổ tích các thế hệ đi trước không chỉ truyền đạt lại những triết
lý sâu sắc về cuộc sống, về cách đối nhân xử thế, những kinh nghiệm trong lao
động sản xuất, mà còn góp phần giáo dục cho thế hệ sau quan niệm sống tốt đẹp
và lối sống nhân văn của dân tộc. Ẩn chứa trong các câu truyện cổ tích giản dị là
những bài học sâu sắc về quan niệm sống, lối sống, về cách ứng xử nhân văn.
Nhà văn Guxep đã từng viết: “Truyện cổ tích khái quát hóa kinh nghiệm sống
của nhân dân dưới một hình thức mọi người có thể tiếp thu được và có hiệu lực
về mặt thẩm mĩ đồng thời trong đời sống của bản thân nhân dân, nó là một
phương tiện giáo dục quan trọng đối với thế hệ trẻ” [140, tr.121]. Triết lý nhân
sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam nếu được vận
dụng hợp lí sẽ góp phần giáo dục quan niệm sống tốt đẹp, hình thành lối sống nhân
văn cho con người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong các mối quan hệ cơ bản:
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, gia đình và xã hội.
Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
Việt Nam vốn là một quốc gia nông nghiệp, vì vậy từ xa xưa người Việt
đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của giới tự nhiên và sự gắn bó mật thiết của
giới tự nhiên với cuộc sống con người. Nếu tự nhiên thuận lợi, mưa thuận gió
hòa thì người lao động sẽ có mùa màng bội thu, ngược lại nếu giới tự nhiên biến
đổi bất thường, các hiện tượng lũ lụt, hạn hán xảy ra thì cuộc sống của con người
sẽ trở nên vất vả, khốn khó, mùa màng thất bát. Thông qua các câu truyện cổ
tích, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã gửi gắm tới các thế hệ người Việt những triết
lý sâu sắc giáo dục con người hiện nay có cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với
giới tự nhiên. Trên cơ sở nhận thức được mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên có sự tác động qua lại lẫn nhau, giới tự nhiên ảnh hưởng đến cuộc sống
141
của con người, con người dựa vào tự nhiên, tác động đến giới tự nhiên để phục
vụ cho lợi ích của mình, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã đưa ra hai triết lý cơ bản
về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên đó là: triết lý sống hài hòa với
tự nhiên và triết lý chinh phục, cải tạo tự nhiên. Triết lý sống hài hòa với tự
nhiên đã giáo dục con người phải biết tôn trọng tự nhiên, thuận theo tự nhiên,
biết cách dựa vào tự nhiên để tồn tại và phát triển, không làm trái quy luật tự
nhiên. Còn triết lý chinh phục và cải tạo tự nhiên lại giáo dục cho con người,
không thể ỷ lại vào giới tự nhiên, chỉ biết lấy những cái có sẵn trong giới tự
nhiên để sử dụng mà cần phải biết nhận thức các quy luật, lợi dụng quy luật, tiến
hành cải tạo giới tự nhiên một cách linh hoạt để phục vụ cho cuộc sống của
mình. Có thể nói, triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích không chỉ là sự đúc rút của
ông cha ta về kinh nghiệm sống, sinh hoạt xã hội mà còn cho ta những bài học quý
giá về cách ứng xử của con người trong mối quan hệ với giới tự nhiên là sống thuận
hòa, làm bạn, hợp tác với tự nhiên một cách linh hoạt uyển chuyển. Qua đó con
người có cách tác động, biến đổi, cải tạo và ứng phó phù hợp với tự nhiên.
Cùng với sự phát triển của xã hội và của nhận thức, con người tác động ngày
càng nhiều vào giới tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên để tạo ra của cải vật chất nuôi
sống bản thân mình và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Nhận thức của con người đã
xuất hiện tư tưởng muốn thống trị tự nhiên, biến mình thành trung tâm, bất chấp
quy luật, tác động và làm ảnh hưởng tiêu cực đến giới tự nhiên, làm ô nhiễm và tổn
hại đến giới tự nhiên. Kết quả của những hành động này chính là những hiện tượng
thời tiết cực đoan, làm ảnh hưởng đến chính cuộc sống của con người. Hiện nay,
không chỉ ở ở Việt Nam mà ngay cả các quốc gia khác trên thế giới, con người
đều đang đứng trước nguy cơ, đặc biệt là sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên
nhiên, ô nhiễm của môi trường, sự biến đổi của khí hậu. Vì vậy, những triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ về mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên có giá trị to lớn trong việc giáo dục, nhắc nhở con người hiện nay cần xây
dựng một lối ứng xử phù hợp với giới tự nhiên, cần nâng cao nhận thức, trách
nhiệm trong việc xây dựng bảo vệ môi trường sinh thái nhân văn. Bởi vì bảo vệ
môi trường tự nhiên là con người đang bảo vệ cuộc sống của chính mình.
142
Mối quan hệ giữa con người với gia đình
Không chỉ giáo dục cho người Việt có cách ứng xử phù hợp với giới tự
nhiên, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam còn góp phần giáo dục hiệu quả những giá trị, quan niệm sống tốt đẹp và lối
sống nhân văn cho con người trong mối quan hệ với gia đình. Gia đình là tế bào
của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người và giúp con người hình thành nhân
cách. Sự tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc đều phụ
thuộc vào sự tồn tại và phát triển của gia đình. Gia đình là nơi bảo tồn và lưu giữ
các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ lại mang đến những bài học bổ ích, giúp giáo dục quan
niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn cho con người trong các quan hệ cơ bản
như: mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ - con cái, anh chị em ruột.
Trong quan hệ vợ chồng
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam giáo dục con người lối sống thủy chung, tình nghĩa trong mối quan hệ vợ
chồng. Đã là nghĩa vợ chồng thì phải sống có tình, có nghĩa, yêu thương và chăm
sóc cho nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn thử thách để đạt tới hạnh phúc,
không vì giàu sang hay nghèo hèn mà rời bỏ nhau. Để cho gia đình được êm ấm
thì vợ chồng phải biết yêu thương và nhường nhịn. Có những câu truyện cổ tích
ca ngợi, đề cao sự thủy chung của tình cảm vợ chồng như Sự tích Trầu Cau, Sự
tích con Sam.... Cũng có những câu truyện ca ngợi tình cảm chân thành, đức hy
sinh của người vợ đối với chồng. Bằng tình yêu của mình người vợ đã tìm mọi
cách dạy chồng, kéo người chồng trở về cuộc sống lương thiện, khi giàu sang
phú quý cũng không quên tình nghĩa vợ chồng như Gái ngoan dạy chồng, Đồng
tiền vạn lịch. Đồng thời cũng có những câu truyện cổ tích lên án sự thiếu thủy
chung, bội bạc trong mối quan hệ vợ chồng, và kẻ bội bạc đã phải chịu hình phạt
xứng đáng như truyện Sự tích con muỗi.
Trong xã hội hiện đại, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, ở một
góc độ nào đó đã phá vỡ đi nền nếp gia phong, lối sống truyền thống của gia
143
đình Việt Nam, giá trị của cuộc sống hôn nhân không còn được xem trọng như
trước. Khi mà sự kết nối trong mối quan hệ hôn nhân ngày càng lỏng lẻo thì bài
học trong những câu truyện cổ tích là lời khuyên nhủ, nhắc nhở nhẹ nhàng
nhưng mang tính giáo dục sâu sắc để cho thế hệ trẻ về việc gìn giữ hạnh phúc gia
đình trong giai đoạn hiện nay.
Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Hiếu nghĩa với ông bà và cha mẹ là lối sống, cách ứng xử, giá trị đạo đức
tốt đẹp của người Việt từ ngàn đời nay, nó xuất phát từ đặc trưng trọng hòa hiếu,
thuận hòa trong cuộc sống của cộng đồng người Việt. Thông qua các câu truyện
về có nội dung về chữ hiếu như Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ
kể tháng kể ngày, truyện Tiếc gà chôn mẹ triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam góp phần giáo dục quan niệm, lối
sống nhân văn về chữ hiếu cho người Việt hiện nay. Triết lý khuyên răn con cái
sống phải có hiếu với ông bà, cha mẹ. Cha mẹ là người sinh thành, chăm sóc,
nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người. Công lao của cha mẹ đối với con cái là
không thể đo đếm được. Vì vậy, con cái phải sống sao cho xứng đáng với công
lao mà cha mẹ dành cho mình. Khi còn nhỏ phải biết vâng lời dạy bảo của cha
mẹ. Khi khôn lớn, trưởng thành thì phải biết chăm sóc, đỡ đần cho cha mẹ lúc
cha mẹ già yếu. Triết lý này cũng chỉ ra vai trò và trách nhiệm của cha mẹ đối
với con cái là phải yêu thương, chăm lo, dạy dỗ cho con nên người, sống tu nhân
tích đức để lại phúc cho con cháu mai sau.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của xã hội đã xuất hiện ngày càng
nhiều biểu hiện con cái không giữ đúng bổn phận làm con đối với cha mẹ già
yếu. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, nhiều nơi, nhiều chỗ đã bị những yếu
tố khác lấn át. Trong điều kiện đó, những triết lý nhân sinh về mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái giúp giáo dục cho con người Việt Nam về một giá trị truyền
thống của dân tộc là lòng hiếu nghĩa, đồng thời khơi dậy và phát huy lối sống
văn hóa, văn minh của thế hệ trẻ trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
144
Trong quan hệ anh, chị, em ruột thịt
Thông qua những câu truyện cổ tích xoay quanh mối quan hệ giữa anh,
chị em ruột như Cây khế, Bính và Đinh, hai anh em và con chó đá, các tác giả
dân gian đã lên án những người anh, người em vì mải chạy theo lợi ích vật chất
mà quên đi tình nghĩa ruột thịt. Mỗi câu truyện là lời cảnh tỉnh, đồng thời răn
dạy người đời, nếu không biết yêu thương những người thân của mình, trân
trọng tình cảm gia đình ruột thịt thì sẽ không bao giờ có được cuộc sống hạnh
phúc. Ngày nay, do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường nhiều giá trị đạo
đức truyền thống bị đảo lộn trong đó có mối quan hệ giữa các anh chị em ruột.
Nhiều gia đình, anh chị em vì tranh chấp tiền bạc, vật chất mà sẵn sàng đánh mất
hết tình nghĩa ruột thịt. Trong mối quan hệ anh, em triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam giáo dục cho con người quan
niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn đó là phải biết hòa thuận, yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau, cần phải biết nhường nhịn, sẻ chia và hy sinh cho nhau. Mối quan
hệ giữa anh, chị, em ruột thịt là mối quan hệ thể hiện sự cố kết chặt chẽ, không
thể tách rời. Trong gia đình anh em có thuận hòa thì cửa nhà mới ấm êm và hạnh
phúc. Không chỉ mang lại những bài học giáo dục đạo đức, triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ còn giúp con người nhìn lại, điều chỉnh hành vi của
mình, sống sao cho đúng với những giá trị nhân văn tốt đẹp của dân tộc.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam chứa đựng đầy đủ những giá trị truyền thống tồn tại lâu đời trong gia đình
người Việt, đồng thời mang tư tưởng tiến bộ, giúp các gia đình hiện đại ngày nay
có lối ứng xử phù hợp, từ đó tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn với các thành viên
trong gia đình. Góp phần xây dựng gia đình Việt Nam theo chuẩn mực văn hóa
mới, gắn với mục tiêu xây dựng gia đình văn minh, tiến bộ. Gia đình có hạnh
phúc, bền vững thì con người mới có thể phát triển, đất nước mới giàu mạnh,
tiến bộ và văn minh được.
Mối quan hệ giữa con người với xã hội
Không chỉ góp phần giáo dục quan niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn
145
cho con người trong các mối quan hệ gia đình, triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam còn giúp giáo dục quan niệm sống tốt đẹp
và lối sống nhân văn cho con người trong các mối quan hệ xã hội. Hiện nay, dưới sự
tác động của nền kinh tế thị trường và lối sống thực dụng thì giá trị của tình người, sự
yêu thương, sẻ chia giữa con người với nhau dần ít đi. Những biểu hiện thờ ơ, lãnh
đạm xuất hiện ngày càng nhiều, nó khiến mối quan hệ giữa con người với nhau ngày
càng trở nên xa cách. Vì vậy triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong
truyện cổ tích Việt Nam không chỉ khơi gợi lại những giá trị nhân ái tốt đẹp, mà còn
giúp giáo dục quan niệm sống, lối sống giàu lòng nhân nghĩa trong mỗi con người,
khuyên con người sống phải có tình, có nghĩa, biết trước sau. Tính giáo dục của triết
lý được thể hiện rõ nét trong hai mối quan hệ xã hội được người Việt rất coi trọng đó
là mối quan hệ giữa thầy trò và quan hệ bạn bè.
Trong quan hệ thầy trò
“Tôn sư trọng đạo” là một đạo lý nhân văn tốt đẹp của dân tộc ta. Vì vậy,
trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam đã có nhiều câu truyện cổ tích cảm động
về tình cảm thầy trò như Sự tích đầm mực, Thầy cứu trò...Thông qua những câu
truyện này, cư dân đồng bằng Bắc bộ thể hiện triết lý sâu sắc về lòng biết ơn, sự
trân trọng những người thầy đã có công lao dạy dỗ và truyền thụ tri thức cho học
trò. Ngày nay dưới tác động của nền kinh tế thị trường, mối quan hệ thầy trò dần
bị kinh tế hóa, tình cảm và giá trị đạo đức cơ bản giữa thầy trò đang bị mai một,
thì triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam
lại có ý nghĩa quan trọng với việc giáo dục cho mỗi người quan niệm sống, lối
sống, sự ứng xử, đúng đắn, nhân văn. Triết lý giáo dục người học trò phải luôn
kính trọng, yêu thương, tri ân công lao dạy dỗ của thầy, bởi người thầy không
chỉ là người truyền dạy cho ta tri thức mà còn là người dạy cho ta đạo đức, cách
sống, giúp chúng ta trở thành người có ích cho xã hội. Triết lý còn cũng chỉ ra
trách nhiệm của người làm thầy phải cư xử và hành động đúng với vai trò vị trí
của mình, truyền dạy cho học trò những tri thức, kỹ năng, đạo đức để phục vụ
cho cuộc sống.
146
Trong mối quan hệ bạn bè
Mối quan hệ bạn bè tình nghĩa là mối quan hệ luôn được người Việt coi
trọng vì trong quá trình con người sống, lao động, sinh hoạt vật chất hay tinh
thần luôn cần có sự động viên, giúp đỡ, tương trợ, hợp tác của bạn bè. Bạn bè
chính là chỗ dựa, là chi kỉ, là người sẽ giúp đỡ ta lúc khó khăn, hoạn nạn. Thông
qua những câu truyện cổ tích có nội dung về tình bạn như Sự tích chim quốc,
Bán tóc đãi bạn triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam góp phần giáo dục mỗi cá nhân lối sống, cách cư xử đúng đắn,
phù hợp trong mối quan hệ với bạn bè. Giữa bạn bè cần có sự tin tưởng, nhường
nhịn, thấu hiểu, cảm thông, giúp đỡ lẫn nhau. Trong tình bạn không nên toan
tính giàu sang hay nghèo hèn. Khi bạn bè ốm đau, bất hạnh, thất bại trong cuộc
sống ta cần phải động viên, giúp đỡ, không được bỏ rơi bạn. Khi bạn mạnh khỏe,
hạnh phúc, thành công ta nên mừng cho bạn. Có được như vậy thì tình cảm bạn
bè mới có thể bền chặt.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục quan niệm sống tốt đẹp và lối sống
nhân văn cho con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ trong các mối quan hệ
với gia đình và xã hội từ đó giúp con người xây dựng lối sống trong sáng, lành
mạnh, hợp tình, hợp lý. Những quan niệm sống và lối sống nhân văn mà triết lý
nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam mang lại cho con người chính là tinh
hoa văn hóa, bản sắc dân tộc, là cái mà mỗi con người Việt Nam cần phải kế
thừa và phát triển trong xã hội hiện nay.
3.3.3. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ
tích Việt Nam góp phần giáo dục giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Lịch sử tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên nhiều giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, tiêu biểu như lòng yêu nước, thương người,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, lạc quan trong cuộc sống…nhà nghiên
cứu Trần Văn Giàu đã từng nhận định: “hễ nói đến giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta là nói yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương
147
người...” [30]. Những giá trị đạo đức tốt đẹp này đã tạo nên bản sắc riêng cho
dân tộc Việt Nam. Hiện nay, trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước, đi
cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ và vượt bậc của kinh tế - xã hội là sự đi
xuống, tha hóa của các giá trị đạo đức truyền thống. Nhiều giá trị đạo đức tốt
đẹp, quý báu của dân tộc đang dần mai một. Một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ -
những chủ nhân tương lai của đất nước, đang bỏ qua và đánh mất đi giá trị đạo
đức cốt lõi của dân tộc. Vì vậy, việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống
đối với người Việt cũng như thế hệ trẻ trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát
triển đất nước hiện nay là vô cùng cần thiết. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam đã đóng góp một phần quan trọng
trong việc giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho con người Việt Nam.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, ý chí tự cường dân tộc
Lòng yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ ngàn đời nay.
Trần Văn Giàu đã từng viết “tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư
tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam", “chủ nghĩa yêu nước là sợi
chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại” [30, tr.100-
101]. Truyền thống này thường xuất hiện trong những câu truyện cổ tích quen
thuộc với nhiều thế hệ người Việt Nam như truyện Thánh Gióng, Lê Lợi, Yết
Kiêu, Hai nàng công chúa nhà Trần, Sự tích thành Lồi... Đây đều là các câu
truyện kể về những người anh hùng dân tộc có công lao to lớn trong việc chống
giặc cứu nước. Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ chứa đựng trong
các câu truyện cổ tích này đã góp phần truyền tải đến mỗi con người bài học đạo
đức về tinh thần yêu nước. Đó là ý chí quật cường, vượt qua mọi khó khăn, thử
thách để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và chiến thắng kẻ thù, không chịu cúi đầu
khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Chính những
giá trị đạo đức tốt đẹp này đã góp phần hun đúc, củng cố cho tinh thần yêu nước
của các thế hệ người Việt hiện nay.
Không chỉ giáo dục truyền thống yêu nước quý báu, triết lý nhân sinh của
148
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam còn góp phần khơi dậy
lòng tự tôn, tự hào dân tộc, khơi dậy ý thức tự lực, tự cường của người Việt Nam
thông qua những câu truyện kể về các nhân vật cổ tích là người Việt nhưng tài
giỏi, xuất chúng truyện Lê Như Hổ, Trạng Hiền, Em bé thông minh.... Các nhân
vật trong truyện xuất thân chỉ là người nông dân chân lấm tay bùn, là những
người dân bình dị như nhưng bằng sự thông minh, tài trí của mình đã góp phần
khẳng định vị thế và tên tuổi, sức mạnh nước Việt trước các nước lân bang,
khiến cho những nước lớn cũng không thể coi thường người Việt.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ chứa đựng trong truyện cổ
tích Việt Nam đã giáo dục, giúp người Việt hiểu thêm về truyền thống yêu nước, ý chí
tự cường của dân từ đó góp phần bảo tồn những giá trị đạo đức tốt đẹp này trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Tinh thần yêu nước, ý chí tự cường
của dân tộc luôn cần được thường xuyên khơi dậy, bồi đắp và phát huy để trở
thành bệ đỡ và sức mạnh tinh thần to lớn cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế
hệ trẻ trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, từ đó tạo đà vững chắc cho
dân tộc ta vươn lên có thể sánh vai cùng các “cường quốc năm châu” trên thế
giới.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam góp phần giáo dục tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cộng đồng
Từ xa xưa, người Việt đã sớm nhận thức được để có thể chống chọi lại
thiên tai, địch thù con người cần phải đoàn kết, cố kết cộng đồng, tập hợp nhau
lại để tạo ra sức mạnh dân tộc to lớn. Không ai có thể tồn tại một mình, tách rời
khỏi cộng đồng mà họ luôn có mối quan hệ mật thiết với gia đình, làng xã, quê
hương, đất nước tạo nên sự cố kết chặt chẽ. Sức mạnh tập thể, sức mạnh dân tộc
đã giúp người Việt chiến thắng tự nhiên, chiến thắng các thế lực tàn bạo. Đây
chính là một truyền thống, là giá trị đạo đức quý báu của dân tộc, được gìn giữ từ
bao đời nay. Truyền thống đoàn kết, cố kết cộng đồng của người Việt đã được
lưu giữ và bảo tồn trong những triết lý nhân sinh sâu sắc của cư dân đồng bằng
Bắc bộ. Thông qua triết lý nhân sinh trong những câu truyện cổ tích, các tác giả
149
dân gian đã góp phần giáo dục cho thế hệ sau về tinh thần đoàn kết dân tộc, sự
cố kết cộng đồng. Dù ở miền ngược hay miền xuôi, biên giới hay hải đảo xa xôi,
đều có chung nguồn gốc con rồng cháu tiên thì phải yêu thương, đùm bọc, hỗ trợ
cho nhau. Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng đã giúp cho dân tộc Việt Nam
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng thiên tai, địch họa. Ngày nay,
đoàn kết đã trở thành động lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam góp phần giáo dục tư tưởng nhân ái, khoan dung
Nhân ái là tình cảm đạo đức không phải của riêng một dân tộc nào, tuy
nhiên mỗi dân tộc lại có những biểu hiện khác nhau về lòng nhân ái. Bởi lẽ, tình
cảm đó nảy sinh trên những cơ sở, điều kiện, môi trường xã hội và hoàn cảnh
lịch sử khác nhau. Lòng nhân ái của dân tộc ta là một tình cảm đạo đức lớn lao,
có nét đẹp riêng và là giá trị văn hoá cơ bản trong hệ giá trị của người Việt Nam.
Giá trị đạo đức tốt đẹp này được xuất hiện trong nhiều câu truyện cổ tích như:
Người con hiếu thảo, Đồng tiền vạn lịch, Sự tích thằng cuội cung trăng, Sự tích
con khỉ...Thông qua những triết lý nhân sinh về lòng nhân ái, cư dân đồng bằng
Bắc bộ đã góp phần giáo dục và bảo tồn giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Trong truyện cổ tích, triết lý về lòng nhân ái, khoan dung thể hiện cụ thể qua các
mối quan hệ của con người. Đó là tình yêu thương giữa những con người trong
gia đình; yêu thương làng xóm, cộng đồng; yêu thương dân tộc.
Trong mối quan hệ gia đình, nhân ái thể hiện ở tình yêu thương, thuận hòa,
trân trọng, sự hy sinh của mỗi người đối với những người thân như cha mẹ, vợ
chồng, anh em... Trong mối quan hệ với làng xóm, cộng đồng, nhân ái thể hiện sự
giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau giữa con người với con người khi gặp khó khăn, hoạn
nạn trong cuộc sống. Trong mối quan hệ với dân tộc, nhân ái thể hiện trong tình
yêu nước, thương dân, yêu dân tộc, yêu đồng bào của mình. Lòng nhân ái bao
hàm sự vị tha, bao dung với con người nhưng nó không chỉ bó hẹp trong cộng
đồng người Việt mà còn mở rộng ra với cả kẻ thù. Đây là một tư tưởng nhân văn
150
và cũng là biểu hiện khác biệt trong giá trị nhân ái của người Việt. Nhân ái là giá
trị đạo đức đặc trưng của dân tộc ta, một giá trị rất đáng tự hào. Nó gắn liền với
tình yêu thương đồng loại và là cái gốc của đạo đức bởi vì nếu không có lòng
nhân ái thì không thể có lòng yêu nước, thương nhân dân được.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay lối sống ngoại lai, ích kỷ, hẹp hòi, phi
nhân tính đang có chiều hướng lấn át lối sống vị tha, giàu nghĩa tình truyền
thống của dân tộc. Vì vậy, việc giáo dục, phát huy tư tưởng nhân ái của con
người có ý nghĩa vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong công cuộc xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam góp phần giáo dục đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, lạc quan, yêu
đời và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.
Cần cù, siêng năng là một trong những giá trị đạo đức nổi bật, là phẩm
chất đáng quý của người dân Việt Nam. Việt Nam là một nước có nền văn minh
nông nghiệp lâu đời. Lao động nông nghiệp là loại hình lao động vất vả, cần
nhiều thời gian, công sức mới làm ra được hạt lúa, hạt gạo. Thiên nhiên khắc
nhiệt, mùa nắng thì hạn cháy đồng, mùa mưa lại lũ lụt. Để khắc phục sự tàn phá
và ảnh hưởng của thời tiết cũng như để có thể tiến hành lao động sản xuất được
thì cần cù, siêng năng, sáng tạo trong lao động đã trở thành những phẩm chất đạo
đức không thể thiếu đối với con người Việt Nam.
Đức tính cần cù, siêng năng, sáng tạo trong lao động của người Việt đã
được cư dân đồng bằng Bắc bộ đề cập đến trong nhiều câu truyện cổ tích. Các
nhân vật quen thuộc của truyện cổ tích như cô Tấm truyện Tấm Cám, chàng
Thạch Sanh truyện Thạch Sanh, chàng Mai An Tiêm truyện Sự tích quả dưa
hấu, hay chàng Lang Liêu truyện Sự tích Bánh chưng, bánh dày đều là những
người siêng năng, cần cù, chăm chỉ, sáng tạo trong lao động, sản xuất. Nhờ lao
động mà các nhân vật này đã vượt qua được khó khăn, gian khổ, chiến thắng cái
ác và có được cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc. Việc giáo dục những đức tính cần
cù, siêng năng, sáng tạo trong lao động cho người Việt có ý nghĩa hết sức quan
151
trọng. Hiện nay, Việt Nam bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn hạn chế, năng suất lao
động chưa cao, thì những đức tính như cần cù, siêng năng, sáng tạo trong lao
động của con người là một yếu tố thực sự cần thiết để góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ còn góp phần giáo dục
cho người Việt cũng như thế hệ trẻ bài học về tinh thần lạc quan, yêu đời và
niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Trong truyện cổ tích, ta thấy hầu hết các nhân
vật đều yêu và trân trọng cuộc sống của mình. Ngay cả khi gặp khó khăn và vất
vả trong cuộc sống thì các nhân vật này vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời,
tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Họ sẵn sàng đấu tranh mạnh mẽ với
những thế lực xấu xa để giành lấy hạnh phúc cho mình. Những nhân vật chính
trong truyện cổ tích như cô Tấm, chàng Thạch Sanh...bằng tinh thần lạc quan và
niềm tin vào cuộc sống đã vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách và có được một
cuộc sống hạnh phúc .
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt
Nam là một kho tàng tri thức và kinh nghiệm sống vô giá mà cha ông ta đã để lại
cho con cháu. Nổi bật trong đó là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Đây chính là những giá trị văn hóa mang bản sắc Việt Nam, là những giá trị đạo
đức cần thiết mà con người Việt Nam trong xã hội hiện nay cần tu dưỡng và rèn
luyện. Thông qua truyện cổ tích các tác giả dân gian khéo léo lồng ghép những giá
trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc để giáo dục cho con người. Từ đó góp phần giúp
người Việt tự nhận thức, rèn luyện nhân cách, phẩm chất, đạo đức sao cho phù hợp
với giá trị đạo đức chuẩn mực của xã hội và truyền thống của dân tộc.
152
Tiểu kết chƣơng 3
Triết lý nhân sinh của người Việt nói chung và của cư dân đồng bằng Bắc
bộ nói riêng trong truyện cổ tích Việt Nam luôn có ý nghĩa quan trọng đối với
đời sống xã hội không chỉ trong quá khứ mà còn cả ở thời điểm hiện nay. Những
triết lý ấy có tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới nhận thức và sự định hướng
nhận thức cho hoạt động thực tiễn của người Việt trong thời kì đổi mới.
Triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ được ví như là kho tri
thức vô giá về kinh nghiệm cuộc sống, đạo lý làm người và chứa đựng nhiều
triết lý nhân sinh mang giá trị tích cực và sâu sắc. Nó đã thể hiện tư duy mang
tính biện chứng, mềm dẻo, linh hoạt của cư dân đồng bằng Bắc bộ đồng thời xây
dựng một cách đầy đủ, hệ thống các quan điểm giáo dục và thể hiện tinh thần
nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Tuy nhiên bên cạnh đó những triết lý này vẫn còn
tồn tại một số hạn chế nhất định như còn chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm, thể
hiện nhận thức thiên về kinh nghiệm và mang nặng tư duy tiểu nông.
Mặc dù còn có những hạn chế nhất định nhưng mỗi một câu truyện cổ tích
Việt Nam đều chứa đựng trong đó nhiều giá trị nhân văn cao cả, và mang đậm
nét đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. Đây là nơi ông cha ta đã gửi gắm biết bao
ước mơ, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp và sự công bằng trong xã hội. Hiện nay,
khi đời sống xã hội Việt Nam đang thay đổi từng ngày, đi cùng sự phát triển của
kinh tế là sự xuống cấp của đạo đức và lối sống của con người. Vì vậy, triết lý
nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng trong việc giáo dục quan niệm sống tốt đẹp, lối sống nhân văn
và những giá trị đạo đức truyền thống cho các thế hệ người Việt. Từ đó góp phần
bảo tồn và phát huy những giá trị quý báu của dân tộc, làm phong phú thêm đời
sống tinh thần xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho mỗi con người Việt
Nam trước tác động và ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
153
KẾT LUẬN
Truyện cổ tích là một bộ phận quan trọng trong văn hóa dân gian Việt
Nam, là chỉ báo tin cậy phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam
nói chung và của cư dân đồng bằng Bắc bộ nói riêng trong lịch sử. Được thể
hiện bằng ngôn từ dung dị, mộc mạc, dễ thuộc, dễ nhớ nhưng truyện cổ tích lại
chứa đựng những triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc. Triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ đã có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng thế giới
quan, nhân sinh quan cho con người trong lao động, sinh hoạt, học tập cũng như
quá trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Luận án đã làm rõ những nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam, gồm ba vấn đề chính là triết lý về
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, triết lý về mối quan hệ giữa con
người với gia đình, xã hội và triết lý về mối quan hệ giữa con người với chính bản
thân mình. Từ đó rút ra một số đặc trưng cơ bản trong triết lý nhân sinh của cư dân
đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam. Một là, triết lý nhân sinh của cư
dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam phản ánh tồn tại xã hội một
cách phong phú và chân thật. Hai là, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ
trong truyện cổ tích Việt Nam chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, Nho giáo và
Đạo giáo. Ba là, triết lý nhân sinh của cư dân đồng bằng Bắc bộ là hình thức phản
bằng Bắc bộ là hình thức phản ánh cái bi, cái hài, cái cao cả trong đời sống xã hội.
kháng chống lại sự bất công trong xã hội. Bốn là, triết lý nhân sinh của cư dân đồng
Ngoài các nội dung và đặc trưng vừa nêu, luận án còn chỉ ra một số giá trị
tiêu biểu và những hạn chế còn tồn tại trong triết lý nhân sinh của cư dân đồng
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng đời
sống xã hội ở nước ta giai đoạn hiện nay, luận án đã chỉ ra triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam có ý nghĩa vô cùng to
lớn, thiết thực với việc giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục
quan niệm sống tốt đẹp, lối sống nhân văn cho các thế hệ người Việt trong quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Có thể nói triết lý nhân sinh của người Việt cũng như của cư dân đồng
154
bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam là kết quả của của những kinh
nghiệm đã được cha ông ta đúc kết từ bao đời nay về mục đích, lẽ sống của con
người, về những ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Vì vậy, nó chính
là những chỉ dẫn sáng suốt, giúp định hướng cho người Việt trong cuộc sống, lao
động, học tập, quá trình chiến đấu, bảo vệ tổ quốc suốt chiều dài lịch sử tồn tại
và phát triển của dân tộc. Ngày nay, những triết lý nhân sinh này vẫn là hành
trang quý giá trong cuộc sống hiện đại, góp phần quan trọng vào việc tăng cường
sức sống cho đời sống tinh thần xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng sống tốt đẹp
cho người Việt Nam trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa. Vì vậy, chúng ta cần
phải bảo tồn và phát huy giá trị tích cực của những triết lý nhân sinh này trong
cuộc sống hiện nay.
Để góp phần bảo tồn và phát huy giá trị tích cực của triết lý nhân sinh
trong truyện cổ tích đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay cần phải có
những giải pháp cụ thể. Trước hết, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên
truyền, giảng dạy cho các thế hệ người Việt về những giá trị tích cực của triết lý
nhân sinh trong truyện cổ tích Việt Nam. Tiếp đến, phải vận dụng những triết lý
nhân sinh này vào đời sống thực tiễn của nhân dân như quá trình xây dựng văn
hóa, bảo vệ và phát triển đất nước. Từ đó, nâng cao nhận thức của xã hội, đặc
biệt là thế hệ trẻ về cái hay, cái đẹp và tính nhân đạo của một loại hình văn hóa
dân gian đặc sắc. Góp phần khơi gợi tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người,
giúp người Việt ở mọi lứa tuổi nắm bắt được nội dung triết lý nhân sinh của dân
tộc, biết cách gìn giữ bản sắc văn hóa của đất nước, xây dựng hành vi, lối sống
đúng đắn, tích cực, phù hợp với chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội.
155
DANH SÁCH TRUYỆN CỔ TÍCH SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
1. Bán tóc đãi bạn
2. Ba ông Bếp
3. Cây khế
4. Cô gái lấy chồng hoàng tử
5. Cái Cân Thủy Ngân
6. Cây tre trăm đốt
7. Con ma báo thù
8. Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng
9. Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày
10. Duyên nợ tái sinh
11. Đồng tiền Vạn Lịch
12. Em bé thông minh
13. Gái ngoan dạy chồng
14. Hồn Trương Ba, da Hàng thịt
15. Hai nàng công chúa nhà Trần
16. Lê Như Hổ
17. Lê Lợi
18. Nguồn gốc sinh tử
19. Người họ Liêu và Diêm vương
20. Người dân nghèo và Ngọc Hoàng
21. Sự tích đầm Nhất Dạ và Bãi Tự Nhiên
22. Sọ Dừa
23. Sự tích con rồng cháu tiên
24. Sự tích trầu cau
25. Sự tích chim cuốc
26. Sự tích Đầm Mực
27. Sự tích quả dưa hấu
28. Sự tích người làm chúa muôn loài
156
29. Sự tích con muỗi
30. Sự tích con khỉ
31. Sự tích con sam
32. Sự tích chim tu hú
33. Sự tích thằng Cuội Cung Trăng
34. Tại sao Sông Tô Lịch và sông Thiên Phù hẹp lại
35. Thạch Sanh
36. Tấm Cám
37. Trí khôn của ta đây
38. Thánh Gióng
39. Truyện Thủ Huồn
40. Từ Đạo Hạnh hay là sự tích Thánh Láng
41. Tiếc gà chôn mẹ
42. Yết Kiêu
157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
1. Nguyễn Thị Ngọc (2016), “Vận dụng lý luận Mác-Lênin trong quá trình phát
triển ở Việt Nam hiện nay đăng ngày 8/12/2016, Tạp chí Cộng sản điện tử.
2. Nguyễn Thị Ngọc (2018), “Triết lý về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục và xã hội tháng 4/2018.
3. Nguyễn Thị Ngọc (2018), “Triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích với việc
giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam” ngày 20/6/2018, Tạp chí Cộng sản điện tử.
4. Nguyễn Thị Ngọc (2019), “Triết lý của cư dân đồng bằng Bắc bộ về sự sống
và con người trong truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, trường đại
học Thủ Đô Hà Nội, số 32 tháng 6/2019.
5. Nguyễn Thị Ngọc (2019), “ Một số nét đặc trưng trong triết lý nhân sinh của
cư dân đồng bằng Bắc bộ trong truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực
Khoa học xã hội, số tháng 9 năm 2019.
6. Nguyễn Thị Ngọc (2020), “Một số giá trị tiêu biểu trong triết lý nhân sinh
của người Việt qua truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, Chuyên đề 1, tháng 5 năm 2020.
158
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Chieng Xom An (1995), Bản chất thể loại và sự phân loại truyện cổ tích
trên cơ sở tư liệu truyện cổ tích Việt Nam và Campuchia, Luận án tiến sĩ
ngữ văn, Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
2.
Nguyễn Thị Phương Anh (2017) “Không gian văn hóa người Việt đồng
bằng Bắc bộ qua tư liệu của ca dao tục ngữ”, Luận án tiến sĩ Việt Nam
học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3.
Báo cứu quốc số ra ngày 25/11.1948, Chuyển dẫn từ Hà Huy Giáp – Hồ
Chủ Tịch với một vài vấn đề văn hóa, văn nghệ, Nxb Sự thật, 1965, tr.52.
4.
Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa.
5.
Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở
6. Mai Văn Bính, Nguyễn Đăng Quang (2008), Triết học Mác - Lênin, Nxb
Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7.
Trần Văn Bính (2010), Văn hóa Việt Nam trên con đường đổi mới những
thách thức và thời cơ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8.
Nguyễn Huy Bỉnh (2015), Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa
xứ Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9.
Nguyễn Huy Bỉnh (2011), Truyện cổ tích xứ Bắc và dấu ấn địa phương
10. Bộ giáo dục và đào tạo (2013), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của
hóa, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số tháng 3/2011.
11. Lê Kiến Cầu (2008), Triết lý nhân sinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (1952-1982), Nxb
chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, tr.35.
13. Nguyễn Đổng Chi (1956), Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Nxb Văn
Giáo dục, Hà Nội.
Sử Địa, Hà Nội.
159
14. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb
15. Doãn Chính (2013), Lịch sử triết học Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
16. Doãn Chính (Chủ biên) (2014), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Nxb
thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Trương Chính, Phong Châu (1986), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Xuân Chiến (2016), Triết lý nhân quả trong truyện cổ tích Tấm Cám,
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 241 - 242.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên)
Tạp chí Văn học, Hà Nội.
(2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp
20. Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), Di sản văn hóa truyền thống Việt Nam
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Ngọc Côn (1961), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo
trước những biến động của thời đại, Tạp chí Cộng sản, tháng 2/2001.
22. Nguyễn Kim Dân (Biên dịch) (2008), Triết lý nhân sinh trong cuộc sống,
dục, Hà Nội.
23. Chu Xuân Diên (1998), Truyện cổ tích dưới con mắt của các nhà khoa
Nxb Thanh Hóa.
học, Nxb Đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
24. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp
Minh.
25. Bùi Văn Dũng và Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017), Các yếu tố ảnh hưởng đến
luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tạp chí
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
Khoa học xã hội Việt Nam số 6 (115).
thứ XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
160
27.
28. Trần Đức (1993), Nền văn minh sông Hồng xưa và nay, Nxb Khoa học Xã
Cao Huy Đỉnh (2004), Tiến trình văn học dân gian, Nxb Lao động.
29. Nguyễn Minh Đức (2008), Triết lý quân sự truyền thống Việt Nam, kỷ yếu
hội, Hà Nội.
30. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ
hội nghị Việt Nam học lần 3.
31. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
VIV đến cách mạng tháng 8, Nxb Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội
32. Trịnh Hiếu Giang và Nguyễn An (2001), Những hiểu biết về cuộc đời,
Nam, Nxb tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
33. Lương Đình Hải (2008), Văn hóa, triết lý và triết học, Tạp chí Triết học,
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
34. Đặng Thị Thu Hà (2013), Truyện cổ Phật giáo trong kho tàng truyện cổ
số 10 (209) (17 - 23).
dân gian Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và
35. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Thành
Nhân văn, Hà Nội.
36. Nguyễn Thị Hạnh (2016), Triết lí nhân sinh của người Việt trong thần
phố Hồ Chí Minh.
thoại, truyền thuyết Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Triết học, Đại học Sư
37. Thân Thị Hạnh (2016), Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, Tạp chí
phạm Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Thuý Hằng (2015) “Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
Khoa học xã hội Việt nam số 1(98)/2016, Hà Nội.
giáo đến đời sống tinh thần cư dân đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Luận
39. Phạm Thị Thúy Hằng (2006), “Những tư tưởng triết học trong truyện kể
án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
dân gian Việt Nam”, luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Hà Nội.
161
40. Nguyễn Hùng Hậu (2005), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam,
41. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Một vài suy nghĩ triết học Việt Nam và đặc
tập 1, Nxb Thuận Hoá, Huế.
42. Đỗ Lan Hiền (2005), "Những nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn
điểm của nó, Tạp chí Triết Học, số 4(155) tháng 4.
43. Đặng Thị Thu Hiền (2009), Khảo sát nhóm truyện cổ tích thần kỳ "Người
học dân gian", Tạp chí Triết học, 6 (169), tr. 23-27.
44. Nguyễn Văn Huyên (2000), Triết lý phát triển của C.Mác, Ph.Ănghen,V.I
- Tiên" của người Việt, Đại học Sư phạm Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Huế (1999), Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích
Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, tr.9.
46. Lê Thị Huệ (2009), Tư tưởng Phật giáo trong truyện Tấm Cám, Viện
Việt Nam ,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Kiều Thu Hoạch, Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại (2012),
Khoa học xã hội Việt Nam - Viện nghiên cứu Tôn giáo, tạp chí số 4.
48. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lý xã hội (1998),
Nxb Lao Động, Hà Nội.
Đặc điểm tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ và sự tác động của chúng
đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
49. Vũ Tố Hảo và Hà Châu (2007), Tư tưởng tiến bộ - triết lý nhân sinh thực
vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
tiễn của nhân dân và vai trò của vè, truyện kể trong văn học dân gian,
50. Trần Hoàng (2013), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam , Nxb Đại học
Nxb Thời Đại, Hà Nội.
51. Du Minh Hoàng (1954) (do Trần Quang dịch), Nhân sinh quan mới, Nxb
Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, tr.39.
52. Cao Thị Hoa (2011), Triết lý nhân sinh trong da dao tục ngữ Thừa Thiên-
Sự Thật, Hà Nội.
Huế, Luận án triết học, Đại học sư phạm Huế.
162
53. Tô Duy Hợp, Giá trị bền vững của triết lý dân gian trong toàn cầu hóa ,
Bài viết tham gia hội thảo quốc tế "Toàn cầu hoá: những vấn đề triết học ở
Châu Á - Thái Bình Dương" và Viện Triết học tổ chức tại Hà Nội, tháng
54. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2012), Một vài vấn đề về văn học dân
11 – 2005
55. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn
gian, Nxb Văn Hóa dân tộc, Hà Nội.
khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học
56. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của
Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Đinh Gia Khánh (2010), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
58. Đinh Gia Khánh (2009), Công trình sơ bộ tìm những vấn đề trong truyện
xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
59. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb
cổ tích qua truyện Tấm Cám,Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn (2003), Văn học dân
Văn học, Hà Nội.
61. Nguyễn Ngọc Khá (2015), Nguyễn Huỳnh Bích Phương, Lịch sử triết học
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Vũ Khiêu (2000), Văn hoá Việt Nam xã hội và con người, Nxb Khoa học xã
trước Mác, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
63. Vũ Như Khôi (2011), Văn hóa Việt Nam - Những giá trị đặc trưng, Nxb Chính
hội, Hà Nội.
64. Nguyễn Xuân Kính (2012), Một nhận thức về văn học dân gian Việt Nam, Nxb
trị quốc gia, Hà Nội.
65. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nam; Đại học An Giang, An Giang năm 2018.
163
66. C.Mác Ph.Ăngghen (1958), Về văn học và nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội.
67. C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. Ngọc Mai (2014), Truyện cổ tích Việt Nam chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội .
71. Dương Văn Mạnh (2014), Triết lý nhân sinh trong văn hóa Việt Nam, Nxb
72. Lê Xuân Mậu (2012), Văn học dân gian, cái hay, vẻ đẹp, Nxb Lao Động,
Lý luận Chính trị, Hà Nội, tr.350-355.
73. Trần Văn Hiến Minh (1966), Từ điển và danh từ triết học, Nxb Ra khơi,
Hà Nội.
74. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Sài Gòn.
75. Hoàng Thúc Lân (chủ biên) (2017), Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca
Minh, tr.1899.
76. Vũ Tự Lập (1991), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa
dao Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
77. V.I.Lênin (1966), Bàn về văn hóa nghệ thuật, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
học xã hội, Hà Nội.
78. Nguyễn Gia Linh, Duyên Hải (2009), Triết lý nhân sinh cuộc đời, Nxb
tr.171.
79. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Sách giáo khoa Văn học 10, tập 1,
Lao Động, Hà Nội.
80. Phùng Thị An Na: Nhân sinh quan người Việt qua Folklore Việt Nam,
phần văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
81. Phạm Xuân Nam (2008), Triết lý phát triển ở Việt Nam – mấy vấn đề cốt
Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
82. La Mai Thị Nga (2015), Motip trong nghiên cứu truyện kể dân gian, lý
yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.31.
thuyết và ứng dụng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
164
83. Nguyễn Thị Nguyến (2011), Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối
với đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc
sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
84. Bùi Văn Nguyên (1991), Việt Nam truyện cổ triết lý và tính thương, Nxb
gia Hà Nội.
85. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, tập 2,
Khoa học xã hội, tr.189.
86. Đinh Đại Niên (do Dương Hoàng dịch) (1955), Nhân sinh quan cộng sản,
tr.18, 23.
87. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2012), Văn học dân gian những công trình
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
88. Lê Thị Hồng Nhung “triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam”
nghiên cứu, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
luận văn thạc sỹ triết học, đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học
89. Hoàng Phê ( chủ biên) (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.1035.
90. Nguyễn Thế Phúc, Ngô Văn Trân (2016), Triết học tôn giáo với những
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
91. Nguyễn Hằng Phương và Ngô Thanh Thúy (2014), Đề cương bài giảng
vấn đề nhân sinh quan lý luận và thực tiễn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
92. Nguyễn Tấn Phát và Bùi Mạnh Nhị (1984), Thời đại ra đời truyện cổ tích,
đại cương văn học dân gian, Nxb Đại học Thái Nguyên, tr. 47-48.
93. Lê Chí Quế, Văn học dân gian Việt Nam (1990), Nxb Đại học và Giáo dục
báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 316.
94. Hoàng Quyết (2015), Kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, Hội văn
chuyên nghiệp, Hà Nội.
95. Hồ Sĩ Quý (1998), Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý, Tạp chí Triết học
nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
số 3/1998.
165
96. Trần Đăng Sinh (chủ biên) (2009), Lịch sử triết học, Nxb Đại học Sư phạm
97. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
Hà Nội, Hà Nội.
cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, Nxb Chính trị
98. Trần Đình Sử (1977), Thời trung đại - cái tôi trong các học thuyết trong
Quốc gia, Hà Nội.
đời sống và văn học, về con người cá nhân trong văn học Việt Nam, Nxb
99. Lê Công Sự (2014), Triết học cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Bùi Hoài Sơn (2007), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu
Giáo dục, Hà Nội.
thổ Bắc Bộ từ năm 1945 đến nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn
101. Stanley Rosen (Biên dịch: Nguyễn Minh Sơn, Lưu Văn Hy, Nguyễn Đức
hóa thông tin.
102. Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng (1960), Lịch sử chế độ cộng sản nguyên
Phú) (2006), Triết lý nhân sinh, Nxb Lao Động, Hà Nội.
103. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam: Tư tưởng bình
thuỷ ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
105. Hà Văn Tấn, Giao lưu văn hoá Việt cổ, tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số
dân Việt Nam, tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
106. Nguyễn Thị Tình (2018), Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao việt
4, 1981, tr.19-20.
Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay, Luận
107. Vũ Anh Tú (2010), Tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội dân gian người
án tiến sĩ triết học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
108. Nguyễn Khắc Thuần (2006), Tiến trình văn hoá Việt Nam từ khởi thuỷ
Việt ở châu thổ Bắc bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
đến thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
166
109. Hoàng Thị Ánh Thu (2011), Một số tư tưởng biện chứng trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị- Hành chính
110. Minh Thư (2014), Thạch Sanh Lý Thông, tuyển tập truyện cổ tích Việt
Quốc gia Hồ Chí Minh.
111. Lê Huy Thực (2004), Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ, thơ ca
Nam chọn lọc, Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội.
112. Lê Huy Thực (2015), Triết lý đạo đức trong kho tàng tục ngữ, ca dao, dân
dân gian Việt Nam, Tạp chí Triết học số 2, tháng 2.
ca Việt Nam, Luận án tiến sỹ chuyên ngành Triết học, Học viện Chính trị
113. Vũ Minh Tâm (2009), “Triết lý truyền thống ở Việt Nam về vũ trụ”, Tạp
quốc gia Hồ Chí Minh.
114. Vũ Minh Tâm (2013), “Quan niệm nhân sinh của người Việt xưa”, Tạp
chí Triết học, số 1 (212), tr.48-51.
115. Vũ Anh Tuấn (2012), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo
chí Triết học (10/269), tr.22 – 27.
116. Vũ Anh Tuấn (1995), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
117. Ngô Gia Tuệ, “Triết lý nhân sinh của Đạo gia và ảnh hưởng của nó đối
dục, Hà Nội.
với lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV - XVIII”, Luận án tiến sĩ triết
118. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
119. Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy về đề về phương pháp giảng dạy và nghiên
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
120. Nguyễn Hữu Thụ, Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của
cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ (2013), Luận án tiến sĩ triết học, Đại
121. Nguyễn Thị Thọ, Trịnh Quang Dũng, Nguyễn Thanh Tú (2016), Triết lý
học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
nhân sinh trong văn hoá Việt Nam, kỷ yếu hội thảo khoa học.
167
122. Nguyễn Tất Thịnh (2011), Hành trình nhân sinh quan: Phản tỉnh trên
123. Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hoá dân gian trong di sản văn hóa dân tộc,
đường trải nghiệm, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
124. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Tạp chí di sản văn hóa, số tháng 2/2005.
125. Thích Tâm Thiện (1998), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb Thành
Nxb Trẻ, Hà Nội.
126. Lê Thị Bích Trang, Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ trong truyện
phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
127. Nguyễn Thế Trắc (2008), Mạn đàm nhân sinh, Nxb Văn hóa thông tin,
kể Ba Phi, Luận văn thạc sỹ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
128. Đỗ Bình Trị (1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
129. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân
Hà Nội.
130. Hoàng Trinh (1986), Đối thoại văn học dân gian Việt Nam, Nxb Hà Nội,
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
131. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện văn học (1999),
tr.8.
Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, Tập 1, Thần thoại truyền thuyết,
132. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội.
133. Xuân Tửu (1979), “Văn học phục vụ thiếu nhi và việc xây dựng con người
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
134. Tập thể tác giả, Khoa triết học, Đại học Sư phạm Hà Nội (2016), Triết lý
mới, cuộc sống mới”, Tạp chí Văn học số 3, tr.86-89.
135. Bằng Việt (chủ biên) (1984), Từ điển văn học, tập 2, Nxb Khoa học xã
nhân sinh trong văn hóa Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
136. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử những vùng đất, thần và tâm
hội, Hà Nội.
thức người Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, tr. 48.
168
137. Trần Quốc Vượng (1993), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
138. Trần Nguyên Việt (1984), Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng triết
139. Trần Nguyên Việt (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển, tập 1,
học Việt Nam, Hà Nội.
140. V.E.Gu-xép (V.E.Gousseb), Mỹ học trong phôn-clo (folklore), Nxb Khoa
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
141. Viện triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển, tập 2, Chính
học, Phân sở Lê-nin-grát, 1967 (bản dịch Hoàng Ngọc Hiến).
142. Thiên Ý (2013), 100 truyện cổ tích Việt Nam hay nhất, Nxb Thuận Hóa,
trị Quốc gia, Hà Nội.
143. Phạm Thu Yến (2005), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học Sư
Hà Nội.
phạm Hà Nội.