BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LƯƠNG THỊ TÚ OANH

ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT QUÁ TRÌNH NGẪU NHIÊN

ĐỂ NGHIÊN CỨU THĂNG GIÁNG LƯỢNG TỬ

TRONG CÁC BỘ NỐI PHI TUYẾN KIỂU KERR

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÍ

NGHỆ AN – 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LƯƠNG THỊ TÚ OANH

ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT QUÁ TRÌNH NGẪU NHIÊN

ĐỂ NGHIÊN CỨU THĂNG GIÁNG LƯỢNG TỬ

TRONG CÁC BỘ NỐI PHI TUYẾN KIỂU KERR

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÍ

Chuyên ngành: Quang học

Mã số: 9440110

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. Đoàn Quốc Khoa 2. PGS. TS. Chu Văn Lanh

NGHỆ AN - 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung của bản luận án này là công trình nghiên cứu

của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Đoàn Quốc Khoa và PGS.TS.

Chu Văn Lanh. Các kết quả trong luận án là trung thực và được công bố trên các

tạp chí khoa học trong nước và quốc tế.

Nghệ An, tháng 10 năm 2021

Tác giả luận án

Lương Thị Tú Oanh

ii

LỜI CẢM ƠN

Luận án được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Đoàn

Quốc Khoa và PGS.TS. Chu Văn Lanh. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân

thành nhất đến tập thể thầy giáo hướng dẫn - những người đã tận tình giúp tôi

nâng cao kiến thức và tác phong làm việc bằng tất cả sự mẫu mực của người

thầy và tinh thần trách nhiệm của người làm khoa học.

Tôi xin chân thành cảm ơn quí thầy, cô giáo Trường Đại học Vinh về

những ý kiến đóng góp khoa học bổ ích cho nội dung luận án, tạo điều kiện tốt

nhất trong thời gian tôi học tập và thực hiện nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Cao đẳng Sư phạm

Nghệ An đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc học tập và nghiên

cứu của tôi trong những năm qua.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân và bạn

bè đã quan tâm, động viên và giúp đỡ để tôi hoàn thành bản luận án này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Nghệ An, tháng 10 năm 2021

Tác giả luận án

Lương Thị Tú Oanh

iii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH DÙNG TRONG LUẬN ÁN ..... v

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ............................................................................ vi

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 5

3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................... 5

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6

5. Bố cục luận án .............................................................................................. 6

Chương 1. LÝ THUYẾT CƠ SỞ CỦA QUÁ TRÌNH NGẪU NHIÊN

VÀ MÔ HÌNH KÉO LƯỢNG TỬ PHI TUYẾN ............................................. 7

1.1. Các mô hình ngẫu nhiên của ánh sáng laser ............................................. 7

1.1.1. Thăng giáng biên độ và pha của laser đơn mode ............................... 7

1.1.2. Mô hình laser đơn mode với thăng giáng bơm................................. 10

1.1.3. Laser đa mode và ánh sáng ngẫu nhiên ............................................ 11

1.2. Lý thuyết nhiễu trắng .............................................................................. 12

1.3. Các trạng thái lượng tử hữu hạn chiều .................................................... 16

1.3.1. Trạng thái n-photon .......................................................................... 16

1.3.2. Trạng thái kết hợp hữu hạn chiều ..................................................... 17

1.3.3. Trạng thái đan rối ............................................................................. 20

1.3.4. Các trạng thái Bell ............................................................................ 23

1.3.5. Cách tính độ đan rối của một trạng thái lượng tử ............................. 24

1.4. Mô hình kéo lượng tử phi tuyến ............................................................. 27

1.4.1. Môi trường phi tuyến kiểu Kerr........................................................ 27

1.4.2. Kéo lượng tử phi tuyến dựa trên các dao động tử phi tuyến Kerr .... 31

1.5. Kết luận chương 1 ................................................................................... 35

iv

Chương 2. CÁC TRẠNG THÁI ĐAN RỐI HÌNH THÀNH TRONG

BỘ NỐI PHI TUYẾN KIỂU KERR ............................................................... 36

2.1. Bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính..................................................... 36

2.1.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính ................................ 36

2.1.2. Sự tạo ra trạng thái đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác

tuyến tính ......................................................................................... 45

2.2. Bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến ...................................................... 49

2.2.1. Bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode ............. 49

2.2.2. Bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm hai mode .............. 61

2.3. Kết luận chương 2 ................................................................................... 76

Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỄU TRẮNG ĐỐI VỚI SỰ HÌNH

THÀNH TRẠNG THÁI ĐAN RỐI CỰC ĐẠI TRONG BỘ NỐI PHI

TUYẾN KIỂU KERR ....................................................................................... 77

3.1. Trung bình của phương trình vi phân ngẫu nhiên với nhiễu trắng ......... 77

3.2. Các trạng thái có độ đan rối cực đại tạo ra trong bộ nối phi tuyến

kiểu Kerr khi trường laser được mô hình hóa bởi quá trình ngẫu nhiên ...... 78

3.2.1. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm

một mode ......................................................................................... 78

3.2.2. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm

hai mode ........................................................................................... 86

3.2.3. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm

một mode ......................................................................................... 93

3.3. Kết luận chương 3 ................................................................................. 100

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ......... 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 106

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH

DÙNG TRONG LUẬN ÁN

Từ viết tắt Nghĩa

EPR Tên các nhà vật lý Einstein - Podolsky - Rosen

NQS Kéo lượng tử phi tuyến - Nonlinear quantum scissors

vi

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN ÁN

Ký hiệu Đơn vị Nghĩa

Không thứ nguyên Ma trận Pauli 

J.s/rad

rad/s

Hằng số Planck rút gọn Tần số góc 8,8510-12 F/m Độ điện thẩm của chân không 1,2610-6 H/m Độ từ thẩm của chân không

C/m2 Độ lớn véctơ phân cực điện (vĩ mô)

Không thứ nguyên Độ cảm điện tuyến tính

Độ cảm điện phi tuyến bậc hai

Độ cảm điện phi tuyến bậc ba

m/V m2/V2 J J J  0 0 P (1) (2) (3) H H0 HI

Hamiltonian toàn phần của hệ Hamiltonian tự do của hệ Hamiltonian tương tác của hệ Hamiltonian tương tác giữa mode a với trường ngoài J

Hamiltonian tương tác giữa mode b với trường ngoài J

Hamiltonian liên kết giữa các mode J

rad/s 

rad/s α

rad/s β

Tham số mô tả độ mạnh của trường liên kết giữa hai dao động tử Tham số mô tả độ mạnh của liên kết giữa trường ngoài với mode a Tham số mô tả độ mạnh của liên kết giữa trường ngoài với mode b Tham số liên quan đến thành phần nhiễu rad/s

Hệ số phi tuyến Kerr của mode a rad/s

Hệ số phi tuyến Kerr của mode b rad/s

ebit E

Entropy đan rối Ma trận mật độ - 

Biên độ xác suất phức -

- Vết của ma trận Tr

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ

Hình 1.1: Giản đồ dẫn đến các mô hình ngẫu nhiên của laser ......................... 8 Hình 1.2: Trạng thái lượng tử của qubit ứng với các điểm trên mặt cầu Bloch. ...... 21 Hình 1.3: Mô hình chung của kéo lượng tử phi tuyến hai mode .................... 34 Hình 2.1: Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode. .......... 37 Hình 2.2: Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm hai mode. ...... 42 Hình 2.3:

Độ tin cậy của trạng thái cắt đối với bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode (đường nét liền) và hai mode rad/s, (đường chấm chấm) với hệ số phi tuyến

rad/s và các mode ban đầu ở trạng thái chân không ................ 45

Hình 2.4: Sự tiến triển của các entropy đan rối (đơn vị ebit) và

cho bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một

mode với rad/s, (đường nét liền) và hai mode

với rad/s (đường nét gạch) và rad/s,

rad/s (đường gạch chấm). ............................................... 46

Hình 2.5: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell và

đối với bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một

mode với rad/s, (đường nét liền) và hai mode với

rad/s (đường nét gạch) và rad/s,

rad/s (đường gạch chấm). .......................................................... 47

Hình 2.6: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell và

đối với bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm

một mode với rad/s, (đường nét liền) và hai

mode với rad/s (đường nét gạch) và

rad/s, rad/s (đường gạch chấm). ..................................... 48

Hình 2.7. Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell và

đối với bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm

một mode với rad/s, (đường nét liền) và hai

mode với rad/s (đường nét gạch) và

rad/s, rad/s (đường gạch chấm). ..................................... 48

viii

Hình 2.8: Độ tin cậy của trạng thái cắt trong bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm 1 mode. Trong trường hợp hệ số phi tuyến rad/s, rad/s. ........................... 53

Hình 2.9: Các xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái (đường

nét liền), (đường nét gạch), và (đường gạch

chấm) với rad/s, ( ),

( ) và ( ). ....................................................... 54

Hình 2.10: Entropy đan rối (đơn vị ebit) (đường nét liền), (đường

nét gạch) và (đường gạch chấm) với rad/s

rad/s (Hình bên rad/s,

(Hình bên trái) và phải). ................................................................................................ 56

Hình 2.11: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền), (đường nét gạch) và (đường gạch

rad/s (Hình bên trái) và

chấm) với rad/s, rad/s (Hình bên phải). ......................................... 57

Hình 2.12: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền), (đường nét gạch) và (đường gạch

rad/s (Hình bên trái) và

chấm) với rad/s, rad/s (Hình bên phải). ......................................... 58

Hình 2.13: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền), (đường nét gạch) và (đường gạch

rad/s (Hình bên trái) và

chấm) với rad/s, rad/s (Hình bên phải). ......................................... 58

Hình 2.14: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền), (đường nét gạch) và (đường gạch

rad/s (Hình bên trái) và

chấm) với rad/s, rad/s(Hình bên phải). .......................................... 59

Hình 2.15: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền), (đường nét gạch) và (đường gạch

rad/s (Hình bên trái) và

chấm) với rad/s, rad/s (Hình bên phải). ......................................... 59

ix

Hình 2.16: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền), (đường nét gạch) và (đường gạch

rad/s (Hình bên trái) và

chấm) với rad/s, rad/s (Hình bên phải).. ........................................ 60

ban đầu là (đường nét liền) và

gạch). Trong trường hợp hệ số phi tuyến

Hình 2.17: Sự tiến triển theo thời gian của 1-F tương ứng với trạng thái (đường nét rad/s, rad/s. ....... 64 các cường độ liên kết rad/s,

Hình 2.18: Các xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái (đường

nét liền), (đường nét gạch), (đường gạch chấm)

và (đường nét chấm) với rad/s và các

trạng thái đầu tương ứng là ( ), ( ),

( ) và ( )..................................................................... 66

Hình 2.19: Sự tiến triển của entropy đan rối của trạng thái cắt đối với các ) và ( trạng thái đầu là ), ), ( (

( ) với rad/s. Đường nét liền là cho

, đường nét gạch là cho rad/s và đường gạch

chấm là cho rad/s. ........................................................ 68

Hình 2.20: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

( ), ( ), ( ) và ( ) tương

ứng với các trạng thái đầu , , và với

rad/s. Đường nét liền là cho , đường nét

gạch là cho rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s. ............................................................................ 69

Hình 2.21: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

( ), ( ), ( ) và ( ) tương

ứng với các trạng thái đầu , , và với

rad/s. Đường nét liền là cho , đường nét

gạch là cho rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s. ............................................................................ 70

x

Hình 2.22: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell ( ),

( ), ( ) và ( ) tương ứng với các

trạng thái đầu , , và với

rad/s. Đường nét liền là cho , đường nét

gạch là cho rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s. ............................................................................. 71

Hình 2.23: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

( ), ( ), ( ) và ( ) tương

ứng với các trạng thái đầu , , và với

rad/s. Đường nét liền là cho , đường nét

gạch là cho rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s. ............................................................................. 72

Hình 2.24: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

1`( ), ( ), ( ) và ( ) tương

ứng với các trạng thái đầu , , và với

rad/s. Đường nét gạch là cho rad/s và

đường gạch chấm là cho rad/s. .................................... 73

Hình 2.25: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

( ), ( ), ( ) và ( ) tương

ứng với các trạng thái đầu , , và với

rad/s. Đường nét gạch là cho rad/s và

đường gạch chấm là cho rad/s. .................................... 74

và Hình 3.1: của các

rad/s. Đường nét liền ứng với ,

Sự tiến triển của các entropy đan rối trạng thái cắt với đường nét gạch ứng với rad/s và đường nét gạch

chấm ứng với rad/s. ...................................................... 81

xi

Hình 3.2: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell và

với rad/s. Đường nét liền ứng với , đường

nét gạch ứng với rad/s và đường nét gạch chấm ứng

với rad/s. ....................................................................... 82

Hình 3.3: Xác suất để hệ tồn tại trong trạng thái Bell và với

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét gạch

ứng với rad/s và đường nét gạch chấm ứng với

rad/s. ............................................................................. 83

Hình 3.4: Xác suất để hệ tồn tại trong trạng thái Bell và với

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét gạch

ứng với rad/s và đường nét gạch chấm ứng với

rad/s. ............................................................................. 83

Hình 3.5: Sự tiến triển của các entropy đan rối và của các

trạng thái cắt với rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với rad/s và đường gạch

chấm là cho rad/s. ........................................................ 88

Hình 3.6: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

với rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s.............................................................................. 90

Hình 3.7: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

với rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s. ............................................................................ 90

Hình 3.8: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

với rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s.............................................................................. 91

xii

Hình 3.9: Sự tiến triển của các entropy đan rối (đơn vị ebit) và

trong bộ nối liên kết phi tuyến được bơm một mode với , đường nét gạch rad/s. Đường nét liền ứng với

ứng với rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s........................................................................... 96

Hình 3.10: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét với

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm ứng

rad/s. ................................................................... 97 với

Hình 3.11: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét với

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm:

rad/s........................................................................... 98

Hình 3.12: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

với rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm:

rad/s........................................................................... 98

Hình 3.13: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét với

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm ứng

rad/s. ................................................................... 99 với

Hình 3.14: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét với

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm ứng

rad/s. ................................................................... 99 với

Hình 3.15: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell và

rad/s. Đường nét liền ứng với , đường nét với

gạch ứng với rad/s và đường gạch chấm ứng

rad/s. ................................................................. 100 với

1 MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Lý thuyết lượng tử mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại góp phần làm

thay đổi nền văn minh của nhân loại, bên cạnh đó vẫn tồn tại những vấn đề thuộc

về cơ sở của lý thuyết đòi hỏi sự hoàn thiện. Trong một thời gian dài, những vấn

đề này đã trở thành những thách thức lớn cho chính những nhà sáng lập ra lý

thuyết lượng tử. Ban đầu, chúng thường được phát biểu qua các “thí nghiệm

tưởng tượng” và được coi là những vấn đề mang tính triết học nhiều hơn là vật lý.

Tuy nhiên, dựa vào các phương pháp thực nghiệm phát triển như vũ bão trong

lĩnh vực quang học lượng tử, người ta đã có thể điều khiển được các hệ lượng tử

đơn độc như các nguyên tử, và nhỏ hơn nữa là các điện tử, các ion hoặc các

photon riêng biệt. Từ đó, các thí nghiệm tưởng tượng có thể thực hiện được nhằm

thẩm định những cơ sở của lý thuyết lượng tử.

Có hai vấn đề được quan tâm đặc biệt, vấn đề thứ nhất liên quan đến phép

đo, khi chúng ta thu được một đặc tính nào đó của hệ thì không thể khẳng định

được là hệ có được đặc tính này trước khi đo và đặc tính đó không phụ thuộc

vào phép đo. Vì vậy, việc đặt ra câu hỏi hệ có đặc tính nào đó trong thực tiễn mà

không phụ thuộc vào phép đo là câu hỏi không có ý nghĩa. Vấn đề thứ hai liên

quan đến tính chất kết hợp lượng tử giữa các hệ con trong một hệ toàn phần, dẫn đến

việc phép đo trên hệ này có thể tác động tức thì lên hệ kia cho dù hai hệ này cách xa

bao nhiêu, tức là lý thuyết lượng tử không phải là định xứ. Hai vấn đề này trái ngược

với trực giác thông thường đến mức được gọi là nghịch lý con mèo Schrödinger và

Einstein-Podolsky-Rosen (EPR) [1]. Chính các nghịch lý này là điểm xuất phát đưa

đến các trạng thái đan rối, nguồn tài nguyên căn bản cho tính toán lượng tử. Hướng

nghiên cứu này phát triển như vũ bão trong hai thập kỷ gần đây dẫn đến các kết quả

quan trọng không những về mặt lý thuyết để củng cố những cơ sở của lý thuyết

lượng tử mà còn có thể được triển khai trong công nghệ lượng tử với các thiết bị có

tốc độ và độ tin cậy cao.

2

Chúng ta biết rằng, kỹ thuật xử lý các trạng thái lượng tử là một trong

những vấn đề trọng tâm liên quan đến lý thuyết lượng tử, cho phép tạo ra những

trạng thái ban đầu cho các tính toán lượng tử với độ đan rối cao. Đan rối lượng

tử là tính chất phi cổ điển mạnh nhất của các hệ toàn phần bao gồm nhiều hệ

con. Vì vậy, nếu đặc tính đặc biệt này được áp dụng vào các quá trình xử lý

thông tin của hệ lượng tử thì sẽ thực hiện được những tính toán không khả thi

trong lĩnh vực thông tin cổ điển. Các tính chất phi cổ điển có thể được khám phá

bằng nhiều phương pháp khác nhau. Chúng có thể tồn tại dưới dạng các hiệu

ứng nén [2], hiệu ứng định hướng [3], phản kết chùm [4] hay đan rối lượng tử đa

phương [5, 6]. Gần đây, bằng chứng thuyết phục về sự tồn tại của các tính chất

phi cổ điển bậc cao trong một số hệ lượng tử cũng đã được đưa ra [7]. Trong

thực tế, trạng thái nén có thể được sử dụng để viễn tải lượng tử của trạng thái kết

hợp hay mã hóa lượng tử với biến liên tục [8], ứng dụng trạng thái phản kết

chùm để xây dựng các nguồn photon đơn lẻ [9], đan rối lượng tử có vai trò rất

quan trọng trong thực hiện mã hóa lượng tử, viễn tải lượng tử, hay phân bổ khóa

lượng tử [10, 11]. Trong vài thập kỷ qua, các nhà khoa học đã có mối quan tâm

đặc biệt trong việc nghiên cứu khả năng tạo ra những trạng thái phi cổ điển

trong các hệ lượng tử, đặc biệt là các thăng giáng lượng tử được hình thành

trong các hệ có hai hoặc nhiều hơn các hệ con.

Với những vấn đề được đề cập ở trên, các nhà khoa học đã tập trung nghiên

cứu cài đặt khả năng tạo ra các tương quan lượng tử trong một số hệ lượng tử, đặc

biệt trong các hệ với các thành phần phi tuyến kiểu Kerr. Các mô hình dao động

tử kiểu Kerr đã và đang được ứng dụng rất rộng rãi trong quang học lượng tử như

mô hình của trạng thái chuyển động của các bẫy ion [12], sự chồng chất các trạng

thái kết hợp [13, 14] hay sự vi phạm bất đẳng thức Bell [15]. Các mô hình này

cũng đã được ứng dụng trong cộng hưởng nano và hệ kính hiển vi quang học

[16], hay ngưng tụ Bose-Einstein [17]. Ngoài ra, mô hình lượng tử kiểu Kerr còn

là đối tượng của những công trình liên quan đến sự hỗn loạn lượng tử [18].

3

Như đã đề cập ở trên, công nghệ xử lý trạng thái lượng tử cho phép tạo ra

các trạng thái có đặc tính thú vị như đan rối lượng tử. Các hệ vật lý bao gồm ít

nhất hai hệ con riêng biệt đặc trưng bởi độ cảm điện bậc ba (hệ số phi tuyến Kerr)

chính là những hệ cho phép tạo ra các trạng thái lượng tử đặc biệt đó. Tất nhiên,

các hệ nhiều thành phần đó có thể được xây dựng dựa trên nhiều tình huống vật lý

và được gọi là các bộ nối phi tuyến kiểu Kerr, với tiến triển của hệ được điều

khiển bởi các Hamiltonian tường minh tương tự các Hamiltonian mô tả các bộ nối

Kerr quang học đặc trưng bởi độ cảm phi tuyến bậc ba. Leoński và các cộng sự đã

chỉ ra rằng bộ nối phi tuyến gồm hai dao động tử phi tuyến kiểu Kerr có thể xem

như cái kéo lượng tử phi tuyến [19]. Sau khi tiến hành "cắt" không gian các trạng

thái của hệ, thường là vô hạn chiều, thành không gian hữu hạn chiều, bài toán sẽ

trở nên đơn giản hơn rất nhiều lại có ứng dụng trực tiếp trong các tính toán lượng

tử. Mặt khác, bộ nối này có thể được xem như hệ lượng tử, mô tả sự chồng chập

của hai hay ba trạng thái lượng tử trực giao với nhau, được biểu diễn trong không

gian Hilbert hai chiều hay ba chiều tương ứng được gọi là hệ hai qubit [20, 21],

hay hệ 2-qutrit [22] hoặc mô hình qubit-qutrit [23]. Trong những hệ này, các trạng

thái đan rối được tạo ra, đặc biệt là các trạng thái có độ đan rối cực đại (các trạng

thái kiểu Bell). Mô hình đan rối hai mode magnon qua hiệu ứng phi tuyến Kerr

khi hệ được điều khiển từ trạng thái cân bằng được mô tả [24]. Sự tạo ra các trạng

thái đan rối cực đại được tăng cường bởi các xung ngoài nhiễu loạn kích thích vào

hệ hai dao động tử đồng nhất không điều hòa liên kết tuyến tính cũng được

nghiên cứu [25]. Sự tăng cường đan rối bởi phi tuyến Kerr bằng cách sử dụng tính

không đẳng hướng của từ trường tinh thể cũng được thảo luận [26]. Hơn nữa,

trong các mô hình kéo lượng tử phi tuyến, chúng ta quan sát được hiệu ứng chắn

photon. Chắn photon có thể được quan sát rõ ràng nhất ở sự kết nối mạnh của

nguyên tử và trường trong các hệ cộng hưởng [27] hoặc trong các hệ cộng hưởng

qubit - phi tuyến [28]. Hiệu ứng chắn photon còn xuất hiện ở mô hình phi tuyến

kiểu Kerr mô tả các bộ cộng hưởng nano [29- 31].

4

Ở nước ta, nhóm tác giả Q. Ho Quang và cộng sự đã nghiên cứu về giao

thoa kế Mach-Zehnder sợi quang phi tuyến [32]. Giao thoa kế này sử dụng bộ

liên kết phi tuyến gồm một sợi quang tuyến tính và một sợi quang phi tuyến,

nhằm làm giảm đi các mối nối, đồng bộ trong cấu hình và nâng cao hiệu suất,

mà vẫn không làm ảnh hưởng đến chức năng của bộ liên kết. Ngoài ra, còn sử

dụng bộ liên kết phi tuyến để phân loại dãy xung [33], trong đó sự phụ thuộc của

hệ số truyền công suất đối với bộ liên kết phi tuyến vào cường độ ra đã được

khảo sát. Nhóm của tác giả A. Nguyen Ba và các cộng sự đã có nhiều công trình

nghiên cứu về các trạng thái phi cổ điển, viễn tải lượng tử và tính chất phản kết

chùm. Trong đó, đã nghiên cứu trạng thái nén đối với các chuẩn hạt exciton

[34], biexiton [35], trạng thái kết hợp bộ ba [36], nén tổng [37] và nén hiệu [38]

trong trường đa mode, rối lượng tử của photon hai mode [39], trạng thái đan rối

đa mode kiểu nhóm [40]. Viễn tải lượng tử đối với trạng thái đan rối là trạng

thái nén dịch chuyển thêm photon hai mode [41], đồng viễn tải trạng thái [42] đã

được khảo sát. Tính chất phản kết chùm bậc cao [43].

Thế giới tự nhiên vi mô vô cùng phức tạp, vì vậy ta không thể nghiên cứu

một cách trực tiếp mà phải mô hình hóa nó bởi các quá trình ngẫu nhiên cổ điển

phụ thuộc thời gian. Hầu hết các mô hình ngẫu nhiên hiện tại, laser có một đặc

điểm chung là một quá trình ngẫu nhiên dừng Gauss với thời gian tương quan

hữu hạn. Việc lấy trung bình giải tích chính xác của các phương trình ngẫu

nhiên dừng Gauss này là rất khó và chỉ trường hợp đơn giản của nhiễu trắng là

thực hiện được [44], còn trong hầu hết các trường hợp các phương trình này

được lấy trung bình bởi các phương pháp gần đúng khác nhau như phương pháp

nhiễu tiền Gauss [45-48]. Những năm gần đây, sự ảnh hưởng của nhiễu trường

laser đến các hiệu ứng tự ion hóa và trong suốt cảm ứng điện từ đã được tập

trung nghiên cứu [49-52]. Những hiện tượng này bắt nguồn từ sự giao thoa

lượng tử, đây là một trong những vấn đề mang tính thời sự cao và có những ứng

dụng tiềm tàng cho các công nghệ lượng tử mới.

5

Các công trình nghiên cứu về bộ nối phi tuyến kiểu Kerr được đề cập ở trên

hầu hết chỉ được khảo sát cho một điều kiện đầu đối với các phương trình vi phân

chuyển động của các biên độ xác suất và trường laser được giả thiết là đơn sắc. Để

thu được các kết quả toàn diện hơn cần khảo sát bài toán cho hầu hết các điều kiện

đầu khác nhau của các phương trình chuyển động được đề cập. Hơn nữa, ánh sáng

laser thực không bao giờ đơn sắc một cách lý tưởng mà luôn có sự thăng giáng

về biên độ và pha. Vì vậy, cần phải nghiên cứu ảnh hưởng của độ rộng phổ laser

đến các thăng giáng lượng tử được hình thành trong các hệ bao gồm hai hệ con,

nhằm phân tích tính khả thi của việc tạo ra các trạng thái có độ đan rối cực đại.

Đây là những vấn đề được quan tâm nhiều do những ý nghĩa lý thuyết và thực

nghiệm lớn lao. Tuy nhiên, những vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu một

cách đầy đủ. Với tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chọn “Ứng

dụng lý thuyết quá trình ngẫu nhiên để nghiên cứu thăng giáng lượng tử trong

các bộ nối phi tuyến kiểu Kerr” làm đề tài nghiên cứu của mình. Những nghiên

cứu này là gần với các trạng thái vật lí thực, nghiên cứu ảnh hưởng của độ rộng

phổ laser lên các vấn đề được xem xét, tạo thêm những khả năng mới để điều

khiển chúng.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu khả năng tạo ra các trạng thái đan rối trong bộ nối phi tuyến

kiểu Kerr liên kết tuyến tính hoặc phi tuyến với nhau và được bơm một mode

hay hai mode bởi trường ngoài với các điều kiện đầu khác nhau của các mode

trong trường hợp trường ngoài không có nhiễu hoặc có nhiễu trắng.

3. Nội dung nghiên cứu

Tìm các biên độ xác suất cho trường hợp các điều kiện đầu khác nhau đối

với bộ nối phi tuyến kiểu Kerr tương tác tuyến tính hoặc phi tuyến với nhau và

được bơm một mode hay hai mode khi trường liên kết là đơn sắc hay được mô

hình hóa bởi quá trình ngẫu nhiên.

Khảo sát khả năng tạo ra các trạng thái đan rối trong bộ nối phi tuyến khi

trường liên kết là đơn sắc hay được mô hình hóa bởi quá trình ngẫu nhiên.

6

4. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp kéo lượng tử để cắt không gian các trạng thái của

hệ, thường là vô hạn chiều, thành không gian hữu hạn chiều.

Sử dụng phương pháp nhiễu trắng để tìm biểu thức giải tích chính xác của

các biên độ xác suất và các trạng thái kiểu Bell.

5. Bố cục luận án

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận chung, luận án được trình bày trong 3 chương.

Chương 1. Lý thuyết cơ sở của quá trình ngẫu nhiên và mô hình kéo

lượng tử phi tuyến

Trong chương này, chúng tôi trình bày lý thuyết cơ sở của quá trình ngẫu

nhiên như các mô hình ngẫu nhiên của ánh sáng laser, lý thuyết nhiễu trắng.

Trình bày các trạng thái lượng tử hữu hạn chiều và mô hình kéo lượng tử phi

tuyến để tạo ra tổ hợp các trạng thái cắt từ các trạng thái vô hạn chiều trong

không gian Hilbert.

Chương 2. Các trạng thái đan rối hình thành trong bộ nối phi tuyến

kiểu Kerr

Trong chương này, chúng tôi giới thiệu mô hình, nguyên lý hoạt động và

ứng dụng của bộ nối phi tuyến kiểu Kerr. Chúng tôi dẫn ra được hệ phương trình

chuyển động cho các biên độ xác suất, sau đó từ các điều kiện đầu để tìm

nghiệm cho các trường hợp bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính hoặc phi tuyến

được bơm một mode và hai mode. Từ đó, chúng tôi khảo sát xác suất tìm thấy

hệ ở các trạng thái đan rối và trạng thái kiểu Bell với các tham số khác nhau.

Chương 3. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành trạng

thái đan rối cực đại trong bộ nối phi tuyến kiểu Kerr

Trong chương này, chúng tôi dẫn ra nghiệm giải tích của các biên độ xác

suất khi trường liên kết được mô hình hóa bởi nhiễu trắng. Từ đó, chúng tôi

khảo sát sự thay đổi xác suất tìm thấy hệ ở các trạng thái kiểu Bell khi tham số

liên quan đến thành phần nhiễu thay đổi.

7 Chương 1

LÝ THUYẾT CƠ SỞ CỦA QUÁ TRÌNH NGẪU NHIÊN

VÀ MÔ HÌNH KÉO LƯỢNG TỬ PHI TUYẾN

Trong ngành quang học, laser có vai trò rất quan trọng mang tính ứng dụng

hàng đầu trong kỹ thuật và đời sống. Sở dĩ laser được ứng dụng rộng rãi trong rất

nhiều lĩnh vực của đời sống là bởi nó có nhiều tính năng ưu việt như tính kết hợp

cao, tính đơn sắc, cường độ lớn. Tuy nhiên, trong các thí nghiệm, laser thực không

bao giờ là đơn sắc hoàn toàn như nó thường được giả định trong các mô hình lý

thuyết mà có dao động cả về biên độ và pha. Những biến động lượng tử này là đối

tượng của cả nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của cộng đồng các nhà vật lý

trên thế giới vì chúng có những ứng dụng tiềm năng cho công nghệ lượng tử, đặc

biệt là công nghệ thông tin lượng tử. Nếu nghiên cứu trong khuôn khổ lý thuyết

lượng tử tính toán sẽ phức tạp. Vì vậy, các trường laser thường được mô hình hóa

bởi quá trình ngẫu nhiên. Việc lấy trung bình một cách chính xác các phương trình

ngẫu nhiên với xung Gauss có thời gian tương quan hữu hạn là rất khó. Trong thực

tế chỉ có trường hợp đặc biệt của nhiễu trắng là được nghiên cứu đầy đủ. Trong

trường hợp này việc mô hình hóa trường laser bằng quá trình ngẫu nhiên đã cho ta

nhiều kết quả thú vị. Tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét các trạng thái lượng tử hữu

hạn chiều, chúng là nguồn tài nguyên của máy tính lượng tử và viễn tải lượng tử.

Việc xử lý và viễn tải thông tin là một hiện tượng phi cổ điển do tính không định

xứ của đan rối lượng tử. Với khát vọng tạo ra máy tính lượng tử và viễn tải lượng

tử, việc sử dụng mô hình kéo lượng tử để tạo ra các trạng thái có độ đan rối cao là

rất cần thiết và có ý nghĩa nền tảng.

1.1. Các mô hình ngẫu nhiên của ánh sáng laser

1.1.1. Thăng giáng biên độ và pha của laser đơn mode

Biên độ trường bức xạ của laser đơn mode có dạng như sau:

8

, (1.1)

trong đó và các quá trình ngẫu nhiên và độc lập với nhau.

Lý thuyết mô tả độ rộng phổ đồng nhất được trình bày trong Hình 1.1. Giả

sử tập hợp các toán tử được mô tả bởi hệ trong khuôn khổ lí

thuyết lượng tử. Chẳng hạn, và tương ứng là toán tử hủy và toán tử sinh

photon trong trường bức xạ đơn mode hay mô hình của nguyên tử

hai mức trong môi trường hoạt tính với và là tổ hợp của các

ma trận Pauli. Chúng ta đưa vào tập hợp các toán tử để mô tả bể

nhiệt, trong trường hợp bức xạ nhiệt có thể là các toán tử hủy hay toán tử sinh

của các lượng tử trường có năng lượng . Lúc đó, phương trình Heisenberg

mô tả sự tiến triển của hệ là phương trình tuyến tính đối với các biến và .

Chúng ta có thể bỏ qua khi Hamiltonian tương tác chỉ chứa các số hạng

lưỡng tuyến tính. Lúc đó, các phương trình tìm được chỉ chứa các toán tử

được viết dưới dạng [53]:

Bơm

Các nguyên tử của

môi trường hoạt tính

Các thăng giáng chân không (phát xạ tự phát)

, +, z

Các phonon hoặc các nguyên tử va chạm nhau

CÁC HỆ (A) CÁC BỂ NHIỆT (B)

Các thành của buồng cộng hưởng, dao

Các trường bức xạ b, b+

động của các gương, bức xạ nhiệt.

Tương tác nguyên tử + trường

Hình 1.1: Giản đồ dẫn đến các mô hình ngẫu nhiên của laser

9

, (1.2)

là lực tương tác và lực ngẫu nhiên của hệ. Mặc dù không biết trong đó fi và

trước được giá trị cụ thể của các toán tử , tuy nhiên từ các tính chất cho

trước của hệ bể nhiệt ta có thể tìm được các tính chất thống kê của chúng và từ

đó suy ra các tính chất thống kê của các lực , nhưng nói chung không thực

hiện được việc phân tích chính xác các tính chất này. Tuy nhiên, so với tất cả

các thời gian đặc trưng khác của hệ thì thời gian tương quan thực của các hàm

thường nhỏ hơn do đó hàm tương quan hai thời gian đối với các lực này có

thể được giả thiết có dạng như sau [53]:

, (1.3)

ở đây bik là tham số liên quan đến thành phần ngẫu nhiên.

Pha và biên độ của các phương trình kiểu Langevin sẽ độc lập với nhau

khi tuyến tính hóa lời giải dừng:

(1.4)

trong đó,  là hệ số tắt dần, là các nhiễu trắng độc lập với nhau. Khi và

đó các tính chất của các quá trình Gauss, tức là quá trình ngẫu nhiên sao cho mọi

tập hợp hữu hạn của các biến ngẫu nhiên có phân bố chuẩn đa biến, có dạng:

(1.5)

trong đó, b0 và c0 lần lượt là các tham số liên quan đến thành phần ngẫu nhiên của

. Ta dễ dàng thấy rằng quá trình Orstein-Uhlenbeck [54], quá trình và

Gauss-Markov dừng, của phương trình (1.4) là đạo hàm của pha và biên độ, chúng

là các quá trình Gauss có giá trị trung bình không đổi với hàm tương

quan được viết dưới dạng:

10

. (1.6)

Từ tính chất Gauss của và hàm tương quan (1.6), ta thấy rằng quá trình

Orstein-Uhlenbeck là một quá trình Markov [55], tức là một quá trình ngẫu

nhiên trong đó giá trị hiện tại của một biến chỉ liên quan đến việc dự đoán giá trị

tương lai mà không liên quan đến số liệu quá khứ của biến đó. Trong các mô

hình khuếch tán pha [55], sự thăng giáng của biên độ rất nhỏ so với sự thăng

giáng pha nên người ta có thể bỏ qua đối với mô tả các mode laser.

Trên đây chúng tôi đã trình bày hình thức luận dẫn đến sự mở rộng đồng

nhất của laser. Khi tính đến cả sự mở rộng không đồng nhất thì cần phải lấy

trung bình các kết quả cuối cùng theo phân bố thống kê của tham số tương ứng

trong các phương trình động lực học liên quan đến tính không đồng nhất của

môi trường hoạt tính.

1.1.2. Mô hình laser đơn mode với thăng giáng bơm

Short, Kaminishi và các cộng sự [56, 57] đã chỉ ra rằng trong thực

nghiệm, các hiện tượng thăng giáng đối với laser màu đơn mode có đặc tính

khác rõ ràng so với những tiên đoán bằng lý thuyết truyền thống [53, 58]. Các

kết quả thực nghiệm đã được Kaminishi và các cộng sự [57] sử dụng lý thuyết

Haken để mô tả. Phương trình đối với biên độ phức của trường trong lý thuyết

Haken có thể được viết dưới dạng [59]:

, (1.7)

trong đó tương ứng là tham số bơm và tham số bão hòa của môi và

trường hoạt tính gây ra sự hoạt động ổn định trên ngưỡng và là nhiễu trắng

mô tả các thăng giáng chân không hay phát xạ tự phát (Hình 1.1). Tuy nhiên,

Kaminishi và các cộng sự [57] đã chỉ ra rằng phương trình (1.7) không phù hợp

để giải thích các kết quả thực nghiệm. Lần đầu tiên các nhà khoa học đã chỉ ra

rằng các thăng giáng bơm có thể đóng vai trò quan trọng. Từ ý tưởng này

11 Graham và cộng sự [60] đã giải thích tốt các kết quả thực nghiệm trong [57]

bằng cách giả thiết rằng tham số bơm là nhiễu trắng đồng thời bỏ qua trong (1.7).

Tuy nhiên, theo Short và các cộng sự [56] lý thuyết này vẫn chưa mô tả

tốt một số kết quả thực nghiệm nên họ đã thay nhiễu trắng bằng nhiễu màu, vì

thời gian hồi phục của nhiễu bơm có thể không đủ nhỏ khi so với các thời gian

đặc trưng khác của hệ laser màu. Tuy nhiên khi đó phương trình:

, (1.8)

không thể tìm được nghiệm giải tích mà chỉ được giải lặp trên máy tính bởi

Dixit và Sahni [61] và thu được các kết quả phù hợp với thí nghiệm của Short và

cộng sự.

1.1.3. Laser đa mode và ánh sáng ngẫu nhiên

Biên độ phức của trường bức xạ đối với laser đa mode có dạng [62]:

, (1.9)

trong đó là số mode, là các biên độ không đổi của mode m, là các tần

số tương đối tính từ tần số trung bình và là các pha ngẫu nhiên độc lập với

nhau. Khi các pha này được phân bố đồng đều trong đoạn thì từ các tính

chất của pha ta có:

(1.10)

Phiếm hàm đặc trưng của quá trình [27] có dạng sau:

, (1.11)

trong đó là hàm Bessel bậc không [63], là một hàm bất kỳ và

trong khi biên độ của chúng lại . Giả thiết rằng số mode

12

tiến đến 0, lúc đó cường độ trung bình:

, (1.12)

là hằng số. Ta sẽ có tiệm cận [64]:

, (1.13)

và khi biên độ , ta thu được kết quả sau:

. (1.14)

Để tính được hàm tương quan khi không biết được dạng

tường minh của nó, cần phải biết sự liên hệ giữa và . Do đó, hàm tương

quan thường được giả thiết dưới dạng [65]:

. (1.15)

Khi đó ta có thể kết luận rằng ở giới hạn vô cùng của số mode, ánh sáng laser

mode có tính chất thống kê tương tự quá trình bức xạ nhiệt.

1.2. Lý thuyết nhiễu trắng

Xét tổng có dạng như sau:

, (1.16)

trong đó mỗi (k = 1, 2,... n) là một nhiễu điện tín độc lập. Dễ nhận thấy

rằng hàm đặc trưng cho quá trình (1.16) sẽ được thừa số hóa, nghĩa là .

Khi đó, ta có thể viết phương trình vi tích phân cho phiếm hàm đặc trưng của

nhiễu điện tín [66] như sau:

, (1.17)

là thời gian tương quan. Khi

là hằng số cho trước, với , ta thu được

, do đó ,

13

(1.18)

.

Nghiệm của phương trình (1.18) có dạng:

, (1.19)

trong đó

. (1.20)

Nếu quá trình có phiếm hàm đặc trưng dạng (1.19) là một quá trình Gauss

thì quá trình (1.16) hội tụ về quá trình Gauss. Xét trường hợp giới hạn, xuất phát

từ các đặc tính Markov và tính chất dừng của nhiễu điện tín, ta có thể kết luận

rằng quá trình này cũng là quá trình Markov dừng. Theo định lý Doob, quá trình

(1.16) gọi là nhiễu tiền Gauss vì nó chính là quá trình Ornstein-Uhlenbeck [54].

Trường hợp khi thời gian tương quan

thì nhiễu Gauss trong biểu thức (1.19) sẽ trở thành nhiễu trắng. Như vậy, nhiễu trắng là nhiễu Gauss với

thời gian tương quan bằng không. Nhiễu trắng có tính chất sau:

. (1.21)

Bây giờ, ta sẽ xem xét trường hợp tuyến tính đơn giản nhất có dạng như sau:

, (1.22)

ở đây là một véctơ,

không thể giải được bằng giải tích khi các hàm bất kỳ phụ thuộc thời gian

là quá trình Ornstein-Uhlenbeck. Phương trình (1.22) và không thỏa mãn các quy tắc giao hoán. Để khắc phục vấn đề này, ta sẽ sử

dụng phương pháp đại số Lie. Một thủ tục gần đúng đối xứng được biểu diễn

theo phương pháp cumulant đã được phát triển bởi Fox [67]. Qua khai triển, ta

thu được giá trị trung bình của phương trình vi phân sau:

, (1.23)

trong đó mỗi số hạng cumulant (i = 1, 2,...) có bậc . Khai triển (1.23)

theo một số hữu hạn các số hạng có ưu điểm là không cần những giả thiết giới

14

hạn của quá trình . Ở đây, điều kiện chỉ là tồn tại thời gian tương quan nhỏ,

tuy nhiên phương pháp này có phạm vi ứng dụng rất hạn chế. Vì vậy, ta có thể

vi phân thường nếu giả sử

chuyển bài toán trung bình bất kỳ thành hệ ma trận vô hạn của các phương trình là quá trình Markov [68], khi đó các phương trình có thể giải bằng phương pháp phân số chuỗi. Dạng nghiệm của phương

trình cho đại lượng trung bình có dạng sau:

, (1.24)

trong đó biến đổi Laplace của phần chính có dạng ma trận phân số chuỗi.

Chẳng hạn, ta xét quá trình Ornstein-Uhlenbeck [54]:

. (1.25)

Khi đó, quá trình điện tín thỏa mãn phương trình vi phân có dạng như sau:

, (1.26)

ở đây là hàm phụ thuộc thời gian bất kỳ của . Áp dụng đẳng thức này

nhiều lần cho phương trình sau:

, (1.27)

sử dụng đồng thời các tính chất của quá trình điện tín ,

trong đó , ta nhận được hệ thức truy hồi có dạng:

, (1.28)

với và:

. (1.29)

Nghiệm của phương trình (1.22) là véctơ với:

15

. (1.30)

Có thể thấy rằng các công thức (1.25) và (1.30) khác nhau các thừa số

dạng nhưng giữa hai kết quả có sự tương đồng với nhau. Khi các

thừa số này sẽ xấp xỉ phần tử đơn vị và lúc đó nhiễu tiền Gauss sẽ hội tụ đến quá

trình Ornstein-Uhlenbeck. Từ đó, ta thấy rằng chỉ cần một vài số hạng đầu tiên

của phân số chuỗi cũng đủ để nó hội tụ nhanh đến quá trình Ornstein-

Uhlenbeck. Vì vậy, đối với bài toán tuyến tính này, quá trình chỉ cần một vài

nhiễu điện tín cũng có thể gần đúng rất tốt với quá trình Ornstein-Uhlenbeck.

Áp dụng quá trình (1.30) đối với nhiễu một điện tín, ta thu được:

. (1.31)

Thực hiện biến đổi Laplace cả hai vế của phương trình (1.24), ta thu được kết quả:

(1.32)

Từ đó tìm được:

. (1.33)

Sử dụng tính chất (1.21), khi thời gian tương quan thì nhiễu điện tín sẽ trở

thành nhiễu trắng và với , ta tìm được:

. (1.34)

Khi đó, ta sẽ tìm được kết quả rất quan trọng trong lý thuyết của quá trình ngẫu

nhiên có dạng như sau:

. (1.35)

Ta tổng quát hóa phương trình (1.22) cho quá trình ngẫu nhiên phức và thu được

16

phương trình:

, (1.36)

, , ở đây là các ma trận hằng. Theo công trình [66], ta tìm được

phương trình trung bình có dạng sau:

, (1.37)

trong đó, a0 là tham số liên quan đến thành phần nhiễu.

1.3. Các trạng thái lượng tử hữu hạn chiều

1.3.1. Trạng thái n-photon

Các trạng thái hữu hạn chiều sẽ được mô tả bắt đầu từ trường hợp đơn

giản nhất của các trạng thái Fock n-photon của trường điện từ. Những trạng thái

này có dạng toán học giống các trạng thái mô tả dao động tử điều hòa lượng tử.

Chúng đã được nghiên cứu mở rộng trong các tài liệu [69, 70] và được mô tả

như các trạng thái riêng của toán tử số photon được định nghĩa bằng các toán

tử sinh và hủy photon (là các hạt boson) lần lượt là và

, (1.38)

và có thể được biểu diễn như sau:

. (1.39)

Các toán tử và tác dụng lên các trạng thái Fock n-photon như

sau:

(1.40)

Vì thế, bằng cách tác dụng lần lượt toán tử sinh lên trạng thái chân không

, ta có thể thu được trạng thái được biểu diễn bởi công thức có dạng sau:

. (1.41)

17

Trạng thái Fock đa mode có thể được định nghĩa bằng cách sử dụng các

toán tử riêng tương ứng với các mode khác nhau của trường. Chẳng hạn, các

biểu thức của các toán tử hủy và sinh tương ứng là và được định nghĩa

cho mode thứ k tác dụng lên các trạng thái l-mode có dạng sau [69, 70]:

(1.42)

ở đây trạng thái l-mode có thể được kí hiệu:

, (1.43)

hay

, (1.44)

trong đó kí hiệu tập hợp số photon trong mỗi mode.

Khi đó, biểu thức của trạng thái chân không đa mode có thể được trình

bày lại dưới dạng:

, (1.45)

trong khi từ trạng thái chân không tương ứng, ta có thể thu được mỗi trạng thái

l-mode ứng với số photon đã cho trong mỗi mode:

. (1.46)

1.3.2. Trạng thái kết hợp hữu hạn chiều

Ánh sáng kết hợp có thể được xem là ranh giới giữa ánh sáng cổ điển và

phi cổ điển bởi vì trạng thái kết hợp tuy là trạng thái cổ điển nhưng các tính chất

của nó đều nằm ở giới hạn cuối cùng còn có thể chấp nhận được theo quan điểm

cổ điển. Chúng có thể được định nghĩa như trạng thái riêng của toán tử hủy

photon

, (1.47)

ở đây p là số phức liên quan với cường độ trường cổ điển. Chẳng hạn, giá trị

18

bằng số photon trung bình trong điện trường được mô tả bởi các trạng thái

.

Trong cơ sở các trạng thái Fock, trạng thái kết hợp có thể được biểu diễn

dưới dạng sau [71, 72]:

, (1.48)

khi đó, xác suất quan sát n photon được biểu diễn bởi biểu thức:

. (1.49)

Phân bố xác suất này chính là phân bố Poisson cho trường hợp . Các

trạng thái kết hợp nói chung là không trực giao với nhau, có nghĩa là:

, (1.50)

tuy nhiên từ biểu thức (1.50), chúng ta thấy rằng với những giá trị lớn của

thì những trạng thái này gần như trực giao với nhau.

Trạng thái kết hợp có thể được mô tả tương tự sự dịch chuyển của trạng

thái chân không do sự thăng giáng của chúng tương tự nhau. Tính chất này đã

được ứng dụng trong định nghĩa trạng thái kết hợp của Glauber [72] và được

biểu diễn bởi công thức có dạng như sau:

, (1.51)

trong đó toán tử dịch chuyển được biểu diễn dưới dạng:

. (1.52)

Theo cách đó, các nhà khoa học đã đề xuất một định nghĩa tương tự của Glauber

để xây dựng các trạng thái kết hợp hữu hạn chiều, nhưng họ đã sử dụng định

nghĩa các toán tử sinh và hủy trong không gian Hilbert hữu hạn chiều [73, 74].

Theo Buzek và các cộng sự [73], trong không gian Hilbert s chiều, các toán tử

19

sinh và hủy có thể được biểu diễn lại theo các toán tử chiếu dưới dạng:

(1.53)

trong đó trạng thái số được định nghĩa cho dao động tử điều hòa trong không

gian s + 1 chiều và tuân theo các hệ thức sau:

(1.54)

và các toán tử và tác dụng vào các trạng thái n-photon được xác định bởi

các quan hệ sau:

(1.55)

Cần lưu ý rằng quan hệ giao hoán cho các toán tử được xác định như vậy có dạng:

(1.56)

trong khi toán tử số được cho bởi công thức sau:

. (1.57)

Theo Buzek và các cộng sự [73], các chỉ số được sử dụng trong tổng của các

định nghĩa trên có giá trị thay đổi từ một chứ không phải từ không.

Ngoài ra, áp dụng sự mở rộng trạng thái kết hợp trong một cơ sở trạng

thái số, Kuang và cộng sự [75] đã định nghĩa các trạng thái kết hợp tương tự như

phương trình (1.48), nhưng với giới hạn trên của tổng hữu hạn có dạng:

, (1.58)

ở đây hệ số chuẩn hóa có thể được biểu diễn bởi đa thức Laguerre suy rộng

như sau:

20

. (1.59)

Sự định nghĩa như vậy tương đương với trường hợp trong đó trạng thái

được tạo ra do kết quả của sự tác dụng toán tử vào trạng thái chân không .

Các trạng thái này thường được gọi là các trạng thái kết hợp cắt.

1.3.3. Trạng thái đan rối

1.3.3.1. Khái niệm qubit

Ngày nay, thông tin được lưu trữ, tính toán và xử lý thông qua các bit,

trong đó mỗi bit chỉ có thể tồn tại ở trạng thái 0 hoặc 1. Tuy nhiên, trong thời đại

ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của

công nghệ cao đặt ra yêu cầu lượng thông tin lưu trữ và tốc độ xử lý ngày càng

tăng lên nhưng kích thước của các vi mạch ngày càng nhỏ lại. Công nghệ vi

mạch tiến tới các giới hạn mà vật lý cho phép. Để vượt qua khó khăn này, lý

thuyết thông tin lượng tử đã ra đời. Thuật ngữ qubit hay bit lượng tử, một đơn vị

của thông tin lượng tử, là một hệ lượng tử hai trạng thái được biểu diễn trong

không gian Hilbert hai chiều, do Benjamin Schumacher đề xuất lần đầu tiên vào

năm 1993, có dạng như sau [76]:

, (1.60)

ở đây các số phức và thỏa mãn điều kiện chuẩn hóa , hai trạng

thái và lập thành một hệ cơ sở trực chuẩn. Lúc đó, chúng ta có thể biểu

diễn các trạng thái này trong không gian Hilbert hai chiều dưới dạng ma trận:

, . (1.61)

Từ đó, trạng thái của một qubit được tham số hóa có thể được viết dưới dạng:

= . (1.62)

21 Nó có thể biểu diễn bằng một điểm trên mặt cầu Bloch (Hình 1.2) tương ứng với

mỗi cặp giá trị của các tham số thực và ( và biến đổi từ 0 đến 2π). Kết

quả là có vô số các tổ hợp tuyến tính của hai trạng thái và trên mặt cầu.

Như vậy, về lý thuyết qubit có thể lưu trữ được một lượng thông tin vô cùng lớn.

Hơn nữa, việc xử lý các bit trong một vi mạch của máy tính cổ điển được tiến

hành trong các nhánh một cách song song với nhau. Trong khi, trong mạch logic

của máy tính lượng tử, nếu các qubit rối với nhau trong cùng một trạng thái thì

trạng thái của một qubit thay đổi sẽ làm trạng thái của các qubit khác thay đổi

ngay lập tức. Điều này khẳng định rằng máy tính lượng tử có tốc độ xử lý thông

tin nhanh hơn rất nhiều so với máy tính cổ điển.

Hình 1.2: Trạng thái lượng tử của qubit ứng với các điểm trên mặt cầu Bloch

Ví dụ điển hình là để giải bài toán phân tích ra thừa số nguyên tố của một

số nguyên dài hàng trăm chữ số, bằng siêu máy tính truyền thống hiện nay thì

mất khoảng 14 tỷ năm, nhưng nếu sử dụng máy tính lượng tử thì bài toán này

chỉ thực hiện trong khoảng vài giây [77]. Do đó, trong tương lai gần một cuộc

cách mạng thực sự về công nghệ thông tin sẽ xuất hiện, khi máy tính lượng tử

được tạo ra bởi nguồn tài nguyên là các qubit.

Tuy nhiên, vấn đề khó khăn đặt ra là có bao nhiêu thông tin được biểu

22 diễn bằng một qubit và bằng cách nào để thao tác trên các qubit. Về nguyên tắc,

do mặt cầu Bloch có vô số điểm nên mỗi qubit sẽ lưu trữ được vô số thông tin.

Nhưng khi thao tác trên mỗi qubit, theo quy luật lượng tử, chúng ta sẽ không

chắc chắn tìm được giá trị nào, mà chỉ có thể tìm được một giá trị tương ứng với

xác suất nào đó. Đồng thời, trạng thái của qubit cũng sẽ bị phá vỡ khi thực hiện

phép đo, trạng thái của hệ chuyển sang trạng thái riêng tương ứng với trị riêng

của toán tử thực hiện phép đo mà chúng ta nhận được một giá trị ngẫu nhiên với

xác suất nào đó.

1.3.3.2. Trạng thái đan rối

Trạng thái đan rối (entangled state) là trạng thái của một hệ lượng tử gồm

nhiều hệ con mà trạng thái lượng tử của chúng có mối quan hệ ràng buộc lẫn

nhau, dù chúng cách xa nhau tới mức nào [77, 78]. Trong không gian Hilbert là

tích tenxơ của các không gian Hilbert hai chiều:

, (1.63)

Trạng thái lượng tử tổng quát nhất của hệ n qubit có dạng như sau:

, (1.64)

ở đây ( = 1, 2,... 2n) là các hệ số phức thỏa mãn điều kiện chuẩn hóa:

. (1.65)

Ta gọi , ,..., lần lượt là trạng thái trong các không gian Hilbert ,

,..., tương ứng. Lúc đó, trạng thái lượng tử n qubit gọi là trạng

thái phân tách được nếu nó luôn được biểu diễn dưới dạng tích tenxơ của các

trạng thái ,..., như sau: ,

. (1.66)

Ngược lại, nếu trạng thái luôn được biểu diễn dưới dạng

thì nó được gọi là trạng thái đan rối của hệ n qubit.

23

Ta không thể xác định được trạng thái riêng của từng hệ mà chỉ có thể xác

định được trạng thái chung của các hệ lượng tử đan rối với nhau. Nếu muốn xác

định trạng thái riêng của một hệ con nào đó thì phải thực hiện phép đo thích hợp

lên hệ con đó. Khi các hệ con không đan rối với nhau thì trạng thái của chúng là

độc lập nhau nên các phép đo lên một hệ con nào đó không hề ảnh hưởng đến

trạng thái của các hệ con khác. Ngược lại, khi các hệ đan rối với nhau, trạng thái

của chúng không còn độc lập nữa. Do đó, mỗi sự tác động đến một hệ con thì sẽ

ngay lập tức làm ảnh hưởng đến các hệ con khác của nó. Ta có thể thu được một

kết quả ngẫu nhiên với xác suất xác định khi thực hiện phép đo trên một hệ con

nào đó, từ kết quả này có thể xác định được trạng thái của các hệ con còn lại mà

không cần thực hiện các phép đo trên chúng. Kết quả là tốc độ xử lý thông tin

trên các hệ đan rối nhanh hơn rất nhiều so với các hệ không đan rối. Ngoài ra,

kết quả đo được trên một hệ con cho phép ta xác định được trạng thái của các hệ

con còn lại dù chúng rất xa nhau. Đây chính là nền tảng cơ bản của hiệu ứng

viễn tải lượng tử.

1.3.4. Các trạng thái Bell

Các trạng thái Bell là những trạng thái đan rối đa mode đơn giản nhất.

Khái niệm trạng thái này được đặt theo tên của John F. Bell bởi vì nó liên quan

đến bất đẳng thức nổi tiếng của ông [79] và đã được phát triển bởi Clauser và

cộng sự [80]. Do mối liên hệ của các trạng thái Bell với nghịch lý EPR nên trong

trường hợp riêng hai qubit, chúng thường được gọi là cặp EPR.

Chúng tôi chỉ xét trường hợp đơn giản gồm hai trạng thái chân không và

một photon trong mỗi mode và giả thiết rằng đối với mỗi mode được dán nhãn

là A hoặc B, ta có 0 hoặc 1 photon, lúc đó các trạng thái Bell có thể được biểu

diễn dưới dạng sau [19]:

24

(1.67)

Các trạng thái Bell là những trạng thái hai qubit và đan rối cực đại. Mỗi phép đo

cụ thể đối với một trạng thái Bell chỉ có thể xác định được thông tin về tính chẵn

lẻ hoặc về pha của trạng thái mà không thể xác định được trạng thái đan rối của

cả hệ.

Khái niệm của các trạng thái Bell có thể được mở rộng thành trạng thái có

nhiều photon trong hệ, đó là trạng thái NOON đã được đề xuất bởi Sanders [81]

bằng cách sử dụng trạng thái thay cho trạng thái một photon . Các trạng

thái NOON đóng một vai trò quan trọng trong thông tin lượng tử và có thể được

biểu diễn như sau

, (1.68)

ở đây tham số kí hiệu một pha lượng tử bất kỳ.

Ngoài ra, khái niệm các trạng thái Bell cũng được mở rộng thành các

trạng thái Bell tổng quát biểu diễn dưới dạng [82]:

, (1.69)

ở đây D là một số nguyên dương lớn hơn 2.

1.3.5. Cách tính độ đan rối của một trạng thái lượng tử

Entropy là một khái niệm của vật lý thống kê được dùng cho lý thuyết

thông tin lượng tử, đo lường mức độ không chắc chắn có trong trạng thái của

một hệ vật lý. Có thể sử dụng entropy von Neumann để xác định độ đan rối của

các trạng thái n qubit [83-85]. Trạng thái của một hệ lượng tử tổng quát có thể

25

được biểu diễn bởi ma trận mật độ dưới dạng

, (1.70)

với là trạng thái của hệ có xác suất tương ứng là . Tuy nhiên, khi chỉ đề

cập đến hệ lượng tử hai thành phần với trạng thái được mô tả bởi ma trận mật độ

như (1.70) thì ma trận mật độ của hai hệ con A và B chính chính là các ma trận

mật độ rút gọn của (1.70), là vết theo B (A) của ma trận toàn phần của hai hệ con

A và B được viết tương ứng dưới dạng [84, 85]:

(1.71)

Tính độ đan rối chính là phép đo mức độ vướng víu giữa các thành phần

trong hệ. Phép đo này rất phức tạp đối với các trạng thái đan rối hỗn tạp. Nhưng

ta lại có thể đo một cách chính xác hay ít nhất cũng có thể so sánh mức độ đan

rối giữa các trạng thái cùng một họ rất dễ dàng đối với các trạng thái thuần. Giữa

hai hệ con A và B không có bất kỳ sự ràng buộc nào khi các ma trận mật độ rút

gọn có tính chất của một trạng thái thuần. Ngược lại, giữa hai hệ con A và B có

một mối liên kết nào đó, tức là hệ AB là hệ đan rối khi các ma trận mật độ rút

gọn là các ma trận mật độ của trạng thái hỗn tạp. Khi mức độ hỗn tạp của các

ma trận rút gọn càng lớn thì sự tương quan giữa hai thành phần của hệ càng

mạnh. Vì vậy, độ đan rối của trạng thái thuần hai thành phần có thể được

xác định thông qua entropy von Neumann của một trong hai hệ con A và B:

, (1.72)

ở đây và là các trị riêng tương ứng của các ma trận rút gọn và .

Tính độ đan rối bằng entropy von Neumann có ưu điểm này là có độ chính xác

tuyệt đối dựa trên quan điểm thống kê. Tuy nhiên, việc xác định nó đòi hỏi phải

chéo hóa ma trận mật độ rút gọn là rất khó cho các trạng thái bất đối xứng.

Đối với độ đan rối của hệ lượng tử tổng quát có ma trận mật độ như (1.70)

26 được định nghĩa như là đan rối trung bình của các trạng thái thuần phân ly, giảm

đến mức tối thiểu trên tất cả sự phân ly của ma trận mật độ [85]:

. (1.73)

Đối với một cặp qubit, giá trị cực tiểu trong (1.73) có thể được biểu diễn như

một hàm tường minh của ma trận mật độ . Công thức này có thể được gọi là

phép biến đổi đảo spin, nó được áp dụng cho các trạng thái với một số lượng

qubit tùy ý. Đối với một trạng thái thuần của một qubit đơn, đảo spin, được ký

hiệu dưới dạng [86]:

, (1.74)

ở đây là liên hợp phức của trạng thái , còn là ma trận Pauli chuyển pha

có dạng .

Để biểu diễn một đảo spin đối với n qubit, người ta áp dụng biến đổi trên cho

mỗi qubit riêng lẻ. Ma trận mật độ tổng quát của hệ hai qubit A và B có dạng

như (1.70). Lúc đó, ma trận mật độ đảo spin có dạng:

, (1.75)

Mặc dù chúng ta đã giới thiệu khái niệm đảo spin chủ yếu là để áp dụng

cho trạng thái hỗn tạp. Tuy nhiên, khái niệm này cũng thuận tiện trong việc tính

độ đan rối của trạng thái thuần hai qubit. Khi đó công thức (1.72) có thể được

biểu diễn dưới dạng

, (1.76)

trong đó, concurrence được định nghĩa như sau:

. (1.77)

Khi đó, độ đan rối của trạng thái này được định nghĩa như sau:

, (1.78)

27

ở đây

. (1.79)

Khi entropy đan rối thay đổi đơn điệu từ 0 đến 1 khi tang từ 0

đến 1, do đó người ta có thể sử dụng concurrence như một phép đo độ đan rối

theo đúng nghĩa của nó.

Khi concurrence thay đổi từ 0 đến 1 thì giá trị của entropy đan rối cũng thay đổi

từ 0 đến 1. Entropy đan rối bằng 0 đối với trạng thái phân tách được, còn đối với

trạng thái có độ đan rối cực đại, nó có giá trị bằng 1.

Bây giờ chúng ta sử dụng đảo spin và để xây dựng các công thức

tính độ đan rối của trạng thái hỗn tạp hai qubit có ma trận mật độ :

, (1.80)

trong đó

, (1.81)

với ( ) là các trị riêng của ma trận Hermitian:

, (1.82)

và thỏa mãn điều kiện .

1.4. Mô hình kéo lượng tử phi tuyến

Mô hình kéo lượng tử là nhóm các phương pháp hay những phương án vật lý

có khả năng tạo ra sự chồng chập hữu hạn các trạng thái bằng cách cắt các trạng thái

của hệ trong không gian Hilbert vô hạn chiều. Theo cách này, chúng thuộc một

nhóm rộng hơn của các phương pháp công nghệ xử lý trạng thái lượng tử. Kéo lượng

tử ở đây là trường hợp riêng của các hệ quang học, dựa trên các phương pháp quang

học mà việc cắt có thể đạt được trong nhiều cách khác nhau. Khi phương pháp này

sử dụng các môi trường quang học phi tuyến để thu được trạng thái hữu hạn chiều, ta

sẽ gọi chúng là các kéo lượng tử phi tuyến (nonlinear quantum scissors - NQS).

1.4.1. Môi trường phi tuyến Kerr

Khi điện từ trường lan truyền trong môi trường đồng nhất và đẳng hướng,

28 sẽ gây ra các kích ứng lên nguyên tử và tạo ra các phân cực vi mô, như một sự

“phản ứng” lại của môi trường với tác dụng của trường điện từ. Đại lượng đặc

trưng cho phản ứng của môi trường gọi là véctơ phân cực điện và kí hiệu là

. Theo điện động lực học, véctơ cảm ứng điện của môi trường sẽ

phụ thuộc vào tọa độ không gian và thời gian và được biểu diễn dưới dạng [87]:

, (1.83)

là độ điện thẩm của chân không. Cũng có thể đưa vào véctơ phân cực

ở đây

từ tương tự như vậy. Tuy nhiên, việc đưa vào một đại lượng như vậy theo [88]

sẽ không có ý nghĩa. Do đó, véctơ cảm ứng từ phụ thuộc vào tọa độ không gian

và thời gian có thể được biểu diễn dưới dạng sau:

, (1.84)

với tương ứng là véctơ là độ từ thẩm của chân không. và

cường độ điện trường và từ trường, được xác định theo các phương trình

Maxwell như sau:

(1.85)

trong đó là véctơ cảm ứng từ, là véctơ mật độ dòng và là mật

độ điện tích tự do. Nếu chỉ xét đối với môi trường điện môi thì và

sẽ bằng không. Trong trường hợp điện từ trường yếu, nghĩa là các véctơ cường độ điện

các nhiễu loạn nhỏ lên nguyên tử. Khi đó, véctơ

trường và từ trường rất nhỏ so với trường nội nguyên tử, chúng có thể được xem như sẽ phụ thuộc tuyến tính vào . Tuy nhiên, đối với những trường laser mạnh có véctơ cường độ điện trường

độ lớn véctơ trường so sánh được với độ lớn các véctơ trường nội nguyên tử, véctơ

29

phân cực điện sẽ phụ thuộc phi tuyến vào véctơ cường độ điện trường

như sau [89]:

, (1.86)

là độ cảm tuyến tính của môi trường, còn , ,..., lần lượt là độ

cảm phi tuyến bậc 2, bậc 3,..., bậc n của môi trường.

Trong môi trường đồng nhất và đẳng hướng, luôn có sự đối xứng đối với phép

nghịch đảo tọa độ không gian nên các thành phần phi tuyến bậc chẵn của môi trường

bị triệt tiêu [88]. Thêm vào đó, từ độ cảm phi tuyến bậc 5 trở lên sẽ rất nhỏ so với độ

cảm phi tuyến bậc 3 nên có thể bỏ qua. Khi đó, véctơ phân cực điện môi chỉ gồm các

thành phần phụ thuộc tuyến tính và phi tuyến bậc 3 vào véctơ cường độ điện trường:

. (1.87)

Môi trường phi tuyến như trên được gọi là môi trường phi tuyến Kerr. Khi đó, véctơ

cảm ứng điện của môi trường có thể được viết lại dưới dạng sau:

, (1.88)

còn biểu thức Hamiltonian của trường được viết dưới dạng:

(1.89)

Ta xét trường hợp đơn giản khi trường là đơn mode, còn sóng điện từ lan

truyền dọc theo trục z trong khoảng từ 0 đến L. Lúc đó, thành phần điện trường

và từ trường phân cực dọc tương ứng theo trục x và trục y. Với các điều kiện

biên E(0, t) = E(L, t) = 0, B(0, t) = B(L, t) = 0, nghiệm của hệ phương trình

Maxwell (1.85) có dạng sau [90]:

, (1.90)

30

, (1.91)

ở đây là số sóng, q(t) và p(t) là các thành phần phụ thuộc thời gian và

thỏa mãn điều kiện . Từ đó, Hamiltonian (1.89) được viết lại

như sau:

. (1.92)

Thay các biểu thức (1.90) và (1.91) vào Hamiltonian (1.92) ta tìm được:

. (1.93)

Ta tiến hành lượng tử hóa trường theo nguyên lý tương ứng bằng cách

thay thế Hamiltonian (1.93) bằng toán tử Hamilton:

(1.94)

ở đây

(1.95)

ở đây lần lượt là các toán tử hủy và sinh photon.

Thay biểu thức (1.95) vào biểu thức (1.94), ta thu được biểu thức của toán tử

Hamilton:

. (1.96)

Bởi vì mốc để tính năng lượng là tùy ý nên có thể chọn mốc là năng lượng

của chân không và coi như bằng không. Lúc đó toán tử Hamilton phải được viết

dưới dạng tích chuẩn, tức là toán tử sinh bên trái và toán tử hủy bên phải. Nếu

31 lấy trung bình trong chân không thì các số hạng khác sẽ triệt tiêu. Khi đó, toán

tử Hamilton (1.96) có thể được viết lại dưới dạng sau:

. (1.97)

Từ đó có thể thấy rằng, vì tính chất phi tuyến của môi trường nên biểu thức của

toán tử Hamilton đã xuất hiện các thành phần phi tuyến . Đây chính là cơ

sở để xây dựng mô hình kéo lượng tử phi tuyến dựa trên các dao động tử phi

tuyến Kerr ở phần tiếp theo.

1.4.2. Kéo lượng tử phi tuyến dựa trên các dao động tử phi tuyến Kerr

NQS là một nhóm những thiết bị quang học trong đó các phần tử phi

tuyến như các dao động tử phi tuyến được sử dụng [90, 91]. Những thiết bị này

cắt các trạng thái quang học trong không gian Hilbert vô hạn chiều thành các

trạng thái gồm một vài n-photon được mô tả hoàn toàn trong không gian Hilbert

hữu hạn chiều. Đã có một số đề xuất về các thiết bị như vậy và nói chung chúng

có thể được chia thành các nhóm khác nhau theo số mode của các trạng thái thu

được. Quá trình cắt được liên kết chặt chẽ với viễn tải trạng thái trong các thiết

bị NQS và các hiện tượng lượng tử khác. Chẳng hạn, sự tạo thành các trạng thái

đan rối cực đại hoặc sự chết và hồi sinh đan rối xuất hiện trong những điều kiện

đặc biệt [92]. Người ta có thể tìm các trường hợp về NQS được sử dụng để tạo

ra các trạng thái cắt một hoặc hai mode.

1.4.2.1. Kéo lượng tử phi tuyến đối với các trạng thái một mode

Trong nhóm NQS, dựa trên các phần tử quang học phi tuyến, có các thiết

bị tạo ra các trạng thái Fock đơn mode hoặc đa mode. Trước hết, ta sẽ tập trung

vào các hệ có thể tạo ra các trạng thái hữu hạn chiều đơn mode của trường điện

từ. Trong số đó, người ta cần đề cập đến phương pháp “cắt” các toán tử trường

được đề xuất trong nghiên cứu của Leoński và Tanaś [93] và được phát triển

trong nghiên cứu của Leoński và các cộng sự [94].

Như đã đề cập trong phần trước, trạng thái kết hợp hữu hạn chiều có thể

tìm được bằng cách sử dụng toán tử dịch chuyển tác động lên trạng thái

32 chân không, trong đó các toán tử sinh và hủy photon được định nghĩa trong

không gian Hilbert hữu hạn chiều (xem các Phương trình (1.51) - (1.57)), trái

với trạng thái kết hợp cắt, được định nghĩa như một hiệu ứng cắt của sự mở rộng

trạng thái kết hợp Glauber trong cơ sở trạng thái n-photon (các phương trình

(1.58) và (1.59)). Để tạo ra trạng thái kết hợp hữu hạn chiều, chúng ta có thể áp

dụng mô hình được đề xuất bởi Leoński và Tanaś [93]. Khi biên độ và thời gian

giữa các kích có giá trị phù hợp thì trường trong một buồng, kích theo chu kỳ

bởi các xung cổ điển và chứa một môi trường phi tuyến Kerr, có thể tạo ra trạng

thái lượng tử một photon, toán tử unita mô tả sự tiến triển của hệ được viết dưới

dạng:

, (1.98)

với là hệ số phi tuyến, T biểu thị thời gian giữa các lần kích tiếp theo và

là toán tử số photon. Tham số là một đại lượng mô tả độ mạnh của sự kích tỷ lệ

với biên độ của trường kích cổ điển từ bên ngoài. Nếu giả định rằng ban đầu hệ ở

trạng thái chân không, kích thích yếu (tức là ), kích nhiều lần và thời gian

cho mỗi lần kích đủ lâu thì có thể tạo ra trạng thái một photon với độ chính xác

cao, với điều kiện là các quá trình tắt dần đủ nhỏ. Hơn nữa, đối với trường hợp

này, quá trình tiến triển của hệ trở nên khép kín trong tập hợp hai trạng thái: trạng

thái chân không và trạng thái một photon .

Người ta có thể thay đổi mô hình này và sau khi có những điều chỉnh

thích hợp của độ lệch cộng hưởng trong hệ, phần Hamiltonian của hệ tương ứng

với sự tiến triển của môi trường phi tuyến trở thành:

. (1.99)

Sự tiến triển của hệ, với giả thiết quá trình kích là hai photon, được khép kín

trong các trạng thái và và trạng thái hai photon cũng có thể được tạo ra.

Mô hình này có thể được mở rộng cho trường hợp Hamiltonian phi tuyến tỉ lệ

với , trong đó z là một số tự nhiên tùy ý, và kích thích liên quan đến quá

trình z-photon thì trạng thái z-photon sẽ được tạo ra [95].

33

Ngoài ra, Kilin và Horoshko [96] đã xây dựng một Hamiltonian thích hợp

để tạo ra trạng thái Fock n-photon, trong đó sự biến đổi lẫn nhau giữa trạng thái

chân không và trạng thái n-photon có thể được viết dưới dạng sau:

. (1.100)

Ở đây, người ta đã thảo luận về một số lớp con của phép biến đổi và tập trung

vào những vấn đề được xác định bởi:

(1.101)

trong đó với k là một số nguyên. Khi đó, dạng của Hamiltonian

phi tuyến tạo ra các phép biến đổi này được biểu diễn như sau:

. (1.102)

Nếu sử dụng môi trường phi tuyến thì Hamiltonian mô tả hệ vật lý có thể thu

được bằng cách giả thiết rằng tham số thực . Khi đó, trường bơm có tần số

 nằm trong quá trình (1.102) được chuyển thành trạng thái Fock n-photon có

tần số đồng thời theo hai cách: và .

1.4.2.2. Kéo lượng tử phi tuyến đối với các trạng thái hai mode

Các đề xuất đầu tiên về NQS đối với trạng thái hai mode được trình bày

trong [20, 97], trong đó hệ quang học gồm bộ nối phi tuyến được điều khiển bởi

trường ngoài kết hợp đã được thảo luận. Bộ phận chính của NQS bao gồm hai

dao động tử phi tuyến liên kết tuyến tính, phi tuyến,…với nhau và được mô tả

bởi tính phi tuyến Kerr. Sơ đồ tổng quát của kéo lượng tử phi tuyến hai mode

được trình bày ở Hình 1.3.

Dạng tổng quát của Hamiltonian mô tả hệ kéo lượng tử phi tuyến có thể

được viết dưới dạng:

(1.103)

34

ở đây và lần lượt là Hamiltonian phi tuyến của

các mode a và b. là Hamiltonian tương tác giữa các mode với nhau, tương

tác này có thể là tương tác tuyến tính [20], tương tác phi tuyến [98-100], hay

tương tác kiểu tham số [101], và lần lượt là Hamiltonian tương tác

của mode a và mode b với trường ngoài. Nếu hoặc thì kéo

lượng tử chỉ được bơm một mode a hay b, tương ứng bởi trường ngoài. Tùy

thuộc vào dạng tương tác giữa các mode với nhau và số mode được bơm bởi

trường ngoài mà các trạng thái tìm được từ các bộ nối phi tuyến sẽ khác nhau.

a

Hình 1.3: Mô hình chung của kéo lượng tử phi tuyến hai mode

Ta biết rằng các trạng thái hai mode chứa một số lượng lớn photon trong không

gian Hilbert vô hạn được mô tả bởi Hamiltonian (1.103) có dạng phổ biến sau:

, (1.104)

trong đó là các biên độ xác suất. Để tìm được tập hợp kín của phương

trình (1.104), nghĩa là hệ khép kín trong tập hữu hạn các trạng thái n-photon, thì

các điều kiện thích hợp cần được thỏa mãn. Nói chung, do sự suy biến của các

Hamiltonian và và nếu giả sử rằng các kích thích phải đủ yếu, tức là giá

trị của các tham số mô tả các tương tác này phải nhỏ hơn đáng kể so với các hệ

số phi tuyến, thì hệ có khả năng chỉ tạo ra một số trạng thái hai mode. Chẳng

35 hạn khi hai mode liên kết tuyến tính với nhau [20, 97], trạng thái cắt được tạo ra

của hệ chỉ khép kín trong bốn trạng thái có dạng đơn giản như sau:

(1.105)

Độ chính xác của phép cắt này được xác định bằng độ tin cậy giữa các trạng thái (1.104) và (1.105). Bất kỳ độ lệch nào từ việc cắt hoàn hảo là có bậc của 10-4 đối

với các tham số được chọn thích hợp, đặc biệt là tỷ lệ giữa các hệ số phi tuyến

và tương tác. Tùy thuộc vào dạng tương tác giữa các mode với nhau và số mode

tương tác với trường ngoài mà độ tin cậy của quá trình cắt được thực hiện bởi

kéo lượng tử phi tuyến thu được các kết quả khác nhau.

1.5. Kết luận chương 1

Trong chương này, chúng tôi đã trình bày các khái niệm cơ bản và lý

thuyết về các quá trình ngẫu nhiên trong quang học lượng tử. Trước hết chúng

tôi trình bày các mô hình ngẫu nhiên của ánh sáng laser đơn mode, đa mode và

laser với thăng giáng bơm. Tiếp theo chúng tôi trình bày lý thuyết nhiễu trắng và

áp dụng cho trường hợp tuyến tính.

Các trạng thái hữu hạn chiều thường được áp dụng và thảo luận trong lý

thuyết thông tin lượng tử, quang lượng tử hoặc tổng quát hơn là các mô hình kỹ

thuật lượng tử. Người ta có thể tìm được nhiều phương pháp khác nhau để tạo ra

các trạng thái Fock, kết hợp hữu hạn chiều hoặc đan rối trong các hệ quang học.

Kéo lượng tử là thiết bị cho phép thu được các trạng thái như vậy. NQS được

xây dựng với sự áp dụng của những phần tử phi tuyến. Hơn nữa, chúng có thể là

nguồn cung cấp các trạng thái cắt. Các trạng thái này biểu hiện tính chất rất thú

vị, chúng có thể là đối tượng của các nghiên cứu trong lĩnh vực quang học lượng

tử. Tuy nhiên, kéo lượng tử có thể được áp dụng cho các mô hình quang học

khác. Mô hình kéo lượng tử phi tuyến sẽ được ứng dụng để nghiên cứu sự hình

thành các trạng thái có độ đan rối cao ở các chương tiếp theo.

36 Chương 2

CÁC TRẠNG THÁI ĐAN RỐI HÌNH THÀNH TRONG

BỘ NỐI PHI TUYẾN KIỂU KERR

Trong chương này, chúng tôi nghiên cứu mô hình bộ nối phi tuyến gồm hai

dao động tử phi tuyến liên kết tuyến tính hoặc phi tuyến với nhau và được bơm

một mode hoặc hai mode bởi trường kết hợp ngoài. Bằng cách sử dụng hình thức

luận NQS, ta thu được hàm sóng mô tả sự tiến triển của hệ là tổ hợp của các trạng

thái Fock n-photon. Sự tiến triển của hệ theo thời gian có thể sinh ra các trạng thái

đan rối cực đại gọi là các trạng thái kiểu Bell. Mô hình của chúng tôi được xem

xét đối với các điều kiện đầu khác nhau của các biên độ xác suất.

2.1. Bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính

2.1.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính

2.1.1.1. Bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode

Mô hình của một bộ nối phi tuyến kiểu Kerr được xem xét ở đây bao gồm

hai dao động tử phi tuyến, tương tác tuyến tính với nhau và một trong hai dao

động tử này (mode a) tương tác tuyến tính với trường ngoài kết hợp.

Về phương diện quang học bộ nối có cấu tạo và hoạt động như sau: Bộ

nối phi tuyến là một thành phần của sợi quang phi tuyến hỗ trợ phân phối lại tín

hiệu quang, có thể chia tín hiệu quang từ một thành hai hay nhiều tín hiệu và kết

hợp tín hiệu quang từ hai hay nhiều thành một. Bộ nối phi tuyến kiểu Kerr được

xét ở đây (Hình 2.1) gồm hai sợi quang phi tuyến không hấp thụ có lõi chứa môi

trường phi tuyến Kerr, được đặc trưng bởi hai hệ số phi tuyến Kerr khác nhau

và . Các sợi quang này được ghép với bộ liên kết định hướng quang bốn

cổng, gồm hai cổng vào và hai cổng ra, được cấu tạo bằng cách gắn hai ống dẫn

sóng với nhau bằng liên kết tuyến tính. Về nguyên tắc hai ống dẫn sóng của bộ

liên kết định hướng phải được đặt gần nhau về không gian tới mức sóng đang

37 truyền trên ống này có thể cảm ứng truyền bên đường dẫn sóng kia [102], lúc đó

ta có thể nói rằng có hiện tượng ghép mode giữa hai ống dẫn sóng đó. Thông

thường hai ống dẫn sóng này chỉ có một không gian nhất định tại đó chúng rất

sát nhau, gọi là chiều dài tương tác. Hệ số của liên kết tuyến tính giữa hai ống

dẫn sóng  phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai ống, độ chênh lệch chiết suất và

kích thước của ống. Các bản chia để tín hiệu vào có hệ số phản xạ R < 100%. Hệ

số phản xạ, tán xạ trên mặt trước và sau của các mặt môi trường, hấp thụ của

môi trường sẽ xác định hệ số tương tác  của trường ngoài với hệ.

Chùm tia sáng vào bản chia M1, có hệ số phản xạ R < 100%, qua sợi

quang phi tuyến ở mode a làm thay đổi pha truyền của các tia sáng. Các tia sáng

tiếp tục phản xạ trên các gương M2 và M3 và đi vào bộ liên kết. Hoạt động của

bộ liên kết tuân theo nguyên lý phản xạ, khúc xạ nên nếu trước khi vào bộ liên

kết tín hiệu truyền trên nhánh a (b) của sợi quang phi tuyến thì sau bộ liên kết tín

hiệu có thể vẫn truyền trên nhánh a (b) hoặc có thể chuyển sang truyền trên

nhánh b (a) với độ lệch pha khác nhau. Sự kết hợp các tia sáng từ hai nhánh dẫn

đến trạng thái giao thoa ở trong bộ nối này. Tùy thuộc vào cường độ của các tia

sáng vào bản chia, ta sẽ thu được các cường độ tín hiệu ra khác nhau.

Hình 2.1: Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode

38

Khi đó, hệ này được mô tả bởi Hamiltonian có dạng ( =1) [20, 96, 103]:

(2.1)

trong đó:

(2.2)

và là các toán tử hủy (sinh) photon tương ứng với các mode a và b

và của các dao động tử phi tuyến. Hamiltonian (2.1) đối với trường hợp mô

tả bộ nối phi tuyến chuẩn [104, 105].

Trong bức tranh tương tác, sự tiến triển của hệ có thể được mô tả bởi

phương trình Schrodinger:

, (2.3)

trong đó

, (2.4)

là các biên độ xác suất phức tìm hệ trong trạng thái m-photon của mode a

và trạng thái n-photon của mode b. Thay (2.4) vào (2.3) ta tìm được:

, (2.5)

, (2.6)

(2.7)

39

(2.8)

Bằng cách thay các biểu thức từ (2.5) đến (2.8) vào (2.3) ta tìm được phương

trình chuyển động của biên độ xác suất có dạng:

(2.9)

Từ phương trình (2.9) có thể kết luận rằng sự tiến triển của hệ được bơm

bởi trường ngoài cổ điển không chỉ được giới hạn trong các trạng thái hai photon

mà còn các trạng thái nhiều photon hơn. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng phương

pháp kéo lượng tử phi tuyến [106], sự tiến triển của hệ có thể chỉ giới hạn trong

bốn trạng thái , , và . Giả thiết các hệ số phi tuyến Kerr

, ta có thể giải thích sự tiến triển giữa bốn trạng thái này là sự dịch

chuyển cộng hưởng. Hiện tượng này có thể chỉ ra một cách tường minh như sau:

Dưới sự giả thiết và thời gian tiến triển ngắn, phương trình (2.9), với

những giá trị , có thể xấp xỉ bằng:

, (2.10)

nghiệm của (2.10) là:

. (2.11)

Bằng cách chọn điều kiện đầu , với , lúc đó . Ngược

lại, đối với các giá trị , các số hạng tỉ lệ với hệ số phi tuyến Kerr

40

và triệt tiêu do sự suy biến của Hamiltonian và do đó các số hạng tỉ lệ với 

và  vẫn tồn tại. Lúc đó, hàm sóng của hệ sau khi “cắt” được viết dưới dạng đơn

giản như sau:

, (2.12)

là kí hiệu cho trường hợp các mode ban đầu ở trong trạng thái .

Từ phương trình (2.9), ta tìm được phương trình chuyển động cho biên độ

xác suất có dạng như sau:

(2.13)

Mặc dù các phương trình gần đúng (2.13) không phụ thuộc vào và , kết

quả thu được chỉ ra rằng tính chất phi tuyến Kerr đóng một vai trò chủ yếu trong

quá trình cắt. Bằng cách giả thiết rằng cả hai dao động tử ban đầu ở trạng thái

chân không ( ) và các tham số và là thực, khi đó nghiệm của

(2.13) cho các biên độ xác suất có dạng [20]:

(2.14)

với , . ,

41

Ở trên đã giả thuyết rằng cả hai mode ban đầu ở trạng thái chân không.

Bây giờ, chúng tôi sẽ phân tích một sự tiến triển tổng quát hơn khi mà ban đầu

một mode của hệ tồn tại trong trạng thái chân không và mode còn lại tồn tại

trong trạng thái Fock đơn photon ( ). Khi đó nghiệm của các biên

độ xác suất (2.13) có dạng:

(2.15)

Tiếp theo, ta sẽ xem xét sự tiến triển của hệ đối với các trường hợp khi

các mode ban đầu ở các trạng thái và . Khi đó, sự tiến triển của hệ

đối với các trạng thái ban đầu này có dạng như sau:

(2.16)

Trong phần tiếp theo, ta sẽ trình bày mô hình bộ nối phi tuyến tương tác

tuyến tính được bơm hai mode bởi trường ngoài.

2.1.1.2. Bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm hai mode

Trong phần này chúng tôi tiếp tục mở rộng mô hình bộ nối đã được trình

bày ở Hình 2.1 cho trường hợp cả hai mode a và b đều được kích thích bởi hai

trường ngoài (Hình 2.2), trong khi mô hình trước đó chỉ một trong hai mode là

được liên kết với trường ngoài. Khi đó, Hamiltonian mô tả hệ này có dạng sau

[20, 21]:

. (2.17)

Hamiltonian này về cơ bản giống với (2.1), ngoại trừ được cho bởi:

42

, (2.18)

mô tả liên kết tuyến tính của mode b với trường ngoài, trong đó tham số là hệ

Hình 2.2: Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm hai mode

số của liên kết tuyến tính này.

Hoàn toàn tương tự như trường hợp bộ nối phi tuyến được bơm một

mode, sự tiến triển của hệ được mô tả bởi Hamiltonian (2.17) có thể được cho

bởi phương trình Schrödinger. Từ đó, ta dễ dàng tìm được hệ các phương trình

đối với các biên độ xác suất của hàm sóng (2.4) trong hình thức luận

tương tác như sau [20]:

(2.19)

Tương tự như trường hợp một mode, ta giả thiết thời gian tiến triển ngắn và độ lớn

của các tham số , và là rất nhỏ so với các phi tuyến Kerr và . Khi đó,

phương trình (2.19) với trường hợp có thể xấp xỉ bằng (2.10) có nghiệm

là (2.11) sẽ triệt tiêu đối với điều kiện đầu . Do đó, dưới sự giả thiết ở

trên, hệ các phương trình (2.19) rút gọn thành bốn phương trình vi phân sau:

43

(2.20)

là kí hiệu cho trường hợp các mode ban đầu ở trong trạng thái .

Giả thiết rằng tại thời điểm t = 0, cả hai mode của hệ đều ở trạng thái chân

không, ta có thể tìm nghiệm giải tích của hệ phương trình (2.20). Để giải (2.20)

cần tìm các giá trị không của đa thức bậc bốn, do đó, các nghiệm tổng quát của

chúng là phức tạp và khó hiểu hơn. Tuy nhiên, nếu giả thiết rằng tất cả các hệ số

liên kết là thực và các liên kết với trường ngoài có cường độ bằng nhau ( ),

thì các nghiệm trở nên đơn giản và dễ hiểu hơn nhiều. Do đó, dưới các giả thiết

này, các nghiệm của (2.20) có dạng sau [20]:

(2.21)

trong đó . Nếu tại thời điểm t = 0, một mode của hệ ở trạng thái

chân không còn mode kia ở trạng thái Fock đơn photon thì

nghiệm của hệ phương trình (2.20) cho các biên độ xác suất có dạng sau:

44

(2.22)

Khi các mode của hệ ban đầu ở trong các trạng thái và

, ta cũng tìm được sự tiến triển của hệ đối với bộ nối được

bơm hai mode có dạng tương tự với trường hợp được bơm một mode.

Để đánh giá chất lượng của phép cắt các trạng thái quang học, ta ứng

dụng độ tin cậy như một phép đo sự khác nhau giữa trạng thái cắt hai qubit

, cho bởi (2.12), và trạng thái ra thực tế được

tính số từ:

, (2.23)

đối với không gian Hilbert hai mode. Độ tin cậy của trạng thái được định nghĩa

bởi [68]:

, (2.24)

Độ tin cậy đối với phép cắt hoàn hảo bằng 1. Hình 2.3 trình bày độ tin cậy

của trạng thái cắt. Từ Hình 2.3, ta thấy rằng độ tin cậy của trạng thái cắt xấp xỉ

bằng một, tức là kết quả giải tích thu được là khá chính xác. Hơn nữa, độ tin cậy

của trạng thái cắt đối với bộ nối phi tuyến được bơm hai mode nhỏ hơn so với

bộ nối phi tuyến được bơm một mode, nghĩa là phép cắt đối với bộ nối được

bơm một mode là chính xác hơn. Điều đó chứng tỏ rằng trạng thái cắt thu được

có độ chính xác rất cao so với kết quả thu được trong [20].

45

t [10-5s]

Hình 2.3: Độ tin cậy của trạng thái cắt đối với bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được

bơm một mode (đường nét liền) và hai mode (đường chấm chấm) với hệ số phi tuyến

rad/s,

rad/s và các mode ban đầu ở trạng thái chân không

Chúng tôi sẽ sử dụng các biên độ xác suất phức thu được ở các phần trên

để khảo sát sự tạo ra các trạng thái kiểu Bell ở phần tiếp theo.

2.1.2. Sự tạo ra trạng thái đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác

tuyến tính

Chúng ta đã biết rằng sự đan rối của trạng thái thuần hai thành phần, mô

tả bởi ma trận mật độ , có thể được mô tả bởi entropy von Neumann của

hoặc

ma trận mật độ rút gọn , hoặc tương đương với entropy

. (2.25)

Shannon của các hệ số Schmidt bình phương có dạng như sau [106]:

, (2.26)

Đối với trường hợp của trạng thái thuần hai qubit, giá trị của entropy đan rối thay đổi từ không đối với trạng thái không đan rối đến một ebit đối với trạng thái đan rối cực đại và nó có dạng đơn giản như sau [20]:

. Từ đó, ta dễ dàng tìm

trong đó

46 được mối liên hệ giữa các entropy đan rối cho các trường hợp bộ nối được bơm một mode và hai mode bởi trường ngoài như sau:

. (2.27)

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.4: Sự tiến triển của các entropy đan rối (đơn vị ebit)

đối với bộ

nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode với

rad/s,

(đường nét liền) và hai mode với

rad/s (đường nét gạch) và

rad/s,

rad/s (đường gạch chấm)

Các entropy đan rối của hệ đối với các điều kiện đầu khác nhau được chỉ

ra ở Hình 2.4. Các kết quả của đối với bộ nối được bơm một mode ( ) và

hai mode ( ) giống với những kết quả đã được trình bày ở [20]. Các

entropy đan rối và tiến triển theo chu kỳ thời gian và xấp xỉ bằng 1 ebit

đối với các trạng thái đan rối cực đại và bằng không đối với các trạng thái không

đan rối. Khi , các giá trị cực đại của và là lớn nhất trong khi chúng

là bé nhất đối với . Hơn nữa, entropy đan rối có nhiều cực đại hơn ,

tức là dao động nhanh hơn . Hệ quả là, các trạng thái đan rối cực đại và

entropy đan rối thay đổi một cách đáng kể đối với các mode ban đầu ở trong các trạng thái khác nhau.

Như một hệ quả, cực đại của các entropy đan rối có giá trị thay đổi theo chu kỳ, trong đó có một số giá trị gần bằng 1 ebit tương ứng với sự hình thành

47 của các trạng thái Bell. Để thể hiện rõ ràng hơn, ta có thể trình bày các trạng thái được tạo ra trong cơ sở

, (2.28)

được mở rộng thành các trạng thái kiểu Bell có dạng như sau [20]:

(2.29)

So sánh (2.12) và (2.28), ta tìm được các hệ số khai triển :

(2.30)

Dễ dàng thấy rằng , vì vậy các hình vẽ đối với xác suất

không cần phải trình

để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

bày. Xác suất tìm thấy hệ trong các trạng thái kiểu Bell được trình bày ở các hình từ 2.5 đến 2.7.

t [10-6s] t [10-6s] và Hình 2.5: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

đối với

bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode với

rad/s,

(đường nét liền) và hai mode với

rad/s (đường nét gạch) và

rad/s,

rad/s (đường gạch chấm)

48

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.6: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

đối với

bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode với

rad/s,

(đường nét liền) và hai mode với

rad/s (đường nét gạch) và

rad/s,

rad/s (đường gạch chấm)

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.7: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

đối với bộ

nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode với

rad/s,

(đường nét liền) và hai mode với

rad/s (đường nét gạch) và

rad/s,

rad/s (đường gạch chấm)

49

Từ các hình vẽ ta thấy rằng khi bộ nối được bơm một mode ( ), đối

với các mode ban đầu ở trạng thái , ta tìm được kết quả tương tự như kết

quả trong [20] (Hình 2.5 và Hình 2.6). Đối với các mode ban đầu ở trạng thái

, xác suất tạo ra các trạng thái đan rối cực đại là hàm của thời gian cho các

bộ nối điều khiển đơn mode và hệ cũng có thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell đối

với các trạng thái và (Hình 2.7). Khi bộ nối được bơm hai mode, hệ

có thể tạo ra các trạng thái đan rối cực đại đối với các trạng thái ,

(Hình 2.5) và , (Hình 2.7), nhưng hệ không thể tạo trạng thái đan rối

cực đại cho các trạng thái và (Hình. 2.6). Đặc biệt, khi , các giá

trị cực đại của xác suất là lớn nhất đối với các trạng thái , và ,

trong khi chúng là nhỏ nhất đối với các trạng thái và . Hơn nữa, khi

tham số , xác suất để hệ tồn tại ở trạng thái , và , giảm,

trong khi xác suất để hệ thống tồn tại ở trạng thái và tăng.

Để không bị lặp lại, ở đây chúng tôi không trình bày các hình vẽ về xác

suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell và các entropy đan rối đối với

trường hợp các mode ban đầu ở các trạng thái và bởi vì chúng đã

được trình bày trong các hình vẽ từ 2.4 đến 2.7 khi các mode ban đầu ở các

trạng thái và .

2.2. Bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến

2.2.1. Bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode

2.2.1.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode

Mô hình của một bộ nối phi tuyến được xem xét ở đây vẫn xây dựng dựa

trên hai dao động tử phi tuyến được đặc trưng bởi tính chất phi tuyến Kerr và

tương ứng với hai mode a và b và mode a liên kết tuyến tính với trường

ngoài tương tự như bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính đã trình bày ở phần trên. Ở đây chỉ khác là các dao động tử này được liên kết phi tuyến với nhau. Khi đó, Hamiltonian của hệ chỉ khác so với bộ nối tương tác tuyến tính là thành

50

phần liên kết hai dao động tử là phi tuyến thay cho thành phần tuyến tính

và có dạng như sau [23]:

, (2.31)

trong đó

(2.32)

(2.33)

(2.34)

ở đây chúng tôi chỉ xét trường hợp không có tắt dần, sự tiến triển của hàm sóng

phụ thuộc thời gian được biểu diễn dưới dạng trạng thái Fock n-photon như sau:

, (2.35)

trong đó, là các biên độ xác suất phức tìm hệ trong trạng thái g-photon của

mode a và trạng thái h-photon của mode b.

Sử dụng phương trình Schroedinger trong hình thức luận tương tác, ta được:

, (2.36)

(2.37)

(2.38)

51

(2.39)

Thay (2.37)-( 2.39) vào (2.36) ta thu được kết quả sau:

(2.40)

Đối với trường hợp này vì có quá trình tương tác của hệ với trường ngoài

nên năng lượng của hệ không được bảo toàn. Do đó, khi hệ tiến triển theo thời

gian sẽ có một số trạng thái có số lượng photon lớn. Khi giả thuyết rằng hệ số

phi tuyến thì các phần tử tỉ lệ với và sẽ triệt tiêu do và

, tạo ra các mức năng lượng suy biến. Mặt khác, với giả thiết

phương trình (2.40) chỉ ra rằng biên độ xác suất sẽ dao động nhanh hơn

nhiều so với các biên độ xác suất khác khi . Do đó, áp dụng phương

pháp gần đúng sóng quay [107], người ta bỏ qua sự ảnh hưởng của biên độ xác

suất trong trường hợp này. Từ đó, sự tiến triển của hệ tương ứng với chỉ ba

trạng thái cộng hưởng sau , và . Khi xét trong phép gần

đúng được sử dụng thì tiến triển của hệ chỉ khép kín trong ba trạng thái nói trên.

Khi đó, hàm sóng của hệ được viết lại dưới dạng [108]:

, (2.41)

với p,q = 0,2 là ký hiệu của các mode ở trạng thái đầu và ta thu được các

phương trình chuyển động của các biên độ xác suất có dạng như sau:

52

(2.42)

Giả sử tại thời điểm t = 0, cả hai photon ở mode a và không có photon nào ở

mode b, tức là và ( ). Khi đó dễ

dàng giải hệ phương trình (2.42) để thu được nghiệm có dạng [23]:

(2.43)

trong đó . Hơn nữa khi giả sử tại thời điểm , có một photon ở

mode a và hai photon ở mode b, có nghĩa là và

( ), nghiệm của hệ phương trình (2.42) có thể tìm được dưới dạng:

(2.44)

Mặt khác nếu giả sử rằng tại thời điểm , không có photon nào ở mode a và cả hai photon

ở mode b, có nghĩa là và , ta tìm

được nghiệm của hệ phương trình (2.42) có dạng:

(2.45)

53

Để đánh giá độ chính xác của kết quả giải tích, ta sẽ tính độ tin cậy của

trạng thái ra với trạng thái ban đầu là . Khi đó, sự tiến triển theo thời gian

của trạng thái có dạng sau:

. (2.46)

Độ tin cậy của trạng thái ra được tính bằng biểu thức [85]:

, (2.47)

trong đó

, . (2.48)

Đối với quá trình cắt hoàn hảo thì độ tin cậy sẽ cho giá trị bằng 1. Độ tin

cậy của trạng thái cắt được thể hiện ở Hình 2.8.

t [10-6s]

Hình 2.8: Độ tin cậy của trạng thái cắt trong bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến

được bơm 1 mode. Trong trường hợp hệ số phi tuyến

rad/s,

rad/s

Có thể thấy rằng độ tin cậy của trạng thái cắt chỉ sai khác một lượng

khoảng 10-3 so với giá trị cực đại bằng 1. Điều đó cho thấy trạng thái cắt thu

được có độ chính xác rất cao, tương đương với kết quả thu được trong [23].

54

Ta sẽ sử dụng các biên độ xác suất từ (2.43) đến (2.45) để khảo sát sự tạo

ra các trạng thái đan rối ở phần tiếp theo.

2.2.1.2. Sự tạo ra các trạng thái đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác

phi tuyến được bơm một mode

Ta có thể mong đợi rằng đối với mô hình được xem xét ở đây các trạng

thái kiểu Bell có thể được tạo ra. Để nghiên cứu chi tiết hiện tượng này ta vẽ đồ

thị các xác suất đối với ba điều kiện đầu , và của ba trạng

thái của hệ ở Hình 2.9.

t [10-6s] t [10-6s] t [10-6s] Hình 2.9: Các xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s,

(

),

(

) và

(

)

Từ Hình 2.9, có thể thấy rằng các xác suất này dao động và một số đồ thị

cắt nhau tại những giá trị gần bằng 0,5. Điều này chỉ ra rằng các trạng thái kiểu

Bell có thể được tạo ra trong trường hợp này. Cụ thể, ta quan sát được các cặp

trạng thái và ( ), và ( ) cũng như và

( ) cắt nhau tại những giá trị gần bằng 0,5. Ngoài ra có thể xem xét

các tổ hợp khác của các trạng thái thuần được thảo luận ở đây. Chẳng hạn, các

trạng thái kiểu Bell bao gồm và có thể được xem xét. Sau khi xem

xét kĩ các kết quả của đồ thị ở Hình 2.9, ta thấy rằng các trạng thái kiểu Bell này

55 có thể đóng một vai trò trong sự tiến triển của hệ. Ta quan sát sự giao nhau của

các đồ thị của các xác suất thích hợp, mặc dù các điểm cắt nhau của chúng

tương ứng với giá trị xác suất gần bằng không hoặc một. Vì thế, đối với những

khoảng thời gian này hệ gần như ở trạng thái thuần . Tuy nhiên, có thể

thấy rằng đối với một số khoảng thời gian khác các xác suất này trở nên gần

bằng 0,5, mặc dù chúng không cắt nhau. Cho nên, ta có thể mong đợi trạng thái

kiểu Bell lại được tạo ra. Kết quả là các trạng thái kiểu Bell có thể được hình

thành từ các cặp trạng thái của hệ được xét có dạng như sau:

(2.49)

Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell được tính bởi biểu thức sau:

. (2.50)

Trạng thái (2.41) có thể khai triển trong cơ sở các trạng thái Bell theo dạng:

. (2.51)

Do đó, ta có thể tìm được các hệ số có dạng:

(2.52)

Sự tạo ra các trạng thái đan rối cực đại có thể được mô tả bởi entropy von Neumann như đã trình bày ở chương 1. Để áp dụng cụ thể cho việc tính độ đan rối hình thành trong bộ nối phi tuyến, ở đây ta lần lượt tính các đại lượng sau:

56

(2.53)

Từ đó có thể tính vết thành phần trên mode b như sau

(2.54)

với các trị riêng lần lượt của là:

; và . (2.55)

Kết quả ta thu được biểu thức tính độ đan rối là:

. (2.56)

Sự tiến triển của entropy đan rối được trình bày ở Hình 2.10.

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.10: Entropy đan rối (đơn vị ebit)

(đường nét liền),

(đường nét gạch)

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

57

Các kết quả của ở Hình 2.10 trái tương tự với các kết quả tìm được

trong [23]. Các entropy đan rối thay đổi theo chu kỳ của thời gian tùy thuộc vào

các điều kiện đầu khác nhau và bằng 1 ebit đối với các trạng thái Bell, trong khi

các trạng thái tách ra có giá trị bằng không. Ngoại trừ cực đại thứ hai của ở

Hình 2.10 trái và các cực đại của ở Hình 2.10 phải, giá trị của tất cả các cực

đại còn lại xấp xỉ bằng đơn vị, nghĩa là hệ có thể là nguồn của các trạng thái kiểu

Bell. Như một hệ quả, giá trị của các entropy đan rối thay đổi một cách đáng kể

đối với các điều kiện đầu khác nhau.

Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell với ba điều kiện đầu

, và được trình bày trong

các hình vẽ từ 2.11 đến 2.16.

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.11: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên

trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

58

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.12: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên

trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.13: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên

trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

59

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.14: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên

trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.15: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên

trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

60

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.16: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(đường nét liền),

(đường nét gạch) và

(đường gạch chấm) với

rad/s (Hình bên

trái) và

rad/s,

rad/s (Hình bên phải)

Các giá trị cực đại cao nhất của các xác suất tương ứng với các trạng thái

(Hình 2.11 trái), (Hình 2.12 trái), (Hình 2.15 trái) và

(Hình 2.16 trái) với rad/s xấp xỉ bằng đơn vị, tức là các trạng thái

kiểu Bell được tạo ra đối với hệ được xem xét. Trong khi các trạng thái kiểu Bell

hầu như không được tạo ra với các trạng thái còn lại đối với các hình vẽ bên trái

từ 2.11 đến 2.16. Đối với trường hợp rad/s và rad/s, các giá

trị cực đại xác suất của các trạng thái và (Hình 2.11 phải), và

(Hình 2.12 phải) xấp xỉ bằng 1, tức là các trạng thái kiểu Bell được tạo ra

với độ chính xác cao. Ngược lại các trạng thái kiểu Bell hầu như không được tạo

ra đối với các trạng thái khác của các hình vẽ bên phải từ 2.11 đến 2.16. Như

vậy, hệ có thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell với độ tin cậy cao đối với các giá trị

thích hợp của các tham số và .

61

2.2.2. Bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm hai mode

2.2.2.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm hai mode

Tiếp theo, chúng tôi mở rộng mô hình bộ nối phi tuyến bao gồm hai dao

động tử phi tuyến tương tác phi tuyến với nhau đã trình bày ở trên cho trường

hợp, khi cả hai dao động tử phi tuyến được bơm bởi hai trường kết hợp ngoài.

Lúc đó, trong biểu diễn tương tác Hamiltonian của hệ có dạng như sau:

, (2.57)

giống (2.31), ngoại trừ số hạng [109]:

(2.58)

mô tả liên kết giữa mode b với trường ngoài, trong đó là hệ số của liên kết

giữa chúng. Khi sử dụng phương trình Schroedinger trong hình thức luận tương

tác, ta thu được hệ các phương trình chuyển động cho các biên độ xác suất

như sau:

(2.59)

Sử dụng hình thức luận kéo lượng tử phi tuyến tương tự như trường hợp

bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode, khi đó hàm sóng của

hệ là sự chồng chập của bốn trạng thái , , và được

viết lại dưới dạng [19, 20, 85]:

, (2.60)

trong đó . Thay (2.60) là ký hiệu của các mode ban đầu ở trạng thái

vào (2.59), ta được các phương trình chuyển động cho các biên độ xác suất phức:

62

(2.61)

Ta giả thiết rằng là các số thực, giải hệ phương trình (2.61) với

trạng thái ban đầu là và tìm được các biên độ xác suất có

dạng như sau:

(2.62)

trong đó

(2.63)

Khi giải hệ phương trình (2.61) với các trạng thái ban đầu lần lượt là ,

và , ta tìm được các biên độ xác suất tương ứng có dạng sau:

63

(2.64)

(2.65)

(2.66)

64 Đối với trường hợp một dao động tử phi tuyến được bơm bởi trường ngoài

(β=0), các kết quả thu được giống với kết quả trong [23]. Hơn nữa đối với

trường hợp , kết quả của chúng tôi cũng giống như kết quả [109].

Để đánh giá độ chính xác của kết quả giải tích, ta sẽ tính số độ tin cậy của

các trạng thái với trạng thái ban đầu là ( ). Kết quả số của sự tiến

triển theo thời gian của độ tin cậy đã được chỉ ra ở Hình 2.17. Có thể thấy rằng

độ tin cậy của trạng thái này xấp xỉ bằng đơn vị, nghĩa là kết quả giải tích thu

được là chính xác. Độ lệch của độ tin cậy so với đơn vị luôn nhỏ hơn 1,2.10-3.

Tương tự đối với trạng thái đầu , độ tin cậy nhỏ hơn một ít so với trường

hợp của trạng thái đầu là .

t [10-6s]

Hình 2.17: Sự tiến triển theo thời gian của 1-F tương ứng với trạng thái đầu là

(đường nét liền) và

(đường nét gạch). Trong trường hợp hệ số phi tuyến

rad/s, các cường độ liên kết

rad/s,

rad/s

65

2.2.2.2. Sự tạo ra các trạng thái đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác

phi tuyến được bơm hai mode

Trong phần này chúng tôi cũng sử dụng entropy von Neumann để tính độ

đan rối của các trạng thái . Từ biểu thức (2.60) ta có thể xác định ma trận

mật độ sau khi cắt như sau [109]:

(2.67)

Từ đó, vết thành phần của trạng thái đối với mode b được viết dưới dạng:

(2.68)

Khi đó, độ đan rối của các trạng thái được tính bằng biểu thức sau đây:

, (2.69)

trong đó, có các trị riêng λ1, λ2 lần lượt là:

(2.70)

Đối với mô hình bộ nối phi tuyến được bơm hai mode ở đây, ta sẽ mong

đợi hệ có thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell. Để xem xét cụ thể việc tạo ra các

trạng thái kiểu Bell của hệ, ta vẽ đồ thị các xác suất đối với các điều kiện đầu

, , và của các trạng thái của hệ ở Hình 2.18.

66

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.18: Các xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái

(đường nét liền),

(đường nét gạch),

(đường gạch chấm) và

(đường nét chấm) với

rad/s và các trạng thái đầu tương ứng là

(

),

(

),

(

) và

(

)

Từ đồ thị có thể chỉ ra rằng các xác suất của hệ cắt nhau tại những giá trị

gần bằng 0,5, cụ thể là các cặp trạng thái và ( ) cũng như

và ( ). Điều này chứng tỏ các trạng thái kiểu Bell có thể được

hình thành trong trường hợp này. Hơn nữa, chúng ta có thể nhận thấy rằng đối với

một số khoảng thời gian các xác suất này trở nên gần bằng 0,5, mặc dù chúng

67 không cắt nhau. Cho nên, chúng ta có thể mong đợi các trạng thái kiểu Bell cũng sẽ

được tạo ra trong trường hợp này. Kết quả là các trạng thái kiểu Bell có thể được

hình thành từ các cặp trạng thái của hệ được viết dưới dạng sau:

(2.71)

Tiếp theo, ta có thể biểu diễn hàm sóng thu được (2.60) trong cơ sở các

trạng thái Bell có dạng như sau:

, (2.72)

ở đây là các trạng thái đan rối cực đại.

Từ đó, có thể tìm được các hệ số :

(2.73)

Sự tiến triển của các entropy đan rối , , theo thời gian

và các giá trị khác nhau của cường độ liên kết β với bốn trạng thái ban đầu

tương ứng là , , và được biểu diễn ở Hình 2.19. Sự

đan rối của trạng thái trong hình 2.19 cho thấy rằng các giá trị cực đại của sự

đan rối phụ thuộc vào các giá trị của cường độ liên kết giữa hai mode với các

trường kết hợp ngoài. Khi β = 0, các đỉnh của entropy đan rối thay đổi theo chu

kỳ. Entropy đan rối giống với kết quả thu được trong [23]. Tất cả giá trị các

đỉnh của và đều xấp xỉ bằng 1. Khi β ≠ 0, đỉnh thứ hai của tăng,

trong khi giá trị của một số đỉnh của và giảm và trạng thái của hệ luôn là

68

trạng thái đan rối. Khi β tăng, đỉnh thứ hai của chia thành hai đỉnh và chúng

đạt giá trị xấp xỉ bằng đơn vị và chu kỳ của các entropy đan rối thay đổi. Do đó,

sự hiện diện của β làm thay đổi các giá trị và vị trí của các đỉnh của entropy đan

rối. Hơn nữa, trong cùng một khoảng thời gian, các entropy đan rối và

có nhiều giá trị cực đại hơn so với các kết quả của [23].

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.19: Sự tiến triển của entropy đan rối (đơn vị ebit) của trạng thái cắt đối với các

trạng thái đầu là

(

),

(

),

(

) và

(

) với

rad/s. Đường nét

liền

là cho

, đường nét gạch

là cho

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

69

Các Hình từ 2.20 đến 2.25 chỉ ra các xác suất để hệ tồn tại trong các trạng

thái kiểu Bell (i=1,2,3,...,6) tương ứng với các trạng thái đầu , ,

và .

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.20: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(

),

(

(

) và

(

) tương ứng với các trạng thái đầu

),

,

với

rad/s. Đường nét liền là cho

, đường

,

nét gạch là cho

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

70

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.21: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(

),

(

) và

(

) tương ứng với các trạng thái đầu

,

(

),

với

rad/s. Đường nét liền là cho

, đường

,

nét gạch là cho

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

71

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.22: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

),

,

(

(

) tương ứng với các trạng thái đầu

),

(

) và

với

rad/s. Đường nét liền là cho

, đường

,

nét gạch là cho

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

(

72

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.23: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(

),

(

(

) và

(

) tương ứng với các trạng thái đầu

),

,

với

rad/s. Đường nét liền là cho

, đường

,

nét gạch là cho

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

73

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.24: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(

),

(

(

) và

(

) tương ứng với các trạng thái đầu

),

,

với

rad/s. Đường nét gạch

là cho

,

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

74

t [10-6s] t [10-6s]

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 2.25: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

(

),

(

(

) và

(

) tương ứng với các trạng thái đầu

),

,

với

rad/s. Đường nét gạch

là cho

,

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

75

Khi β = 0, ta thu được kết quả của trường hợp bộ nối liên kết phi tuyến

được bơm một mode đã trình bày ở phần 2.2.1. Đặc biệt, đối với trạng thái đầu

là , kết quả thu được cho trường hợp β = 0 còn trùng với xác suất để hệ

tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell được bơm một mode bởi trường ngoài được

thảo luận ở [23]. Khi β = α, chúng tôi cũng thu được các xác suất để hệ tồn tại

trong các trạng thái kiểu Bell được bơm bởi hai trường ngoài có cùng cường độ

[109].

Từ các Hình vẽ 2.20 đến 2.25, ta thấy rằng các trạng thái đan rối cực đại

có thể được tạo ra cho cả bốn trạng thái đầu , , và với

những giá trị khác nhau của tham số β. Cụ thể, các trạng thái đan rối cực đại

và (Hình 2.20), và (Hình 2.21), và (Hình

2.22), và (Hình 2.23), và (Hình 2.24), và

(Hình 2.25) có thể được tạo ra, ngược lại các trạng thái , ,

, , , , , , , và không thể tạo

ra các trạng thái đan rối cực đại. Như vậy, trong cùng một trạng thái kiểu Bell

đối với bốn điều kiện đầu khác nhau thì có hai điều kiện đầu hệ có thể tạo ra các

trạng thái kiểu Bell, trong khi hai điều kiện đầu còn lại hệ không thể tạo ra các

trạng thái kiểu Bell theo từng cặp và hoặc và . Khi β

càng tăng, trong một trạng thái kiểu Bell đối với bốn điều kiện đầu khác nhau thì

có hai điều kiện đầu giá trị xác suất của các trạng thái tăng, trong khi đối với hai

điều kiện đầu còn lại giá trị xác suất của các trạng thái lại giảm. Các trạng thái

(Hình 2.20), (Hình 2.21), (Hình 2.22), (Hình 2.23),

và (Hình 2.24), và (Hình 2.25) càng xấp xỉ bằng đơn

vị, nghĩa là các trạng thái kiểu Bell được tạo ra với độ chính xác cao, trong khi

các trạng thái còn lại hầu như không tạo ra được các trạng thái kiểu Bell. Hơn

76 nữa, vị trí cực đại và cực tiểu của các xác suất dịch chuyển về phía thời gian

bằng không so với khi β = 0.

Bộ nối phi tuyến được đề cập ở trên còn có nhiều ứng dụng trong các thiết

bị quang học như: cảm biến sợi, bộ tách kênh, cổng logic quang học, các máy

nén xung, máy thu bán dẫn, chuyển mạch quang.

2.3. Kết luận chương 2

Trong chương này, mô hình bộ nối phi tuyến gồm hai dao động tử phi

tuyến liên kết phi tuyến hoặc tuyến tính với nhau và được bơm một mode hoặc

hai mode bởi trường kết hợp ngoài đã được thảo luận.

Bằng cách sử dụng hình thức luận kéo lượng tử phi tuyến, sự tiến triển

của hệ theo thời gian chỉ là sự tổ hợp hữu hạn các trạng thái lượng tử đã được

chỉ ra. Các trạng thái này thay đổi tùy thuộc vào dạng tương tác giữa các mode

và giữa các mode với trường kết hợp ngoài.

Các kết quả thu được cho thấy hệ có thể tạo ra các trạng thái đan rối cực

đại với độ chính xác cao. Tính hợp lý của các kết quả được khẳng định khi so

sánh với các kết quả đạt được trong các công trình trước đó.

Chúng tôi đã mở rộng khảo sát các bài toán đối với các điều kiện đầu khác

nhau. Các kết quả chỉ ra rằng, giá trị và vị trí cực đại của các entropy đan rối và

các xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell thay đổi một cách đáng

kể đối với các điều kiện đầu khác nhau của các phương trình chuyển động của

biên độ xác suất, cũng như với các giá trị khác nhau của các tham số liên kết.

77 Chương 3

ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỄU TRẮNG ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH TRẠNG

THÁI ĐAN RỐI CỰC ĐẠI TRONG BỘ NỐI PHI TUYẾN KIỂU KERR

Một trong những đặc điểm nổi bật của laser là tính đơn sắc cao. Trong

hầu hết các công trình đã nghiên cứu trước đây về bộ nối phi tuyến, người ta cho

rằng ánh sáng laser là đơn sắc. Ở chương này, chúng tôi xem xét ảnh hưởng của

nhiễu trắng đối với khả năng tạo ra các trạng thái lượng tử có độ đan rối cao

trong các bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính hay phi tuyến với nhau và được

bơm một mode hoặc hai mode bởi trường ngoài.

3.1. Trung bình của phương trình vi phân ngẫu nhiên với nhiễu trắng

Trong bức tranh Heisenberg, các phương trình thu được đối với các biến

động lực học là tuyến tính, do đó có thể dễ dàng thu được các phương trình cho

các đại lượng trung bình tương ứng bằng cách sử dụng các kết quả quen thuộc từ

lý thuyết các quá trình ngẫu nhiên [44, 52, 110, 111]. Đối với các vấn đề được

xem xét ở đây, chúng tôi giả sử rằng trường laser được tách thành hai thành phần:

, (3.1)

trong đó là thành phần kết hợp tất định của trường và quá trình ngẫu nhiên

được đặc trưng bởi nhiễu trắng dưới dạng sau:

, (3.2)

trong đó: a0 là tham số liên quan tới thành phần nhiễu, dấu ngoặc kép biểu thị

[44, 52]. Lúc đó, dạng tổng quát

giá trị trung bình trên toàn bộ các quá trình

, (3.3)

của các phương trình động lực học đối với hệ được xem xét được viết như sau:

78

ở đây Q là hàm véctơ theo thời gian và M1, M2 và M3 là các ma trận hằng.

Như đã biết từ lý thuyết quá trình ngẫu nhiên đã được trình bày ở chương

, (3.4)

một, hàm thỏa mãn phương trình trung bình sau [44, 52, 68]:

trong đó là hệ thức phản giao hoán của M2 và M3.

3.2. Các trạng thái có độ đan rối cực đại tạo ra trong bộ nối phi tuyến

kiểu Kerr khi trường laser được mô hình hóa bởi quá trình ngẫu nhiên

3.2.1. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode

Mục tiêu ở đây là xem xét ảnh hưởng của nhiễu trường ngoài và trường liên

kết đối với việc tạo ra các trạng thái đan rối cực đại trong bộ nối phi tuyến Kerr,

bao gồm hai dao động tử phi tuyến lượng tử. Các dao động tử này được ghép tuyến

tính với nhau và một trong số chúng được bơm bởi trường cổ điển bên ngoài, được

giả sử chia thành hai thành phần: thành phần kết hợp và thành phần nhiễu trắng.

Hơn nữa, nghiệm giải tích của phương trình vi phân ngẫu nhiên của biên độ xác

suất mô tả động lực học của hệ sẽ được rút ra cũng như biểu diễn bằng đồ thị và so

sánh chúng với các kết quả thu được trước đó trong tài liệu.

3.2.1.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode

Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode được

xét ở đây là sự mở rộng mô hình đã trình bày ở mục 2.1.1.1 cho trường hợp các

trường liên kết được mô hình hóa bởi nhiễu trắng, tức là trường liên kết được giả

thiết tách thành hai thành phần là phần kết hợp và nhiễu trắng.

Ta giả sử rằng các tham số liên kết và là bằng nhau, khi đó hệ phương trình

chuyển động của các biên độ xác suất (2.13) trở thành hệ phương trình có dạng sau:

79

(3.5)

Bằng cách áp dụng phương trình trung bình (3.4) cho hệ phương trình

chuyển động của các biên độ xác suất (3.5) trong đó các ma trận M1, M2 và M3

có dạng như sau:

, , , (3.6)

Để cho gọn, từ đây trở đi dấu ngoặc kép biểu thị giá trị trung bình đã được bỏ

qua. Khi đó, ta thu được các phương trình chuyển động cho trung bình ngẫu nhiên

của các biên độ xác suất có dạng:

(3.7)

và tham

Hơn nữa, giả sử rằng cả hai mode ban đầu ở trạng thái chân không

,

số liên kết là số thực, ta tìm được nghiệm của các biên độ xác suất phức

có dạng:

80

(3.8)

trong đó .

Có thể dễ dàng thấy rằng khi không có mặt của tham số liên quan đến thành

phần nhiễu , kết quả của chúng tôi giống với kết quả thu được trong [20].

Mặt khác, khi giả sử rằng một mode ban đầu ở trạng thái chân không và mode kia

ban đầu ở trạng thái Fock, cụ thể là trạng thái . Lúc này nghiệm của hệ

(3.9)

phương trình vi phân nói trên cho có dạng sau:

Các biên độ xác suất tìm được ở mục này sẽ được sử dụng để khảo sát sự

sinh các trạng thái đan rối cực đại của hệ trong phần tiếp theo.

3.2.1.2. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự tạo ra các trạng thái đan

rối trong bộ nối tương tác tuyến tính được bơm một mode

Ở đây, chúng tôi sử dụng công thức entropy von Neumann (2.26) cho các

biên độ xác suất ở (3.8) và (3.9) để khảo sát sự ảnh hưởng của nhiễu trắng đối

81 với sự tiến triển của entropy đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính

được bơm một mode. Hình 3.1 mô tả sự tiến triển của entropy đan rối với các

giá trị khác nhau của tham số a0.

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 3.1: Sự tiến triển của các entropy đan rối

(đơn vị ebit) của các trạng

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

thái cắt với

rad/s và đường nét gạch chấm ứng với

rad/s

trở nên giống với kết quả của Miranowicz và

Khi , kết quả của

Leoński [20]. Entropy đan rối có thể đạt đến giới hạn 1 ebit hoặc gần với nó cho

các trạng thái kiểu Bell được hình thành. Vì vậy, nó chứng minh rằng các bộ nối

phi tuyến Kerr với các tương tác tuyến tính giữa các mode trường có thể được coi

là nguồn của các trạng thái đan rối cực đại. Chúng ta có thể thấy rằng trong Hình

có thể đạt đến giới hạn 1 ebit hoặc gần với nó hơn so với

3.1, entropy đan rối

và số lượng các đỉnh nhiều gấp đôi so với số đỉnh của , tức là các dao

động nhanh hơn hai lần. Đối với trường hợp a0 ≠ 0, chúng ta thấy rằng đối với , entropy đan rối tăng chậm trong khoảng 0 < t < 2x10-6s, giảm nhanh trong

khoảng 2x10-6s < t < 6x10-6s và tăng nhanh trong khoảng 6x10-6s < t < 8x10-6s so

với trường hợp không có mặt của tham số a0. Đối với , khi tham số a0 có mặt,

82 entropy đan rối hầu như giảm dần và các đỉnh có chiều cao thấp hơn sẽ biến mất

dần, nhưng khi a0 tăng, các đỉnh lại tách thành hai đỉnh có chiều cao gần bằng nhau. Có thể kết luận rằng nếu có tham số liên quan đến thành phần nhiễu, giá trị

cực đại của entropy đan rối giảm so với trường hợp và các giá trị của

entropy đan rối gần như lớn hơn không, có nghĩa là các trạng thái của hệ hầu như

là trạng thái đan rối. Kết quả là, tham số a0 liên quan đến thành phần nhiễu là một tham số quan trọng để điều khiển việc tạo ra các trạng thái đan rối cực đại.

Để khảo sát ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối cực đại trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm một mode,

chúng tôi sử dụng công thức (2.30) cho các biên độ xác suất tìm được ở (3.8) và

, vì vậy ta không cần phải vẽ các

(3.9). Dễ dàng thấy rằng

đồ thị của xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell .

Trong trường hợp các trạng thái ban đầu là trạng thái chân không hai

mode và trạng thái Fock n-photon , các xác suất để tạo ra các

trạng thái kiểu Bell được mô tả trong các hình từ 3.2 đến 3.4.

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 3.2: Xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và

đường nét gạch chấm ứng với

rad/s

83

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 3.3: Xác suất để hệ tồn tại trong trạng thái Bell

với

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường

nét gạch chấm ứng với

rad/s

t [10-6s] t [10-6s]

Hình 3.4: Xác suất để hệ tồn tại trong trạng thái Bell

rad/s.

với

Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường nét

gạch chấm ứng với

rad/s

84

Khi không có tham số a0, kết quả thu được giống với kết quả trong trong

[20]. Hình 3.2 cho thấy các trạng thái là sự chồng chập của

và , có thể tạo ra các trạng thái đan rối cực đại. Trong khi đó, các

trong hình 3.4, là sự chồng chập của

trạng thái và

, không thể tạo ra các trạng thái đan rối cực đại. Kết quả là, các trạng thái

và không thể trở thành trạng thái đan rối cực đại với trạng thái

ban đầu là các trạng thái chân không. Tuy nhiên, việc tạo ra các trạng thái đan

rối cực đại cho sẽ có khả năng bằng cách giả sử rằng hệ ban đầu

ở trạng thái Fock n-photon , được chỉ ra ở Hình 3.3. Tuy nhiên, khi tham số

, các hình từ 3.2 đến 3.4 chỉ ra rằng các trạng thái đan rối cực đại đến

và đến không được tạo ra, cụ thể là các xác suất đối với sự tồn

tại của các trạng thái đến và đến tương ứng chỉ có thể

đạt 0,793, 0,929, 0,798, 0,790 và 0,790, 0,798, 0,943, 0,844. Những điều này có

thể giải thích rằng sự hiện diện của tham số a0 làm cho giao thoa lượng tử của hệ bị suy yếu khi so sánh với trường hợp tham số này không có mặt.

Đặc biệt, ta thấy rằng khi tham số a0 xuất hiện, trong Hình 3.4, các xác

suất để hệ tồn tại trong trạng thái là lớn hơn và trong Hình 3.3, các đỉnh

càng cao sẽ giảm mạnh hơn trong khi các đỉnh càng thấp thì càng được tăng

cường khi so với trường hợp khi tham số a0 vắng mặt. Điều này có nghĩa là các

xác suất tìm thấy hệ trong trạng thái đan rối ổn định hơn. Ngoài ra, ở phía bên

trái của trạng thái đan rối cực đại, nếu tham số a0 tăng thì các xác suất cho

trong Hình 3.2 giảm và các đỉnh của xác suất có xu hướng tách thành và

hai đỉnh bắt đầu từ đỉnh cực đại, trong khi phía bên phải của trạng thái này, các

xác suất cho tăng hoặc giảm không theo quy luật như bên trái và

của nó. Thêm vào đó, các giá trị tối đa của các xác suất cho đến

85 dịch chuyển về phía thời gian bằng không so với trường hợp không có mặt của

tham số liên quan đến thành phần nhiễu.

Ở trên chúng tôi đã xét các trường hợp cả hai mode ban đầu ở trạng thái

chân không và trạng thái Fock n-photon . Chúng tôi xem xét các

trường hợp khác cho sự tiến triển của hệ khi các mode ban đầu ở trạng thái

, có nghĩa là , trong đó . Khi đó, và

dễ dàng tìm được sự tiến triển của các trạng thái ban đầu của hệ được xem xét ở

đây có dạng sau:

(3.10)

,

,

Từ đó cũng dễ dàng tìm được mối liên hệ giữa các entropy đan rối như sau:

(3.11)

và các biên độ xác suất phức:

(3.12)

Cần lưu ý rằng khi a0 = 0, hệ được xem xét đối với các trạng thái ban đầu

hoặc tiến triển với chu kỳ tương tự thành các trạng thái đan rối cực đại

, hoặc , , tương ứng với độ chính xác cao nhưng không

tiến triển thành các trạng thái hoặc . Điều này trái , ,

ngược với sự tiến triển của hệ đối với các trạng thái ban đầu . hoặc

Khi tham số a0 có mặt, các trạng thái của hệ được xem xét hầu như là các trạng

thái đan rối nhưng không tạo ra các trạng thái đan rối cực đại cho tất cả các

trạng thái ban đầu. Để cho ngắn gọn, chúng tôi không trình bày ở đây các đồ thị

về sự tiến triển của hệ cho các trạng thái đầu và vì chúng đã được

trình bày ở các hình từ 3.1 đến 3.4 cho các trạng thái ban đầu và .

86

3.2.2. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm hai mode

Trong phần này, chúng tôi sẽ nghiên cứu thăng giáng lượng tử của bộ nối

phi tuyến gồm hai dao động tử phi tuyến Kerr. Các dao động tử này liên kết với

nhau bởi tương tác tuyến tính và cả hai mode được kích thích bởi các trường

điện từ ngoài, được mô hình hóa bởi quá trình ngẫu nhiên, cụ thể là nhiễu trắng.

Chúng tôi sẽ tập trung khảo sát sự ảnh hưởng của nhiễu trắng vào khả năng tạo

ra các trạng thái đan rối cực đại. Các trạng thái này có thể được tạo ra với độ

chính xác cao.

3.2.2.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm hai mode

Ở phần trên chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với

khả năng tạo ra các trạng thái đan rối cực đại của bộ nối phi tuyến tương tác

tuyến tính được bơm một mode bởi trường ngoài. Trong phần này chúng tôi tiếp

tục mở rộng khảo sát cho trường hợp bộ nối như trên nhưng được bơm cả hai

mode bởi trường ngoài. Mô hình này tương tự mô hình đã xem xét ở mục

2.1.1.2, chỉ khác là trường ngoài được mô hình hóa bởi nhiễu trắng.

Giả sử các tham số liên kết , lúc đó hệ phương trình chuyển động

của các biên độ xác suất (2.20) được viết lại như sau:

(3.13)

Bằng cách sử dụng phương trình (3.4) cho các phương trình chuyển động (3.13)

trong đó các ma trận hằng M1, M2 và M3 có dạng:

87

, , , (3.14)

ta tìm được hệ các phương trình vi phân trung bình ngẫu nhiên của các biến:

(3.15)

Bằng cách giả thiết rằng cả hai mode ban đầu ở trạng thái chân không và chỉ

xét trường hợp hệ số liên kết là thực, ta tìm được nghiệm của hệ phương trình

(3.16)

(3.15) dưới dạng sau:

trong đó và . Từ phương trình

(3.16), dễ dàng chỉ ra rằng khi , kết quả của chúng tôi giống với kết quả

tìm được trong [20]. Mặt khác, khi thời gian t = 0, một mode ở trạng thái chân

không và mode kia ở trạng thái Fock, cụ thể là trạng thái , ta thu được các

nghiệm cho với có dạng:

(3.17)

88

Có thể sử dụng các biên độ xác suất trong các phương trình (3.16) và (3.17) để xem xét việc tạo ra các trạng thái đan rối cực đại trong bộ nối phi tuyến Kerr ở phần tiếp theo.

3.2.2.2. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự tạo ra các trạng thái đan

rối trong bộ nối tương tác tuyến tính được bơm hai mode

Tương tự như trường hợp bộ nối được bơm một mode, công thức entropy von Neumann (2.26) được áp dụng cho các biên độ xác suất phức tìm được ở (3.16) và (3.17) để xem xét sự tiến triển của entropy đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính được bơm hai mode, khi các trường ngoài và trường liên kết được mô hình hóa bởi nhiễu trắng. Sự tiến triển của các entropy đan rối

và của các trạng thái cắt được chỉ ra trong Hình 3.5.

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.5: Sự tiến triển của các entropy đan rối

(đơn vị ebit) của các

trạng thái cắt với

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng

với

rad/s và đường gạch chấm là cho

rad/s

89

Những kết quả này cho thấy rằng khi tham số , entropy của đan rối

tương tự kết quả thu được trong [20]. Có thể thấy rằng số lượng các đỉnh

của nhiều gấp ba lần của , nghĩa là các dao động theo thời gian của

nhanh hơn ba lần so với của . Cực đại đầu tiên của là cao nhất, trong

khi đối với có ba cực đại cao nhất bằng nhau đó là các cực đại thứ 2, 4 và 5.

Mặt khác, thông tin quan trọng nhất là giá trị cực đại của các entropy đan rối

và gần như xấp xỉ bằng đơn vị. Vì vậy, hệ được xét sẽ tạo ra các trạng

), giá trị của các thái đan rối cực đại thực sự. Khi tham số a0 có mặt (

giảm rất ít và cực đại cao nhất của các entropy đan rối

entropy đan rối và

thay đổi, cụ thể là cực đại thứ tư của là cao nhất, trong khi đối với các cực

đại cao nhất là cực đại thứ 2, 3 và 5 đối với trường hợp và cực đại thứ ba

đối với trường hợp so với trường hợp khi . Tức là, hệ mà ta xem

xét cũng có thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell. Ngoài ra, khi tham số a0 tăng, vị

trí của các cực đại cững dịch chuyển về phía thời gian không. Vì vậy, trong một

khoảng nhất định, số lượng các cực đại tăng lên. Điều này có nghĩa là các chu

kỳ dao động tăng khi a0 tăng so với trường hợp khi . Do đó, tham số a0 là

một tham số quan trọng để điều khiển vị trí của các cực đại cao nhất và số cực

đại của hệ.

Mô hình bộ nối ở đây tương tự với mô hình ở mục 2.1.1.2, vì vậy, để xem xét

sự tạo thành các trạng thái đan rối cực đại của bộ nối phi tuyến tương tác tuyến tính

với nhau và được bơm hai mode bởi trường ngoài, được mô hình hóa bởi nhiễu trắng

chúng tôi sử dụng công thức (2.30) cho các biên độ xác suất phức ở (3.16) và (3.17).

Các xác suất để tìm thấy hệ trong các trạng thái kiểu Bell được biểu thị trong các

hình vẽ từ Hình 3.6 đến Hình 3.8.

90

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.6: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s

và đường gạch chấm là cho

rad/s

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.7: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s

và đường gạch chấm là cho

rad/s

91

t [10-6s]

t [10-6s]

với

Hình 3.8: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

rad/s

rad/s. Đường nét liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

và đường gạch chấm là cho

rad/s

Không khó để thấy rằng và , do đó để cho ngắn gọn,

các đồ thị của xác suất để hệ tồn tại trong các trạng thái kiểu Bell và

,

,

có thể được bỏ qua. Khi tham số , các kết quả của chúng tôi trong Hình

xấp xỉ bằng 1, có nghĩa là hệ thực sự có thể tạo ra các trạng thái

,

,

3.6 và 3.8 giống với các kết quả của [20]. Các xác suất lớn nhất của

kiểu Bell . Điều này trái ngược với các trường hợp

bằng nhau và chỉ

và trong đó các xác suất cực đại của và

đạt 0,235 tức là các trạng thái kiểu Bell không được tạo ra. Khi

tham số , các xác suất lớn nhất của và giảm từ từ, trong khi

,

xác suất lớn nhất của tăng dần. Vì vậy, hệ có thể tạo ra các trạng thái kiểu

. Ngược lại, xác suất lớn nhất của

Bell giảm nhanh

92

chóng, trong khi đó các xác suất lớn nhất của và tăng khi tham số a0

tăng nhưng chúng chỉ đạt các giá trị tương ứng là 0,310 và 0,306. Điều này có

nghĩa là hệ không thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell , và . Hơn

nữa, khi tham số a0 tăng, các xác suất cực đại dịch chuyển về phía thời gian

bằng không, tức là số lượng các đỉnh xác suất tăng lên trong một khoảng thời

gian nhất định. Do đó, tham số a0 liên quan đến thành phần nhiễu cũng là một

tham số quan trọng để kiểm tra một cách có hiệu quả việc tạo ra các trạng thái

kiểu Bell của hệ. Những kết quả này có thể giải thích rằng sự hiện diện của tham

số liên quan đến thành phần nhiễu làm thay đổi giao thoa lượng tử của hệ so với

trường hợp tham số này vắng mặt.

cả hai mode đã được giả định ở

Phần trên đã xét các trường hợp khi

các trạng thái chân không và trạng thái n-photon . Bây giờ chúng

ta xem xét sự tiến triển của hệ khi các mode dao động ban đầu ở các trạng thái

n-photon và , tức là , với . Do đó, sự

tiến triển của các trạng thái ban đầu của hệ được xem xét ở đây có dạng như sau:

(3.18)

Từ đó chúng ta dễ dàng tìm được entropy đan rối như sau:

, , (3.19)

và là:

(3.20)

Điều đáng chú ý là nếu thì hệ đối với các trạng thái ban đầu

,

,

hoặc gần như tiến triển theo chu kỳ thành các trạng thái kiểu Bell tương

hoặc

, với độ tin cậy cao nhưng không tiến triển thành

ứng

,

hoặc

,

93

. Điều này trái ngược với sự tiến triển

các trạng thái

của hệ đối với các trạng thái ban đầu hoặc . Nếu , trạng thái

của hệ là các trạng thái đan rối nhưng hệ không tạo ra các trạng thái kiểu Bell

cho cả bốn trạng thái ban đầu. Tất cả các đồ thị đối với sự tiến triển của hệ cho

các trạng thái ban đầu và đều trùng với các Hình từ 3.5 đến 3.8, vì

vậy để cho ngắn gọn, chúng sẽ không được biểu thị ở đây.

3.2.3. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự hình thành các trạng thái

đan rối trong bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode

Trong phần này chúng tôi sẽ xem xét bộ nối phi tuyến gồm hai dao động tử

phi tuyến liên kết phi tuyến với nhau, và một trong hai mode của bộ nối này được

kích thích bởi một trường thực tế hơn trong trường hợp độ rộng của trường này

được tính đến. Điều này có nghĩa là trường ngoài được giả định phân thành hai

thành phần: nhiễu trắng và tất định. Điều thú vị chủ yếu theo quan điểm của chúng

tôi là những hệ này có thể thay đổi việc tạo ra các trạng thái đan rối cực đại.

3.2.3.1. Mô hình bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode

Ở phần này bộ nối gồm hai dao động tử phi tuyến tương tác phi tuyến với

nhau và một trong hai dao động tử này được bơm bởi trường ngoài được xem

xét. Mô hình này là sự mở rộng mô hình đã trình bày ở mục 3.2.1 cho trường

hợp liên kết giữa hai dao động tử là liên kết phi tuyến thay cho liên kết tuyến

tính. Mô hình này cũng là sự mở rộng của mô hình ở mục 2.2.1 khi trường ngoài

được mô hình hóa bởi nhiễu trắng.

Bằng cách giả sử rằng các tham số liên kết , lúc đó hệ phương trình

chuyển động của các biên độ xác suất (2.42) được viết lại như sau:

(3.21)

94

Từ đó, ta áp dụng phương trình trung bình (3.4) cho các phương trình

chuyển động của các biên độ xác suất phức (3.21) với các ma trận hằng M1, M2

và M3 được viết dưới dạng:

, , , (3.22)

khi đó hệ các phương trình chuyển động cho các biên độ xác suất trở thành các

phương trình trung bình ngẫu nhiên với dạng sau:

(3.23)

Giả sử rằng tại thời điểm ban đầu (t = 0), mode a chứa cả hai photon còn

mode b không chứa photon nào ( ) và tham số liên kết là số thực. Lúc

đó nghiệm của hệ phương trình (3.23) tìm được có dạng như sau:

(3.24)

Mặt khác nếu giả sử rằng khi , mode a chứa một photon và mode b chứa hai

photon ( ) thì nghiệm của hệ phương trình (3.23) có thể tìm được dưới dạng:

(3.25)

95

còn khi ta giả sử tại thời điểm , mode a không chứa photon nào còn mode b

chứa cả hai photon ( ) thì nghiệm của hệ phương trình (3.23) tìm được có dạng:

(3.26)

Từ hệ phương trình (3.26), dễ dàng thấy rằng sự tiến triển của entropy đan rối và

các trạng thái kiểu Bell đối với trường hợp trạng thái ban đầu không phụ

thuộc vào tham số liên quan đến thành phần nhiễu . Điều đó chứng tỏ rằng đối

với trạng thái ban đầu mà mode a không chứa photon nào, còn mode b chứa cả

hai photon thì nhiễu trắng của trường ngoài bơm vào mode a không làm ảnh

hưởng đến sự thăng giáng của hệ được xét. Nghĩa là đối với trường hợp này liên

kết của các mode rất bền vững, không bị ảnh hưởng bởi nhiễu trắng của các

trường liên kết.

Ta có thể sử dụng các biên độ xác suất tìm được trong các phương trình từ

(3.24) và (3.25) để thảo luận về sự tiến triển của entropy đan rối và các xác suất

cho sự tồn tại của hệ ở các trạng thái kiểu Bell đối với các giá trị khác nhau của

ở phần tiếp theo.

tham số

3.2.3.2. Ảnh hưởng của nhiễu trắng đối với sự tạo ra các trạng thái đan

rối trong bộ nối tương tác phi tuyến được bơm một mode

Bộ nối được xem xét ở đây tương tự với bộ nối đã khảo sát ở mục 2.2.1, vì

vậy, để khảo sát sự tiến triển của hệ khi trường ngoài được mô hình hóa bởi nhiễu

trắng, chúng tôi sử dụng công thức (2.56) cho các biên độ xác suất phức tìm được từ

(3.24) đến (3.26). Các entropy đan rối được chỉ ra trong Hình 3.9.

96

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.9: Sự tiến triển của các entropy đan rối (đơn vị ebit)

(đơn vị ebit)

trong bộ nối liên kết phi tuyến được bơm một mode với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm

ứng với

rad/s

Những kết quả này cho thấy rằng khi tham số , entropy đan rối

trong Hình 3.9 giống kết quả tìm được trong [23]. thay đổi theo chu

kỳ và đối với các trạng thái kiểu Bell, chúng có giá trị bằng 1 ebit trong khi đối

với các trạng thái có thể phân tách, chúng có giá trị bằng 0. Hơn nữa, từ sự tiến

cho thấy rằng ngoài cực đại thứ hai của

triển của và , các cực đại

khác hầu như bằng đơn vị trong khi các cực tiểu hầu như bằng không, tức là hệ

này có thể được nghiên cứu như là nguồn của các trạng thái kiểu Bell.

Khi , các entropy đan rối và cũng thay đổi theo chu kỳ thời

gian. Khi tham số tăng, cực đại thứ hai của cũng tăng đến xấp xỉ bằng

đơn vị và khi đó nó tách thành hai vạch trong khi hai cực đại tiếp theo của

và hai cực đại đầu tiên của giảm dần và nhập lại thành một vạch. Như vậy,

97 các entropy tiến triển theo thời gian, khi cực đại này bị giảm xuống thì cực đại

khác lại tăng lên xấp xỉ bằng đơn vị theo tham số . Điều đó có nghĩa là hệ

được xét cũng có thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell. Ngoài ra, các cực tiểu của

các entropy đều khác không khi tăng. Điều đó có nghĩa là các trạng thái của

hệ trong trường hợp này luôn là trạng thái đan rối. Hơn nữa, cường độ và vị trí

cực đại của các entropy đan rối cũng thay đổi theo thời gian khi tham số tăng.

Bộ nối được xem xét ở đây tương tự với bộ nối đã khảo sát ở mục 2.2.1, vì

vậy, để khảo sát sự tạo ra các trạng thái đan rối cực đại của bộ nối này khi trường

ngoài được mô hình hóa bởi nhiễu trắng, chúng tôi sẽ sử dụng công thức (2.52) cho

các biên độ xác suất phức tìm được từ việc giải hệ phương trình (3.23). Các Hình từ

3.10 đến 3.15 biểu diễn các xác suất cho sự tồn tại của hệ ở các trạng thái kiểu

Bell với các giá trị khác nhau của tham số liên quan đến thành phần nhiễu .

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.10: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s

98

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.11: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.12: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s

99

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.13: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.14: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s

100

t [10-6s]

t [10-6s]

Hình 3.15: Xác suất để hệ tồn tại ở các trạng thái kiểu Bell

với

rad/s. Đường nét

liền ứng với

, đường nét gạch ứng với

rad/s và đường gạch chấm ứng với

rad/s

Khi , các kết quả thu được (đường nét liền trong các hình vẽ từ 3.10

đến 3.15) giống với các kết quả đã tìm được cho trường hợp bộ nối phi tuyến

tương tác phi tuyến được bơm một mode bởi trường ngoài ở chương 2. Các giá

trị của cực đại cao nhất của các xác suất tương ứng với các trạng thái (Hình

3.10), (Hình 3.11), (Hình 3.14) và (Hình 3.15) xấp xỉ bằng đơn

vị. Điều này có nghĩa là các trạng thái kiểu Bell được tạo ra, trong khi các trạng

thái đan rối cực đại không được tạo ra đối với các trạng thái còn lại. Đối với

trường hợp khi tham số càng tăng, các cực đại lớn nhất của các xác suất gần

bằng đơn vị của các trạng thái kiểu Bell (Hình. 3.10), (Hình. 3.11),

(Hình. 3.14) và (Hình. 3.15) càng giảm, trong khi các cực đại xác suất

có giá trị từ 0,5 trở xuống lại được tăng cường (từ Hình 3.10 đến 3.15) so với

khi không có mặt của tham số . Do đó, hệ được xem xét có thể tạo ra các trạng

101 là nhỏ, trong khi đối với giá trị lớn, thái kiểu Bell khi giá trị của tham số

các trạng thái đan rối cực đại không thể sinh ra trong hệ. Những kết quả này có

thể được giải thích rằng giao thoa lượng tử của hệ được khảo sát trở nên yếu hơn

khi tham số tăng. Ngoài ra có một số xác suất cực tiểu để của hệ luôn lớn hơn

không, nghĩa là các trạng thái này luôn tồn tại ở trạng thái đan rối. Cụ thể, Hình

3.13 cho thấy rằng khi tham số tăng, một số xác suất cực đại của hệ tồn tại ở các

trạng thái và tăng trong khi các xác suất khác giảm và các xác suất cực tiểu

để tìm thấy hệ ở các trạng thái này giảm dần về 0. Điều đó có nghĩa là các xác suất để

hệ tồn tại ở các trạng thái đan rối này là không ổn định.

Các trạng thái kiểu Bell được tạo ra trong các bộ nối phi tuyến kiểu Kerr

nghiên cứu ở đây sẽ được ứng dụng trong các công nghệ như mật mã lượng tử,

viễn tải lượng tử hay máy tính lượng tử. Mật mã lượng tử khai thác chính bản

chất vật lý của các trạng thái lượng tử. Nó cho phép bảo mật thông tin truyền đi

bằng truyền thông quang, qua sợi quang hay qua không gian với thông tin được

bảo mật tuyệt đối. Khi viễn tải lượng tử toàn bộ thông tin của qubit được truyền

chính xác trong không gian mà không cần sự di chuyển của vật thể mang qubit.

Máy tính lượng tử xuất hiện sẽ là thiết bị dùng trực tiếp các trạng thái đan rối

lượng tử để thực hiện những phép toán phức tạp của dữ liệu vào nhanh hơn rất

nhiều bất kỳ một máy tính hiện tại sử dụng các thuật toán tối ưu nhất hiện nay.

3.3. Kết luận chương 3

Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu bộ nối phi tuyến gồm hai dao

động tử phi tuyến được ghép tuyến tính hoặc phi tuyến với nhau và một hoặc cả

hai dao động tử này được bơm bởi các trường ngoài. Các trường ngoài này được

mô hình hóa bởi nhiễu trắng.

Bằng cách sử dụng hình thức luận kéo lượng tử phi tuyến, chúng tôi đã

chỉ ra rằng sự tiến triển của hệ đối với trường hợp các mode ban đầu ở trạng thái

102 chân không hoặc ở trạng thái Fock n-photon được khép kín trong một tập hợp

hữu hạn của các trạng thái Fock n-photon.

Các kết quả cho thấy rằng khi không có tham số liên quan đến thành phần

nhiễu a0, hệ đã tạo ra các trạng thái đan rối cực đại. Hơn nữa, khi tham số a0 có

giá trị nhỏ, hệ cũng có thể tạo ra các trạng thái đan rối cực đại so với khi không

có mặt của tham số a0. Vì vậy, hệ được xét có thể được xem là nguồn của các

trạng thái đan rối cực đại. Ngoài ra, vị trí các cực đại xác suất để hệ tồn tại trong

các trạng thái kiểu Bell bị dịch chuyển so với khi không có tham số a0. Kết quả

là, tham số a0 liên quan đến thành phần nhiễu là một tham số quan trọng để điều

khiển việc tạo ra các trạng thái đan rối cực đại.

Chúng tôi tin rằng mô hình được xét ở đây là thực tế hơn so với mô hình

được khảo sát trong trường hợp không có nhiễu trắng, bởi vì cường độ của

trường laser được sử dụng trong thực nghiệm luôn chứa một số thành phần

thăng giáng.

103 KẾT LUẬN CHUNG

Khi sự thăng giáng của laser được xét đến trong thực nghiệm, ta sử dụng

quá trình ngẫu nhiên để mô hình hóa ánh sáng laser. Khi đó, các phương trình

động lực học của hệ được xét trở thành các phương trình vi phân ngẫu nhiên. Việc

lấy trung bình các phương trình vi phân ngẫu nhiên này cho ta khả năng phản ánh

sự ảnh hưởng của các thăng giáng laser vào các đại lượng nguyên tử được xem

xét. Hầu hết các mô hình ngẫu nhiên của laser có đặc điểm chung: laser là một

trường điện từ cổ điển và là quá trình ngẫu nhiên Gauss dừng với thời gian tương

quan hữu hạn. Việc lấy trung bình giải tích chính xác các phương trình vi phân

ngẫu nhiên với nhiễu Gauss có thời gian tương quan hữu hạn là rất khó. Chỉ

trường hợp đặc biệt của nhiễu trắng đã được nghiên cứu một cách đầy đủ và thu

được nhiều kết quả thú vị. Trong luận án này, chúng tôi đã nghiên cứu việc tạo ra

các trạng thái lượng tử có độ đan rối cao trong các bộ nối phi tuyến tương tác

tuyến tính hay phi tuyến với nhau được bơm một mode hoặc hai mode bởi trường

ngoài đơn sắc, hay được mô hình hóa bởi nhiễu trắng với các điều kiện đầu khác

nhau của các phương trình vi phân và đã thu được những kết quả mới, thú vị. Từ

đó, chúng tôi rút ra được những kết luận chính sau:

1. Bằng cách sử dụng hình thức luận kéo lượng tử phi tuyến, đề tài đã chỉ

ra rằng sự tiến triển của hệ đối với các bộ nối phi tuyến có thể được khép kín

trong một tập hợp hữu hạn các trạng thái n-photon. Cụ thể, sự tiến triển của hệ

được giới hạn trong bốn trạng thái , , và đối với bộ nối

phi tuyến tương tác tuyến tính, ba trạng thái , và đối với bộ

nối phi tuyến tương tác phi tuyến được bơm một mode và bốn trạng thái

, , và đối với bộ nối phi tuyến tương tác phi tuyến

được bơm hai mode.

2. Các bộ nối phi tuyến có thể được xem là nguồn của các trạng thái đan

rối cực đại. Các entropy đan rối và trạng thái kiểu Bell của hệ thay đổi một cách

đáng kể đối với các điều kiện đầu khác nhau của hệ các phương trình chuyển

động của các biên độ xác suất.

104

3. Hệ được xem xét có thể tạo ra các trạng thái kiểu Bell với độ tin cậy

cao đối với trường hợp trường liên kết không có nhiễu. Khi trường liên kết được

mô hình hóa bởi nhiễu trắng, xác suất cực đại để hệ tồn tại trong các trạng thái

có độ đan rối cao giảm và vị trí cực đại cũng thay đổi nhưng hệ vẫn có thể tạo ra

các trạng thái kiểu Bell đối với trường hợp giá trị của tham số liên quan đến

rad/s đối với bộ nối phi tuyến tương thành phần nhiễu a0 là nhỏ, cụ thể

rad/s đối với bộ nối phi tuyến

tác tuyến tính được bơm hai mode và

tương tác phi tuyến được bơm một mode.

4. Tham số liên quan đến thành phần nhiễu a0 là một tham số quan trọng

để điều khiển việc tạo ra các trạng thái có độ đan rối cực đại.

5. Mô hình được xem xét khi trường liên kết được mô hình hóa bởi quá

trình ngẫu nhiên là thực tế hơn so với mô hình được khảo sát trong trường hợp

trường liên kết là đơn sắc, bởi vì cường độ của trường liên kết được sử dụng

trong thực nghiệm luôn chứa một số thành phần thăng giáng. Các kết quả thu

được là hữu ích để các nhà thực nghiệm lựa chọn mô hình của laser khi nghiên

cứu thực nghiệm về thăng giáng lượng tử trong các bộ nối phi tuyến. Nó cũng là

nền tảng để nghiên cứu các ứng dụng trong xử lý thông tin lượng tử, truyền

thông tin quang và chế tạo máy tính lượng tử.

Trong tương lai, luận án có thể mở rộng nghiên cứu ảnh hưởng của trường

liên kết được mô hình hóa bởi nhiễu trắng đối với bộ nối gồm hai dao động tử

phi tuyến tương tác phi tuyến với nhau được bơm hai mode bởi trường ngoài.

Ngoài ra, luận án hoàn toàn có thể phát triển cho bộ nối gồm ba dao động tử phi

tuyến liên kết tuyến tính hoặc phi tuyến với nhau.

Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã được trình bày trong một số hội

thảo khoa học chuyên ngành trong nước và quốc tế. Các kết quả nghiên cứu

chính trong luận án cũng đã được công bố trên các tạp chí uy tín trong nước và

quốc tế.

105 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

[1] D.Q. Khoa, L.T.T. Oanh, C.V. Lanh, N.T. Dung, N.V. Hoa, “Generation of

entangled states by a nonlinear coupler pumped in one mode induced by

broadband laser”, Optical and Quantum Electronics 52 (2020) 13(1-12).

[2] L.T.T. Oanh, D.Q. Khoa, C.V. Lanh, H.M. Dong, N.T. Dung, N.T. Thao, N.X. Cuong,

“Generation of entangled states by a linear coupling coupler pumped in two modes

induced by broadband laser”, Optik - International Journal for Light and Electron

Optics 208 (2020) 164028(1-8).

[3] N.T. Anh, L.T.T. Oanh, C.V. Lanh, N.T. Dung, H.M. Dong, D.Q. Khoa,

“Broadband laser-driven creation of entangled state for a nonlinear

coupling coupler pumped in one mode”, has been accepted for publication

in Optical and Quantum Electronics.

[4] D.Q. Khoa, L.T.T. Oanh, C.V. Lanh, N.T. Dung, D.H. Son, “Generation of

maximally entangled states by a Kerr-like nonlinear coupler interacting

with external fields”, Communications in Physics 3 (2019) 223-240.

[5] L.T.T. Oanh, C.V. Lanh, N.T. Mạnh, D.Q. Khoa, “Entangled state

generation in a linear coupling coupler”, Vinh University Journal of

Science 49 (2020) 38-45.

[6] L.T.T. Oanh, D.H. Sơn, C.V. Lanh, H.Q. Quy, D.Q. Khoa, “Entangled state

generation by a Kerr-like nonlinear coupling couple”, Journal of Military

Science and Technology 61 (2019) 170-175.

[7] D.Q. Khoa, L.T.T. Oanh, C.V. Lanh, N.T. Dung, N.V. Hoa, “Finite-

dimensional states and entanglement generation”, Tan Trao University

Journal of Science 7 (2018) 97-101.

[8] N.T.H. Sang, L.T.T. Oanh, C.V. Lanh, D.Q. Tuan, L.T. Thuy, L.T.T. Binh,

D.Q. Khoa, “Generation of maximally entangled states in pumped

nonlinear couplers induced by broadband laser light”, Journal of Military

Science and Technology, Special Issue 48A (2017) 122-127.

106 TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] A. Einstein, B. Podolsky, B. Rosen (1935), Can quantum-mechanical

description of physical reality be considered complete, Phys. Rev, 47, 777.

[2] A. Luk, V. Perinov, Z. Hradil (1988), Nonstationary Casimir effect in

cavities with two resonantly coupled modes, Acta. Phys. Pol. 74, 713.

[3] M.K. Olsen (2015), Spreading of entanglement and steering along small

Bose-Hubbard chains, Phys. Rev. A 92, 033627.

[4] X.T. Zou, L. Mandel (1990), Photon-antibunching and sub-Poissonian

photon statistics, Phys. Rev. A 41, 475.

[5] L.M. Duan, G. Giedke, J.I. Cirac and P. Zoller (2000), Inseparability

Criterion for Continuous Variable Systems, Phys. Rev. Lett. 84, 2722.

[6] M. Hillery and M. S. Zubairy (2006), Entanglement Conditions for Two-

Mode States, Phys. Rev. Lett. 96, 050503.

[7] C.T. Lee (1990), Higher-order criteria for nonclassical effects in photon

statistics, Phys. Rev. A 41, 1721.

[8] M. Hillery (2000), Quantum Key Distribution with Continuous Variables

in Optics, Phys. Rev. A 61, 022309.

[9] A. Ekert (1991), Quantum cryptography based on Bell’s theorem, Phys.

Rev. Lett. 67, 661.

[10] C.H. Bennett, G. Brassard, C. Crepeau, R. Jozsa, A. Peres, W.K. Wootters

(1993), Teleporting an unknown quantum state via dual classical and

Einstein-Podolsky-Rosen channels, Phys. Rev. Lett. 70, 1895.

[11] C.H. Bennett, S.J. Wiesner (1992), Communication via one- and two-particle

operators on Einstein-Podolsky-Rosen states, Phys. Rev. Lett. 69, 2881.

107 [12] M. Stobińska, A.S. Villar, G. Leuchs (2011), Qubit-qubit entanglement

dynamics control via external classical pumping and Kerr nonlinearity

mediated by a single detuned cavity field powered by two-photon

processes, Euro. Phys. Lett. 94, 54002.

[13] A. Miranowicz, R. Tanaś, S. Kielich, (1990), Generation of discrete

superpositions of coherent states in the anharmonic oscillator model,

Quant. Opt. 2, 253.

[14] M. Paprzycka, R. Tanaś (1992), Quantum - optical states in finite -

dimensional Hibert space, J. Eur. Opt. Soc. B 4, 331.

[15] M. Stobińska, H. Jeong, and T. C. Ralph (2007), Violation of Bell’s

inequality using classical measurements and nonlinear local operations,

Phys. Rev. A 75, 052105.

[16] H. Wang, X. Gu, Y.X. Liu, A. Miranowicz, F. Nori (2015), Photon

blockade in a double-cavity optomechanical system with nonreciprocal

coupling, Phys. Rev. A 92, 033806.

[17] V. Peřinová, A. Lukš, J. Křapelka (2013), Dynamics of nonclassical

properties of two-and four-mode Bose-Einstein condensates, J. Phys. B:

At. Mol. Opt. Phys. 46, 195301.

[18] W. Leoński (1996), Quantum and classical dynamics for a pulsed

nonlinear oscillator, Physica A 233, 365.

[19] W. Leoński, A. Kowalewska-Kudłaszyk (2011), Quantum scissors -

Finite-dimensional states engineering, Progress in Optics 56, 131.

[20] A. Miranowicz, W. Leoński (2006), Two-mode optical state truncation

and generation of maximally entangled states in pumped nonlinear

couplers, J. Phys. B: Atomic, Molecular and Optical Physics, 39, 1683.

108 [21] W. Leoński, A. Miranowicz (2004), Kerr nonlinear coupler and

entanglement, J. Opt. B 6, S37.

[22] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński, J. Peřina Jr. (2011), Photon-

number entangled states generated in Kerr media with optical

parametric pumping, Phys. Rev. A 83, 052326.

[23] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński (2006), Finite-dimensional states and

entanglement generation for a nonlinear coupler, Phys. Rev. A 73, 042318.

[24] Z. Zhang, M.O. Scully, G.S. Agarwal (2019), Quantum entanglement

between two magnon modes via Kerr nonlinearitydriven far from

equilibrium, Phys. Rev. Resaerch 1, 023021.

[25] J. K. Kalaga, A. Kowalewska-Kudłaszyk, M. W. Jarosik, R. Szczȩśniak,

W. Leoński (2019), Enhancement of the entanglement generation via

randomly perturbed series of external pulses in a nonlinear Bose-

Hubbard dimer, Nonlinear Dynamics 97, 1619.

[26] Z.B. Yang, J.S. Liu, H. Jin, Q.H. Zhu, A.D. Zhu, H.Y. Liu, Y. Ming,

R.C. Yang (2020), Entanglement enhanced by Kerr nonlinearity in a

cavity- optomagnonics system, Optics Express 28, 31862.

[27] K.M. Birnbaum, A. Boca, R. Miller, A.D. Boozer, T. E. Northup, H.J.

Kimble (2005), Photon blockade in an optical cavity with one trapped

atom, Nature 436, 87.

[28] A. Miranowicz, J. Bajer, M. Paprzycka, Y. Liu, A.M. Zagoskin, F. Nori

(2014), State-dependent photon blockade via quantum-reservoir

engineering, Phys. Rev. A 90, 033831.

[29] Y. Liu, A. Miranowicz, Y.B. Gao, J. Bajer, C.P. Sun, F. Nori (2010),

Qubit-induced phonon blockade as a signature of quantum behavior in

nanomechanical resonators, Phys. Rev. A 82, 032101.

109 [30] N. Didier, S. Pugnetti, Y.M. Blanter, R. Fazio (2011), Detecting phonon

blockade with photons, Phys. Rev. B 84, 054503.

[31] Li-hui Sun, Gao-xiang Li, Z Ficek (2012), Coherence and entanglement

in a nanomechanical cavity, Phys.Rev. A 85, 022327.

[32] Q. Ho Quang, S. Vu Ngoc, T. Nguyen Thi Thanh, H. Nguyen Van

(2010), Nonlinear coupler for optical fiber Mach-Zehnder

interferometer, Communications in Physics 20, 45.

[33] Q. Ho Quang, S. Vu Ngoc, T. Nguyen Thi Thanh, H. Nguyen Van

(2012), Using a nonlinear coupler to sort a sequence of weak and strong

pulses, Proc. Natl. Conf. Theor. Phys. 37, 193.

[34] A. Nguyen Ba (1991), Squeezed excitons in semiconductors, Modern

Physics Letters B 5, 587.

[35] A. Nguyen Ba (1992), Squeezed states of biexcitons in excited

semiconductors, International Journal of Modern Physics B 6, 395.

[36] A. Nguyen Ba, D. Truong Minh (2002), Even and odd trio coherent

states: Antibunching and violation of Cauchy-Schwarz inequalities,

Journal of Optics B: Quantum and Semiclassical Optics 4, 289.

[37] A. Nguyen Ba, T. Vo (1999), General multimode sum-squeezing,

Physics Letters A 261, 34.

[38] A. Nguyen Ba, T. Vo (2000), General multimode difference-squeezing,

Physics Letters A 270, 27.

[39] D. Truong Minh, H. Nguyen Thi Xuan, A. Nguyen Ba (2014), Sum

squeezing, difference squeezing, higher-order antibunching and

entanglement of two-mode photon-added displaced squeezed states, Int.

J. Theor. Phys. 53, 899.

110 [40] A. Nguyen Ba, J. Kim, K. Kim (2011), Generation of cluster-type

entangled coherent states using weak nonlinearities and intense laser

beams, Quantum Information and Computation 11, 0124.

[41] H. Nguyen Thi Xuan, D. Truong Minh (2016), Nonclassical properties

and teleportation in the two-mode photon-added displaced squeezed

states, International Journal of Modern Physics B 30, 1650032.

[42] A. Nguyen Ba, J. Kim (2008), Joint remote state preparation, Journal of

Physics B: Atomic, Molecular and Optical Physics 41, 095501.

[43] D. Truong Minh, D. Dang Huu, D. Tran Quoc (2020), Higher-order

nonclassical properties of nonlinear charge pair cat states, Journal of

Physics B: Atomic, Molecular and Optical Physics 53, 025402.

[44] V. Cao Long, M. Trippenbach (1986), Photoelectron spectra induced by

broad-band chaotic light, Z. Phys. B 63, 267.

[45] V. Cao Long, K. Doan Quoc (2012), An exact soluble equation for the

steady state probability distribution in a nonlinear system, application to

the noise reduction in Raman ring laser. Opt. Quant. Electron. 43, 137.

[46] K. Doan Quoc, T. Bui Dinh, V. Cao Long, W. Leoński (2013), A

stochastic model of the influence of buffer gas collisions on Mollow

spectra, Eur. Phys. J. Spec. Top. 222, 2241.

[47] K. Doan Quoc, V. Cao Long, L. Chu Van, H. Nguyen Van, H. Nguyen Ngoc

(2016), Mollow spectrum influenced by collisional fluctuations described by

a stochastic model of collisions, Opt. Quant. Electron. 48, 45.

[48] K. Doan Quoc (2016), Noise reduction in a Raman ring laser by two-

telegraph pre-Gaussian pump, Opt. Quant. Electron. 48, 323.

[49] K. Doan Quoc, V. Cao Long, W. Leoński (2012), A broad-band laser-driven

double Fano system—photoelectron spectra, Phys. Scr. 86, 045301.

111 [50] K. Doan Quoc, V. Cao Long, W. Leoński (2012), Electromagnetically

induced transparency for Λ-like systems with a structured continuum and

broad-band coupling laser, Phys. Scr. T 147, 014008.

[51] K. Doan Quoc, V. Cao Long, L. Chu Van, P. Huynh Vinh (2016),

Electromagnetically induced transparency for Λ-like systems with

degenerate autoionizing levels and a broadband coupling laser, Optica

Applicata 46, 93.

[52] K. Doan Quoc, D. Nguyen Ba, T. Thai Doan, Q. Ho Quang, V. Cao

Long, W. Leoński, (2018), Broadband laser-driven electromagnetically

induced transparency in three-level systems with a double Fano

continuum, J. Opt. Soc. Am. B 35, 1536.

[53] M. Sargent, M.O. Scully, W.E. Lamb (1974), Laser Physics, Addison

Wesley, Reading.

[54] G.E. Uhlenbeck, L.S. Ornstein (1930), On the theory of the Brownian

motion, Phys. Rev. 36, 823.

[55] J.L. Doob (1942), The Brownian movement and stochastic equations,

Annals of Math. 43, 351.

[56] R. Short, L. Mandel, R. Roy (1982), Correlation Functions of a Dye Laser:

Comparison between Theory and Experiment, Phys. Rev. Lett. 49, 647.

[57] K. Kaminishi, R. Roy, R. Short, L. Mandel (1981), Investigation of

photon statistics and correlations of a dye laser, Phys. Rev. A 24, 370.

[58] W.H. Louisell (1973), Quantum Statistical Properties of Radiation, John

Wiley and Sons, New York.

[59] H. Haken (1966), Theory of intensity and phase fluctuations of a

homogeneously broadened laser, Z. Phys. 190, 327.

112 [60] R. Graham, M. Höhnerbach, A. Shenzle (1982), Statisticalproperties of

light from a dye laser, Phys. Rev. Lett. 48, 1396.

[61] S.N. Dixit, P.S. Sahni (1983), Nonlinear stochastic processes driven by

colored noise: Application to dye-laser statistics, Phys. Rev. Lett, 50,

1273.

[62] P. Zoller, G. Alber, R. Salvador (1981), ac Stark splitting in intense

stochastic driving fields with Gaussian statistics and non-Lorentzian line

shape, Phys. Rev. A 24, 398.

[63] M. Abramowitz, I.A. Stegun (1964), Handbook of Mathematical

Functions, Natl. Bur. Stand. Washington.

[64] E. Janke, F. Emde, F. Lösch (1977), Special functions, Nauka, Moscow.

[65] P. Zoller (1979), Ac stark splitting in double optical resonance and

resonance fluorescence by a nonmonochromatic chaotic field, Phys. Rev. A

20, 1019.

[66] N.G. Van Kampen (2007), Stochastic Processes in Physics and

Chemistry, North-Holland Publishing Company, Amsterdam.

[67] R.F. Fox (1978), Gaussian stochastic processes in physics, Phys. Rep, 48, 181.

[68] S.N. Dixit, P. Zoller, P. Lambropoulos (1980), Nonlinear orentzian laser

line shapes and the reversed peak asymmetry in double optical

resonance, Phys. Rev. A 21, 1289.

[69] J. Peřina (1984), Quantum statistics of linear and nonlinear optical

phenomena, D. Reidel Publishing Company, Kulwer Academic Publisher

Group.

[70] C.C. Gerry, P.L. Knight (2005), Introductory quantum optics, Cambridge

University Press.

113 [71] R. Glauber (1963), Coherent and incoherent states of the radiation field,

Phys. Rev. 131, 2766.

[72] R. Glauber (1963), Photon correlations. Phys. Rev. Lett., 10, 84.

[73] V. Buzek, A.D. Wilson-Gordon, P.L. Knight, W.K. Lai (1992), Coherent

states in a finite-dimensional basis: Their phase properties and

relationship to coherent states of light. Phys. Rev. A 45, 8079.

[74] A. Miranowiacz, K. Piatek, R. Tanaś (1994), Coherent states in a finite-

dimensional Hilbert space, Phys. Rev. A 50, 3423.

[75] L.M. Kuang, F.B. Wang, Y.G. Zhou (1993), Dynamics of harmonic-

oscillator in a finite-dimensional Hilbert-space, Phys. Lett. A 183, 1.

[76] B. Schumacher (1995), Quantum coding, Phys. Rev. A 51, 2738.

[77] Cao Long Vân (2005), Tin học lượng tử và máy tính lượng tử (II), Tạp

chí Ứng dụng Toán học 3, 77.

[78] R. Mark (2005), Preparation of Entangled States and Quantum Teleportation

with Atomic Qubits, Innsbruck University Press 14, 89.

[79] J.S. Bell (1964), On the einstein podolsky rosen paradox, Physics 1, 195.

[80] J.F. Clauser, M.A. Horne, A. Schimony, R.A. Holt (1969), Proposed

experiment to test local hidden-variable theories, Phys. Rev. Lett. 23, 880.

[81] B.C. Sanders (1989), Quantum dynamics of the nonlinear rotator and the

effects of continual spin measurement, Phys. Rev. A 40, 2417.

[82] D. Sych, G. Leuchs (2009), A complete basis of generalized bell states,

New J. Phys. 11, 013006.

[83] L. Henderson (2003), The von Neumann Entropy, Brit. J. Phil. Sci. 54, 291.

114 [84] G. Jaeger (2009), Entanglement information and the interpretation of

quantum mechanics, Phys. Rev. A 18, 50.

[85] M. Nielsen, I. Chuang (2010), Quantum Computation and Quantum

Information, Cambridge University Press.

[86] W.K. Wootters (2001), Entanglement of fomation and concurrente, Quantum

information and computation, J. Phys. B: At. Mol. Opt. Phys, 1, 27.

[87] Cao Long Vân, Đinh Xuân Khoa, Trippenbach Marek (2010), Nhập môn

quang học phi tuyến, NXB GD, Hà Nội.

[88] L.D. Landau, E.M. Lifshitz (1975), Điện động lực học các môi trường

liên tục, NXB KHKT.

[89] C. Christopher, P.L. Knight (2010), Introductory Quantum Optics,

Cambridge University Press.

[90] J. Peřina Jr, J. Peřina (2000), Quantum statistics of nonlinear optical

couplers, In E. Wolf (Ed.), Progress in optics, Amsterdam, Elsevier.

[91] J. Bajer, M. Dusek, J. Fiurasek, Z. Hradil, A. Luks, V. Perinova, J.

Rehacek, J. Peřina, O. Haderka, M. Hendrych, J. Peřina Jr, N. Imoto,

M. Koashi, A. Miranowicz (2001), Nonlinear phenomena in quantum

Optics, in M. Evans (Ed.), Contemporary optics and electrodynamics.

New York, Wiley.

[92] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński (2009), Sudden death and birth of entanglement effects for Kerr-nonlinear coupler, J. Opt. Soc. Am. B 26,

1289.

[93] W. Leoński, R. Tanaś (1994), Possibility of producing the one-photon state in a kicked cavity with a nonlinear Kerr medium, Phys. Rev. A 49, R20.

115 [94] W. Leoński, S. Dyrting, R. Tanaś (1997), Fock states generation in a

kicked cavity with a nonlinear medium, J. Mod. Opt. 44, 2105.

[95] W. Leoński (1996), Fock states in a Kerr medium with parametric

pumping, Phys. Rev. A 54, 3369.

[96] S.Ya. Kilin, D.B. Horoshko (1995), Fock state generation by the

methods of nonlinear optics, Phys. Rev. Lett. 74, 5206.

[97] W. Leoński, A. Miranowicz (2004), Kerr nonlinear coupler and

entanglement, J. Opt. B: Quantum and Semiclass. Opt. 6, S37.

[98] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński (2010), The phase of the

coupling effect on entanglement decay in nonlinear coupler system,

Phys. Scr. T140, 014050.

[99] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński (2010), Squeezed vacuum

reservoir effect for entanglement decay in the nonlinear quantum

scissors system, J. Phys. B: At. Mol. Opt. Phys. 43, 205503.

[100] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński (2010), Sudden death of

entanglement and its rebirth in a system of two nonlinear oscillators,

Phys. Scr. T140, 014051.

[101] A. Kowalewska-Kudłaszyk, W. Leoński, J. Peřina Jr (2011), Photon-

number entangled states generated in Kerr media with optical

parametric pumping, Phys. Rev. A 83, 052326.

[102] Nguyễn Thị Thanh Tâm (2011), “Giao thoa kế Mach-Zehnder sợi quang phi tuyến hai cổng”, Luận án tiến sĩ vật lý, Trường Đại học Vinh.

[103] A. Miranowicz, W. Leoński (2004), Dissipasion in systems of linear and

nonlinear quantum scissors, J. Opt. B: Quantum Semiclass. Opt. 6, S43.

[104] A. Chefles, S.M. Barnett, (1996), Quantum theory of two-mode

nonlinear directional couplers, J. Mod. Opt. 43, 709.

116 [105] F.A.A. El-Orany, M. Sebawe Abdalla, J. Peřina (2005), Quantum

properties of the codirectional three-mode Kerr nonlinear couple, Eur.

Phys. J. D 33, 453.

[106] V. Vedral (2002), The role of relative entropy in quantum information

theory, Rev. Mod. Phys. 74, 197.

[107] L. Allen, J.H. Eberly (1975), Optical Resonance and Two-Level Atoms,

Wiley, New York.

[108] W. Leoński (1997), Finite-dimensional coherent-state generation and

quantum-optical nonlinear oscillator models, Phys. Rev. A, 55, 3874.

[109] V. Le Duc, V. Cao Long (2016), Entangled state creation by a nonlinear

coupler pumped in two modes, Comput. Meth. Sci. Technol. 22, 245.

[110] K. Wódkiewicz (1979), Exact solutions of some multiplicative stochastic

processes, J. Math. Phys. 20, 45.

[111] K. Wódkiewicz (1979), Stochastic incoherences of optical Bloch

equations, Phys. Rev. A 19, 1686.

PL 1

PHỤ LỤC

1. Tìm các ma trận ở các biểu thức (3.6) và (3.7)

Từ hệ bốn phương trình:

, (P1)

, (P2)

, (P3)

. (P4)

Khi có nhiễu: thay vào hệ bốn phương trình trên

ta được:

, (P5)

, (P6)

, (P7)

. (P8)

Trong trường hợp này, tập hợp các phương trình chuyển động ((P5) - (P8)) có

dạng phương trình vi phân ngẫu nhiên sau:

, (P9)

trong đó V là một hàm véctơ theo thời gian và M1, M2, M3 là các ma trận hằng

có dạng

PL 2

, , , .

Thay vào phương trình (P9), ta tìm được

.

Đồng nhất với (P5) ta thu được:

.

Đồng nhất với (P6) ta thu được:

Đồng nhất với (P7) ta thu được:

PL 3

Đồng nhất với (P8) ta thu được:

Từ đó, ta tìm được các ma trận M1, M2, M3 có dạng sau:

, , .

Từ lý thuyết về các quá trình ngẫu nhiên hàm thỏa mãn phương trình:

(P10) ,

trong đó

Từ đó ta có thể rút ra hệ phương trình trung bình ngẫu nhiên của các biến:

,

,

PL 4

,

.

PL 5

2. Tìm các ma trận ở các biểu thức (3.14) và (3.15)

Từ hệ bốn phương trình:

(P11)

Khi có nhiễu: thay vào hệ phương trình trên ta

được:

, (P12)

(P13)

, (P14)

. (P15)

Trong trường hợp này, tập hợp các phương trình chuyển động ((P12) - (P15))

,

có dạng phương trình vi phân ngẫu nhiên sau:

(P16)

trong đó Q là một hàm véctơ theo thời gian và M1, M2, M3 là các ma trận hằng,

với dạng như sau:

, , ,

Thay vào phương trình (P16)

PL 6

Đồng nhất với (P12):

Đồng nhất với (P13):

Đồng nhất với (P14):

Đồng nhất với (P15):

PL 7

Từ đó, ta tìm được các ma trận M1, M2, M3:

, , .

Từ lý thuyết các quá trình ngẫu nhiên hàm thỏa mãn phương trình:

(P17)

(P19)

(P18)

Từ đó ta có thể rút ra hệ phương trình trung bình ngẫu nhiên của các biến:

3. Tìm các ma trận ở các biểu thức (3.22) và (3.23)

Từ hệ ba phương trình:

(P20)

PL 8

Khi có nhiễu: thay vào hệ ba phương trình trên

ta được:

(P21)

(P22) (P23)

Trong trường hợp này, tập hợp các phương trình chuyển động ((P21) - (P23)) có dạng phương trình vi phân ngẫu nhiên sau:

, (P24)

trong đó Q là một hàm véctơ theo thời gian và M1, M2, M3 là các ma trận hằng có dạng

, , ,

Thay vào phương trình (P24), ta được:

Đồng nhất với (P21), ta thu được

Đồng nhất với (P22), ta thu được

PL 9

Đồng nhất với (P23), ta thu được

Từ đó, ta tìm được các ma trận M1, M2, M3:

, , .

Từ lý thuyết về các quá trình ngẫu nhiên hàm thỏa mãn phương trình:

trong đó

khi đó ta được:

Từ đó ta có thể rút ra hệ phương trình trung bình ngẫu nhiên của các biến có

dạng như sau:

PL 10