
Văn Nhất Đa – thơ và lí luận về thơ _1
lượt xem 7
download

4. Am hiểu sâu về nghệ thuật, Văn Nhất Đa đã vận dụng kiến thức nghệ thuật đặt ra vấn đề nghiên cứu tổ chức tổng thể của bài thơ từ các phương diện: cấu trúc, hình ảnh, tiết tấu…
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Văn Nhất Đa – thơ và lí luận về thơ _1
- Văn Nhất Đa – thơ và lí luận về thơ
- 4. Am hiểu sâu về nghệ thuật, Văn Nhất Đa đã vận dụng kiến thức nghệ thuật đặt ra vấn đề nghiên cứu tổ chức tổng thể của bài thơ từ các phương diện: cấu trúc, hình ảnh, tiết tấu… Ông đưa ra mô hình mới về thơ từ hợp lưu nghệ thuật: âm nhạc, kiến trúc và hội họa. Về phương diện cấu trúc, Văn Nhất Đa lấy sự tề chỉnh trong thơ ca cổ điển làm chuẩn mực. Ông cho rằng sự tràn trề của tình cảm cần được sắp xếp quy củ nhờ yếu tố hình thức. Vẻ đẹp của một bài thơ còn là ở sự ngay ngắn, điều hòa trong từng dòng thơ, giữa các đoạn thơ và toàn bài thơ. Trong thơ cổ điển (ngũ ngôn và luật thi) mỗi dòng có từ năm đến bảy âm tiết, được phân đoạn đều đặn và đi theo cấu trúc khai, thừa, chuyển, hợp; còn gọi là thể thức hình tròn. “Viên hình và khai, thừa, chuyển, hợp là nguồn sâu dòng dài trong thơ văn truyền thống Trung Quốc, được các nhà lý luận văn học nói đến nhiều”(5). Họ cho rằng ngay cả thơ trường luật cổ thi cũng làm theo cách này vì cấu trúc đó thuận theo cái lý của tự nhiên. Điều tối kỵ nhất là bài thơ như một đường thẳng. Bài Nước tù đọng được coi là khuôn mẫu đương thời. Mỗi câu trong bài đều có số âm tiết tương đồng (thường gặp trong thơ Văn Nhất Đa là chín âm tiết), số dòng trong mỗi đoạn cũng giống nhau. Bấy giờ, nhiều ng ười đua nhau học theo, lưu hành rộng rãi thể thức “viên đậu phụ” (đậu hủ khối). Nước tù đọng cũng như nhiều bài thơ khác, câu kết đều là những câu thơ có vai trò dồn nén, nâng cao ý tưởng toàn bài. Trong Nến đỏ, câu kết dưới hình thức một tục ngữ “Mạc vấn thu hoạch, đản vấn canh vân”. (Đừng hỏi những gì bạn gặt, hãy hỏi những gì bạn gieo). Để làm nên tính nhạc cho câu thơ, Văn Nhất Đa tập trung nghiên cứu yếu tố nhịp điệu. Nhịp điệu trong bài thơ được tạo nên bởi hình thức lặp câu, lặp từ (Nước tù đọng, Có lẽ…). Cách tạo nhịp này đã có trong thơ ca truyền thống Trung Quốc do sự chi phối của vũ đạo. N hững cải cách về nhịp thơ được ông nghiên c ứu chủ yếu từ hình thức câu t hơ chín âm tiết. Ông đã tìm tòi cách ngắt nhịp, vị trí ngừng nghỉ sao cho hợp lý ph ù hợp với nguyên tắc thanh điệu trong ngôn ngữ Trung Quốc. Trong N ghiên cứu ngọn ngu ồn của luật thi, Văn Nhất Đa cho rằng tiết tấu của th ơ cổ điển Trung Q uốc đã đạt đ ược những phẩm chất thẩm mỹ mong muốn: nhịp nh àng, tinh t ế và linh hoạt. N hưng đồng thời ông cũng nhận thấy: “Sống trong thế kỷ XX, văn học phải có
- hương vị quốc tế. Do đó tôi cho rằng vay mượn kỹ thuật phương Tây t rong việc cải cách thơ là mộ t cái nhìn sâu s ắc tuyệt vời. Tuy nhiên bạn chỉ đ ược cải cách, không được bỏ thơ Trung Quốc và thay thế nó bằng thơ Tây”(6). Vì thế, từ cảm hứng của t iết tấu cổ điển, ông đã sáng tạo ra hình thức nhịp mới mẻ bằng cách kết hợp nguy ên tắc “đốn” (dừng, ngắt) trong thơ ca c ổ điển Trung Quốc với nguyên t ắc tổ chức âm xích (foot) trong thơ Anh. T ừ “kiến trúc mỹ” để tạo ra “âm nhạc mỹ” là thế mạnh c ủa thơ Văn Nhất Đa. Thể thức do ông tạo nên có ả nh hưởng sâu rộng trong thơ ca Trung Quốc những năm 1920 - 1930. Nghiên c ứu các thể thơ mới bấy giờ ông luôn lưu ý đến yếu tố nhịp điệu. Ông gọi Điền Gian l à “tay trống thời đại” vì hình thức câu thơ dòng ngắn của Điền Gian có tiết tấu như nhịp trống. Gieo vần tạo nhịp cũng là cách làm tăng tính nhạc cho thơ. Có thể theo kiểu một bài tứ tuyệt “bốn câu ba vần”, hoặc vần gián cách hiện đại: Bất hứa dương quang bát nễ đích nhãn liêm, Bất hứa thanh phong loát thượng nễ đích my. Vô luận thùy đô bất năng kinh tỉnh nễ, Xanh nhất tản tùng âm tí hộ nễ thụy. (Dã hứa) (Chớ để ánh mặt trời thức tỉnh giấc ngủ của anh. Chớ để cơn gió mát thổi nhẹ trên làn mi của anh. Bất luận là ai cũng không làm anh tỉnh giấc. Dựng một bóng tùng để che chở giấc ngủ của anh). Những bài thơ của Văn Nhất Đa thường mang lại cảm giác đang đứng trước một khung bạt vẽ. Có thể là những đường nét, sắc màu dệt nên những hình ảnh trực quan nhằm tái tạo cảnh quan (Ấn tượng). Có trường hợp sắc màu được dùng như một ẩn dụ; so sánh cuộc sống như một tờ giấy trắng, mỗi sắc màu tô lên tượng trưng cho một loại cảm xúc hoặc một đặc tính nào đó của con người: Sinh mệnh thị trương một giá trị đích bạch chỉ, Tự tòng lục cấp liễu ngã phát triển, Hồng cấp liễu ngã tình nhiệt,
- Hoàng giảo ngã dĩ trung nghĩa, Lam giảo ngã dĩ cao khiết, Phấn hồng tứ ngã dĩ hi vọng, Hôi bạch tặng ngã dĩ bi ai; (Sắc thái) (Sinh mệnh là một tờ giấy trắng không có giá trị g ì. Bắt đầu từ màu xanh đã c ho ta s ự phát triển. M àu đỏ mang đến cho ta sự nhiệt t ình. Màu vàng dạy cho ta sự tr ung ngh ĩa. Màu lam chỉ cho ta sự cao khiết. M àu hồng phấn ban cho ta sự hi vọng. Màu xám mang lại cho ta sự buồn bã, bi ai). Văn Nhất Đa từng có những bài luận về hội họa Trung Quốc và phương Tây. Ông cho rằng hội họa truyền thống Trung Quốc nhấn mạnh tính trực quan, tạo ra những không gian phẳng. Đó vừa là thành công đồng thời cũng là thất bại của nó. Hội họa phương Tây chú ý đến các chiều của không gian khi miêu tả đối tượng. Theo Lương Thực Thu, ông là người say mê họa sĩ Tây Ban Nha – Diego Velasquez (1599 – 1660) – người có ảnh hưởng lớn đến trường phái hội họa ấn tượng sau này. Tiểu khê(Dòng suối nhỏ) là một bức họa thơ theo phong cách hiện đại: Duyên hôi sắc đích thụ ảnh Thị nhất trường thiên ác mộng, Hoàng áp tại hôn thụy trước đích Tiểu khê để hung đường thượng. Tiểu khê tranh trát trước, tranh trát trước… Tựa hồ hào vô nhất điểm ảnh hưởng. (Bóng hàng cây nâu sẫm. Như một cơn ác mộng dài. Đè lên giấc ngủ chập chờn. Trên ngực của con suối nhỏ. Vẫy vùng, dòng suối vẫy vùng… Tựa hồ không chút tác dụng).
- Truyền thống thi – họa của Trung Quốc chủ yếu khai thác từ kiến thức hội họa thủy mặc với tranh sơn thủy. Kiến thức về hội họa phương Tây đã mang lại cho Văn Nhất Đa những cảm thụ sắc màu, góc nhìn nghệ sĩ mới mẻ. Tuy nhiên, những cải cách của Văn Nhất Đa không phải chỉ thiên về hình thức. Ông chủ trương hình thức phải phù hợp với nội dung, xuất phát từ nội dung. Hơn thế, hình thức phải mang tính nội dung. Ông cho rằng thơ của Điền Gian không chỉ có âm điệu của tiếng trống mà còn có “tình tự của tiếng trống”. “Tương thể tài y” (Theo vóc dáng mà may áo) là một luận điểm nổi tiếng của ông trong cuộc vận động tân thi bấy giờ. 5. Tân thi đích tiến độ (Tương lai của thơ mới, 1945) là bài tiểu luận Văn Nhất Đa bàn đến lẽ sinh tồn của thơ ca trong thời đại mới. Ông cho rằng thơ ca muốn chiếm được lượng độc giả đông đảo cần biết áp dụng các kỹ thuật của tiểu thuyết và kịch. Từ khi còn là sinh viên của Đại học Thanh Hoa đến khi du học ở Mỹ, Văn Nhất Đa dành nhiều tâm huyết cho việc viết các kịch bản, dựng phim truyền hình. Nhiều bài thơ của ông là sự liên kết giữa kỹ thuật kịch và thơ. Văn Nhất Đa tiên sinh đích thư trác (Bàn học của Văn Nhất Đa) được dàn dựng như một sân khấu kịch. Các nhân vật là hộp mực, từ điển, giấy hoa, lò hương, bút máy, bút lông… hết thảy đều lên tiếng rên xiết cho thân phận. Nhưng cuối cùng chỉ nghe được lời phán xét đầy quyền uy của chủ nhân: “Hết thảy chúng sinh, ai nấy hãy nên yên phận vị của mình”. Dừng lại ở căng thẳng, cao trào là hình thức vận động thường gặp trong một số bài thơ của Văn Nhất Đa. Song chuyển đổi mâu thuẫn mới thực là nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong thơ ông. Phần đầu của bài Nước tù đọng là hình ảnh của vũng ao tù không chút sóng gợn, người ta có thể ném vào đó đồng chì sắt vụn, hắt cả nước cặn canh thừa. Nhưng từ mớ đồng nát sẽ lên màu phỉ thúy, sắt tây hoen gỉ thành cánh hoa đào, bọt trắng sùi lên như ngọc, váng dầu mỡ thành tầng lụa mỏng… Ao tù sẽ thắm tươi sắc màu, thành chốn ca lâu của bầy ếch nhái! Cái xấu sẽ khai khẩn thành cái đẹp? Cảm hứng này càng đặc biệt mạnh mẽ trong Bài ca giặt áo. Giặt thuê là công việc hèn hạ, tủi nhục nhưng chính những người chỉ với xà phòng và nước lã, đêm đêm chong đèn giặt áo, nhỏ lệ tha hương lại đang tẩy gội đồ dơ bẩn của kẻ khác thành
- thơm tho, sáng láng. Tương tự như vậy, trong Nến đỏ, từ cái chết, sự sống sẽ kết trái, đơm hoa. “ Đã tạo nên giai điệu thì chớ là một khúc oán ca” (Quan niệm ), sáng tác và lý luận thơ ca c ủa Văn Nhất Đa đ ều bộc lộ r õ khuynh hướng tích cực đổi mới. Hiện đại hóa bấy giờ đ ược hiểu đồng nghĩa với ph ương Tây hóa. Nhưng Văn Nhất Đa cho rằng mỗi nền văn hóa đều có quán tính của nó, đặc biệt ở những nền văn hóa có truyền thống lâu đời như Trung Quốc. Do đó ông đ ã lấy truyền thống làm nền tảng và hiện đại là mục tiêu phấn đấu. Văn Nhất Đa luôn đ ược nhìn nhận là một nhà thơ Trung Quốc hiện đại nhưng ông được đánh giá cao bởi hiện đại mà không phương Tây hóa

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối
8 p |
96 |
11
-
Bình giảng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.
13 p |
87 |
10
-
Phân tích bức tranh quê và tấm lòng yêu đời của Hàn Mặc Tử trong Đây thôn Vĩ Dạ
12 p |
88 |
8
-
Cảm nhận về đoạn trích "Mình về mình có nhớ ta, ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa" trong bài thơ Việt Bắc
3 p |
85 |
8
-
Cảm hứng Tết của nhà thơ trào phúng Tú Xương
5 p |
224 |
8
-
Văn Nhất Đa – thơ và lí luận về thơ _2
7 p |
58 |
6
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa... Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
4 p |
165 |
5
-
Hai bức tranh “mùa thu xưa - mùa thu nay” và sự thay đổi về cảm xúc của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ “Đất nước”
5 p |
52 |
5
-
Phân tích cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời
20 p |
48 |
4
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,…Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
3 p |
83 |
4
-
Thuyết minh về bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính
2 p |
91 |
4
-
"Việt Bắc" tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu
6 p |
116 |
3
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi: Ôi những cánh đồng quê chảy máu…. Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
4 p |
60 |
3
-
Đất nước qua các bài thơ Đây thôn Vĩ dạ (Hàn Mặc Tử), Đây mùa thu tới, Thở duyên (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Chiều xuân (Anh Thơ)
7 p |
395 |
3
-
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
3 p |
225 |
3
-
Cái tôi phóng túng, ngông nghênh và khát khao khẳng định chính mình giữa cuộc đời của Tản Đà qua bài thơ Hầu Trời
5 p |
60 |
2
-
Cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của cảnh và người miền Tây trong bài Tây Tiến
4 p |
53 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
