ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HUỲNH TRƯỜNG NGỌ
VẬT LIỆU TRÊN CƠ SỞ ZIF-67:
TỔNG HỢP VÀ ỨNG DỤNG
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC
HUẾ - NĂM 2021
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HUỲNH TRƯỜNG NGỌ
VẬT LIỆU TRÊN CƠ SỞ ZIF-67:
TỔNG HỢP VÀ ỨNG DỤNG
Ngành: Hóa Lý thuyết và Hóa lý
Mã số: 9440119
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Đinh Quang Khiếu
2. TS. Lê Thị Hòa
HUẾ - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của GS.TS. Đinh Quang Khiếu và TS. Lê Thị Hòa. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu này là trung thực, chính xác, được các đồng tác giả cho phép sử
dụng và chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả
Huỳnh Trường Ngọ
i
LỜI CÁM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Đinh Quang
Khiếu, TS. Lê Thị Hòa đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cám ơn quý Thầy/Cô Khoa Hóa học và Bộ môn Hóa
lý - Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Huế đã hỗ trợ và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận án.
Xin gởi lời cám ơn đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học -
Trường Đại học Khoa học Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận án.
Cuối cùng, xin gởi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
chia sẽ, động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Huế, tháng 5 năm 2021
Tác giả
Huỳnh Trường Ngọ
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU
Viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
ACE Acetaminophen Acetaminophen
ASV Volt-ampere hòa tan anode Anodic Striping Voltametry
BET Branuuer-Emmett-Teller Branuuer-Emmett-Teller
BR-BS Dung dịch đệm Britton-Robinson Britton-Robinson buffer
CGR Đỏ Congo solution Congo red
CTAB Cetyl Trimetyl Amoni Bromua Cetyl Trimethyl Amonium Bromide
CV Volt-ampere vòng Cyclic Voltammetry
DP-ASV Volt-ampere hòa tan anode xung vi phân Differential Pulse Anodic Stripping Voltammetry
EDX Phổ tán xạ năng lượng tia X Energy-dispersive X-ray spectroscopy
Thế làm giàu Accumulation potential Eacc
Thế đỉnh Peak potential Ep
Graphit cacbon nitrua Graphite carbon nitride g-C3N4
Điện cực than thủy tinh Glassy Carbon Electrode GCE
Graphen oxide Graphene oxide GO
Graphit oxide Graphite oxide GrO
2-methylimidazole 2-methylimidazole 2-Mim
Sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC High Performance Liquid Chromatography
Cường độ dòng đỉnh Peak current Ip
LOD Giới hạn phát hiện Limit of detection
Xanh metylen Methylene blue MB
Metyl da cam Methyl orange MO
iii
MOFs Vật liệu khung hữu cơ-kim loại Metal-Organic Frameworks
Graphene oxide dạng khử Reduced Graphene Oxide rGO
Độ thu hồi Recovery Rev
Sai số tương đối Realtive Error RE
Rhodamine B Rhodamine B RhB
Độ lệch chuẩn tương đối Relative Standard Devition RSD
Đơn vị cấu trúc thứ cấp Secondary Building Unit SBU
Độ lệch chuẩn Standard deviation SD
Hiển vi điện tử quét Scaning Electron Microscopy SEM
Cấu trúc Sodalite Sodalite structure SOD
Thời gian làm giàu Accumulation time tacc
Trietylamin Triethylamine TEA
TEM Hiển vi điện tử truyền qua Transmission Electron Microscopy
Tốc độ quét thế Sweep rate ν
Điện cực làm việc Working Electrode WE
XPS Phổ quang điện tử tia X X-ray Photoelectron Spectroscopy
X-Ray Diffraction Nhiễu xạ tia X XRD
Khung imidazole zeolite ZIFs
Zeolite Imidazole Frameworks Pulse amplitude Biên độ xung ΔE
iv
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................... i
LỜI CÁM ƠN ...........................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU ............................................. iii
MỤC LỤC ................................................................................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................... vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ............................................................................ viii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ................................................................................. xiii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................... 4
1.1. Giới thiệu về Vật liệu khung hữu cơ-kim loại .................................................. 4
1.2. Vật liệu ZEOLITIC IMIDAZOLE FRAMEWORK-67 (ZIF-67) .................. 8
1.3. Vật liệu g-C3N4 (graphitic carbon nitride) ...................................................... 14
1.4. Vật liệu GRAPHENE OXIDE dạng khử (REDUCED GRAPHENE OXIDE) .. 21
1.5. Một số nghiên cứu về ứng dụng của vật liệu COMPOSITE trên cơ sở vật
liệu ZIF-67 ................................................................................................................ 27
1.5.1. Ứng dụng vật liệu ZIF-67 và composite của nó trong phân tích điện hóa .... 27
1.5.2. Ứng dụng làm chất hấp phụ ...................................................................... 29
1.6. Xác định RHODAMINE (RhB), URIC ACID (URA) và ACETAMINOPHEN
(ACE) bằng phương pháp điện hóa ............................................................................. 31
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................... 35
2.1. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................ 35
2.1.1. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite ZIF-67/rGO và xác định
Rhodamine B bằng phương pháp volt-ampere dùng điện cực biến tính ZIF-
67/rGO-GCE. ....................................................................................................... 35
2.1.2. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite ZIF-67/g-C3N4 và xác
định đồng thời uric acid và acetaminophen bằng phương pháp volt-ampere
dùng điện cực biến tính ZIF-67/g-C3N4-GCE. .................................................. 35
v
2.1.3. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite Fe3O4/ZIF-67 và ứng
dụng hấp phụ một số phẩm nhuộm hữu cơ. ....................................................... 35
2.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 35
2.2.1. Các phương pháp phân tích sử dụng trong nghiên cứu này ................... 35
2.2.2. Hóa chất ..................................................................................................... 43
2.2.3. Tổng hợp vật liệu ...................................................................................... 44
2.2.4. Biến tính điện cực than thủy tinh (GCE) bằng vật liệu ZIF-67/rGO và
ZIF-67/g-C3N4 ..................................................................................................... 49
2.2.5. Nghiên cứu khả năng hấp phụ phẩm nhuộm của Fe3O4/ZIF-67 ............ 50
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .......................................................... 52
3.1. Tổng hợp vật liệu ZIF-67/rGO và ứng dụng xác định Rhodamine B bằng
phương pháp volt-ampre hòa tan dùng điện cực GCE biến tính bằng ZIF-67/rGO ... 52
3.1.1. Tổng hợp vật liệu ZIF-67/rGO ................................................................. 52
3.1.2. Xác định Rhodamine B (RhB) bằng phương pháp volt-ampere với kỹ
thuật xung vi phân sử dụng điện cực biến tính ZIF-67/rGO ............................. 58
3.2. Nghiên cứu tổng hợp ZIF-67/g-C3N4 và xác định đồng thời uric acid (URA)
và acetaminophene (ACE) bằng phương pháp điện hóa sử dụng điện cực biến
tính ZIF-67/g-C3N4-GCE......................................................................................... 72
3.2.1. Tổng hợp vật liệu ZIF-67/g-C3N4 ............................................................ 72
3.2.2. Khảo sát tính chất điện hóa ....................................................................... 77
3.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất cản trở ............................................ 82
3.2.4. Độ ổn định, độ lặp lại và khoảng tuyến tính ............................................ 84
3.2.5. Ứng dụng phân tích mẫu sinh hóa ........................................................... 87
3.3. Tổng hợp Fe3O4/ZIF-67 và ứng dụng làm chất hấp phụ phẩm nhuộm ......... 88
3.3.1. Tổng hợp vật liệu Fe3O4/ZIF-67............................................................... 88
3.3.2. Ứng dụng hấp phụ một số phẩm màu ...................................................... 94
Chương 4. KẾT LUẬN ...................................................................................... 104
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Tỷ lệ mol phối tử dùng tổng hợp và tham số mao quản của ZIF ... 12
Bảng 1.2. Các tham số mao quản của ZIF-67 được tổng hợp từ dung môi
khác nhau .................................................................................... 13
Bảng 2.1. Các hóa chất chính sử dụng trong thực nghiệm ......................... 43
Bảng 3.1. Giới hạn sai số của các chất cản trở ở nồng độ RhB = 5,7 µg.L-1 .... 68
Bảng 3.2. So sánh giá trị LOD và khoảng tuyến tính của phương pháp
nghiên cứu với các phương pháp được công bố trước đây......... 70
Bảng 3.3. Kết quả phân tích Rhodamine B trong các mẫu thực phẩm bằng
phương pháp DP-ASV và phương pháp HPLC .......................... 71
Bảng 3.4. Giới hạn ảnh hưởng của các chất cản trở, Ctol (5.10-7 M URA
hoặc 5.10-7 M ACE trong dung dịch đệm BR-BS 0,1 M ở pH 9
và CTAB 150 M) ...................................................................... 83
Bảng 3.5. So sánh LOD và khoảng tuyến tính của một số điện cực biến tính
dùng để xác định URA và ACE. ................................................. 87
Bảng 3.6. Kết quả xác định URA và ACE trong mẫu nước tiểu bằng
phương pháp nghiên cứu và phương pháp HPLC ...................... 88
Bảng 3.7. Những thông số động học của mô hình biểu kiến bậc 1 và mô
hình biểu kiến bậc 2 .................................................................... 96
Bảng 3.8. Các tham số nhiệt động học ........................................................ 98
Bảng 3.9. Các thông số mô hình đẳng nhiệt Langmuir và Freundlich tại các
nhiệt độ khác nhau .................................................................... 100
Bảng 3.10. So sánh khả năng hấp phụ MO với một số nghiên cứu trước đây .. 101
Bảng 3.11. Đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich một số phẩm màu
khác của vật liệu Fe3O4/ZIF-67 ................................................ 102
Bảng 3.12. Dung lượng hấp phụ của các chất hấp phụ khác nhau đối với
CGR, MB, và RhB tại nhiệt độ môi trường xung quanh .......... 103
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 1.1. Sơ đồ chung xây dựng MOFs: Phối tử hữu cơ có ít nhất 2 nhóm chức
phối trí với các ion kim loại để tạo ra cấu trúc khung 3 chiều ............4
Hình 1.2. Cấu trúc tỉnh thể của MOF-5. Hình cầu màu vàng trong cấu trúc
minh họa cho không gian trống lớn nhất có trong lỗ xốp mà không bị
ảnh hưởng của các tương tác van der Waals với khung cơ kim. Mã
màu: Zn màu xanh, C màu xám và O màu đỏ ......................................5
Hình 1.3. Một số SBU và cầu nối hữu cơ điển hình dùng để tổng hợp MOF ....7
Hình 1.4. (a) Góc cầu nối của zeolite, (b) M-IM-M .............................................9
Hình 1.5. Cấu trúc đơn tinh thể của ZIF-67 ..........................................................9
Hình 1.6. Tóm tắt các phương pháp tổng hợp vật liệu ZIFs ............................. 10
Hình 1.7. a) Giản đồ XRD của ZIF-67 mô phỏng và ZIF-67 tổng hợp; .......... 11
Hình 1.8. a) Cấu trúc lớp 2D của g-C3N4; b) cấu trúc của s-triazine; c) cấu trúc
của tri-s-triazine trong g-C3N4 ............................................................ 15
Hình 1.9. a) Giản đồ XRD của carbon nitride cầu ống; b) g-C3N4 dạng khối
tổng hợp trực tiếp từ nung melamine ở 520 oC trong 2 giờ. ............. 16
Hình 1.10. Các tâm hoạt động trong g-C3N4 với khuyết tật ................................ 17
Hình 1.11. Cơ chế tạo thành g-C3N4 từ cyanamide .............................................. 18
Hình 1.12. Sơ đồ điều chế g-C3N4 bằng cách ngưng tụ NH(NH2)2 .................... 19
Hình 1.13. Triazine (trái) và mô hình kết nối trên nền tảng tri-s-triazine (phải)
của những dạng thù hình g-C3N4 có thể có ........................................ 19
Hình 1.14. (a) Mạng lưới g-C3N4; (b) Hình ảnh khối bột g-C3N4 (màu vàng);
(c) Các quá trình phản ứng hình thành g-C3N4 từ dicyandiamide .. 20
Hình 1.15. Điều chế graphene oxide từ graphite ................................................. 22
Hình 1.16. Điều chế rGO từ GO ........................................................................... 23
viii
Hình 1.17. a) Phổ XPS của C1s của Graphene oxide và GO khử hóa học sau b)
2 phút; c) 8 phút; d) 32 phút; e) 128 phút và f) 192 phút. ................ 24
Hình 1.18. Phổ Raman của graphite, GO và rGO sau 2,8,32, và 128 phút xử lý.
Tỉ số ID/IG biến đổi như hàm số của thời gian xử lý ....................... 25
Hình 1.19. TEM của graphite (a) và rGO (b) ....................................................... 26
Hình 1.20. Quy trình chuẩn bị ZIF-67/GO và cơ chế phản ứng điện hóa
dopamine và uric acid ở điện cực biến tính bằng ZIF-67/rGO ........ 28
Hình 1.21. Cơ chế đề nghị sự hấp phụ của xanh malachite lên ZIF-67 ............. 29
Hình 1.22. Khả năng hấp phụ phẩm nhuộm chọn lọc của ZIF-67 a) hỗn hợp
MO/MB và b) OG-II/MB, c) AF/MB và d) SD-III/MB (nồng độ 10
mg.L-1) .................................................................................................. 30
Hình 1.23. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4/ZIF-67 ............................................................. 31
Hình 2.1. Các tia X nhiễu xạ trên bề mặt tinh thể .............................................. 35
Hình 2.2. Phân loại IUPAC của đường đẳng nhiệt hấp phụ: loại I đến loại VI .. 38
Hình 2.3. Các loại đường trễ theo hình dạng hình học của mao quản .............. 38
Hình 2.4. Sơ đồ tổng hợp rGO theo phương pháp Hummer ............................. 45
Hình 2.5. Sơ đồ tổng hợp ZIF-67 ........................................................................ 46
Hình 2.6. Sơ đồ quy trình tổng hợp ZIF-67/rGO ............................................... 47
Hình 2.7. Sơ đồ tổng hợp ZIF-67/g-C3N4 .......................................................... 48
Hình 2.8. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4/ZIF-67 ............................................................. 49
Hình 3.1. Giản đồ XRD của a) rGO; b) ZIF-67 và c) ZIF-67/rGO. ................. 52
Hình 3.2. Ảnh TEM của a) rGO; b) ảnh SEM của ZIF-67 và c) ảnh TEM của
ZIF-67/rGO .......................................................................................... 53
Hình 3.3. Phổ FT-IR của ZIF-67, rGO và ZIF-67/rGO. ................................... 54
Hình 3.4. Phổ Raman của rGO và ZIF-67/rGO. ................................................ 56
Hình 3.5. a) Phổ XPS khảo sát của ZIF67/rGO; b) Phổ XPS C1s; c) Phổ XPS
N1s; d) Phổ XPS Co2p ....................................................................... 57
ix
Hình 3.6. Đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp phụ nitrogen của ZIF-67 (màu xanh lá
cây); rGO (màu đen) và ZIF-67/rGO (xanh da trời). ........................ 58
Hình 3.7. Các đường CV của 1 mM K3[Fe(CN)6] trong dung dịch KCl 0,1 M
với tốc độ quét thế từ 0,1 ÷ 0,4 Vs-1 của các điện cực khác nhau a)
điện cực GCE; b) đồ thị tuyến tính của cường độ dòng đỉnh (Ip) với
tốc độ quét v1/2 và c) ZIF-67/rGO-GCE; d) đồ thị tuyến tính giữa Ip
và v1/2. ................................................................................................... 60
Hình 3.8. a) Các đường CV của dung dịch RhB 24 mg.L-1 (đệm BR-BS 0,1 M ở
pH 6) và b) cường độ dòng đỉnh anode của các điện cực khác nhau. 61
Hình 3.9. (a) Đường CV trong dung dịch RhB 24 mg.L-1 của điện cực ZIF-
67/rGO-GCE tại giá trị pH = 2-5; b) tại pH = 6-10 c) Sự phụ thuộc
của giá trị pH vào cường độ dòng đỉnh anode (Ip); d) đồ thị tuyến
tính của thế đỉnh anode (Ep) với pH ................................................... 62
Hình 3.10. (a) Các đường CV trong dung dịch RhB 24 mg.L-1 của điện cực ZIF-
67/rGO-GCE (dung dịch đệm BR-BS 0,1 M; pH 7) ở các tốc độ quét
thế khác nhau; b) đồ thị tuyến tính của Ip vs. v1/2; c) đồ thị tuyến tính
của Ep vs lnν; ........................................................................................ 63
Hình 3.11. a) Sự thay đổi Ip tại Eacc khác nhau (tacc = 20 s; ΔE = 0,06 V); b) tại
các Iacc khác nhau (Eacc = −0,6 V; tacc = 20 s; ΔE = 0,06 V); c) tại
các biên độ xung khác nhau (Eacc = −0,6 V, tacc = 20 s) (CRhB = 5.10-4
M trong dung dịch đệm BR-BS 0,1 M, pH = 7); d) tại các bước thế
khác nhau ............................................................................................. 67
Hình 3.12. a) Đường DP-ASV của điện cực biến tính ZIF-67/rGO ở các nồng
độ RhB khác nhau trong dung dịch đệm BR-BS 0,1 M, pH 7; b) đồ
thị tuyến tính của Ip với nồng độ RhB. ............................................... 69
Hình 3.13. Giản đồ XRD của a) ZIF-67; b) g-C3N4 và c) ZIF-67/g-C3N4; d)
đường đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp phụ nitrogen của ZIF-67, g-C3N4,
và ZIF-67/g-C3N4. ............................................................................... 73
x
Hình 3.14. a) TEM của g-C3N4; b) SEM của ZIF-67; c) TEM của ZIF-67/g-C3N4. .... 74
Hình 3.15. Phổ XPS của ZIF-67/g-C3N4: a) phổ khảo sát; b) Phổ N1s; c) Phổ
C1s; d) Phổ Co2p. ............................................................................... 75
Hình 3.16. Giản đồ XRD của ZIF-67/g-C3N4 ngâm trong nước ở các giá trị pH
khác nhau ............................................................................................. 76
Hình 3.17. a) Các đường CV của các điện cực khác nhau trong dung dịch đệm
BR-BS 0,1 M ở pH 9, CURA=CACE = 0,5 mM; b) Ảnh hưởng của
hàm lượng ZIF-67/g-C3N4 đến cường độ dòng đỉnh anode. ............. 77
Hình 3.18. a) Đường volt-ampere vòng (CV) của ZIF-67/g-C3N4-GCE trong
dung dịch đệm BR-BS 0,1 M chứa CURA = CACE = 0,5 mM và các
nồng độ CTAB khác nhau; b) Sự tách giữa 2 peak là một hàm số của
nồng độ CTAB. ................................................................................... 78
Hình 3.19. a) Đường CV của ZIF-67/g-C3N4-GCE trong dung dịch đệm BR-BS
0,1 M ở pH = 7÷10 chứa nồng độ như nhau 0,5 mM URA, ACE và
150 μM CTAB; b) Đồ thị của Ep theo pH; c) Đồ thị của Ip theo pH. ... 79
Hình 3.20. a) Sự phụ thuộc giữa tốc độ quét thế vào thế đỉnh và cường độ dòng
đỉnh; b) đồ thị tuyến tính của Ip với ν1/2; c) Ep với lnv ...................... 80
Hình 3.21. Kiểm tra độ ổn định trong thời gian 10 ngày .................................... 84
Hình 3.22. Các đường DP-ASV của ZIF-67/C3N4-GCE trong BR-BS 0,1M pH
9 chứa a) CTAB 150 M, ACE 0,2 M; nồng độ URA thay đổi từ
0,02 đến 0,65 M; b) Đồ thị tuyến tính của cường độ dòng đỉnh
anode với nồng độ URA; c) CTAB 150 M, URA 0,2 M nồng độ
ACE thay đổi từ 0,02 đến 0,65 M; d) Đồ thị tuyến tính của cường
độ dòng đỉnh anode với nồng độ ACE ............................................. 86
Hình 3.23. a) Đường DP-ASV của ZIF-67/g-C3N4-GCE trong BR-BS 0,1 M
pH 9 chứa nồng độ bằng nhau của chất phân tích biến động từ 0,2
đến 6,5 M; b) Đồ thị tuyến tính cường độ dòng đỉnh anode với
nồng độ chất phân tích. ...................................................................... 86
xi
Hình 3.24. a) Giản đồ XRD của ZIF-67 và Fe3O4/ZIF-67, b) giản đồ XRD của
oxide sắt từ ........................................................................................... 89
Hình 3.25. Phổ hồng ngoại của Fe3O4, ZIF-67 và Fe3O4/ZIF-67 ....................... 90
Hình 3.26. a) Ảnh SEM của ZIF-67; b) Ảnh SEM của Fe3O4/ZIF-67; c) Ảnh
TEM của Fe3O4 ................................................................................... 90
Hình 3.27. a) Phổ EDX; b) ảnh SEM; c) bản đồ nguyên tố EDX (Co màu đỏ; C
màu đen, O màu xanh lục, Fe màu xanh lá cây, N màu xanh nước
biển đậm) ............................................................................................. 91
Hình 3.28. Đường cong từ tính của: a) Fe3O4 và b) Fe3O4/ZIF-67 ..................... 92
Hình 3.29. Giản đồ đẳng nhiệt hấp phụ và giải hấp nitrogen của Fe3O4, ZIF-67
và Fe3O4/ZIF-67 .................................................................................. 93
Hình 3.30. Giản đồ hấp phụ của các chất màu trên Fe3O4/ZIF-67 ..................... 95
Hình 3.31. a) Đồ thị mô hình đẳng nhiệt Langmuir và Freundlich ở dạng phi
tuyến; b) Đồ thị mô hình đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir ở dạng tuyến
tính và mô hình đẳng nhiệt của hấp phụ MO trên Fe3O4/ZIF-67 ... 100
Hình 3.32. Dung lượng hấp phụ một số phẩm màu khác trên Fe3O4/ZIF-67 .. 102
xii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang Sơ đồ 3.1. Cơ chế oxi hóa của RhB ................................................................... 65
Sơ đồ 3.2. Cơ chế oxi hóa đề xuất của quá trình oxi hóa RhB trên bề mặt
điện cực ................................................................................. 65
Sơ đồ 3.3. Cơ chế oxi hóa URA và ACE đề xuất ở điện cực biến tính
ZIF-67/g-C3N4 .................................................................... 82
Sơ đồ 3.4. Sơ đồ minh họa quá trình tổng hợp composite Fe3O4/ZIF-67 ....... 94
xiii
MỞ ĐẦU
Vật liệu ZIFs (Zeolite Imidazolate Frameworks) thuộc nhóm vật liệu
khung hữu cơ - kim loại (MOFs) là nhóm vật liệu xốp, dạng tinh thể lai hữu
cơ - vô cơ được hình thành từ những ion kim loại chuyển tiếp (Zn2+, Co2+,
Ni2+,…) với phối tử hữu cơ imidazole để tạo thành cấu trúc mạng không gian
3 chiều xác định. ZIFs có những tính chất thú vị như diện tích bề mặt riêng
lớn, có độ xốp cao, khung cấu trúc linh động, có thể thay đổi kích thước, hình
dạng lỗ xốp và đa dạng hóa nhóm chức hóa học bên trong lỗ xốp [53]. Do tính
chất đặc biệt như thế, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về ZIFs
nói riêng hay về MOFs được công bố trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín
trên thế giới. Vật liệu ZIF-67 cấu tạo từ Co2+ và 2-methyl-imidazolate thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học do có tiềm năng ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong kỹ thuật: lưu giữ và tách khí
[111], [152], dẫn truyền thuốc [30], [154], xúc tác [90], cảm biến hóa học
[105],...Ngoài ưu điểm diện tích bề mặt riêng lớn (có thể lên đến hàng ngàn
m2/g), vật liệu ZIFs còn có hệ thống mao quản đồng đều, có nhiều tâm xúc tác
và hấp phụ ngay trên bề mặt vật liệu, nhưng cũng có nhược điểm như kém
bền nhiệt hay cơ lý, độ dẫn điện kém [109], điều này giới hạn sử dụng nó
trong ứng dụng điện hóa hay xúc tác quang hóa. Do đó, để khắc phục hạn chế
nêu trên, người ta thường biến tính ZIF-67 bằng các chất hữu cơ hay vô cơ
dẫn điện.
Nano oxide sắt từ (Fe3O4) với tính chất siêu thuận từ có nhiều ứng dụng
trong xúc tác bao gồm tạo ra hệ thống dễ dàng truyền điện tử, vật liệu có từ
tính nên dễ dàng thu hồi khi đặt trong từ trường. Graphene oxide dạng khử
(reduced graphene oxide, từ đây ký hiệu là rGO) là một dạng oxy hóa của
graphene có cấu trúc dạng tấm mỏng kích thước nano, có nhiều nhóm chức
chứa oxygen. Vật liệu g-C3N4 cũng có cấu trúc tấm như graphite nhưng cấu
1
tạo từ các vòng dị tố C3N4. Hai loại vật liệu này có khả năng dẫn điện, bền cơ
học, có diện tích bề mặt riêng lớn, có hệ thống liên liên hợp dễ dàng
tương tác với các hợp chất hữu cơ có vòng thơm khác.
Vật liệu ZIF-67 kết hợp vật liệu g-C3N4, rGO và Fe3O4 hy vọng tạo ra
vật liệu composite có thể khắc phục các nhược điểm cố hữu của các loại vật
liệu này khi ở trạng thái chưa kết hợp.
Các điện cực than thủy tinh (GCE) được biến tính hóa học bằng các vật
liệu xốp, composite silica xốp, carbon nano ống được nhiều nhà khoa học
quan tâm bởi vì điện cực GCE sau biến tính cải thiện đáng kể về độ đáp ứng,
độ chọn lọc cao, giới hạn phát hiện thấp trong phương pháp phân tích volt-
ampere hòa tan. Việc tìm kiếm các vật liệu mới để phát triển điện cực dùng
trong phương pháp này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Theo hiểu biết
của chúng tôi, vật liệu ZIF-67/rGO hay ZIF-67/g-C3N4 rất ít được nghiên cứu
sử dụng làm chất biến tính điện cực trong phương pháp volt-ampere. Vì vậy,
đề tài nghiên cứu của luận án “Vật liệu trên cơ sở ZIF-67: Tổng hợp và ứng
dụng” được lựa chọn với mục tiêu và nội dung cụ thể như sau:
Mục tiêu nghiên cứu
Tổng hợp các composite trên cơ sở vật liệu khung hữu cơ-kim loại ZIF-
67: ZIF-67/rGO, ZIF-67/g-C3N4, Fe3O4/ZIF-67 có hoạt tính hấp phụ và cảm
biến điện hóa.
Nội dung luận án
- Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite ZIF-67/rGO và xác
định Rhodamine B bằng phương pháp volt-ampere dùng điện cực biến tính
ZIF-67/rGO-GCE.
- Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite ZIF-67/g-C3N4 và xác
định đồng thời uric acid và acetaminophen bằng phương pháp volt-ampere
dùng điện cực biến tính ZIF-67/g-C3N4-GCE.
- Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite Fe3O4/ZIF-67 và ứng
dụng hấp phụ một số phẩm nhuộm hữu cơ.
2
Những đóng góp mới của luận án
1. Tổng hợp được vật liệu ZIF-67/rGO, ZIF-67/g-C3N4 và Fe3O4/ZIF-67 có
độ xốp cao và diện tích bề mặt riêng lớn.
2. Phát triển phương pháp phân tích điện hóa đồng thời acetaminophen và
uric acid bằng phương pháp volt-ampere xung vi phân (DP-ASV) dùng
điện cực biến tính bằng vật liệu ZIF-67/g-C3N4. Kết quả này đã được công
bố trên tạp chí Journal of Nanomaterials, Volume 2020,
https://doi.org/10.1155/2020/7915878. (SCIE, Q2, IF = 1,9).
3. Phát triển phương pháp phân tích điện hóa Rhodammine-B trong thực
phẩm bằng phương pháp volt-ampere xung vi phân (DP-ASV) dùng điện
cực biến tính bằng vật liệu ZIF-67/rGO. Kết quả này được công bố trên
tạp chí Journal of Nanomaterials, Volume 2020,
https://doi.org/10.1155/2020/4679061 (SCIE, Q2, IF = 1,9).
4. Vật liệu Fe3O4/ZIF-67 có khả năng hấp phụ cao nhiều loại phẩm nhuộm
và dễ dàng thu hồi khi đặt trong từ trường.
Cấu trúc của Luận án
Luận án được bố cục như sau:
- Đặt vấn đề;
- Chương 1: Tổng quan tài liệu;
- Chương 2: Nội dung và phương pháp nghiên cứu;
- Chương 3: Kết quả và thảo luận;
- Những kết luận chính của luận án;
- Danh mục các công trình công bố liên quan đến luận án;
- Tài liệu tham khảo.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VỀ VẬT LIỆU KHUNG HỮU CƠ-KIM LOẠI
Năm 1995, Giáo sư Yaghi và Li lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “khung
hữu cơ-kim loại” (metal organic framework-MOFs) để giải thích khung tinh thể
có cấu trúc vi xốp mở của hợp chất [Cu(BIPY)1.5(NO)3], thu được bằng phương
pháp tổng hợp thủy nhiệt kim loại Cu và phối tử 4,4-bipyridine [165]. Kể từ đó
cho đến nay, vật liệu MOFs được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm
nghiên cứu trong hơn hai thập niên qua và đã có hơn 80.000 dữ liệu về cấu trúc
MOFs được công bố theo ghi nhận của Cambridge Crystallographic Data [74].
MOFs được biết đến như là các polymer phối trí xốp được tạo thành từ
các nút ion kim loại hoặc cluster kim loại (cũng được gọi là đơn vị cấu trúc
thứ cấp - SBUs) và cầu nối hữu cơ [6], [164]. Hình 1.1 giới thiệu về sơ đồ
chung xây dựng khung MOFs.
Hình 1.1. Sơ đồ chung xây dựng MOFs: Phối tử hữu cơ có ít nhất 2 nhóm
chức phối trí với các ion kim loại để tạo ra cấu trúc khung 3 chiều [126]
Thuật ngữ SBUs được sử dụng lần đầu tiên để mô tả các zeolite, trong
đó các đơn vị tứ diện như TO4 (T = Si hoặc Al) nối với nhau qua các đỉnh oxi
chung liên kết với nhau để tạo nên cấu trúc tuần hoàn. Trong MOF, SBUs là
4
những ion hoặc cụm ion kim loại đa nhân điển hình liên kết phối trí với các
nguyên tử oxi hoặc nitơ hoặc một số ít là các nuyên tử flo và các nguyên tử phi
kim loại khác của phối tử hữu cơ để hình thành nên cấu trúc không gian ba
chiều. Các SBU thông thường được tạo thành dưới dạng in situ, do đó có thể
điều chỉnh các thông số của quá trình tổng hợp MOFs như: thời gian, dung môi,
phối tử hữu cơ,...để thu được sản phẩm có độ tinh thể hóa cao [124], [166].
Cấu trúc của MOFs được xác định thông qua cấu trúc hình học của SBUs
và hình dáng, kích cỡ của cầu nối hữu cơ. Có thể dựa vào SBUs mà dự đoán
được cấu trúc hình học của vật liệu tổng hợp, thiết kế và tổng hợp vật liệu xốp
mới có cấu trúc và trạng thái xốp, độ bền mong muốn. Bằng cách thay đổi ion
kim loại và cầu nối hữu cơ thì có thể thu được một loại MOF mới.
Một ví dụ về cấu trúc của loại MOF điển hình được nghiên cứu nhiều nhất
là MOF-5 (Zn4O(BDC)3; BDC = terephthalate). Trong cấu trúc MOF-5, mỗi
SBU bát diện Zn4O(-COO)6 chứa bốn đơn vị tứ diện Zn4O có chung đỉnh với 6
nguyên tử C carboxylate. Các SBU bát diện được nối với nhau bởi các cầu nối
BDC để tạo thành khung cấu trúc 3 chiều (Hình 1.2). MOF-5 có cấu trúc xốp mở
với đường kính lỗ xốp lớn nhỏ xen kẻ là 15,1 Å và 11 Å, và khẩu độ lỗ xốp 8,0 Å.
Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể của MOF-5. Hình cầu màu vàng trong cấu trúc
minh họa cho không gian trống lớn nhất có trong lỗ xốp mà không bị ảnh
hưởng của các tương tác Van der Waals với khung cơ kim. Mã màu: Zn màu
xanh, C màu xám và O màu đỏ [166]
5
Các cầu nối hữu cơ đa phần là các nhóm carboxylate, phosphate,
pyrazolate, tetrazolate, catezolate, sulfonate hoặc các dẫn xuất của nitrogen
(như pyridine và imidazole) [126], [166]. Các cầu nối hữu cơ được chọn
thông thường có độ bền cao, do đó hệ vòng thơm được ưu tiên chọn hơn
chuỗi alkyl mạch thẳng. Sự liên kết phối trí của phối tử hữu cơ với các ion kim
loại tạo thành đa diện kim loại-phối tử, đa phần các trường hợp là đa diện kim
loại-oxy. Các đa diện này liên kết lẫn nhau để tạo thành đơn vị cấu trúc thứ cấp
(SBUs) [126]. Thông thường MOFs được tạo thành chứa các liên kết oxy-phối
tử của các nhóm carboxylate thì có khung cấu trúc ổn định và bền hơn so với
các phối tử chứa nguyên tố nitrogen như bipyridine [117]. Hình 1.3. giới thiệu
một vài SBU và phối tử hữu cơ điển hình khi xây dựng khung MOFs.
Đa phần MOFs được tạo thành từ lượng lớn các liên kết như C-C, C-H,
C-O, M-O và có độ bền nhiệt cao, trên 300 oC và thậm chí một số MOFs đạt
trên 500 oC [37]. Cùng với độ bền nhiệt, độ ổn định hóa học cao, cấu trúc lỗ
xốp có thể điều chỉnh và khả năng điều chỉnh các tính chất hóa học sau khi
tổng hợp là một trong những tính chất thú vị nhất của MOFs.
Phương pháp phổ biến để tổng hợp MOFs là thủy nhiệt hay nhiệt dung
môi. Các dung môi điển hình là những dung môi phân cực như ethanol,
methanol, dimethylformamide (DMF), dimethylformamide hoặc acetonitril
với nhiệt độ tổng hợp khác nhau [35], [40]. Hiện nay, theo xu hướng tổng hợp
thân thiện với môi trường, các nhà nghiên cứu dùng dung môi nước thay thế
cho các dung môi hữu cơ [124].
6
Hình 1.3. Một số SBU và cầu nối hữu cơ điển hình dùng để tổng hợp MOF [20]
7
MOFs có những tính chất nổi trội như cấu trúc xốp được sắp xếp trật tự,
diện tích bề mặt riêng lớn, có độ xốp cao, có thể thay đổi kích thước, hình dạng
lỗ xốp, khung cấu trúc linh động và có thể điều chỉnh cấu trúc sau tổng hợp. Do
đó, vật liệu MOFs có rất nhiều ứng dụng ở các lĩnh vực khác nhau như: lưu trữ
và tách khí [171], xúc tác dị thể [94], xúc tác quang [189], cảm biến hóa học
[93],....Bên cạnh những ưu điểm, vật liệu MOF cũng có các nhược điểm như độ
dẫn điện, hoạt tính điện hóa và độ ổn định thấp [66], [112].
1.2. VẬT LIỆU ZEOLITIC IMIDAZOLE FRAMEWORK-67 (ZIF-67)
Cấu trúc zeolite được cấu tạo từ các đơn vị cơ sở tứ diện TO4 (T = Al
hay Si) liên kết cộng hóa trị qua cầu nối oxy (Hình 1.4a) để tạo ra hàng trăm
loại cấu trúc zeolite khác nhau. Một trong những thách thức cho đến hiện nay
là làm thế nào đưa các kim loại chuyển tiếp hay các nhóm chức hữu cơ vào
trong hốc hay mao quản của nó. Điều này sẽ tạo ra nhiều tâm hoạt động hữu
ích trong ứng dụng xúc tác và hấp phụ. Tuy nhiên, viễn cảnh kết hợp các tính
chất như vậy trong zeolite là rất khó. Zeolitic imidazole framework (ZIFs),
một nhóm thuộc vật liệu MOFs, có hình vị như zeolite trong đó các nguyên tử
trong tứ diện là các kim loại chuyển tiếp (M) và các cầu nối oxy được thay
bằng các đơn vị imidazolate (IM). Imidazole có thể mất một proton để tạo
thành mIM (Hình 1.4b). Các đơn vị Co(IM)2 và Zn(IM)2, mà cấu trúc của nó
dựa trên cơ sở các đơn vị tứ diện CoN4 hay ZnN4, làm thành một góc M-IM-
M gần bằng 145o, tương đồng với góc Si-O-Si trong các loại zeolite [150].
Trên cơ sở này, cho đến nay người ta đã tổng hợp được hàng trăm loại ZIFs
khác nhau.
Liên kết M-IM-M có độ dài lớn hơn so với liên kết Si-O-Si, điều này
làm cho ZIFs có đường kính lỗ xốp lớn hơn so với zeolite. Do đó, ZIFs có tính
chất nổi trội kết hợp của MOFs và zeolite như độ tinh thể hóa cao, diện tích bề
mặt riêng lớn, cấu trúc sắp xếp trật tự và có độ ổn định cao [16], [27], [115].
8
Hình 1.4. (a) Góc cầu nối của zeolite, (b) M-IM-M [166]
ZIF-67 (Co(Mim)2) (2-Mim = 2-methylimidazole), có cấu trúc tương tự
ZIF-8, được tạo thành nhờ sự liên kết anion 2-methylimidazolate và cation
cobalt trong cấu trúc sodalite (SOD). Cấu trúc phân tử của ZIF-67 được minh
họa ở Hình 1.5.
Hình 1.5. Cấu trúc đơn tinh thể của ZIF-67 [181]
Hình 1.5 cho thấy, cấu trúc của ZIF-67 là một mạng lưới gồm nhiều tứ
diện nối với nhau bao gồm nguyên tử Co liên kết với phối tử 2 methyl-
imidazole, được hình thành từ hai nhóm vòng 6 và vòng 4 của cụm tứ diện
CoN4 với đường kính lỗ xốp 1,16 nm kết nối với cửa sổ 0,34 nm.
ZIF-67 thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế
giới ở các lĩnh vực khác nhau do sở hữu các đặc tính nổi trội như: bền hóa học
và bền nhiệt, diện tích bề mặt riêng lớn (lên đến 1800 m2.g-1 và có nhiều tâm
hoạt động ngay trên bề mặt [110], [115].
9
Cho đến nay, nhiều phương pháp được nghiên cứu để tổng hợp ZIFs
nói chung và ZIF-67 nói riêng như: siêu âm hóa học [33], tổng hợp vi lưu
(microfluidic) [39], [167], tổng hợp điện hóa [104], gel khô [131],....Mỗi
phương pháp tổng hợp đều có ưu điểm và hạn chế riêng. Tuy nhiên, phương
pháp tổng hợp thủy nhiệt hoặc nhiệt dung môi trong các dung môi hữu cơ như
methanol; N,N-dimethylformamide (DMF); hay N,N-diethylformamide (DEF)
là phương pháp đơn giản, hiệu quả và phổ biến nhất hiện nay để tổng hợp vật
liệu ZIFs với độ tinh khiết và tinh thể hóa cao. Sơ đồ ở hình 1.6 minh họa các
phương pháp tổng hợp vật liệu ZIFs.
Tổng hợp ZIFs
ZIFs dạng film/màng ZIFs dạng bột
Tổng hợp dùng dung môi
ZIFs dạng film/màng composite Tổng hợp không dung môi ZIFs dạng film/màng đơn chất
- Nhiệt dung môi - Thủy nhiệt - Nhiệt ion (iono thermal) - Phát triển tinh thể thứ cấp - Phát triển tinh thể insitu - Phương pháp giảm sử dụng dung môi đến mức tối đa - Phương pháp hóa cơ - Nhiệt ion (iono Hình 1.6. Tóm tắt các phương pháp tổng hợp vật liệu ZIFs [27]
Tổng hợp thủy nhiệt được thực hiện thông qua những phản ứng hóa học trong dung dịch nước, trên điểm sôi. Byrappa và cộng sự [21] đã định nghĩa tổng hợp thuỷ nhiệt là quá trình phản ứng hoá học về sự hòa tan trong nước của các chất tham gia phản ứng ở nhiệt độ cao hơn 100 oC và áp suất lớn hơn 1atm trong hệ kín. Phương pháp này có đặc điểm là kết tủa đồng thời các hydroxide kim loại ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao, khuếch tán các chất tham gia phản ứng tốt, tăng đáng kể bề mặt tiếp xúc của chất phản ứng, do đó có thể điều chế được nhiều vật liệu mong muốn. Phương pháp thuỷ nhiệt điều
10
chế vật liệu có khá nhiều ưu điểm như: cho sản phẩm tinh thể có độ tinh khiết cao, sử dụng những tiền chất có giá thành rẻ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao, khi sử dụng những tiền chất khác nhau thì sản phẩm điều chế sẽ có hình dạng khác nhau, có thể thông qua nhiệt độ thuỷ nhiệt để điều chỉnh kích thước tinh thể [21], [40], [128].
Qian và cộng sự [121] lần đầu tiên công bố tổng hợp ZIF-67 có kích thước nano (288 nm) trong dung dịch nước ở nhiệt độ phòng: hòa tan 0,45 g Co(NO3)2.6H2O vào 3 ml nước cất; tiếp theo hòa tan 5,5 g 2-methylimidazole (MIm) trong 20 ml nước cất. Trộn 2 hỗn hợp trên và khuấy ở nhiệt độ phòng trong 6 giờ, thu được kết tủa, sau đó ly tâm kết tủa, rửa bằng nước cất và methanol. Cuối cùng, sấy khô trong chân không, thu được ZIF-67. Nhóm tác giả trên cho rằng, nồng độ chất phản ứng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát kích cỡ hạt, việc giảm nồng độ các chất phản ứng có thể gia tăng kích cỡ hạt của sản phẩm thu được. Tỷ lệ nồng độ mol sử dụng như sau: Co2+ : MIm : H2O = 1 : 58 : 1100. Diện tích bề mặt tính toán theo mô hình BET là 316 m2.g-1. Một số đặc trưng hóa lý như XRD, SEM, DTG… của vật liệu ZIF-67 kích thước nano được trình bày ở hình 1.7.
Hình 1.7. a) Giản đồ XRD của ZIF-67 mô phỏng và ZIF-67 tổng hợp;
b) SEM; c) Giản đồ TGA; d) Đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp phụ nitrogen của ZIF-67 có kích thước nano [121]
11
Tổng hợp với hệ dung môi trên cơ sở nước cũng đã được các nhà
nghiên cứu sử dụng với việc thêm vào các chất phụ trợ như Triethylamine
(TEA) và amonium hydroxide để rút ngắn thời gian tổng hợp, giảm việc sử
dụng tỷ lệ mol (kim loại : phối tử) chất phản ứng và tăng diện tích bề mặt
riêng vật liệu thu được. Gross và cộng sự [52] đã tổng hợp được ZIF-67 ở
nhiệt độ phòng bằng cách kết hợp muối cobalt nitrate với phối tử 2-
methylimidazole và TEA với thời gian tổng hợp rút ngắn còn 10 phút. TEA
đóng vai trò là tác nhân loại proton của 2-methylimidazole và hình thành nên
khung cấu trúc với tỷ lệ mol sử dụng, ion kim loại : MIm là 1 : 4. Kết quả cho
thấy việc thêm vào TEA đã làm giảm tỷ lệ kim loại/phối tử sử dụng và vật
liệu thu được có tính chất bề mặt tốt hơn như trình bày ở Bảng 1.1. Đồng thời,
Yao và cộng sự [174] cũng đã công bố việc tổng hợp ZIF-67 từ tỷ lệ ion kim
loại và phối tử thích hợp ở nhiệt độ phòng với sự có mặt của amonium
hydroxide và chất hoạt động bề mặt chứa nhóm PEO (polyethylene oxide).
Amonium hydroxide đóng vai trò loại proton của phối tử 2-methylimidazole
và nhóm PEO của chất hoạt động bề mặt có thể làm gia tăng việc tạo thành
+ = 1 : 2 : 16. Diện tích bề mặt theo mô hình BET và Langmuir lần
ZIF-67 do có sự hấp dẫn tĩnh điện với ion kim loại. Tỷ lệ mol sử dụng: Co2+ :
Mim : NH4
lượt là 869 và 1146 m2.g-1.
Bảng 1.1. Tỷ lệ mol phối tử dùng tổng hợp và tham số mao quản của ZIF-67 [52]
Vật liệu Tỷ lệ mol Kim loại : phối tử : TEA Diện tích bề mặt riêng BET (m2.g-1) Thể tích lỗ xốp (cm3.g-1)
ZIF-67 ZIF-67 ZIF-67 1 : 4 : 4 1 : 8 : 8 1 : 16 : 16 608 636 868 0,25 0,26 0,38
Phương pháp thủy nhiệt có nhiều ưu điểm như đơn giản, dễ thực hiện,
vật liệu tổng hợp có độ tinh khiết cao. Đồng thời, hình thái và kích cỡ của tinh
thể có thể được kiểm soát bằng cách thay đổi điều kiện tổng hợp, tiền chất
12
muối cobalt sử dụng và tỷ lệ mol Mim/Co2+ [58], [121]. Phương pháp này
thân thiện với môi trường vì không dùng các dung môi độc hại cũng như tiết
kiệm được chi phí, tuy nhiên vật liệu thu được có diện tích bề mặt riêng theo
mô hình BET thấp, thể tích mao quản nhỏ [52], [121], [140].
Phương pháp nhiệt dung môi tương tự như phương pháp tổng hợp thủy
nhiệt, trong đó nước được thay thế bằng các dung môi hữu cơ. Sun và cộng sự
[140] đã tổng hợp ZIF-67 ở nhiệt độ phòng với dung môi là methanol: trộn
hỗn hợp muối cobalt và 2-methylimidazole trong dung môi ethanol, khuấy
trong 1 giờ. Vật liệu thu được có diện tích bề mặt riêng 1258 m2.g-1 và thể tích
mao quản 0,576 m3.g-1. Ethiraj và cộng sự [38] đã tiến hành tổng hợp vật liệu
ZIF-67 trong 02 dung môi methanol và dimethylformamide riêng biệt, thời
gian tổng hợp 4 giờ, nhiệt độ 60 oC. Kết quả cho thấy, diện tích bề mặt riêng
tính theo mô hình BET và Langmuir có sự khác biệt đảng kể. Trong khi đó,
thể tích lỗ xốp không khác nhau nhiều, như trình bày ở Bảng 1.2. Đồng thời,
khi gia tăng thời gian tổng hợp thì kích thước hạt trung bình tăng theo, Feng
và cộng sự [41] đã khảo sát thời gian tổng hợp từ 20 phút đến 1440 phút, kết
quả cho thấy kích thước hạt của tinh thể tăng từ 281 nm đến 410 nm.
Bảng 1.2. Các tham số mao quản của ZIF-67 được tổng hợp từ dung môi khác nhau
Diện tích bề mặt riêng (m2.g-1) Mẫu Vmicro (cm3.g-1) BET Langmuir
1478 1963 0,66
1168 1611 065 ZIF-67 (methanol) ZIF-67 D (dimethylformamide)
Ngoài ra, để cải thiện tính chất bề mặt của vật liệu, các nhà nghiên cứu còn
sử dụng phương pháp tổng hợp có sự hỗ trợ của siêu âm và vi sóng. Diện tích bề
mặt bên ngoài (external surface area) vật liệu thu được so với phương pháp nhiệt
dung môi thông thường có sự gia tăng đáng kể [14], đồng thời thời gian tổng hợp
được rút ngắn hơn nhiều so với phương pháp tổng hợp thông thường [84], [113].
13
1.3. VẬT LIỆU g-C3N4 (GRAPHITIC CARBON NITRIDE)
Carbon nitrua dạng graphite (g-C3N4) là chất bán dẫn loại p phi kim
loại có nhiều tính chất hứa hẹn như tính dẫn điện, quang hóa, cấu trúc và tính
chất hóa lý đặc biệt. Việc sở hữu các tính chất nổi trội khiến cho g-C3N4 được
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: điện tử, xúc tác và năng lượng.
C3N4 có 7 dạng thù hình khác nhau, gồm có α-C3N4, β-C3N4, lập phương-
C3N4, giả lập phương-C3N4, g-h-triazine, g-h-heptazine và g-o-triazine, với
năng lượng vùng cấm lần lượt là 5,49; 4,85; 4,30; 4,13; 2,97; 2,88 và 0,93 eV
[162]. Trong số đó, dạng tinh thể β-C3N4 có độ cứng tương tự như độ cứng
của kim cương [91]. Ngoại trừ dạng giả lập phương và g-h-triazine, năm dạng
thù hình còn lại có năng lượng vùng cấm gián tiếp theo theo cấu trúc khối của
chúng [102], [147], [162]. Dạng g-h-triazine và g-h-heptazine có năng lượng
vùng cấm phù hợp (2,97 và 2,88 eV) để hoạt động trong vùng ánh sáng khả
kiến. Thú vị hơn, g-C3N4 có cấu trúc lớp 2D xếp chồng lên nhau (Hình 1.8a),
Hơn nữa, 2 trạng thái ngưng tụ khác nhau với dạng khối cơ bản trong mạng
lưới g-C3N4 đơn lớp, đó là: đơn vị s-triazine (vòng C3N3 ở Hình 1.8b) và tri-s-
triazine/đơn vị phân lớp heptazine (3 vòng C6N7, Hình 1.8c) kết nối với các
nguyên tử ni tơ bậc 3 tạo thành mạng lưới tuần hoàn [73]. Quan trọng hơn,
thực nghiệm và tính toán lý thuyết chứng minh rằng g-C3N4 dạng tri-s-triazine
với năng lượng liên kết 30 kJ.mol-1 bền hơn g-C3N4 dạng trazine, do đó dạng
tri-s-triazine được cho là đơn vị đại diện cho mạng lưới g-C3N4 [73], [80],
[127], [162].
14
Hình 1.8. a) Cấu trúc lớp 2D của g-C3N4; b) cấu trúc của s-triazine;
c) cấu trúc của tri-s-triazine trong g-C3N4 [159]
Phương pháp XRD được sử dụng để nghiên cứu hằng số mạng lưới
và cấu trúc tinh thể của g-C3N4. Hình 1.9 trình bày giản đồ XRD của g-
C3N4 dạng khối với hai peak riêng biệt tại 27,4o và 13o (Hình 1.9a) với chỉ
số Miller tương ứng là (002) và (100) (JCPDS 87-1526) [18]. Kết quả
XRD cho thấy g-C3N4 có cấu trúc lớp khoảng cách là 0,325 nm tương ứng
với khoảng cách trong graphite là 0,34 nm [18]. Khoảng cách không gian
0,681 nm kiểu trong mặt phẳng nhỏ hơn một ít trong khoản cách của s-
triazine (0,73 nm) có thể là do sự uốn cong của cấu trúc 2D [155]. Tuy
nhiên g-C3N4 dạng ống xuất hiện một nhiễu xạ tại 17,4o (tương ứng với d =
0,49 nm, Hình 1.9a) cho thấy sự tạo thành cấu trúc s-triazine (với d lý
thuyết bằng 0,47 nm [147]) trong g-C3N4 [46].
15
Hình 1.9. a) Giản đồ XRD của carbon nitride cầu ống; b) g-C3N4 dạng khối tổng hợp trực tiếp từ nung melamine ở 520 oC trong 2 giờ [46].
Được biết rằng nhiều khuyết tật bề mặt trên lớp g-C3N4 tạo nên nhiều
nhóm chức. Thông thường các nhóm amin bậc 1 và 2 (C-NH2 và C2-NH) tồn
tại trên các góc trong các lớp đơn g-C3N4 (Hình 1.10) có thể được tạo ra bằng
một lượng nhỏ hydrogen do sự ngưng tụ không hoàn toàn [190]. Vì thế không
ngạc nhiên g-C3N4 với bề mặt khuyết tật giàu điện tử thể hiện tính chất ái
nhân từ các nhóm chức bề mặt base (hoạt hóa CO2) hay kiểu liên kết
hydrogen (Hình 1.10) có khả năng thúc đẩy các quá trình xúc tác hơn là trong
g-C3N4 không khuyết tật [148]. Một lượng lớn nhóm chức base (-NH-, =N-,
-NH2 và -N-C=) trên bề mặt hữu ích cho việc loại bỏ các phân tử acid độc hại
thông qua sự hấp phụ hóa học trên cơ sở tương tác tĩnh điện [60]. Tương tự
như bản chất kị nước của bề mặt nanocarbon, khả năng kị nước của g-C3N4 có
thể dẫn đến sự tạo thành lớp tương tác bề mặt yếu và các phản ứng điện hóa
bề mặt [188]. Trên quan điểm này, tính ưa nước của g-C3N4 có thể được cải
thiện thông qua việc đưa vào các nhóm chức chứa oxy (hydroxyl và carboxyl)
bằng cách oxy hóa hóa học, dẫn đến có thể phân tán dễ dàng trong môi trường
nước và nâng cao sự gắng kết bề mặt và hoạt tính quang xúc tác [92], [116].
16
Hình 1.10. Các tâm hoạt động trong g-C3N4 với khuyết tật [148]
g-C3N4 có thể được tổng hợp bằng phản ứng ngưng tụ cyanamide,
dicyandiamide hoặc melamine. Tùy thuộc vào điều kiện phản ứng, vật liệu
khác nhau có thể thu được g-C3N4. Cấu trúc được hình thành đầu tiên là
polymer C3N4 (melon) với các nhóm amino vòng là một polymer có độ trật tự
cao. Phản ứng tiếp tục dẫn đến những loại C3N4 đặc khít hơn và ít khiếm
khuyết, dựa trên các đơn vị tri-s-triazin (C6N7) như các khối kiến trúc cơ bản.
Hiển vi điện tử truyền qua có độ phân giải cao chứng tỏ đặc tính của những
loại ngưng tụ có không gian hai chiều rộng hơn.
Quá trình tạo thành g-C3N4 bao gồm nhiều phản ứng: thăng hoa và
ngưng tụ melamine (297-390 oC), quá trình loại amoni (545 oC) và quá trình
oxi hóa phân rã vật liệu g-C3N4 (639-750 oC) [155], [168]. Có thể quan sát sự
chuyển đổi melamine thành g-C3N4 bằng phương pháp nhiễu xạ tia X ở nhiệt
độ trên 560 oC [73]. Theo công bố của Y cui [34] và Gillan [48], nhiệt độ
phân rã hoàn toàn g-C3N4 biến động từ 700-750 oC. Hình 1.11 trình bày quá
trình điển hình tạo thành g-C3N4 từ tiền chất cyanamide. Điều đáng chú ý là
g-C3N4 được xem là vật liệu có độ bền nhiệt cao nhất trong số các vật liệu hữu
17
cơ, và độ bền nhiệt của vật liệu phụ thuộc vào nhiệt độ trùng hợp g-C3N4 theo
các phương pháp khác nhau [34], [48], [78], [130], [168], [178]. Độ bền nhiệt
cao của bán dẫn g-C3N4 không những có nhiều ứng dụng khác nhau, như chất
xúc tác dị thể hợp chất hữu cơ, hoạt động ở nhiệt độ nhỏ hơn 500 oC, mà còn
dễ dàng loại bỏ nó bằng cách đơn giản là gia nhiệt trên 600 oC.
Hình 1.11. Cơ chế tạo thành g-C3N4 từ cyanamide
Các phương pháp tổng hợp g-C3N4 khác nhau bao gồm ngưng tụ các
hợp chất ban đầu giàu carbon và nitrogen khác nhau. Kouvetakis và cộng sự
[79] đã phân hủy tiền chất là dẫn xuất melamine ở nhiệt độ 400 - 500 oC để
thu được một carbon nitride vô định hình với các đỉnh graphite được xếp rõ
ràng và các thành phần cấu tạo chính xác. Cao và cộng sự [160] đã ngưng tụ
tiền chất HN=C(NH2)2 trong khí HCl, kết quả thu được g-C3N4 với thành
phần cấu tạo chính xác và các đỉnh graphite được xếp rõ ràng. Kết quả được
trình bày ở Hình 1.12. Nhiều công trình nghiên cứu khác về phương pháp
tổng hợp g-C3N4 từ các chất giàu nitơ khác nhau cũng đã được công bố [12],
[17], [56], [57].
18
Hình 1.12. Sơ đồ điều chế g-C3N4 bằng cách ngưng tụ NH(NH2)2 [160]
Arne Thomas và cộng sự [148] đã phân tích và giải thích được cấu trúc
tinh thể của các chất trung gian 2,5,8-triamino-tri-s-triazine, meleme có công thức C6N10H6 (Hình 1.13).
Triazine và tri-s-triazine đã được thảo luận như đơn vị kiến trúc để tạo
nên dạng thù hình tiềm năng khác nhau của g-C3N4. Sự ổn định của g-C3N4 do
môi trường điện tử khác nhau của nguyên tử nitơ và kích thước của các lỗ
trống của nitrua.
Hình 1.13. Triazine (trái) và mô hình kết nối trên nền tảng tri-s-triazine (phải)
của những dạng thù hình g-C3N4 có thể có [148]
19
Việc tổng hợp g-C3N4 đi từ dicyandiamide được trình bày ở Hình 1.14,
bao gồm phản ứng kết hợp và đa trùng ngưng. Giai đoạn đầu ngưng tụ hình
thành melamine. Giai đoạn thứ hai, amoniac được tách ra do đó sản phẩm
khác nhau khi thực hiện trong bình phản ứng mở hay đóng. Tăng nhiệt độ đến
350 oC về cơ bản các sản phẩm trên nền tảng melamine được tìm thấy, trong
khi tri-s-triazine hình thành qua sự sắp xếp lại melamine ở nhiệt độ khoảng
390 oC. Sự trùng ngưng các đơn vị này tạo các polymer, mạng lưới và có khả
năng hoàn thành C3N4 polymer xảy ra ở nhiệt độ khoảng 520 oC. Vật liệu trở
nên không bền ở nhiệt độ trên 600 oC. Nung nóng đến 700 oC vật liệu sẽ bị
phân hủy [148].
Trở ngại lớn trong quá trình tổng hợp đó là sự thăng hoa dễ dàng của
melamine ở nhiệt độ cao. Điều này làm hạn chế đến sự phát triển rộng lớn do
melamine sinh ra ở thời gian ngắn và cùng tồn tại với các dạng khác, trong đó
liên kết hidrogen làm chậm sự melamine hóa. Vì thế, khi sử dụng
dicyandiamide là tiền chất để tổng hợp g-C3N4, cần chú ý thúc đẩy nhanh giai
đoạn melamine hóa để tăng hiệu quả trong quá trình trùng hợp.
Hình 1.14. (a) Mạng lưới g-C3N4; (b) Hình ảnh khối bột g-C3N4 (màu vàng); (c)
Các quá trình phản ứng hình thành g-C3N4 từ dicyandiamide [148]
20
Ở nhiệt độ 390 oC các trung tâm cyameluric được hình thành qua sự sắp
xếp lại các đơn vị melamine. Sản phẩm ngưng tụ này là chất trung gian ổn
định và có thể tách ra một cách an toàn bằng cách dừng phản ứng ở nhiệt độ
400 oC trong ống thủy tinh kín dưới áp suất riêng phần của NH3 cao. Cân
bằng chuyển sang dạng oligomer hoặc polymer khi quá trình phản ứng xảy
ra trong nồi hở ít NH3. Việc nung sản phẩm ngưng tụ trên 500 oC dẫn đến loại
bỏ thêm lượng đáng kể NH3 và hình thành polymer C3N4 ngưng tụ lớn [147].
1.4. VẬT LIỆU GRAPHENE OXIDE DẠNG KHỬ (REDUCED
GRAPHENE OXIDE)
Graphene là vật liệu nano carbon hai chiều, hình thành từ các nguyên tử
carbon với lai hóa sp2 liên hợp. Nhờ thể hiện những tính chất đặc biệt như độ
dẫn điện, độ bền cơ học cao, dẫn nhiệt tốt, không thấm khí, trong suốt, các
nghiên cứu về loại vật liệu này đang ngày càng được quan tâm và mở rộng.
Việc điều chế graphene hiện nay được thực hiện dựa trên hai nhóm
phương pháp: dưới lên (bottom-up) và trên xuống (top-down). Nhóm
phương pháp dưới lên tổng hợp các tấm graphene từ các phân tử chứa
carbon đơn giản như methane và methanol, phương pháp trên xuống dựa
vào việc tách graphene từ graphite. Hai nhóm phương pháp này tạo ra sản
phẩm graphene khác nhau về chất lượng và hiệu suất. Trong đó, phương
pháp ‘top-down’ dựa trên sự oxy hóa và khử hóa học đến nay là phương
pháp thuận tiện nhất, cho hiệu suất cao và chi phí ít tốn kém hơn. Graphene
thu được thông qua xử lý hóa học thích hợp cho các ứng dụng như tổng
hợp composite, chất phủ, mực/sơn, các lớp dẫn trong suốt, lưu trữ năng
lượng và các ứng dụng sinh học.
Graphite oxide (GrO) là sản phẩm oxy hóa của graphite, trong đó vẫn
duy trì cấu trúc đa lớp của tiền chất ban đầu, chỉ có khoảng cách giữa các lớp
tăng lên do sự có mặt của các nhóm chức chứa oxygen. Trên bề mặt của GrO
chủ yếu là các nhóm hydroxyl và epoxy, còn xung quanh chủ yếu là các nhóm
21
carbonyl và carboxyl. Những nhóm chức này tạo nên các khuyết tật về cấu
trúc và làm cho GrO khác với graphene ban đầu. Sau khi bóc tách GrO (dưới
tác động của sóng siêu âm hay dung môi) thu được graphene oxide (GO), là
sản phẩm trung gian giữa graphite và graphene. Thành phần hóa học của GrO
không khác với GO. GO chỉ khác với GrO về cấu trúc, ở đây là về số lớp
nhưng giống về tính chất hoá học. Nó vẫn duy trì các nhóm chức như tiền
chất nhưng tồn tại ở dạng các tấm graphene đơn, đôi hoặc vài lớp. GO thu
được thông qua khuấy cơ học hoặc siêu âm graphite oxide trong dung môi
hữu cơ phân cực hoặc môi trường nước. Mặc dù phương pháp siêu âm cơ ưu
điểm là đảm bảo việc bóc tách nhanh hơn và hiệu quả hơn, tuy nhiên nhược
điểm của nó thường gây ra sự phá hủy cấu trúc và kết quả là phá vỡ các tấm
GO. Hình 1.15. trình bày một số phương pháp điều chế GO, trong đó sử dụng
các hệ chất oxy hóa mạnh để oxy hóa graphite thành GO, dưới sự bóc tách
của sóng siêu âm hay dung môi tạo thành GO.
Hình 1.15. Điều chế graphene oxide từ graphite
22
Tính chất hấp dẫn của GO là nó có thể bị khử (một phần) thành các tấm
giống graphene bằng cách loại bỏ các nhóm chức chứa oxygen để khôi phục
lại cấu trúc liên hợp. Các tấm GO bị khử thường được xem là graphene có
nguồn gốc hóa học vì vậy được gọi là rGO (reduced graphene oxide) hoặc
CMG (chemically modified graphene).
Hình 1.16. Điều chế rGO từ GO
Do điều kiện oxy hóa khắc nghiệt trong quá trình tổng hợp GO đã tạo
ra nhiều khuyết tật và các chỗ trống trong mạng carbon sp2 nên không thể
phục hồi hoàn toàn bằng cách xử lý hóa học tiếp theo. Vì vậy, graphene được
tạo thành từ GO được gọi là graphene oxide dạng khử (rGO) hoặc graphene
được tạo ra bằng phương pháp hóa học. Graphene oxide dạng khử (rGO) là
một sản phẩm quan trọng của quá trình khử graphene oxide (GO) dùng tác
nhân khử mạnh (NaBH4, acid ascorbic). Quá trình chế tạo GO phổ biến từ
graphite bằng các chất oxy hóa mạnh KMnO4, NaNO3, và H2SO4 được công
bố bởi Hummers và Offerman [69]. Mặc dù độ kết tinh thấp, nhưng GO và
rGO cũng như các dẫn xuất của chúng (composite oxide kim loại/rGO và
polymer/rGO) có nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực như lưu trữ năng lượng,
cảm biến, làm sạch nước, điện tử… Tuy nhiên, ứng dụng trực tiếp của GO
không bị khử tương đối hạn chế hơn so với rGO. Trong các vật liệu này, rGO
23
hoạt động như các cấu tử chức năng hoặc hỗ trợ cho các hạt nano oxide kim
loại trong composite.
Hình 1.17. a) Phổ XPS của C1s của Graphene oxide và GO khử hóa học sau
b) 2 phút; c) 8 phút; d) 32 phút; e) 128 phút và f) 192 phút [55].
Hình 1.17 cho thấy, phổ C1s của GO có dạng giống như hình yên ngựa,
đó là dấu hiệu của quá trình oxi hóa mạnh mẽ trong GO [45]. GO là tấm
mỏng của nguyên tử carbon lai hóa sp2 và sp3 liên kết cộng hóa trị với các
nhóm chức chứa oxygen [132]. Hơn nữa với graphite lai hóa sp2 và sp3, việc
24
phân giải peak C1s của GO cho thấy có sự hiện diện của các nhóm chức chứa
oxygen. Peak ở mức năng lượng 287 eV được gán cho nguyên tử C liên kết
trực tiếp với oxy (nhóm hydroxyl và epoxy), trong khi đó peak ở mức 288,8
eV là của các nhóm carbonyl [132]. Phổ C1s phân giải cao của các mẫu GO
dạng khử cho thấy có sự dịch chuyển từ peak đôi của GO ban đầu sang peak
đơn có độ sắc nét hướng về phía năng lượng liên kết thấp, điều này chứng tỏ
có sự hồi phục của cấu hình graphene liên kết sp2 [45].
Hình 1.18. Phổ Raman của graphite, GO và rGO sau 2,8,32, và 128 phút xử
lý. Tỉ số ID/IG biến đổi như hàm số của thời gian xử lý (hình nhỏ) [55]
Nghiên cứu của tác giả Guex [55] và Stankovich [136], phổ Raman (số
sóng 1000 − 2000 cm-1) của GO, 4 mẫu rGO đại diện (rGO sau khi khử với
thời gian 2, 8, 32 và 128 phút) và graphite (Hình 1.18) cho thấy, có sự xuất
hiện của 2 peak quan trọng nhất của GO và các mẫu được khử, đó là dải tần G
ở số sóng ~1582 cm-1 và dải tần D ở số sóng ~1350 cm-1. Theo tác giả Khan
và cộng sự [76], phổ Raman của graphite có đỉnh G nổi bật và sắc nét hơn so
với đỉnh D. Dải tần G liên quan đến sự chuyển động của các nguyên tử carbon
trong mặt phẳng và nhạy với hiệu ứng biến dạng, trong khi đó dải tần D liên
25
quan đến sự hiện diện của sự mất trật tự và khuyết tật, hoặc là khuyết tật ở
cạnh hoặc là hình vị (mặt phẳng cơ bản) trong tấm graphene [23], [50]. Tỷ số
cường độ D/G (ID/IG) được sử dụng để đánh giá mức độ khuyết tật của
graphene và vật liệu trên cơ sở graphene [23]. Ở mức độ khuyết tật “thấp”, tỷ
số ID/IG tăng cho thấy rằng độ khuyết tật cao hơn tạo ra nhiều tán xạ đàn hồi
hơn, trái lại ở mức độ khuyết tật “cao”, giá trị ID/IG sẽ bắt đầu giảm khi mức
độ khuyết tật gia tăng do cấu trúc carbon ở trạng thái vô định hình nhiều hơn,
làm suy giảm tất cả tín hiệu Raman [100]. Hình nhỏ ở hình 1.18 cho thấy, giá
trị ID/IG tăng mạnh từ quá trình chuyển đổi bột graphite (0,16) thành GO
(0,91), nhưng tỷ số này chỉ tăng nhẹ từ quá trình chuyển đổi GO thành rGO ở
các thời gian xử lý khác nhau (với thời gian khử hóa học GO 2 phút, tỷ số
ID/IG = 1,078; thời gian khử 128 phút, tỷ số ID/IG = 1,23). Tác giả Olsson và
cộng sự [55] cho rằng mức độ khuyết tật cao của graphene là do quá trình khử
mạnh, tỷ lệ thuận với thời gian khử.
Hình 1.19. (a) TEM của graphite và (b) rGO [55]
Ảnh TEM của graphite và rGO ở Hình 1.19 cho thấy bề mặt của
graphite nhẵn hơn so với bề mặt cong vênh và gấp khúc của rGO (Hình
1.19b), với đường kính của nếp gấp khúc cỡ 0,5 − 1 µm.
26
1.5. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ ỨNG DỤNG CỦA VẬT LIỆU
COMPOSITE TRÊN CƠ SỞ VẬT LIỆU ZIF-67
1.5.1. Ứng dụng vật liệu ZIF-67 và composite của nó trong phân tích điện hóa
Các phương pháp điện hóa bao gồm các kỹ thuật volt-ampere hòa tan
(SV) được công nhận là một công cụ phân tích định lượng hữu cơ và vô cơ
mạnh bởi vì các ưu điểm của nó bao gồm phân tích nhanh, độ nhạy cao, giá
thành thấp, dễ vận hành và có thể sử dụng phân tích trực tiếp ở môi trường.
Phương pháp volt-ampere hòa anode xung vi phân (Differential pulse anodic
stripping voltammetry, DP-ASV), một trong các phương pháp SV, đã được áp
dụng để xác định lượng vết của kim loại nặng cũng như các chất hữu cơ do độ
nhạy rất cao. Các điện cực than thủy tinh (GCE) được biến tính hóa học bằng
các vật liệu xốp, composite silica xốp, carbon nano ống đã nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học bởi vì nó có được cải thiện đáng kể về độ đáp
ứng, độ chọn lọc cao, giới hạn phát hiện thấp.
Do có các tính kết hợp nổi trội của cả vật liệu MOFs và zeolite như bền
hóa học, bền thủy nhiệt và độ xốp lớn, cho nên ZIFs được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: lưu trữ/tách khí, xúc
tác, cảm biến, dẫn truyền thuốc...Tuy nhiên, vật liệu này có tính dẫn điện,
hoạt tính điện hóa và độ ổn định thấp, điều này giới hạn trong ứng dụng điện
hóa [139]. Để khắc phục các nhược điểm trên, hướng nghiên cứu biến tính
của ZIF-67 hiện nay là pha tạp ion kim loại, gắn vào các nhóm chức hữu cơ
hoặc kết hợp ZIFs với các vật liệu trên cơ sở carbon như ống nano carbon và
graphene, g-C3N4. Những vật liệu này kết hợp các tính chất của rGO (dẫn
điện, có nhiều tâm hoạt động, bền cơ học) và của ZIF-67 (diện tích bề mặt
lớn, có nhiều tâm hấp phụ hữu cơ cũng như vô cơ) hoàn toàn có thể làm chất
biến tính điện cực để xác định các chất hữu cơ. Tại Việt Nam, có rất ít nghiên
cứu về ứng dụng của vật liệu ZIF-67 và dẫn xuất của ZIF-67 làm chất biến
tính điện cực để phân tích hợp chất hữu cơ bằng phương pháp điện hóa, theo
27
hiểu biết của chúng tôi, chỉ có công bố của Nguyễn Thị Thanh Tú và cs [113]
về việc sử dụng vật liệu ZIF-67 làm chất biến tính điện cực để xác định đồng
thời dopamine và paracetamol trong dược phẩm bằng phương phương pháp
volt-ampere hòa tan, nghiên cứu của Đặng Thị Ngọc Hoa và cs [64] sử dụng
điện cực biến tính ZIF-67/Fe2O3/g-C3N4 xác định Auramine O trong măng
chua. Đối với các công bố trên thế giới, có một số công trình nghiên cứu điển
hình như, Srinivas và cộng sự [135] đã công bố tổng hợp thành công dẫn xuất
của ZIF-67-Co/Co-N@NPC bằng cách kết hợp các hạt nano Co/Co-N với
carbon vi xốp pha tạp nitrogen (Co/Co-N@NPC), điện cực biến tính dùng để
xác định dopamine trong mẫu sinh học với giới hạn phát hiện thấp 0,006 µM.
Điện cực biến tính từ ZIF-67 và GO (ZIF-67C@rGO) cũng đã được Chen
[28] phát triển để phân tích kháng sinh metronidazole trong dược phẩm,...
Meng và cộng sự [105] đã công bố có thể phân tích điện hóa glucose bằng
phương pháp phi emzyme sử dụng điện cực biến tính bằng Ag/ZIF-
67[105][104][103].
Hình 1.20. Quy trình chuẩn bị ZIF-67/GO và cơ chế phản ứng điện hóa
dopamine và uric acid ở điện cực biến tính bằng ZIF-67/rGO [145]
Tang và cộng sự [145] đã công bố điện cực than thủy tinh biến tính
bằng ZIF-67/rGO có khả năng phân tích dopamine và uric acid trong mẫu
28
nước tiểu với giới hạn phát hiện thấp lần lượt là 50 và 100 nM. Điều này được
giải thích là hiệu ứng cộng lực của độ dẫn điện cao của GO và cấu trúc xốp và
diện tích bề mặt lớn của ZIF-67 (Hình 1.20).
Sự kết hợp ZIF-67 trên nền rGO và g-C3N4 tạo thành composite đã
được nghiên cứu dùng làm pin lithium sulfur, vật liệu làm tụ điện [66], [106],
[141], [172]. Theo hiểu biết của chúng tôi, việc nghiên cứu sử dụng ZIF-67
cũng như ZIF-67/rGO và ZIF-67/g-C3N4 dùng làm chất biến tính điện cực để
xác định Rhodamine B trong mẫu thực phẩm, xác định đồng thời uric acid và
acetaminophen trong mẫu sinh học bằng phương pháp volt-ampere hòa tan
chưa từng được công bố.
1.5.2. Ứng dụng làm chất hấp phụ
Một số tác giả đã công bố rằng ZIF-67 có khả năng siêu hấp phụ
malachite green trong dung dịch nước, hiệu quả xử lý của nó duy trì ổn định
(>95%) sau 4 lần tái sinh, khả năng hấp phụ cao của ZIF-67 được Andrew giải
thích do tương tác của xanh machelite và hệ liên kết trong ZIF-67 [5].
Hình 1.21. Cơ chế đề nghị sự hấp phụ của malachite green lên ZIF-67 [5]
Li và cộng sự [89] đã tìm thấy rằng khả năng hấp phụ Rhodamine B
của ZIF-8 và ZIF-67 tăng khi điều chế có sự bổ sung trimethylamine và chất
này có hiệu ứng làm tăng khả năng hấp thu của ZIF-67 hơn là ZIF-8.
ZIF-67 được điều chế bằng phương pháp kết tủa điện hóa đã được dùng
để hấp phụ một số phẩm nhuộm. Kết quả cho thấy rằng ZIF-67 hấp phụ chọn
29
lọc với một vài loại phẩm nhuộm do thế zeta dương của nó trong khoảng pH
rộng hay một vào nhóm chức đặc biệt như -SO3. Nhóm nghiên cứu cũng phát
hiện rằng ZIF-67 có khả năng hấp phụ chọn một vài loại phẩm nhuộm khỏi
hỗn hợp phẩm nhuộm, cụ thể là ZIF-67 ưu tiên hấp phụ các phẩm màu anion
AF (acriflavine) và MO (methyl orange), cation OG/SD-II (sudan III) và
trung tính từ hỗn hợp MB (methylene blue)/AF, MB/MO, MB/OG-II and
MB/SD-III matrixes. Khả năng hấp phụ cao của ZIF-67 có thể do tương tác
tĩnh điện, tương tác phối trí, tương tác trong khi đó tương tác liên kết
hydrogen dường đóng vai trò chủ yếu đến hấp phụ phẩm màu cation và trung
tính, tiếp theo sau tương tác Hình 1.22) [36].
Hình 1.22. Khả năng hấp phụ phẩm nhuộm chọn lọc của ZIF-67: a) hỗn hợp MO/MB và b) OG-II/MB, c) AF/MB và d) SD-III/MB (nồng độ 10 mg.L-1) [36]
Có một số nghiên cứu về tổng hợp Fe3O4/ZIF-67 và nghiên cứu hoạt
tính của chúng về phương diện xúc tác quang hóa, nhóm nghiên cứu của tác
30
giả Guan [54] đã tổng hợp Fe3O4 sau đó đưa vào muối cobalt, tiếp đến
imidazole như được mô tả ở Hình 1.23.
Xue và cộng sự [163] đã công bố Fe3O4@ZIF-67 có khả năng hấp phụ
cao phosphate (116,59 mg P.g-1) và dễ dàng phục hồi từ tính. Sự hiện diện của
ion Ca2+ đã nâng cao khả năng hấp phụ phosphate. Trong nghiên cứu này,
nhóm nghiên cứu đã tổng hợp Fe3O4@ZIF-67 bằng cách biến tính Fe3O4 với
muối acetate, sau đó lần lượt thêm vào Co(II) và 2 methyl imidazolate.
Hình 1.23. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4/ZIF-67 [54]
1.6. XÁC ĐỊNH RHODAMINE (RhB), URIC ACID (URA) VÀ
ACETAMINOPHEN (ACE) BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỆN HÓA
Rhodamine B (RhB), có công thức phân tử C28H31ClN2O3, danh pháp
theo IUPAC: [9-(2-carboxyphenyl)-6-diethylamino-3-xanthenylidene]-
diethylammonium chloride), là loại thuốc nhuộm xanthene, tan tốt trong nước
và là thuốc nhuộm tổng hợp phổ biến nhất dùng để nhuộm vải, tạo màu trong
công nghiệp thực phẩm, nhựa, da và giấy [4]. RhB được cho là chất gây ung
thư và gây nhiễm độc thần kinh, nhiễm độc mãn tính đối với con người và
động vật. RhB được sử dụng bất hợp pháp để tạo màu đỏ trong ớt bột, các loại
31
nước sốt với mục đích tiết kiệm chi phí. Do RhB có nguy cơ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe, đã có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nhằm nỗ lực
phát triển phương pháp đơn giản xác định RhB trong các đối tượng mẫu khác
nhau. Một số phương pháp nghiên cứu xác định RhB đã công bố như: sắc ký
lỏng hiệu năng cao (HPLC) kết hợp với chiết pha rắn từ tính sử dụng các hạt
nano từ tính core-shell được phủ lớp dung dịch ion hóa [29], phương pháp sắc
ký lỏng hiệu năng cao [43], [44], kỹ thuật chiết điểm mù micelle-mediated
[120] và UV-Vis kết hợp chiết pha rắn [134]. Tuy nhiên, quy trình phân tích
của các phương pháp trên phức tạp, chi phí cao khiến cho việc ứng dụng để
phân tích khó khăn.
Phương pháp volt-ampere được biết đến như là các phương pháp tiềm
năng để phát hiện lượng vết các hợp chất vô cơ và hữu cơ do chúng đáp ứng
được các tiêu chí đơn giản, rẻ tiền, độ nhạy cao và có thể phân tích in-situ.
Phương pháp volt-ampere đã được sử dụng để phát hiện RhB trong thực phẩm
[137], [176], [182]. Phát triển điện cực mới bằng cách biến tính chúng với các
vật liệu lai hữu cơ - vô cơ cho phép phát triển các thiết bị tiềm năng trong
phân tích lượng vết đối với không chỉ RhB mà còn các hợp chất vô cơ và hữu
cơ khác. Nhiều điện cực biến tính như điện cực biến tính với graphen [137],
điện cực biến tính với core-shell-structured Cu@carbon sphere (Cu@CS)
nanohybrid [138], điện cực biến tính với betacyclodextrin functionalized
nanogold/hollow carbon nanosphere nanohybrid (beta-CD-AuNPs/HCNS)
[176] và điện cực biến tính với silica-pillared zirconium phosphate/nafion
((SPZP/NAF) [182] đã được phát triển để xác định hàm lượng RhB trong các
đối tượng mẫu khác nhau bằng phương pháp volt-ampere.
Uric acid (viết tắt URA) là hợp chất dị vòng có công thức phân tử
C5H4N4O3, đây là sản phẩm cuối cùng của quá trình chuyển hóa purine. Nồng
độ URA trong máu cao có thể cho thấy sự hiện diện của nhiều bệnh tật hoặc
rối loạn sinh lý. Nồng độ URA trong nước tiểu và trong máu cao được quan
32
sát thấy ở những bệnh nhân mắt bệnh gút và tăng uric acid máu [179].
Acetaminophen (viết tắt ACE) có công thức phân tử C8H9NO2, cũng được
biết đến với tên gọi paracetamol là thuốc giảm đau hiệu quả được sử dụng làm
giảm đau phổ biến liên quan đến nhiều bộ phận của cơ thể [22]. Quá liều ACE
có thể gây ra sự tích lũy chất chuyển hóa độc hại gây độc cho gan và nhiễm
độc thận nghiêm trọng [42]. Do tính chọn lọc, thời gian phân tích nhanh, độ
nhạy cao, giới hạn phát hiện thấp, chi phí thấp trong vận hành, và có thể phân
tích tại hiện trường, kỹ thuật phân tích điện hóa được coi là phương pháp tiềm
năng để phân tích lượng vết lĩnh vực hữu cơ hoặc vô cơ, đặc biệt trong các
hợp chất dược phẩm. URA và ACE cũng như dopamine và ascorbic acid thể
hiện tính chất khử ở các thế gần như nhau. Sự phát hiện đồng thời trong các
hợp chất này đôi khi khó khăn do ảnh hưởng của hiệu ứng chồng peak. Sử
dụng các bước phân tách như trong phương pháp sắc ký có thể khắc phục
nhược điểm này nhưng thường có giá thành cao. Do đó, việc tìm kiếm các
phương pháp phân tích đơn giản, rẻ tiền, nhạy và chính xác để phát hiện đồng
thời URA và ACE rất cần thiết. Có hai cách tiếp cận để khắc phục những
nhược điểm này trong phân tích điện hóa: i) sử dụng điện cực được biến tính
bằng vật liệu lai nano để cải thiện sự tương tác của các chất phân tích và điện
cực và sau đó làm tăng sự phân tách peak của chất phân tích và các tín hiệu
điện hóa. Phong và cộng sự [119] đã nghiên cứu xác định đồng thời ascorbic
acid, paracetamol và caffein bằng cách sử dụng phương pháp điện hóa với
điện cực biến tính rGO. Kutluay và Aslanoglu [82] công bố việc xác định
chọn lọc ACE với sự hiện diện của ascobic acid, dopamine và uric acid bằng
cách sử dụng điện cực biến tính than thủy tinh với các ống nano carbon đa
tường; ii) Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng các chất hoạt động bề mặt như một
tác nhân để thúc đẩy sự tách peak. Các chất hoạt động bề mặt là những phân
tử lưỡng tính chứa nhóm ưa nước ở một đầu và nhóm kỵ nước ở đuôi. Dưới
nồng độ micelle tới hạn của bề mặt lỏng-rắn, các chất hoạt động bề mặt tạo
33
thành cấu trúc song lớp hoặc cấu trúc bán micelle [123], [151]. Các cấu trúc
đặc biệt tương tác lên điện cực và kết quả là hoạt động như tác nhân phân tách
độ phân giải của các điện cực khi các peak của hai quá trình oxy hóa hoặc khử
xảy ra ở điện thế giống nhau. Alarcon-Angeles và cộng sự [3] đã công bố sử
dụng natri dodecyl sulfate làm tác nhân phân tách để xác định điện hóa
dopamine khi có mặt ascorbic acid. Liu và cộng sự [97] đã nghiên cứu xác
định chọn lọc dopamine với sự hiện diện của ascorbic acid sử dụng
cetyltrimethylammonium bromide làm tác nhân tách peak.
Trong luận án này, chúng tôi sẽ tổng hợp các composite của ZIF-67 với
g-C3N4 hay rGO để có thể kết hợp các tính chất ưu điểm của ZIF-67 (diện tích
bề mặt riêng lớn, nhiều tâm hoạt động) và g-C3N4 hay rGO (dẫn điện và bền
cơ học) có thể tạo ra vật liệu đa năng trong ứng dụng điện hóa cũng như các
ứng dụng tiềm năng khác. Theo hiểu biết của chúng tôi, có rất ít nghiên cứu
về việc sử dụng ZIF-67/g-C3N4 hay ZIF-67/rGO làm chất biến tính điện cực
trong phân tích điện hóa.
34
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite ZIF-67/rGO và xác định
Rhodamine B bằng phương pháp volt-ampere dùng điện cực biến tính ZIF-
67/rGO-GCE.
2.1.2. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite ZIF-67/g-C3N4 và xác
định đồng thời uric acid và acetaminophen bằng phương pháp volt-ampere
dùng điện cực biến tính ZIF-67/g-C3N4-GCE.
2.1.3. Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano composite Fe3O4/ZIF-67 và ứng
dụng hấp phụ một số phẩm nhuộm hữu cơ.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Các phương pháp phân tích
2.2.1.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (X-ray diffraction, XRD)
Phương pháp nhiễu xạ tia X là một trong những phương pháp phổ biến
được sử dụng để nhận dạng cấu trúc và độ kết tinh tinh thể của vật liệu rắn, tinh
thể hay vô định hình, ngoài ra còn có thể xác định được kích thước của hạt.
Khi chiếu chùm tia X vào tới bề mặt tinh thể và đi vào bên trong mạng
lưới tinh thể đóng vai trò là một cách tử nhiễu xạ đặc biệt và được xem như
phản xạ gương phẳng. Các nguyên tử, ion hay phân tử bị kích thích bởi chùm
tia X sẽ thành các tâm phát ra các tia phản xạ (Hình 2.1).
Hình 2.1. Các tia X nhiễu xạ trên bề mặt tinh thể
35
Hiệu quang trình của hai tia phản xạ bất kì trên hai mặt phẳng cách
nhau một khoảng dhkl, được tính theo phương trình Bragg như sau [19]:
(2.1) ∆S = 2dhkl .sinθ
Theo điều kiện giao thoa ánh sáng để các sóng trên hai mặt phẳng cùng
pha thì hiệu quang trình phải bằng một số nguyên lần bước sóng.
(2.2) 2dhkl.sin = n
Trong đó: n là bậc nhiễu xạ (n = 1, 2, 3,...); là góc giữa chùm tia X với
mặt phẳng phản xạ; d là khoảng cách giữa hai mặt phẳng mạng song song; bước
sóng tia X và h, k, l là chỉ số Miller được sử dụng để xác định các mặt mạng.
Trong luận án này, giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) được ghi bởi nhiễu xạ
kế D8 Advance Bruker (Đức) với một nguồn bức xạ Cu-Kα (λ = 1,5406 Å),
công suất 40 KV, 40 mA, góc quét 2θ từ 2 đến 80 độ. Kết quả được thực hiện
tại Khoa Vật lý - Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.
2.2.1.2. Phương pháp hiển vi điện tử quét (Scanning Electron Microscopy,
SEM) , phổ tán xạ năng lượng tia X (Energy Despersive spectroscopy) và
bản đồ nguyên tố EDS (EDS-elemental mapping)
Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) được sử dụng để nghiên cứu
bề mặt của vật liệu, phương pháp này cho biết các thông tin về hình thái của
bề mặt và kích thước hạt.
Phổ tán xạ năng lượng tia X (Energy Dispersive Spectroscopy-EDS) là
phép phân tích bán định lượng dùng để đo thành phần nguyên tố của mẫu
bằng cách phân tích cường độ tia X được sinh ra với năng lượng tia X của
nguyên tố cụ thể khi mẫu rắn được chiếu chùm điện tử từ Hiển vi điện tử quét
(SEM). Số liệu thu được từ phép phân tích này có thể hữu ích cho việc định
danh thành phần nguyên tố. Khi mẫu được chiếu xạ bằng chùm tia điện tử,
các điện tử sẽ bị bắn ra từ các nguyên tử trên bề mặt của vật liệu. Chổ trống
của điện tử này sẽ được lấp đầy bởi các điện tử từ mức năng lượng cao hơn và
36
phát ra bước sóng tia X đặc trưng lệ hàm lượng của nguyên tố đó. Detector
của EDS đo số tia X phát ra so với năng lượng của chúng/Năng lượng của tia
X là đặc trưng cho nguyên tố phát ra tia X. Phổ của năng lượng với số đếm
tương đối của tia X gọi là EDS cho phép định tính và định lượng các nguyên
tố trong mẫu. Cường độ tia X đặc trưng được đo liên quan đến hàm lượng của
các nguyên tố trên bề mặt vật liệu. Sự biến đổi cường độ tia X cho thấy thành
phần nguyên tố tương đối trên bề mặt. Bản đồ nguyên tố được ghi lại sử dụng
hình ảnh, độ sáng tối của mỗi nguyên tố. Độ phân giải bề mặt có thể lên đến
1mm. Bản đồ nguyên tố cho phép phát hiện đồng thời các nguyên tố tại cùng
một thời điểm. Kết quả của bản đồ EDX bao gồm hình ảnh của từng nguyên
tố định tính cùng với phổ định lượng.
Trong luận án này, hình thái, bản đồ điện tử nguyên tố được đo trên
máy SEM JMS-5300LV (Nhật Bản) tại Viện Khoa học vật liệu, Hà Nội.
2.2.1.3. Hiển vi điện tử truyền qua (Tramistion Scanning Microscopy-TEM)
Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM) dùng để phân tích đặc
trưng cấu trúc và hình thái học khác nhau của vật liệu nano.
Thiết bị TEM sử dụng chùm electron có năng lượng cao chiếu xuyên
qua mẫu vật rắn mỏng và sử dụng các thấu kính điện từ để tạo ảnh với độ
phóng đại lớn. Độ sáng tối trên màn ảnh phụ thuộc vào lượng electron phát ra
tới bộ thu và phụ thuộc vào hình dạng mẫu nghiên cứu.
Trong luận án này, hình thái của vật liệu được quan sát bởi hiển vi điện
tử truyền qua trên máy JEOL JEM-2100F (Nhật Bản), tại Viện Khoa học vật
liệu, Hà Nội.
2.2.1.4. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ và giải hấp phụ nitrogen (BET)
Phương pháp Brunauer - Emmett - Teller (BET) dùng để xác định cấu
trúc xốp, diện tích bề mặt riêng của vật liệu.
Các đường đẳng nhiệt hấp phụ có thể được phân thành một trong sáu
loại ký hiệu theo số La Mã từ I đến VI theo IUPAC như trình bày ở Hình 2.2.
37
Hình 2.2. Phân loại IUPAC của đường đẳng nhiệt hấp phụ: loại I đến loại VI
Các đường đẳng nhiệt loại I, II, III đặc trưng cho các loại vật liệu vi
mao quản không có đường trễ. Loại VI đặc trưng cho loại vật liệu đa mao
quản. Các loại vật liệu có mao quản trung bình thường đặc trưng đường trễ
như loại IV và V. Với các loại có đường trễ người ta còn phân loại thành bốn
kiểu ký hiệu là H1, H2, H3 và H4 như trình bày ở Hình 2.3.
Hình 2.3. Các loại đường trễ theo hình dạng hình học của mao quản
38
Diện tích bề mặt riêng SBET (m2.g-1) được tính theo phương trình sau:
(2.5) SBET = VmNωo
Trong trường hợp chất hấp phụ là N2 ở 77 oK: ωo = 0,162.10-20 m2,
N = 6,023.1023, thì SBET được tính theo phương trình sau:
(2.6) SBET = 4,35.Vm
Trong đó, Vm là thể tích hấp phụ cực đại của một lớp (cm3.g-1) ở áp suất
cân bằng P và được tính toán dựa theo phương trình hấp phụ đẳng nhiệt BET
bằng phương pháp đồ thị.
Trong luận án này, phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ
nitrogen được thực hiện trên máy Micrometrics ASAP 2020 (Mỹ). Mẫu thử
được khử khí bằng cách nung ở nhiệt độ 120 oC trong chân không. Kết quả
thực nghiệm được thực hiện tại Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng.
2.2.1.5. Phương pháp quang điện tử tia X (XPS)
Phương pháp quang phổ điện tử tia X (XPS) được sử dụng phổ biến để
xác định thành phần nguyên tố cũng như trạng thái oxi hóa của các nguyên tố
có trong mẫu.
Phương pháp dựa trên hiệu ứng quang điện được tạo ra khi sử dụng các
photon có năng lượng hν chiếu bề mặt vật liệu và điện tử bật ra từ lớp điện tử
bên trong thường gọi là điện tử lớp lõi (khác với điện tử hóa trị ở lớp ngoài
cùng)với động năng Ekin được mô tả qua phương trình 2.7:
(2.7) Ekin = hυ - Eb - Wf
Trong đó, Wf là công thoát điện tử, υ là tần số photon, h là hằng số
Planck và Eb là năng lượng liên kết của điện tử (binding energy).
Trong luận án này, phổ XPS được đo trên máy Shimadzu Kratos AXIS
ULTRA DLD spectrometer (Nhật Bản), sử dụng nguồn phát tia X với bia Al,
ống phát làm việc ở 15 kV - 10 mA. Các dải năng lượng liên kết (binding
energies) được hiệu chỉnh bằng cách chuẩn nội với peak C1s (ở 284,6 eV).
Các Peak được phân giải trên phần mềm Casa XPS.
39
2.2.1.6. Phổ Raman
Quang phổ Raman là một kỹ thuật quang phổ dựa trên sự tán xạ không
đàn hồi của ánh sáng đơn sắc thường được phát từ một nguồn laser. Tán xạ
không đàn hồi là hiện tượng tần số của các Photon trong ánh sáng đơn sắc bị
thay đổi khi tương tác với mẫu. Các Photon của ánh sáng laser được mẫu hấp
thụ rồi sau đó lại được phát xạ lại. Tần số của các Photon phát xạ lại bị thay
đổi tăng hoặc giảm so với tần số ánh sáng đơn sắc ban đầu, được gọi là hiệu
ứng Raman. Sự thay đổi này cho biết thông tin về sự dao động, xoay vòng và
các thay đổi tần số thấp khác trong phân tử. Quang phổ Raman có thể được sử
dụng để nghiên cứu các mẫu khí, lỏng và rắn.
Trong luận án này, phổ Raman được đo trên thiết bị XPLORA,
HORIBA với bước sóng laser kích thích 532 nm và dải đo từ 800 đến 2800
cm-1. Kết quả thực nghiệm được thực hiện tại phòng thí nghiệm Quang phổ,
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.
2.2.1.7. Phổ hồng ngoại FT-IR
Trong một số vật chất có thể xảy ra các dao động thay đổi góc liên kết
còn gọi dao động biến dạng và các dao động thay đổi độ dài liên kết nhưng
không thay đổi góc liên kết còn gọi là dao động hóa trị. Khi phân tử được
chiếu xạ, năng lượng bức xạ điện từ được hấp thụ nếu tần số của bức xạ phù
hợp với tần số dao động. Những dao động có sự thay đổi moment lưỡng cực
thì bị kích thích bởi bức xạ hồng ngoại.
Phổ FT-IR giúp ta xác định được các loại dao động đặc trưng của các
liên kết hay các các nhóm chức có trong phân tử.
Phương pháp phân tích phổ hồng ngoại trình bày ở đây là vùng phổ
nằm trong vùng có số sóng 4000 - 400 cm-1 .Vùng này cung cấp cho ta những
thông tin quan trọng về các dao động của các phân tử do đó là các thông tin
về cấu trúc của các phân tử [51].
40
Trong luận án này, phổ FT-IR được đo với thiết bị Shimadzu IR
Prestige-21 (Nhật Bản), dải đo từ 400 - 4400 cm-1. Trước khi đo, mẫu được
sấy khô, nghiền và ép viên với KBr (Trường Đại học sư phạm, Đại học Huế).
2.2.1.8. Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (High Peformance Liquid
Chromatography)
Sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) là một kỹ thuật trong hóa phân
tích dùng để tách, nhận biết, định lượng từng thành phần trong hỗn hợp. Kỹ
thuật này dựa trên hệ thống bơm để đẩy dung môi lỏng dưới áp suất cao, trong
dung môi có chứa hỗn hợp mẫu, qua một cột sắc ký. Mỗi thành phần trong
mẫu tương tác tương đối khác nhau với vật liệu hấp phụ, nên tốc độ dòng của
mỗi thành phần khác nhau là khác nhau, dẫn tới sự phân tách các thành phần
khi mà chúng chảy ra khỏi cột [47].
Luận án này sử dụng hệ máy sắc ký lỏng hiệu năng cao Shimadzu 2030
với điều kiện chạy sắc ký,
- Phân tích RhB:
Detector UV (λ = 275 nm) Tốc độ dòng: 2,0 mL.phút-1
Thể tích tiêm: 10 µL Nhiệt độ cột: 45 ± 1 oC.
- Phân tích URA và ACE:
Detector UV-vis (λ = 275 nm)
Cột tách: C18 (250 mm x 4 mm, 5 µm)
Pha động: hỗn hợp đệm phosphate pH 2,3/acetonitrile (tỷ lệ % thể tích
36/65).
Tốc độ dòng: 1,5 ml/phút.
Thể tích tiêm: 5 ml.
Các kết quả thực nghiệm được thực hiện tại các Phòng thí nghiệm đạt
chuẩn ISO/IEC: 17025, với các đơn vị: Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc - Mỹ
41
phẩm - Thực phẩm Thừa Thiên Huế, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo
lường chất lượng 2 (Quatest 2).
2.2.1.9. Phương pháp volt-ampere hòa tan
Phương pháp volt-ampere hòa tan là một trong các phương pháp phân
tích điện hóa phổ biến được xuất phát từ sự phát triển phương pháp cực phổ bởi
J.Heyrosky. Trong phương pháp volt–ampere hòa tan gồm có volt-ampere hòa
tan vòng (cyclic voltammetry-CV), volt-ampere hòa tan anode (ASV), volt-
ampere hòa tan cathode (CSV) và volt-ampere hòa tan hấp phụ. Tùy thuộc vào
đối tượng và mục tiêu nghiên cứu lựa chọn phương pháp phù hợp [70].
Nguyên tắc chung của phương pháp phân tích hòa tan
Bao gồm 2 giai đoạn
a. Giai đoạn làm giàu
Tập trung chất phân tích lên bề mặt điện cực làm việc WE (tùy thuộc
vào phương pháp mà sự tập trung chất phân tích là khác nhau). Trong giai
đoạn này, dung dịch được khuấy trộn bằng cách cho điện cực quay với tốc độ
không đổi (vòng/phút) để giúp cho sự chuyển khối (chuyển chất phân tích
trong dung dịch lên bề mặt điện cực) được thuận lợi. Quá trình làm giàu chất
phân tích lên bề mặt điện cực có thể bằng cách điện phân làm giàu hoặc hấp
phụ làm giàu.
b. Giai đoạn hòa tan
Hòa tan chất phân tích trên bề mặt WE và đồng thời ghi dòng hòa tan
(tùy thuộc vào phương pháp mà sự hòa tan chất phân tích là khác nhau).
Việc ghi dòng hòa tan (Ip) có thể sử dụng một trong các kỹ thuật đo khác
nhau. Khi đó tên của phương pháp được ghép kỹ thuật đo với phương pháp.
Đường volt-ampere hòa tan có dạng peak. Thế đỉnh Ep và cường độ
dòng hòa tan Ip phụ thuộc vào những yếu tố như: dung dịch đệm, biên độ
xung, tốc độ quét, pH, bản chất điện cực làm việc, kĩ thuật ghi dòng hòa tan…
Trong điều kiện xác định, Ep đặc trưng cho bản chất điện hóa của chất
phân tích và từ đó dựa vào Ep ta có thể phân tích định tính. Ip tỉ lệ thuận với nồng
độ chất phân tích trong dung dịch, dựa vào Ip ta có thể phân tích định lượng.
42
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng phương pháp CV để khảo sát đặc
tính điện hóa của các loại điện cực khác nhau cùng với phương pháp volt-
ampere xung vi phân (DP-ASV) dùng để xác định lượng chất phân tích. Các
phép đo được thực hiện tại phòng thí nghiệm Khoa Hóa - Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế, trên máy phân tích điện hóa CPA-HH5 Computerizer
Polarographic Analyser (Viện Hóa học, Viện Hàn lâm và Khoa học Công nghệ
Việt Nam sản xuất), hệ đo gồm 3 điện cực: điện cực làm việc GCE có đường
kính 2,8 ± 0,1 mm, điện cực so sánh Ag/AgCl/KCl 3M và điện cực đối Pt.
2.2.2. Hóa chất, thiết bị và dụng cụ
Hóa chất
Bảng 2.1. Các hóa chất chính sử dụng trong thực nghiệm
Tên hóa chất
Nguồn gốc
Công thức phân tử, độ tinh khiết
C2H5OH, (≥ 99 %) H2O2, (30 %) H3PO4, (≥ 85 %) H3BO3, (≥ 99,5 %)
2-methylimidazole Uric acid CTAB Graphite bột Acetaminophen Potassium permanganate Ascorbic acid Methylene Blue Rhodamine B Methyl orange Dimethylformamide (DMF) Acetic acid Cobalt(II) nitrate hexahydrate Co(NO3)2·6H2O, (≥ 99 %) Ethanol Hydroperoxide Phosphoric acid Boric acid Iron(II) chloride tetrahydrate FeCl2.4H2O, (≥ 99 %) Iron(III) chloride hexahydrate FeCl3.6H2O, (≥ 99 %) Congo red
Sigma-Aldrich, Mỹ C4H6N2, (≥ 99 %) C5H4N4O3, (≥ 99 %) Sigma-Aldrich, Mỹ CH3(CH2)15N(Br)(CH3)3, (≥99%) Sigma-Aldrich, Mỹ Sigma-Aldrich, Mỹ Kích cỡ hạt < 20 µm Merck, Đức C8H9NO2, (≥ 99 %) Merck, Đức KMnO4, (≥ 99 %) Merck, Đức C8H6O6, (≥ 99 %) Merck, Đức C16H18ClN3S, (≥ 95 %) Merck, Đức C28H31ClN2O3, (≥ 99 %) Merck, Đức C14H14N3NaO3S, (85 %) Merck, Đức C3H7NO, (≥ 99 %) Merck, Đức CH3COOH, (96%) Daejung, Hàn Quốc Daejung, Hàn Quốc Daejung, Hàn Quốc Daejung, Hàn Quốc Daejung, Hàn Quốc Daejung, Hàn Quốc Daejung, Hàn Quốc Dindni, Nashik, Ấn độ
C32H22N6(SO3)2Na2
43
Thiết bị và dụng cụ
Các thiết bị và dung cụ được sử dụng ngoài các thiết bị được mô tả ở
phần 2.1.1:
Cân phân tích Precisa, Thụy Sỹ;
Máy đo pH của hãng EcoSense, USA;
Máy khuấy từ gia nhiệt Scilogex MS-H-S, USA;
Máy ly tâm Hettich, Đức;
Máy siêu âm Power Sonic 420, Hàn Quốc;
Tủ sấy Lenton, Anh,
Thiết bị vi sóng Sharp R-203VN-M.
Máy cất nước hai lần Aquatron, Anh;
Cốc thủy tinh, ống đong, bình tam giác, ống ly tâm,...
2.2.3. Tổng hợp vật liệu
2.2.3.1. Tổng hợp graphene oxide dạng khử (rGO)
Graphite oxide được tổng hợp từ bột graphite bằng phương pháp
Hummer [69]. Cụ thể như sau: thêm 3 g graphite vào hỗn hợp 120 mL H2SO4
đậm đặc và 14 mL dung dịch H3PO4 đậm đặc. Tiếp theo, thêm từ từ 6 g
KMnO4 vào huyền phù thu được, khuấy đều trong 72 giờ. Thêm 6 mL H2O2
(30%) vào dung dịch huyền phù ở trên và khuấy trong 10 phút. Ly tâm (5000
vòng/phút) để tách chất rắn thu được và rửa bằng dung dịch HCl 1 M. Rửa
chất rắn thu được sau ly tâm bằng nước cất để loại bỏ HCl. Sấy khô ở 65 °C
trong 12 giờ và thu được graphite oxide màu vàng nâu, sau đó đem nghiền
mịn. Bóc tách graphite oxide (0,1g) bằng siêu âm trong 100 mL nước cất
trong 1 giờ thu và được dung dịch huyền phù graphene oxide (GO). Thêm từ
từ ascorbic acid (0,15 g) vào huyền phù GO, khuấy trộn hỗn hợp trong 8 giờ ở
nhiệt độ 50 ∘C để khử GO. Tách graphene oxide dạng khử (rGO) bằng ly tâm
và tiến hành rửa nhiều lần bằng ethanol, sấy khô ở 80 ∘C trong 5 giờ. Quy
trình tổng hợp được mô tả ở sơ đồ hình 2.4.
44
120 ml H2SO4 đđ + 14 ml H3PO4 đđ
Bột Graphite (3g)
Huyền phù
- 6 g KMnO4, khuấy 72 giờ. - 6 ml H2O2 (30%), khuấy 10 phút
Kết tủa
- Ly tâm, rửa bằng HCl, nước cất. - Sấy ở 65 oC, 12 giờ. - Nghiền mịn.
Graphite oxide
- 100 ml nước cất, siêu âm 1 giờ. - Sấy ở 65 oC, 12 giờ. - Nghiền mịn.
Graphene oxide
- 0,15 g acid ascorbic, khuấy ở 50 oC, 8 giờ. - Ly tâm, rửa nhiều lần bằng ethanol, sấy ở 80 oC trong 5 giờ.
rGO
Hình 2.4. Sơ đồ tổng hợp rGO theo phương pháp Hummer
2.2.3.2. Tổng hợp vật liệu ZIF-67, ZIF-67/rGO, ZIF-67/g-C3N4, Fe3O4/ZIF-67
Tổng hợp vật liệu ZIF-67
Vật liệu ZIF-67 được tổng hợp bằng phương pháp hỗ trợ vi sóng dựa
theo các tài liệu tham khảo [121], [180] và có chỉnh sửa, bổ sung. Tóm tắt quá
trình thực hiện như sau, thêm 2-methylimidazole (16 mmol) và
Co(NO3).6H2O (4 mmol) vào 200 mL hỗn hợp ethanol/nước cất/DMF (theo
tỷ lệ 1:1:1). Tiếp theo, hỗn hợp được xử lý bằng vi sóng (250 W) trong 40
phút. Sau đó, ly tâm (5000 vòng/phút) để tách chất rắn màu tía (ZIF-67), rửa
vật liệu 3 lần bằng DMF và sấy khô ở 100 °C trong 24 giờ.
Quy trình tổng hợp được mô tả ở sơ đồ hình 2.5.
45
4 mM Co(NO3)2.6H2O + 16 mM 2-methylimidazole 200 ml hỗn hợp (C2H5OH + H2O cất + DMF), tỷ lệ 1:1:1
Hỗn hợp
Vi sóng 40 phút (250 W)
Kết tủa
Ly tâm, rửa bằng C2H5OH 3 lần, sấy qua đêm ở 120 oC
ZIF-67
Hình 2.5. Sơ đồ tổng hợp ZIF-67
Tổng hợp vật liệu ZIF-67/rGO
Chuẩn bị hỗn hợp dung môi gồm có ethanol/nước cất/DMF (theo tỷ
lệ w/w 1:1:1) (sau đây gọi là dung môi A). Để tổng hợp ZIF-67/rGO, chuẩn
bị huyền phù rGO (0,025 g rGO trong 50 mL dung môi A) rồi rung siêu âm
(100 w) trong 1 giờ. Sau đó thêm 10 mL dung dịch muối cobalt 0,1 M vào
dung môi A rồi thêm vào dung dịch huyền phù đã chuẩn bị ở trên và khuấy
trộn trong 3 giờ ở nhiệt độ phòng. Tiếp theo, thêm 10 mL dung dịch 2-
methylimidazole 0,2 g.L-1 vào hỗn hợp trên và chiếu vi sóng (công suất
250w) trong 15 phút. Sản phẩm cuối cùng (vật liệu ZIF-67/rGO) thu được
bằng ly tâm (tốc độ 5000 vòng/phút), rửa nhiều lần bằng ethanol, nước cất
và sấy khô ở 80 ∘C trong 5 giờ.
Quy trình tổng hợp được mô tả ở sơ đồ hình 2.6.
46
0,025 g rGO + 50 ml dung môi A
- Khuấy trộn ở to phòng - Rung siêu âm 1 giờ
Huyền phù rGO
10 mL Co(NO3)2 0,1 M trong dung môi A
Khuấy 3 giờ ở to phòng
Hỗn hợp
10 ml C4H6N2 0,2 g/L trong dung môi A Vi sóng 15 phút
Kết tủa
- Ly tâm, rửa bằng ethanol và nước cất. - Sấy ở 80 oC, 5 giờ ZIF-67/rGO
Hình 2.6. Sơ đồ quy trình tổng hợp ZIF-67/rGO
Tổng hợp vật liệu ZIF-67/g-C3N4
Trước tiên, tổng hợp vật liệu g-C3N4 theo tài liệu tham khảo [149]. Quy
trình cụ thể như sau: cho 10 g melamine vào chén nung có nắp đậy, nung ở
nhiệt độ 550 oC trong 4 giờ thu được bột g-C3N4 màu vàng.
Sau đó, phát triển tinh thể ZIF-67 trên nền g-C3N4 bằng cách hòa tan
hoàn toàn lần lượt Co(NO3)2.6H2O (2 mM) và 2-methylimidazole (2 mM)
trong ethanol (15 ml). Thêm 36 mg g-C3N4 vào dung dịch cobalt nitrate ở
nhiệt độ phòng, xử lý bằng siêu âm trong 1 giờ. Thêm tiếp dung dịch 2-
methylimidazole vào huyền phù của g-C3N4 và cobalt nitrat. Tiếp theo, hỗn
hợp được chiếu vi sóng trong 15 phút, kết quả xuất hiện kết tủa màu tím nhạt
(ZIF-67/g-C3N4). Cuối cùng, rửa kết tủa ba lần bằng etanol và sấy khô ở 80
◦C trong tủ sấy. Hình 2.7 minh họa quá trình tổng hợp vật liệu ZIF-67/g-C3N4.
47
Hòa tan Co(NO3)2.6H2O (2 mM) trong 15 ml ethanol
- 36 mg g-C3N4, khuấy. - Siêu âm 1 giờ.
Huyền phù
2 mM C4H6N2 /15ml C2H5OH
Hỗn hợp
Vi sóng 15 phút.
Kết tủa
lần bằng
- Ly tâm. - Rửa 3 C2H5OH. o ZIF-67/g-C3N4
Hình 2.7. Sơ đồ tổng hợp ZIF-67/g-C3N4
Tổng hợp vật liệu Fe3O4/ZIF-67
Vật liệu nano Fe3O4 được tổng hợp dựa trên cơ sở phương pháp đồng
kết tủa được hỗ trợ bởi sóng siêu âm. Trong quy trình tiêu chuẩn, 10 ml dung
dịch NH3 28 % được đổ nhanh vào 50 mL dung dịch tiền chất phản ứng (chứa
FeCl3.6H2O 1,2 M, FeCl2.4H2O 0,6 M, và pH 2 - được điều chỉnh bằng dung
dịch HCl 37 %). Phản ứng được thực hiện dưới tác dụng của sóng siêu âm,
trong bầu khí quyển N2, ở 40 ᵒC. Các điều kiện phản ứng được tiếp tục giữ ổn
định sau đó 1 giờ cho quá trình già hóa tinh thể. Sản phẩm được gạn rửa vài
lần bằng nước cất đã được sục khí N2 để loại bỏ khí O2 hòa tan. Sấy sản phẩm
ở 70 ᵒC thu được nano Fe3O4 rắn.
Vật liệu Fe3O4/ZIF-67 được tổng hợp trên cơ sở phản ứng tự sắp xếp
của cobaltnitrate và 2-metylimidazole trong dung môi có chứa sẵn huyền phù
nano Fe3O4. Trong quy trình tiêu chuẩn, dung dịch 1 (chứa 1 mM Co(NO3)2
và 25 mL methanol) được thêm gián đoạn vào dung dịch 2 (chứa 0,02 mM
48
Fe3O4, 4 mmol 2-MIm, và 25 mL methanol). Quá trình được khống chế sao
cho cứ 5 phút phản ứng xảy ra, có 2,5 mL dung dịch 1 được thêm vào 25 mL
dung dịch 2 ban đầu. Phản ứng tổng hợp được thực hiện trong môi trường
được hỗ trợ bằng sóng siêu âm. Các điều kiện phản ứng được giữ ổn định
trong 3 giờ sau khi kết thúc quá trình thêm gián đoạn chất phản ứng để phản
ứng xảy ra hoàn toàn và cho quá trình già hóa tinh thể. Sản phẩm được rửa
gạn từ chất rắn tách ra bằng ethanol 3 lần. Sau đó, sấy chất rắn tách ra được ở
90 ᵒC trong 12 giờ thu được vật liệu Fe3O4/ZIF-67. Quy trình tổng hợp được
mô tả ở sơ đồ hình 2.8.
0,3 mmol FeCl3.6H2O hòa tan trong 10 ml H2O 0,15 mmol FeCl2.4H2O hòa tan trong 10 ml H2O
- Cho dung dịch lên máy khuấy từ, sục khí N2. - Thêm 0,1mL dd NH3 25%, siêu âm và khuấy 20 phút.
Dung dịch FeCl3 và FeCl2 (mol 2:1)
- Thêm 2-MIm/CH3OH. - Thêm Co(NO3)2/ CH3OH. - Rửa 3 lần bằng C2H5OH - Sấy 90 oC, 12 giờ
Fe3O4/ZIF-67
Huyền phù
Hình 2.8. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4/ZIF-67
2.2.4. Biến tính điện cực than thủy tinh (GCE) bằng vật liệu ZIF-67/rGO và
ZIF-67/g-C3N4
2.2.4.1. Chuẩn bị điện cực nền Glassy Carbon
Điện cực nền là điện cực glassy carbon (GCE), đường kính 2,8 ± 0,1
mm được mài bóng với bột Al2O3 chuyên dụng có kích thước hạt 0,05 μm đến
49
khi bề mặt điện cực sáng bóng. Ngâm điện cực GCE trong dung dịch HNO3 2
M, sau đó rửa điện cực nhiều lần bằng ethanol và nước cất 2 lần, để khô tự
nhiên ở nhiệt độ phòng.
2.2.4.2. Biến tính điện cực GCE bằng vật liệu ZIF-67/rGO
Chuẩn bị huyền phù ZIF-67/rGO 1 mg.L-1 trong nước bằng cách phân
tán 10 mg ZIF-67/rGO trong 10 mL nước cất rồi tiến hành rung siêu âm trong
4 giờ. Biến tính điện cực bằng cách nhỏ 5 μL huyền phù ZIF-67/rGO lên bề
mặt điện cực GCE, sau đó sấy khô ở nhiệt độ phòng. Chuẩn bị điện cực biến
tính rGO hoặc ZIF-67 theo cách tương tự như trên bằng cách thay huyền phù
ZIF-67/rGO bằng huyền phù rGO hoặc ZIF-67.
2.2.4.3. Biến tính điện cực GCE bằng vật liệu ZIF-67/g-C3N4
Phân tán 2 mg ZIF-67/g-C3N4 trong 1 ml dung dịch metanol bằng sóng
siêu âm trong 60 phút, thu được huyền phù màu tím đồng nhất. Nhỏ 5 µl dung
dịch huyền phù lên bề mặt điện cực GCE đã được làm sạch. Sau đó, sấy khô
điện cực thu được điện cực biến tính ZIF-67/g-C3N4-GCE.
2.2.4.4. Tiến hành đo điện hóa
Sử dụng phương pháp volt-ampere vòng (CV) để khảo sát đặc tính điện
hóa của các loại điện cực khác nhau. Tiến hành quét thế đi từ (–) sang (+) với
thế bắt đầu -200 mV đến +1200 mV và quét theo chiều ngược lại (+) sang (–)
trên từng loại điện cực: điện cực GCE; điện cực biến tính với vật liệu ZIF-
67/rGO, ZIF-67/g-C3N4. Các tín hiệu đo được thông qua cường độ dòng đỉnh
(IP). Kết hợp phương pháp volt-ampere hòa tan anode (ASV) dùng kĩ thuật
xung vi phân (DP) để xác định Rhodamine B, uric acid, acetaminophen trên
điện cực biến tính.
2.2.5. Nghiên cứu khả năng hấp phụ phẩm nhuộm của Fe3O4/ZIF-67
2.2.5.1. Nghiên cứu động học
Đưa 0,2 gam vật liệu vào bình chứa có cánh khấy cơ, thể tích dung dịch
màu Methyl Orange (MO) 2000 mL (nồng độ phẩm nhuộm MO ban đầu Co =
50
20, 40 và 60 mg.L-1), khuấy hỗn hợp với tốc độ 300 vòng/phút. 5 mL dung
dịch được lấy ra ở các khoảng thời gian xác định, ly tâm và tiến hành phân
tích nồng độ chất màu còn lại trong dung dịch bằng phương pháp trắc quang
với bước sóng cực đại max = 475 nm để xác định nồng độ MO còn lại trong
dung dịch.
2.2.5.2. Nghiên cứu đẳng nhiệt
Đưa một lượng xác định chất hấp phụ m (0,01; 0,02; 0,03; 0,04; 0,05;
0,06 g) vào 6 bình tam giác nút nhám chứa 50 mL dung dịch phẩm nhuộm
MO có nồng độ đầu 30 mg.L-1. Lắc bằng máy rung trong 24h (nhiệt độ
phòng) ở tốc độ 150 vòng/phút để bảo đảm cho quá trình hấp phụ đạt cân
bằng. Lấy dung dịch lọc ly tâm và xác định nồng độ MO còn lại bằng phương
pháp trắc quang (max = 475 nm).
2.2.5.3. Nghiên cứu nhiệt động học
Đưa 0,01 g phẩm nhuộm vào bình 250 mL có nút nhám chứa 100 mL
dung dịch phẩm nhuộm MO với nồng độ ban đầu Co= 30 mg.L-1 tại các nhiệt
độ 15, 25, 35, 45 và 55 oC. Khuấy từ trong 8h để bảo đảm đạt cân bằng hấp
phụ/giải hấp phụ, lấy dung dịch lọc ly tâm và xác định nồng độ chất màu bằng
phương pháp trắc quang.
51
Chương 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. TỔNG HỢP VẬT LIỆU ZIF-67/RGO VÀ ỨNG DỤNG XÁC ĐỊNH
RHODAMINE B BẰNG PHƯƠNG PHÁP VOLT-AMPRE HÒA TAN
DÙNG ĐIỆN CỰC GCE BIẾN TÍNH BẰNG ZIF-67/rGO
3.1.1. Tổng hợp vật liệu ZIF-67/rGO
)
1
6x105
1
200
(b)
0
(a)
(
5x105
150
4x105
)
s p c /
2
1
3x105
é ®
1
(
100
)
2
2
2x105
)
2
2
)
(
4
0
)
)
)
)
4
3
)
)
0
g n ê C
3
4
2
4
4
(
2
1
3
50
1
1x105
s p c / é ® g n ê C
2
(
4
3
0
2
1
0
0
(
1
(
(
(
) 5 3 2 (
(
) 4 3 3 (
(
0
0
5
10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60
0
10
20
30
40
50
60
2 theta / ®é
2 theta / ®é
) 1 1 0 (
120
(c)
100
* JCPDS No.00-042-1467
s p c /
80
) 2 1 1 (
) 2 0 0 (
) 1 1 5 (
) 1 1 3 (
é ® g n ê C
) 4 3 1 (
) 4 4 0 (
) 5 3 2 (
60
) 4 4 2 (
) 4 3 3 (
) 2 2 2 (
*
*
) 2 2 0 (
) 3 1 0 (
) 3 3 2 (
) 4 1 1 (
40
10
20
30
40
50
60
2 theta / ®é
Hình 3.1. Giản đồ XRD của a) rGO; b) ZIF-67 và c) ZIF-67/rGO.
Hình 3.1 trình bày giản đồ XRD của graphene oxide dạng khử (rGO),
ZIF-67 và ZIF-67/rGO. Hình 3.1a cho thấy peak nhiễu xạ yếu và giãn rộng ở góc 2θ = 26o là do cấu trúc lớp graphite bị bóc tách và các lớp chồng lên nhau
mất trật tự của rGO [133], cho thấy rằng quá trình khử graphene oxide đã
52
thành công. Giản đồ XRD ở Hình 3.1b cho thấy đỉnh đặc trưng của ZIF-67
tương ứng với các nhiễu xạ tương ứng với mặt mạng tinh thể (011), (002),
(112), (022), (013), (222), (114), (223), (244), (134), (044), (334) và (235)
phù hợp (CCDC671073). Giản đồ XRD của Hình 3c cho thấy vẫn xuất hiện
các pick đặc trưng của ZIF-67 nhưng ở cường độ thấp hơn. Không thể quan sát nhiễu xạ đặc trưng của rGO ở góc 26o do sự nhiễu xạ chồng lấp của ZIF-67.
Điều này có thể khẳng định sự tạo thành composite ZIF-67/rGO. Ngoài ra còn
xuất hiện 02 pick đặc trưng của Co3O4 có cường độ thấp nhưng có thể quan sát được tại 370 (311) và ~580 (511) (JCPDS No. 00-042-1467).
(c) (c)
(a)
(b)
100nm
50nm
Hình 3.2. Ảnh TEM của a) rGO; b) ảnh SEM của ZIF-67 và c) ảnh TEM của
ZIF-67/rGO
Hình thái của vật liệu được quan sát bằng ảnh TEM và SEM. Ảnh TEM
của rGO cho thấy hình thái xếp chồng lên nhau và nhiều nếp gấp do sự biến
dạng từ quá trình bóc lớp và tái xếp chồng lên nhau [183] (Hình 3.2a). Hình
53
3.2b cho thấy các hạt tinh thể ZIF-67 được kết tinh, có hình dạng là các khối đa
diện tương đối đồng đều với kích thước hạt cỡ 140 ± 5,6 nm (tính từ 50 hạt).
Ảnh TEM của composite ZIF-67/rGO cho thấy các hạt ZIF-67 có kích
cỡ hạt trung bình từ 50-70 nm được phân tán khá đồng đều trên tấm rGO
(Hình 3.2c). Có thể giải thích sự tạo thành composite ZIF-67/rGO trong điều
kiện thí nghiệm này là do tương tác giữa các chất phản ứng. Tùy thuộc vào
việc thêm ion Co2+ vào dung dịch huyền phù rGO, có thể xảy ra tương tác
giữa ion Co2+ với nhóm chức chứa oxi của rGO, cho dù đó có thể là sự tương
tác yếu. Do đó, khi thêm 2-methyl-imidazole vào hỗn hợp trên, liên kết của nó
với ion Co2+ mạnh hơn so với tương tác được đề cập ở trên, tạo thành vật liệu
ZIF-67 với các hạt có kích cỡ khoảng 10-20 nm phân tán trên tấm rGO như ở
Hình 3.2c. Việc tổng hợp ZIF-67 trên chất nền rGO giới hạn sự phát triển các
tinh thể ZIF-67. Kết quả là, kích thước hạt của ZIF-67 trong trường hợp này
nhỏ hơn nhiều so với kích thước hạt của ZIF-67 được tổng hợp riêng rẽ như
ZIF-67 rGO ZIF-67/rGO
,
,
-
O O C
,
-
,
,
,
,
,
,
% 5 2
N = C 8 7 5 1
O C 1 9 9
N O C 2 2 4
H - C C = C 4 2 9 2
8 1 4 1
H - C C = C 2 3 1 3
H O 1 4 4 3
được trình bày ở Hình 3.2c.
)
%
1573
1220 1067
( T
,
,
-
-
,
, a u q n Ò y u r t é §
C - C C = C
N N = = C C , , 8 8 7 7 5 5 1 1
H - C C = C , 4 2 9 2
O C , 1 9 9
, 3 7 5 1
O O C , 8 1 4 1
H O , 1 4 4 3
H - C C = C , 2 3 1 3
N O C , 2 2 4
4000
3500
3000
2500
1000
500
2000
1500 Sè sãng (cm-1)
Hình 3.3. Phổ FT-IR của ZIF-67, rGO và ZIF-67/rGO.
54
Sự tạo thành ZIF-67, rGO và composite ZIF-67/rGO cũng được khẳng
định bằng phương pháp phổ FT−IR (Hình 3.3). Vị trí của các dao động đặc
trưng của ZIF-67 của nghiên cứu này phù hợp nghiên cứu đã được công bố
trước đây [58]. Dao động tại số sóng 3441 cm–1 được gán cho dao động hóa
trị của nhóm OH trong nước được hấp phụ trong vật liệu. Các dao động từ số
sóng 600 - 1500 cm–1 là những dao động của các nhóm chức của 2-methyl
imidazol, trong đó tại đỉnh ở số sóng 1578 cm–1 là sự dao động hóa trị liên kết
C=N và đỉnh có số sóng 2924 là dao động co giãn đối xứng của CH3 [67]. Đối
với phổ FT-IR của rGO, dao động tại số sóng 1573 cm-1 là dao động khung
của các tấm graphene. Dao động biến dạng liên kết C-O của nhóm epoxy và
alkoxy cũng được quan sát thấy trong khoảng tín hiệu rộng từ 1220 cm-1 đến
1067 cm-1, do sự khử không hoàn toàn của GO [15]. Trong khi đó, phổ FT-IR
của ZIF-67/rGO cho thấy có sự xuất hiện các peak của cả ZIF-67 và rGO,
điều này thêm bằng chứng chứng tỏ có sự tồn tại của cấu trúc ZIF-67 và rGO
trong vật liệu.
Để đánh giá mức độ mất trật tự trong cấu trúc vật liệu carbon, chúng tôi
thực hiện đo phổ Raman của rGO và ZIF-67/rGO. Hình 3.4 cho thấy, phổ
Raman của rGO và rGO/ZIF-67 có 2 peak xuất hiện rõ ở bước sóng 1336 cm-1
và 1602 cm-1, cũng được gọi là dải tần D và G. Nghiên cứu trước đây cho
thấy dải tần D được cho là mặt phẳng phonons κ-point của đối xứng A1g và
dải tần G đại diện cho sự phân tán bậc nhất của các phonon E2g. Cường độ của
dải tần D có liên quan đến kích thước mặt phẳng sp2 và liên quan đến tỷ số
cường độ (ID/IG), là phép đo độ lớn của sự rối loạn mất trật tự [156]. Tỷ số
cường độ (ID/IG) gia tăng và cường độ dải tần D cao hơn chứng tỏ sự có mặt
của các tấm graphene riêng lẻ trong ZIF-67/rGO nhiều hơn so với trong rGO.
Kết quả cho thấy tỷ số cường độ ID/IG của rGO là 1,02 và của ZIF-67/rGO là
2,01. Dữ liệu phân tích trên chứng tỏ rằng ZIF-67 hình thành đã tăng cường
55
sự bóc tách và phân tán lên các lớp graphite hình thành vật liệu composite có
D band
10000
G band
ID/IG = 2.01
8000
chứa rGO và ZIF-67.
) .
u
. a (
é ®
ZIF-67/rGO rGO
6000
ID/IG = 1.02
g n ê C
4000
2000
1000
1500
2000
2500
3000
Sè sãng (cm-1)
Hình 3.4. Phổ Raman của rGO và ZIF-67/rGO.
Trạng thái oxi hóa của các nguyên tố được xác định bằng phổ XPS
(Hình 3.5). Phổ XPS khảo sát ở hình 3.5a cho thấy có sự hiện diện của Co, O,
N và C trong vật liệu ZIF-67/rGO. Phổ C1s của ZIF-67/rGO (Hình 3.5b) xuất
hiện 3 đỉnh tại năng lượng liên kết 284,6; 285,9 và 288,1 eV, tương ứng với C
của các vòng thơm, nhóm epoxy C-O-C và nhóm carboxyl COOH [71], [183].
Sự xuất hiện các nhóm chức chứa oxygen này cho thấy việc khử graphene
oxide chưa hoàn toàn. Phổ XPS N1s tại năng lượng liên kết 400 eV đặc trưng
cho nguyên tử nitrogen trong hợp chất pyrrolic-N (Hình 3.5c) [122]. Hình
3.5d cho thấy phổ Co2p có 2 peak chính ghép đôi với 2 peak vệ tinh, cụ thể
đối với Co2p1/2: pick chính 797,7 eV ghép đối với pick vệ tinh 805 eV; với
Co2p3/2: pick chính 780,5 eV cùng với peak vệ tinh tại 785,7 eV [158]. Có thể
biết tính trạng thái oxi hóa của cation Co bằng cách phân tích vùng năng
lượng giữa peak chính Co2p và peak vệ tinh. Thông thường, khoảng cách
năng lượng của cation Co(II) xấp xỉ 6.0 eV, trong khi đó của cation Co(III)
xấp xỉ 9-10 eV [13], [24]. Trong trường hợp này, khoảng cách vùng năng
56
lượng của cation cobalt là 6,3 eV đối với Co2p1/2 và 5,2 eV đối với Co2p3/2.
Do đó, Co(II) là dạng tồn tại chủ yếu trong vật liệu ZIF-67 đã tổng hợp. Tuy
nhiên, các pick Co2p1/2 và Co2p3/2 có sự bất đối xứng điều này có thể do sự hiện diện của Co3O4. Phân giải phổ của Co2p1/2 và Co2p3/2 cho thấy các năng
lượng liên kết tại 797,7 eV và 780,5 eV là do sự dịch chuyển năng lượng liên kết của Co2+ và Co3+ trong các hốc tứ diện và bát diện [72].
70000
700000
(b)
(a)
C-C (sp2)
p 2 o C
60000
600000
50000
500000
s 1 O
s 1 C
40000
400000
C-O-C/epoxy
30000
300000
é ® g n ê C
é ® g n ê C
COOH/Carboxyl
20000
200000
s 1 N
10000
100000
0
298 296 294 292 290 288 286 284 282 280 278 276
1000
800
600
400
200
0 1200
N¨ng lîng liªn kÕt (eV)
N¨ng lîng liªn kÕt (eV)
28000
(c)
(d)
90000
Pyrrolic-N
26000
Co 2p3/2 780,5 eV
24000
80000
22000
70000
797,7 eV
Co 2p1/2
20000
60000
805 eV
18000
785,7 eV
16000
50000
é ® g n ê C
é ® g n ê C
14000
40000
12000
30000
10000
20000
8000
810
805
800
795
790
785
780
775
770
412 410 408 406 404 402 400 398 396 394 392 390 388
N¨ng lîng liªn kÕt (eV)
N¨ng lîng liªn kÕt (eV)
Hình 3.5. a) Phổ XPS khảo sát của ZIF67/rGO; b) Phổ XPS C1s;
c) Phổ XPS N1s; d) Phổ XPS Co2p
Xác định tính chất xốp của ZIF-67, rGO, và ZIF-67/rGO bằng phương
pháp đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ nitrogen. Từ hình 3.6 cho thấy, đường
đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ của vật liệu ZIF-67 thuộc loại I điển hình
với lượng nitrogen hấp phụ lớn chứng tỏ vật liệu có độ xốp lớn. Chúng ta
nhận thấy có sự gia tăng thể tích hấp phụ ở áp suất tương đối thấp chứng tỏ có
sự tồn tại của vi xốp trong tất cả các mẫu ZIF-67. Đường đẳng nhiệt của rGO
57
và ZIF-67/rGO thuộc loại IV theo phân loại IUPAC. Sự xuất hiện đường vòng
trễ ở vùng áp suất tương đối lớn cho thấy có sự tồn tại của các lỗ xốp có kích
thước trung bình, theo Yang và cộng sự đây có thể là khoảng trống giữa các
hạt sơ cấp [173], [184]. Diện tích bề mặt riêng của ZIF-67, rGO, và ZIF-
67/rGO tính toán theo mô hình BET lần lượt là 1330 m2.g-1, 319 m2.g-1 và 498
m2.g-1. Diện tích bề mặt riêng của vật liệu ZIF-67/rGO ở nghiên cứu này
tương đương và cao hơn diện tích bề mặt riêng của vật liệu dựa trên nền rGO
của một số nghiên cứu công bố trước đây, SBET của Fe3O4/rGO theo tác giả
Chen và cộng sự là 53,7 m2.g-1 [31], SBET của Fe3O4/rGO theo tác giả Chandra
và cộng sự là 148 m2.g-1 [25]. SBET của ZIF-67/rGO và ZIF-67/rGO pha tạp Ni
1200
(a)
(b)
2.0
1 - g . 3
1000
rGO ZIF-67/rGO ZIF-67
rGO ZIF-67/rGO ZIF-67
m c , )
800
1.5
P T S 1 - g 3
l
600
1.0
400
0.5
200
0.0
m c / ô h p p Ê h g n î L
W ( g o d / V d , n ¶ u q o a m h c Ý t Ó h T
0 0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
0
10
20
30
40
50
§êng kÝnh mao qu¶n (nm)
¸p suÊt t¬ng ®èi (p/po)
theo tác giả Sundriyal và cộng sự [142] là 571 và 369 m2.g-1.
Hình 3.6. a) Đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp phụ nitrogen của ZIF-67, rGO, ZIF-
67/rGO; b) đường phân bố kích thước mao quản của các vật liệu
Hình 3.6b thể hiện phân bố kích thước mao quản của các vật liệu theo
mô hình BJH (Barrett − Joyner − Halenda). Đối với ZIF-67, về mặt nguyên
tắc phải xuất hiện đường phân bố mao quản, tuy nhiên trong trường hợp này
chúng tôi không quan sát được sự phân bố mao quản do điều kiện thực
nghiệm đo đạc chúng tôi không thể chủ động đo đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp
phụ nitrogen với bước nhảy áp suất nhỏ (số liệu thu được ít nên sự phân tích
BJH phân bố mao quản không được rõ). Kết quả cho thấy, phân bố kích thước
mao quản của vật liệu rGO trong khoảng khoảng từ 3 - 16 nm, đường kính
58
mao quản không sắc nhọn mà bị tù. Đối với ZIF-67/rGO, đường cong phân bố
mao quản cho thấy đường kính mao quản có hình sắc nhọn, chứng tỏ cấu trúc
có độ đồng đều cao. Mặt khác, đường kính mao quản tăng lên, từ 25,6 Å đối
với ZIF-67 tăng lên thành 32,7 Å ở vật liệu ZIF-67/rGO, điều này có thể là do
rGO có kích thước lớn nên khi xâm nhập vào trong lòng mao quản làm cho
mao quản bị giãn rộng ra. Điều này phù hợp khi diện tích bề mặt riêng của vật
liệu giảm từ 1330 m2.g-1 (ZIF-67) xuống còn 498 m2.g-1 (ZIF-67/rGO).
3.1.2. Xác định Rhodamine B (RhB) bằng phương pháp volt-ampere với kỹ
thuật xung vi phân sử dụng điện cực biến tính ZIF-67/rGO
3.1.2.1. Diện tích bề mặt hiệu dụng của điện cực ZIF-67/rGO-GCE
Phương pháp CV (cyclic voltammetry) được sử dụng để khảo sát đặc
tính điện hóa của các điện cực khác nhau trong dung dịch K3[Fe(CN)6]. Hình
3.7a và c trình bày đường CV của điện cực GCE chưa biến tính và điện cực
biến tính ZIF-67/rGO-GCE trong dung dịch 1 mM [Fe(CN)6]3− và 0,1 M KCl.
Kết quả cho thấy, đó là quá trình thuận nghịch. Do đó, cường độ dòng đỉnh
anode (Ipa) tỷ lệ với căn bậc hai của tốc độ quét thế (v1/2) theo công thức
Randles-Sevcik [11]:
(3.1) Ipa = 2,69 x 105n3/2AD1/2C0v1/2
Trong đó:
Ipa : cường độ dòng đỉnh anode,
n : số electron trao đổi (n = 1 trong hệ khử [Fe(CN)6]3−/Fe(CN)6]4−),
A : diện tích bề mặt của điện cực (cm2),
C0 : nồng độ [Fe(CN)6]3−,
D0 : hệ số khuếch tán của [Fe(CN)6]3−/Fe(CN)6]4−) (Co = 1 mM; 6,7.10−6
cm2·s−1 [27])
v : tốc độ quét thế (V.s-1)
Do đó, dựa vào vào đồ thị tuyến tính giữa Ipa với v1/2 (Hình 3.7 b và d),
tính được diện tích bề mặt của điện cực: AGCE = 0,070 cm2, AZIF-67/rGO-GCE =
59
0,117 cm2. Kết quả trên cho thấy diện tích bề mặt hiệu dụng có tính chất dẫn
0.003
4
(b)
(a)
0.4 Vs-1
3
0.002
2
0.1 Vs-1
0.001
1
A
0.000
điện của điện cực biến tính đã được cải thiện đáng kể.
A m
Anode Cathode
0
/ p I
/ I
-0.001
-1
-2
-0.002
-3
-0.003
-0.8 -0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 E /V
0.30 0.35 0.40 0.45 0.50 0.55 0.60 0.65 v1/2
0.003
4
(d)
(c)
0.4 Vs-1
3
0.002
2
0.1 Vs-1
0.001
1
A
A m
0.000
Anode Cathode
0
/ p I
/ I
-0.001
-1
-2
-0.002
-3
-0.003
-0.8 -0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 E /V
0.30 0.35 0.40 0.45 0.50 0.55 0.60 0.65 v1/2
Hình 3.7. Các đường CV của 1 mM K3[Fe(CN)6] trong dung dịch KCl 0,1 M với tốc độ quét thế từ 0,1 ÷ 0,4 Vs-1 của các điện cực khác nhau a) điện cực GCE; b) đồ thị tuyến tính của cường độ dòng đỉnh (Ip) với tốc độ quét v1/2 và c) ZIF-67/rGO-GCE; d) đồ thị tuyến tính giữa Ip và v1/2.
3.1.2.2. Tính chất CV của RhB với điện cực ZIF-67/rGO/GCE
Hình 3.8a thể hiện các đường CV của RhB dùng các điện cực: GCE,
ZIF-67-GCE, rGO-GCE và ZIF-67/rGO-GCE. Kết quả cho thấy ở các đường
CV khi sử dụng điện cực GCE và ZIF-67-GCE không xuất hiện dòng đỉnh
của RhB. Với điện cực rGO-GCE, khi quét thế về phía dương, có sự xuất hiện
dòng đỉnh anode tại 0,92 V chứng tỏ xảy ra quá trình oxy hóa RhB trên bề
mặt điện cực. Không xảy ra quá trình khử khi quét thế theo chiều ngược lại,
60
điều này cho thấy đây là quá trình bất thuận nghịch. Ở cường độ dòng đỉnh
0,92 V, chúng ta nhận thấy có sự xuất hiện tín hiệu rõ nét của ZIF-67/rGO-
GCE. Đồng thời, từ hình 3.8b cũng cho thấy cường độ dòng đỉnh của RhB khi
sử dụng điện cực ZIF-67/rGO-GCE cao hơn 2,2 lần so với điện cực rGO-
GCE. Điện cực ZIF-67/rGO-GCE có đáp ứng điện hóa tốt đối với sự oxy hóa
RhB có thể là do hiệu ứng cộng hưởng của độ dẫn điện cao của rGO [108] và
các tính chất vật lý tuyệt vời của ZIF-67 như: diện tích bề mặt riêng lớn, có
1.0
0.07
(a)
(b)
0.06
0.8
GCE rGO ZIF-67 rGO/ZIF-67 ZIF-67/GO ZIF-67/rGO
0.05
0.6
0.04
0.4
A m
A m
/ I
0.03
/ p I
0.2
0.02
0.0
0.01
-0.2
0.00
7
7
6
6
r G O
7 / G O
7 / r G O
6
Z I F -
e G C E
6
r
a
b
Z I F -
Z I F -
r G O / Z I F -
0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1.0 1.1 1.2 E/V
§iÖn cùc
nhiều tâm hấp phụ và thể tích lỗ xốp lớn.
Hình 3.8. a) Các đường CV của dung dịch RhB 24 mg.L-1 (đệm BR-BS 0,1
M ở pH 6) và b) cường độ dòng đỉnh anode của các điện cực khác nhau.
Ảnh hưởng của pH
Hình 3.9 cho thấy ảnh hưởng của pH lên các tín hiệu dòng đỉnh oxy
hóa RhB tại điện cưc. Với pH ≤ 5, không có tín hiệu cường độ dòng đỉnh oxy
hóa (Hình 3.9a). Tuy nhiên, các tín hiệu độ dòng đỉnh xuất hiện rõ ràng hơn ở
pH > 6 và đạt cực đại ở pH = 7 (Hình 3.9b và 3.9c). Do đó, giá trị pH = 7
được chọn cho các nghiên cứu tiếp theo. Đồng thời, khi tăng giá trị pH trong
khoảng từ 6 đến 10, thế đỉnh chuyển dịch về phía giá trị kém dương hơn từ
0,96 V về 0,74 V, cho thấy rằng các proton có tham gia vào quá trình oxi hóa
RhB trên bề mặt điện cực làm việc. Hình 3.9c cho thấy mối quan hệ tương
quan tuyến tính giữa pH và thế đỉnh oxi hóa.
61
0.30
0.20
(a)
(b)
pH 6
pH 10
0.25
0.16
pH 5
pH 2
0.20
0.12
0.15
A m
0.08
A m
0.10
/ I
/ I
0.04
0.05
0.00
0.00
-0.05
0.4
0.6
1.0
1.2
0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1.0 1.1 1.2
0.8 E / V
E/V
1.00
0.05
(d)
(c)
0.95
0.04
0.90
0.03
V
0.85
A m
0.02
/ p E
/ p I
0.80
0.01
0.75
0.00
0.70
6
7
9
10
11
2
4
8
10
12
8 pH
6 pH
Hình 3.9. (a) Đường CV trong dung dịch RhB 24 mg.L-1 của điện cực ZIF-
67/rGO-GCE tại giá trị pH = 2-5; b) tại pH = 6-10 c) Sự phụ thuộc của giá trị
pH vào cường độ dòng đỉnh anode (Ip); d) đồ thị tuyến tính của thế đỉnh anode
(Ep) với pH
Phương trình hồi quy tuyến tính của Ep với pH như sau:
r = 0,993 (3.2) Ep = (1,27 ± 0,03) + (-0,053 ± 0,003) pH
Hệ số góc có giá trị 0,053 gần với giá trị lý thuyết theo phương trình
Nernst (0,0592) (Hình 3.9c) chứng tỏ sự oxi hóa RhB trên điện cực có số
electron và số proton trao đổi bằng nhau.
Ảnh hưởng của tốc độ quét thế
Mối quan hệ giữa cường độ dòng đỉnh và tốc độ quét thế cho biết thông
tin quan trọng về cơ chế oxy hóa điện hóa. Khi tăng tốc độ quét, cường độ
62
dòng đỉnh anode tăng nhanh kèm theo sự dịch chuyển thế đỉnh về phía dương
0.24
(a)
0.8
(b)
0.20
0.5 V.s-1
0.7
0.16
0.6
0.1 V.s-1
0.12
A m
0.5
A m
0.08
/ I
/ p I
0.4
0.04
0.3
0.00
0.2
0.4
0.6
1.0
1.2
0.8
0.040
0.045
0.055
0.060
0.050 v1/2
E / V 1.00
(c)
0.95
V
0.90
/ p E
0.85
0.80
-2.4 -2.2 -2.0 -1.8 -1.6 -1.4 -1.2 -1.0 -0.8 -0.6 ln
hơn như trình bày ở Hình 3.10a.
Hình 3.10. (a) Các đường CV trong dung dịch RhB 24 mg.L-1 của điện cực ZIF-
67/rGO-GCE (dung dịch đệm BR-BS 0,1 M; pH 7) ở các tốc độ quét thế khác nhau; b) đồ thị tuyến tính của Ip vs. v1/2; c) đồ thị tuyến tính của Ep vs lnν;
Sự phụ thuộc tuyến tính giữa Ip với ν1/2 cho biết cơ chế oxy hóa điện
hóa được kiểm soát bởi quá trình hấp phụ hay quá trình khuếch tán. Nếu đoạn
cắt trục tung của đồ thị không đi qua gốc tọa độ thì có thể kết luận rằng quá
trình oxy hóa xảy ra trên bề mặt điện cực được kiểm soát bởi quá trình hấp
phụ và ngược lại [70], [133]. Như vậy, để khẳng định phản ứng oxi hóa RhB
trên bề mặt điện cực là quá trình khuếch tán hay hấp phụ, tiến hành xây dựng
đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa Ip và v1/2 (Hình 3.10b). Phương trình hồi
quy tuyến tính giữa Ip and v1/2 như sau:
63
(3.3) Ipa = (0,039 ± 0,008) v1/2 + (0,027 ± 0,0045), r = 0,993
Đồ thị Ip theo v1/2 có tương quan tuyến tính tốt (r = 0,993). Ở khoảng tin
cậy 95 %, hệ số chắn dao động từ 0,022 đến 0,032 điều này có nghĩa đường
thẳng không đi qua gốc tọa độ hay sự oxi hóa RhB ở bề mặt điện cực là quá
trình hấp phụ.
Cơ chế của quá trình oxi hóa cũng được tìm hiểu thông qua sự phụ
thuộc giữa thế đỉnh anode (Ep) và tốc độ quét thế. Có thể tính toán số electron
trao đổi của quá trình oxi hóa qua mối tương quan giữa thế đỉnh (Ep) và