Về mối quan hệ giao thoa văn hóa giữa người Thái với người Mường ở miền núi Thanh Hóa
lượt xem 0
download
Miền núi Thanh Hóa là nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em, trong đó người Thái và người Mường có mối quan hệ giao thoa văn hóa lâu đời và phức tạp. Bài viết này sẽ khảo sát mối quan hệ giao thoa văn hóa giữa người Thái và người Mường ở Thanh Hóa, tập trung vào những điểm tương đồng và khác biệt trong đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng, phong tục tập quán. Chúng ta sẽ phân tích những ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai nền văn hóa này, từ đó làm rõ bức tranh văn hóa đa dạng và phong phú của vùng đất Thanh Hóa. Bài viết cũng sẽ đề cập đến những thách thức trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của cả hai dân tộc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Về mối quan hệ giao thoa văn hóa giữa người Thái với người Mường ở miền núi Thanh Hóa
- TẠP CHÍ VHDG SỐ2/2011 21 nhiều lĩnh vực của đòi sông xã hội. Điều này đã được các nhà khoa học khảo sát. VỀ MÔÌ OUAN HỆ Chính vì thê" bài viết không có tham vọng phân tích lí giải đầy đủ môĩ quan GIAO THOA VĂN hệ giao thoa văn hóa giữa hai tộc người Thái - Mường ở miền núi Thanh Hóa HÓA GIỮA NGƯỜI trong tiến trình lịch sử, mà chỉ tiếp tục làm sáng rõ thêm mô"i quan hệ này qua THÁI VỚI NGƯỜI một sô" cứ liệu, mong muốn góp phần nghiên cứu người Mường, người Thái và MƯỜNG Ở MIỀN NÚI môì quan hệ giao thoa giữa các dân tộc ở miền núi Thanh Hóa... THANH HÓA 1. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và “các nguồn tài liệu khảo cổ MAI THỊ HỒNG HẢI học cho thấy miền núi Thanh Hóa có con người sinh sông từ rấ t lâu đời... Việc iền núi Thanh Hoá chiếm 3 diện khai quật các di chỉ khảo cổ đồ đá cũ ỏ /4 làng Tráng, huyện Bá Thưốc cho thấy tích toàn tỉnh, là một vùng đất con ngưồi có m ặt ở vùng đất này đã giàu tài nguyên thiên nhiên và có tầm hàng vạn năm” [2, tr. 36]. Một loạt các quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc địa điểm khảo cổ, “nơi phát hiện có phòng, bao gồm các huyện; Ngọc Lặc, người Việt thời tôì cổ cư trú, các hang Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Như Xuân, động dọc theo sông Mã về xuôi trên địa Như Thanh, Thường Xuân, Bá Thước, phận Bá Thước là: mái đá Điều, mái đá Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn, Nước, hang Anh Rồ (làng Khiêng, xã Hạ Mường Lát. Trên khắp vùng rừng núi Trung), hang làng Tráng I, II, II, IV (xã Thanh Hóa rộng lớn là nơi cư trú của Lâm Sa), hang làng Cô"c (xã Thiết ống), nhiều tộc ngưòi, chủ yếu là các tộc ngưòi hang làng Chuông, hang Ma Xá (xã Văn thiểu sô": Thái, Mường, Thổ, Dao, H’mông, Nho), hang làng Cộn (làng Tân Lập, xã Khơ Mú,... trong đó, người Mường có sô" Hạ Trung)” [1, tr. 295]; trên địa bàn dân đông nhất, đứng thứ hai là ngưòi huyện Cẩm Thuỷ là “hang Núi Một (xã Thái. Người Mưồng sinh sông với mật độ Cẩm Giang), mái đá làng Bon (xã cẩm lốn ở các vùng đồi núi thấp, tiếp giáp ở Tú), mái đá Chòm Đồng Đông, mái đá phía Đông là người Kinh và phía Tây là Chòm Đồng Tây, mái đá Chòm Bét (xã ngưòi Thái. Địa bàn cư trú của người Cẩm Thạch)”[l, tr. 305]. Thái tập trung ở các vùng đồi núi cao, đó Trên địa bàn miền núi Thanh Hóa, là vùng giao lưu và tiếp xúc văn hóa của ngưdi Mưồng là tộc ngưòi có mặt từ rất nhiều tộc người như Thái, Mưòng, lâu đời. “Trong nhiều vấn đề của lịch sử H’mông, Dao... ở khu vực miền núi Thanh và văn hóa Mưòng ở Thanh Hóa có vấn Hóa, ngưồi Mưòng và người Thái là đề nguồn gốc của ngưòi Mưòng của khu những cư dân có lịch sử cư trú lâu đòi, có vực này. Có ý kiến cho rằng họ là những môì quan hệ chặt chẽ được thể hiện trên cư dân bản địa, có quan điểm lại cho rằng
- 22 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl họ là những bộ phận cư dân thiên di từ Thành), mường vẩm, mường Voong (Cẩm Hoà Bình vào. Đổì chiếu với các tên gọi Thuỷ), mường Chếnh, mường Mỏ, mưòng của người Mường Thanh Hóa là Mon, Nang, mường Khạt (Lang Chánh),... Đến Mon Ha, Mọi Bi thì chúng ta thấy đại bộ trưóc Cách mạng tháng Tám, “trên toàn phận người Mưòng có tên gọi Mọi Bi là từ miền núi Thanh Hóa, người Mường tổ Mường Bi của Hoà Bình di cư vào. Riêng chức các đơn vị hành chính truyền thống bộ phận người Mường tự gọi là Mon, Mon của mình gồm 40 mường do một số dòng Ha thì chưa có được sự thống nhất. Một họ lang nối đời thống trị: Họ Hà 4 mường, số nhà nghiên cứu của Thanh Hóa thiên họ Phạm 15 mường, họ Lê Xuân 4 về quan điểm bản địa của nhóm cư dân mường, họ Trương Công 5 mường, họ này. Dẫu sao thì vối người Mường ỏ Nguyễn Đình 7 mưồng, họ Quách 2 Thanh Hóa, về nguồn hợp thành của nó mưòng, họ Cao 1 mường” [3]. có các bộ phận sau đây: di cư từ hoà Bình Người Thái ở Thanh Hóa có nguồn gốc vào, có một bộ phận người Kinh bị Mường lịch sử gắn bó lâu đời với quê hương Thanh hóa, một bộ phận là dân tại chỗ. Như vậy, Hoá. Cộng đồng người Thái ở Thanh Hóa về mặt lịch sử cư trú của người Mưòng là được hình thành từ các nguồn có bộ phận tộc ngưòi có mặt ở khu vực này từ rất lâu người Thái Đen, Thái Trắng từ Tây Bắc đòi” [4, tr.28]. xuống, từ Lào sang và sau này có cả Khảo sát ỏ vùng miền núi Thanh ngưồi Mường, người Kinh hòa nhập vào. Hóa, tác giả Robequain cũng đã nhận xét: “Đến trưốc Cách mạng tháng Tám 1945, ồ “ở Thanh Hóa vụng người Mưòng thưồng miền núi Thanh Hóa đã hình thành bôn là các cư dân có mặt đã lâu đòi. Các chòm mươi mưdng của người Thái (Quan Hóa 7 lúng ở đây, tuy có người Mường trong nội mưòng; Mưòng lát 7 mưồng; Quan Sơn 6 tỉnh, hoặc ỏ Ninh Bình, Hòa Bình di cư mường; Bá Thưổc 4 mường; Lang Chánh 4 vào mà ỗ xen kẽ với nhau hoặc có nơi là ngưòi Kinh từ đồng bằng Thanh Hóa mường; Thường Xuân 9 mường; Như Xuân 3 chuyển lên lâu đồi rồi hóa thành ngưòi mưòng). Trong sô" đó, có bốn mường lớn, có Mường. Nhưng xét kĩ thì các vùng thung thế lực cả về kinh tế và chính trị trong lũng rộng và màu mỡ như Sa Lung, Thiết những năm trước Cách mạng tháng Tám là Ông, Hồ Điền, cổ Lũng, vùng có núi thấp mường Ca Da ở Quan Hóa, mường Khoòng ở (Ngọc Lặc, Cẩm Thủy) thì người Mưòng Bá Thước, muờng Chiềng Vạn ỏ Thường đã ở đây từ rất xưa” [8, tr. 66]. Xuân, mường Đèng ỏ Lang Chánh”[3]. Truyền thuyết và sử thi cũng đã để “Người Thái ở miền núi Thanh Hoá nổi lại nhiều dấu ấn trong tâm thức của cộng bật hai nhóm Tày và Tày Dọ. Nhóm tự đồng người Mường từ bao thế hệ truyền gọi là Tày phân bô" chủ yếu ỏ các huyện lại cho chúng ta nhận thấy đây là một Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh. vùng đất có con người cư trú lâu đời. Mo Nhóm tự gọi là Tày Dọ tập trung chủ yếu Đẻ đất đẻ nước của ngưòi Mưòng có đoạn ở các huyện Thưồng Xuân, Như Xuân, nói đến việc sinh ra các mường cổ, mường Như Thanh”[3]. Người Thái ồ Thanh Hóa lớn như mường Ông, mưòng Ai, mường thường không quan tâm nhiều đến Khô (Bá Thưốc), mường Ấm, mường Um, chuyện họ có nguồn gô"c Thái Đen hay mường Rặc (Ngọc Lặc), mường Đẹ (Thạch Thái Trắng, mà thưòng gọi theo địa danh,
- TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011 23 họ ở mưdng nào thì gọi tên mường đó như hai là người Thái. Hai tộc người này có ỏ mường Khoòng thì gọi là “Táy Khoòng”, lịch sử cư trú lâu đời ở miền núi xứ ở mưồng Đanh thì gọi là “Táy Đanh”,... Thanh và cùng có vai trò quan trọng Những câu chuyện về sự hình thành bản trong sự nghiệp phát triển kinh tê' - văn mường của người Thái trong kí ức của hóa và phòng thủ đất nước. Ngưồi Mưồng bao đdi lưu truyền lại đểu gắn với quê tập trung ở các vùng đồi núi thấp, có mật hương sở tại, vổi địa danh vùng đất xứ độ dân cư lớn tại các huyện Ngọc Lặc, Thanh như “Ải Lậc Cậc của Mưòng Ca Thạch Thành, cẩm Thuỷ, Bá Thưốc,... Người Thái tập trung chủ yếu ở các vùng Da, Lung Quan Khà của Mường Ký, ải Pú Té của Mưòng Khoòng. Ải Lậc Cậc bừa đồi núi cao dọc theo hành lang phía Tây, từ giáp Nghệ An và biên giới Việt - Lào, có thành sông Mã, Lung Quan Khà đánh mật độ dân cư đông tại các huyện Thưồng nhau với Mi quan xó. Ông đạp chân lún Xuân, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thưốc, đá, đánh rắm bạt đồi thành đèo Co Lang Chánh,... Đặc điểm phân bô' dân cư Phúng, ném chày cối thành bản Chộc, của các tộc người ồ miền núi Thanh Hóa bản Xác ỏ Lang Chánh, Ầi Pú Té ở bản là “sự cư trú xen kẽ, sự cư trú như vậy đã Hin (Lũng Cao) nhổ hết cây ở núi Phu tạo hình thành các khu vực hỗn hợp, các Luông đánh đuổi Ái Lậc Cậc, ném côì khu vực tiếp giáp Mường - Thái, Mưồng - chày sang tận Hoà Bình thành bản Côn Việt, Thái - Việt, Thái - Mường, Thái - Cáo, đắp ngang sông Mã đưa nưổc về Mông,... Theo đó, văn hóa của các tộc đồng thành núi Pha Kháu (gọi chệch là người khu vực này cũng thể hiện các đặc Pha Hán bây giờ)” [6, tr. 323]. Những trưng của sự đan xen, sự giao thoa nhưng truyền thuyết đó đã phản ánh cuộc chinh đồng thòi vẫn giữ được những nét đăc thù phục to lớn của người Thối ở vùng miền mang tính tộc người hết sức độc đáo ”[3]. núi xứ Thanh.. Theo nguồn sô' liệu điều tra dân sô' Hiện nay, trong thành phần các dân năm 1999 của Ban dân tộc Thanh Hoá, tộc thiểu sô' ở Thanh Hóa, ngưòi Mường dân sô' các tộc người thiểu sô' ỏ miền núi có sô' lượng dân cư đông nhất, đứng thứ Thanh Hóa như sau: TT Huyện Dân tộc Dân tộc Dân tộc Dân tộc Dân tộc Dân tộc Mường Thái Thổ l ĩ mông Dao KhơMú 1 Ngọc Lặc 83.927 246 1.246 2 Thạch Thành 68.342 25 2 14 17 3 Cẩm Thuỷ 56.306 3.213 4 Bá Thước 49.958 31.444 7 9 8 5 Như Thanh 17.259 12.204 6 Lang Chánh 13.087 22.578 189 7 Quan Hóa 9.618 26.719 1.444 8 Như Xuân 3.568 22.505 9.251 9 Thưòng Xuân 3.075 47.496 10 2 1 10 Quan Sơn 1.046 27.321 832 11 Mường Lát 681 13.621 11.562 546 642
- 24 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 2. Trải qua quá trình lịch sử có nhiều phong trào chông Pháp ở xứ Thanh cuối thăng trầm, người Thái và người Mường ỏ thế kỉ XIX. Trong bài Ngoại mậu kiến liệt Thanh Hóa đã có sự hoà hợp từ rất lâu truyện có thơ vịnh về hai người anh hùng đồi. Là những chủ nhân sớm nhất của của hai dân tộc Thái và Mường ở miền vùng đất này, người Thái và ngưòi núi xứ Thanh, chẳng hạn có đoạn sau: Mường cùng có vai trò quan trọng trong Hà Văn... Cầm Bá... một đoàn lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm. Thế Cùng nhau gánh vác giang san nước nhà kỉ XV, cuộc chiến chông quần Minh được Man dân như lôĩ Thanh Hoa (Hoá) khỏi phát từ vùng núi xứ Thanh. Địa bàn Trung châu ít kẻ vượt ra bực ngoài... [ 9] của khỏi nghĩa Lam Sơn những năm đầu 3. Từ vị trí lịch sử quan trọng của ở miền núi Thanh Hoá nằm trong địa bàn mình, văn hóa của người Thái và người cư trú của một bộ phận người Thái và Mường ỏ miền núi Thanh Hoá đã có một người Mường, trong đó căn cứ Chí Linh quá trình giao thoa, ảnh hưỏng lẫn nhau và các vùng phụ cận là nơi có nhiều ngưồi khá sâu sắc, đồng thòi lại có tác động lan Thái, ngưòi Mường sinh tụ lâu đời. Môì toả mạnh mẽ đến văn hóa của cộng đồng quan hệ đoàn kết, thuỷ chung giữa các các dân tộc cùng cộng cư. Cho nên, có thể tộc người cùng chung một mục đích chống nói rằng, trong bức tranh văn hóa đa tộc xâm lăng đã được phản ánh trong nhiều ngưdi, đa sắc thái trên toàn vùng miền câu chuyện cảm động đang được ‘ lưu núi Thanh Hóa, sắc thái văn hoá Thái - truyền trong dân gian. Dẫu đã trải qua Mường là những mảng màu đậm, có nhiều thế hệ, các vùng ngưồi Thái và nhiều nét độc đáo và trên một sô" lĩnh vực, ngưòi Mường trên địa bàn miền núi xứ có thể xem các sắc thái văn hóa đó tiêu Thanh vẫn đang còn lưu giữ nhiều truyền biểu cho khu vực miền núi xứ Thanh. thuyết và di tích lịch sử về Lê Lợi và Về lĩnh vực sáng tạo văn học dân cuộc khồi nghĩa Lam Sơn. gian, ngưòi Thái và người Mường là hai Càng về sau, trong các cuộc kháng tộc người đã sáng tạo và bảo lưu được kho chiến chống ngoại xâm kéo dài của dân tàng văn hóa dân gian phong phú. Trong tộc, vai trò của địa bàn miền núi ở nưốc đó, văn học dân gian đã góp phần quan ta nói chung và của xứ Thanh nói riêng trọng tạo nên diện mạo, sắc thái độc đáo lại càng quan trọng, ồ Thanh Hoá, mốỉ về văn hóa của các dân tộc ở miền núi xứ quan hệ giao lưu nhiều mặt, trong đó hạt Thanh. Kết quả sưu tầm, giới thiệu văn nhân thiết yếu là môì quan hệ văn hóa học dân gian các dân tộc thiểu số ồ miền giữa các tộc người đ? đặt cơ sở cho sự liên núi Thanh Hóa trong 50 năm qua (nếu kết giữa các thủ lĩnh như Hà Văn Mao và lấy năm 1960 là thời điểm đánh dấu công Cầm Bá Thước với nhân dân các dân tộc ỗ tác sưu tầm, giới thiệu văn học dân gian ở khu vực miền núi xứ Thanh trong lịch sử Thanh Hóa bắt đầu khởi sắc mạnh mẽ) đấu tranh giải phóng dân tộc. Hai thủ cho thấy chủ nhân của các tác phẩm văn lĩnh tiêu biểu cho phong trào đấu tranh học dân gian miền núi chủ yếu là người chống ngoại xâm ỏ miền núi Thanh Hóa Mường, người Thái. Trong quá trình phát là Hà Văn Mao và Cầm Bá Thước đã có triển của lịch sử, người Thái và người vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo Mường ồ đây đã sáng tạo nên những nét
- TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011 25 đặc sắc trong kho tàng văn hóa của tộc Đẹp nắng tia vàng choàng ngang người mình. Dân tộc Mường đã sinh vách núi thành và nuôi dưõng những làn điệu Đẹp đồng xanh quanh mường bản xường sâu lắng, những truyện thơ cháy bao la bỏng khát vọng tình yêu như Nàng Nga - Đẹp gái thanh xuân, tay dệt vải Hai Môĩ, Nàng Ờm - chàng Bồng Bương,... thêu hoa và áng sử thi thiên cổ Đẻ đất đẻ nước,... Ba thứ ấy, mắt ta ưng: đẹp nhất! Trong tiềm thức của mình, người Thái ở Thanh Hóa lưu giữ những kí ức về văn - Dưới gầm trời, vẻ non tơ nào hóa Champa, Lào. Biểu hiện rõ nét là đáng yêu bậc nhất? trong một số truyện thơ đặc sắc như ú Lúa tháng ba mơn mởn, yêu sao Thêm, Tư Mã Hai Đào, Tén Tằn... được Mũm mĩm hồng hào, bé trên sàn tập lưu truyền phổ biến trên các vùng người bước đi chập chững Thái ở Thanh Hóa, nhất là ở các vùng Người ta yêu đợi tháng đón dâu về người Thái tiếp giáp với Lào như Lang Bản mường đồng quê ông bà xưa Chánh, Quan Sơn, Mường Lát,... Có thể để lại đây là điều mò nhạt đối với ngưồi Thái ở Yêu nhất và mãi mãi ta yêu. Tây Bắc. Ngưòi Thái ở Thanh Hóa còn tự hào có Toi ặm oóc nặm đin, có sách ghi ■Dưới gầm trời, mọi con người chép tục ngữ thành những bài ca có vần thấy gì ghét nhất? điệu liền một mạch như những bài luân lí Căm ghét nhất: giặc cậy lớn cướp đất truyền dạy đạo đức, dạy lẽ ứng xử ỗ đòi gọi tranh mường là “Xư xon”; có những bản truyện thơ nồng Bọn lọc lừa, trộm cướp, tráo trâng nàn tình nhân ái, đoàn kết và yêu chuộng Bọn quanh co rẽ chồng chiếm vợ hoà bình như Khăm Panh và cả những làn Ba lũ đó ghét nhất trên đời... điệu khặp ngọt ngào. Đó là những lời khặp [5, tr 115 - 116] trữ tình phản ánh quan niệm về lẽ sông, về 4. Xét trên các phương diện lịch sử - cách ứng xử, về tình cảm quê hương xứ sở, văn hóa, địa lí học tộc ngưòi, sự cố kết về những đức tính cơ bản của con người giao lưu nhiều mặt giữa người Thái với như lòng nhân ái, sự vị tha, đức kính già, người Mưòng đã diễn ra sâu sắc. Trong yêu trẻ đã được thể hiện trong cách ứng xử, bôĩ cảnh đó, hầu hết các lĩnh vực sinh trong quan hệ giữa các thành viên trong hoạt văn hóa vật chất và tinh thần của bản, trong mường và trở thành những giá ngưòi Thái và người Mường ở Thanh Hóa, trị truyền thống được ngưòi Thái, người mà trực tiếp là nhóm Mường Trong Mường và tất cả mọi người dân, dù ỏ tộc (ngưòi Mưồng ỗ Thanh Hóa gọi bộ phận người nào cũng thừa nhận xem đó là những người Mưồng di cư ở Hoà Bình vào những giá trị chuẩn mực trong quan hệ là người Mường Ngoài), có sự hoà nhập, giữa người với người và với cộng đồng. Sau có nhiều nét tương tự nhau, không phân đây là một đoạn khặp thả của người Thái ở biệt được nguồn gốc từ Mường hay từ Thưòng Xuân: Thái. Ví dụ như: tập quán canh tậc ruộng - Dưới gầm trời, mắt ai soi, coi thứ gì nước, nương rẫy, ẩm thực, nhà ở, thuốc đẹp nhất'? Nam, y phục, tín ngưỡng, lễ tục, thiết chế
- 26 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl bản mường, nhạc cụ, sinh hoạt cồng (chòm - làng, bản, bản thín - bản của iệ chiêng... nông, lang đạo - thổ ti, phía tạo...)”[3]. 4.1. Trước hết, trong lĩnh vực sản Trên cái nhìn tổng thể, các đặc trưng của xuất nông nghiệp, người Thái và ngưòi văn hóa trong cách ứng xử, trong quan hệ Mường đều sống bằng nông nghiệp trồng giữa các thành viên trong bản trong trọt, trong đó chủ yếu là nông nghiệp mưòng đều được quy chuẩn. Sống ở vùng ruộng nước. Sự nhận thức tương đồng về bồn địa giữa núi, trong nền tảng của nền cảm quan sinh thái và nền tảng của đời nông nghiệp lúa nưốc, người Thái và sống xã hội đã sớm khẳng định về vị trí •người Mường cùng vổi các tộc ngưòi khác của văn minh nông nghiệp, mà cốt lõi của trên địa bàn sinh sống đã tạo lập được nó là phương thức canh tác lúa nước. mối quan hệ cộng cảm, cộng đồng bền Vùng miền núi Thanh Hóa, có địa bàn chặt. Người Thái ỏ vùng miền núi Thanh phân dị phức tạp, nhiều sông suôi. Trong Hóa còn có thói quen cúng rượu cần bằng môi trường tự nhiên đó, người Thái và tiếng Mường. “Các thầy mo Thái mo bằng người Mường đã lấy hoạt động kinh tế hai thứ tiếng. Có ngưòi không nói tiếng ruộng nưóc làm chủ đạo canh tác ở dọc Mưồng thạo, nhưng lại cúng bằng tiếng các sông Âm, sông Sạo, sông cảy,... và các Mưồng rất thạo. Ngày mùng một Tết, thung lũng tiếp giáp các chân núi. Họ người Thái có tục ra suối rửa mặt đầu nhận thức rõ ràng là “rẫy đầy mắt không xuân. Họ ra suối rất sớm và phải khấn bằng một thửa ruộng nhỏ”, họ quan tâm trưổc khi rửa. Điều đáng chú ý là họ đến hệ thông thuỷ lợi mương, phai, lín khấn bằng hai thứ tiếng. Tiếng Thái và lộc. Họ có kinh nghiệm cấy lúa nếp cổ tiếng Mưòng, thường là khấn bằng tiếng truyền, còn trên nương rẫy thì hoa màu Mường trưốc” [7, tr. 114]. phong phú nên ngưòi Thái có những* bài 4.3. Các đặc trưng vãn hóa vật chất, khặp khen rãy, người Mưông có những xét về mặt hình thức thì người Thái ỏ bài xưòng khen mường,... Tập quán canh Thanh Hóa có nhiều nét nổi trội gần gũi tác lâu đời của người Mường và người với ngưòi Mường ở Thanh Hóa hơn các tộc Thái ở miền núi Thanh Hóa chủ yếu là người cộng cư khác. Trong văn hóa vật trồng lúa nước, trồng cây lâm nghiệp, cây chất, nhà cửa là một trong những dấu ăn quả, săn bắt cá tôm dưới sông, suối, hiệu mang tính tộc người rõ nét, như có tận dụng nguồn măng, quả, củ trên rừng, chăn nuôi trâu bò và gia cầm, làm nghề nhà dân tộc học đã khẳng định: Nhà sàn thủ công truyền thống như đan lát, dệt là một hiện tượng văn hóa mang đặc tính thổ cẩm... khu vực, vừa thể hiện đặc trưng tộc người, nhưng lại có, tính địa phương khá 4.2. Tiếp theo là tổ chức xã hội, thiết rõ [3], Nhà sàn truyền thống của người chế bản mường, “ảnh hưởng của hệ thống hành c^ính của xã hội cổ truyền Mường Thái, ngưòi Mường ở Thanh Hóa chủ yếu đã lấn át hoặc len lỏi vào chính bộ máy làm nhà gác, cột chôn. Đồ nghề chủ yếu hành chính xã hội Thái. Có nhiều thuật để làm nhà là con dao, cái rìu. Trước đây, ngữ để chỉ các đơn vị hành chính, các gỗ làm nhà sàn thường chọn loại gỗ tốt có chức dịch trong bộ máy thông trị của lõi để làm cột như gỗ dổi, vàng tâm và người Thái trước kia là các từ Mường loại tốt hơn nữa là mạy láy (lấy từ trên
- TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2011 27 núi đá), đinh hương, bù hương, gỗ sến,v.v. tạo nên sự hòa hợp về đdi sông văn hóa Mạy láy là loại gỗ tốt, làm cột chôn được của người Thái và người Mưồng, trong đó bền lâu hơn các loại gỗ khác, đầu nhà sàn trang phục của phụ nữ Thái, Mưồng là và phên thưng đều dùng bằng luồng, nứa, một trong những biểu hiện dễ nhận thấy. còn mái nhà dùng nứa, tranh, cọ để lợp. Trang phục của phụ nữ Thái và phụ nữ Vởi người Mường và người Thái, ngôi nhà Mường ở Thanh Hóa có nét giống nhau. là nơi diễn ra và chứng kiến những sự Phụ nữ Thái ăn mặc theo kiểu trang phục của phụ nữ Mường, phụ nữ Thái kiện quan trọng của một vòng đòi người. cũng mặc áo khóm chui đầu như phụ nữ Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đôĩ Mudng và cạp váy có trang trí hoa văn. với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng Cho nên, đến các vùng như Quan Hóa, Bá đồng xã hội, ngôi nhà không chỉ là là nơi Thước, Lang Chánh,... nếu nhìn về hình để trú ngụ nắng mưa mà còn đáp ứng thức trang phục, chúng ta khó có thể nhu cầu tâm linh. Nhìn chung, người phân biệt được phụ nữ Thái vối phụ nữ Thái và ngưdi Mường không coi trọng Mường. Về trang phục của phụ nữ, có ý nhiều đến việc dựng nhà theo hướng nào kiến đã nhận xét: “Bộ nữ phục Mưồng đã mà chỉ cốt thuận lợi cho đi lại và lao động trỗ thành “sở hữu chung” cho cả một bộ sản xuất. Nhà dựng ở đồi gò thì dựa lưng phận đáng kể phụ nữ Thái ở các huyện vào đồi gò, cửa hướng ra khoảng không Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hoá” [3]. thung lũng hoặc cánh đồng trước mặt. Về tập quán ăn, ngưdi Thái ở Thanh Nhà dựng ỏ ven sông suốỉ thì mặt nhà có Hóa nói chung quan niệm trong những thể hướng ra sông suốỉ. Nhìn chung nơi bữa cơm thường gọi là cơm canh, canh là đất dựng nhà ở thưồng là nơi cao ráo các thức ăn có trong bữa. Trong mâm cơm thoáng mát, có điểm tựa vào đồi núi hoặc của người Thái, dù có bao nhiêu thức ăn, hai đầu hồi có núi cao làm điểm tựa từ nhưng vẫn luôn có đĩa muối và ớt, thường xa, tạo cho thế ở vững chắc. Tất cả những dùng để cho ngưòi ăn mặn nhạt khác cái đó tạo cho bản làng của ngưdi Thái, nhau, gọi là “pan khấu lé cứa”, nghĩa là ngưồi Mưdng ở Thanh Hóa cảm giác vừa mâm cơm, đĩa muôi). Người Mường ỏ an tọa vừa cởi mỏ với những nét độc đáo Thanh Hóa cũng có nhiều món ăn tương riêng. Nhà sàn của ngưòi Thái ỏ Thanh tự như người Thái, nhưng khái niệm trong Hóa có nét khác so với nhà sàn của người mâm cơm gọi là “cơm băng, cơm bòi” (cơm Thái Đen ỏ Tây Bắc nhưng lại giống vói măng, cơm muối). Tiến trình phát triển của lịch sử, xã hội vùng miền núi Thanh nhà sàn của ngưồi Mường ở Thanh Hóa. Hóa đã trải qua những bước thăng trầm, Nhà người Thái ở Thanh Hóa không có song ý thức về nền văn minh nông nghiệp khau cút như nhà của ngưdi Thái ở Tây không md nhạt đi mà cùng vổi thời gian Bắc. Họ làm sàn giông nhà người Mưòng, càng được hằn sâu tạo nên nếp nghĩ và mái nhà sàn giông nhau, đều là kiểu nhà hành động có tính tiềm thức trong mỗi bốn mái. thành viên người Thái và người Mưòng. Sự chung sống lâu đời trên một miền Họ có kinh nghiệm làm lúa nếp cổ truyền, đất núi rừng, phải chống chọi với thiên giữ được tập quán ăn cơm nếp và có nhiều nhiên khắc nghiệt và các loài thú dữ đã món ăn được chế biến từ gạo nếp. Tập
- 28 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl quán chế biến món ăn từ cá vẫn giữ vai Thái ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Còn trò chính trong văn hóa ẩm thực của về mặt tư duy, có thể nhận thấy từ thuở người Thái và ngưòi Mường ỗ Thanh Hóa. xa xưa, con người đã có những giải thích 4.4. Về văn học dân gian và tín gần gũi nhau về sự đau đẻ vĩ đại của vũ ngưỡng truyền thông, nếu ngưồi Thái ở trụ, trời đất và giải thích sự ra đời của các tộc người, các giông vật theo lối suy vùng Mai Châu có sử thi ẳm ệt luông thì nguyên giản dị. Sử thi Toi ặm óc nặm đin ngưồi Thái ở vùng miền núi Thanh Hoá của người Thái và “Đẻ đất đẻ nước” của tự hào có sử thi Toi ặm oóc nặm đin có người Mường mang một vũ trụ quan duy nghĩa là (bài ca đất nước buổi sơ khai). Sự vật thô sơ. Cuộc sống trong quan niệm ra đời của Toi ặm oóc nặm đin ghi dấu của ngưồi Thái, người Mường ngay từ đầu ấn về mối quan hệ ảnh hưởng giao lưu đã có một sự hoà hợp. khá chặt chẽ giữa người Thái và người Yếu tô" Mường trong sử thi Toi ặm óc Mưòng ở miền núi Thanh Hóa.trong sinh nặm đin của người Thái ở Thanh Hóa còn hoạt phong tục tập quán và ngay cả trong biểu hiện trên những nét phong cách thể nội dung tác phẩm.. hiện. Hai tác phẩm không chỉ mang tính Người Mưòng ỗ Thanh Hóa có sử thi tự sự lịch sử trong cái tính chất chung Đẻ đất đẻ nước và trong phong tục nghi lễ của loại hình sử thi mà còn là tính diễn tang ma, tác phẩm này là một bài ca nghi giải, tự sự - lịch sử của người Mường kế lễ dài được gọi là “Mo tiêu”. Ngưdi Mường thừa trong các bài ca khấn nguyện và có cả một hệ thông mo, bao gồm: Mo vái cách kể chuyện; Yếu tố Mưòng còn là (Mo lên trời) và Mo tiêu (Mo tiêu chính là phương pháp tượng trưng huyền thoại phần diễn xướng tác phẩm sử thi Đẻ đất xuất phầt từ cơ sở xã hội Mưồng, ỏ cách đẻ nước). Yếu tố Mưồng trong sử thi “Toi thức cấu trúc tác phầm và phong tục diễn ặm oóc nặm đin” của người Thái là rất xưóng tác phẩm trong môi trưòng nghi lễ. đậm. Về nội dung, có thể thấy hai tác “Người Thái mỗi khi tiến hành một phẩm sử thi của người Mường và người cuộc mo thì ông mo thường đọc lời giầo Thái ở Thanh Hóa gặp nhau ở nhiều chi đầu. Lòi giáo đầu ấy ý nói rằng ông mo sẽ tiết, nhiều môtíp như: con chim ấp trứng mo theo lời mo của những ông mo từ xa ra người, chuột đi tìm thóc giông, chuyện xưa, cả những ông mo vùng Mường, vùng chặt cây Si, cây Cát, chuyện bắn mặt tròi Thái. Đoạn giáo đầu như sau (dịch từ và cho gà vịt đi tìm mặt trời, mặt trăng, tiếng Thái): chuyện truyền ra năm ra tháng,v.v. Tất Mo Mường có sách nhiên, ngay trong những môtíp gần gũi Mo già, mo có họ có dòng nhau cũng có những chi tiết riêng biệt. Mo không để sót một lời Những chi tiết ấy là biểu hiện những nét Không bớt đi một đoạn riêng trong tâm hồn, tính cách của người Mo đã khắc dấu ở mặt côĩ Thái, người Mường [7, tr. 120] . Nhưng Khắc lời để đầu giường điều rõ nhất ở đây là, những chi tiết và Đi tắm còn nhớ khe môtíp giống nhau ấy biểu hiện một sự Đan chài còn nhớ mắt giao lưu ảnh hưởng rấ t sâu sắc về tâm Đẽo cầy còn nhớ đường rìu thức văn hóa giữa người Mường và người Đan chài, đan từ chóp đến chân
- TẠP CHÍ VHDG s ố 2/201II 29 Con mo, theo đoạn mo ếm sông Luồng một trong những tác nhân quan trọng Theo ông mo lớn Mường ống làm cho văn hóa của ngưồi Thái và người Ông mo Bống sông Đà Mường ở vùng miền núi Thanh Hóa có Mo theo lời mo xưa thuở trước nhiều nét đan xen, đồng thời có xu hướng Theo ông mo mường Bi mường Lò. ngày càng ảnh hưỏng lan toả mạnh mẽ ... Đáng chú ý ở đây là ông mo Thái tự tạo thành sắc thái nổi trội của vùng này. nhận là học theo ông mo Mưòng ông. Trong tình hình đó, văn hóa của ngưòi Mường ông tức là Thiết ông bây gid, chỉ Thái và ngưòi Mưòng ỏ Thanh Hóa vừa có đồng bào Mường ở từ xa xưa đến nay giữ được những nét chung nhất của tộc [7, tr.112] người mình, vừa hình thành sắc thái địa phương, nhất là về hình thức thể hiện và Khặp của người Thái ở Thanh Hóa có nội dung gắn với lịch sử, địa danh của các làn điệu khặp còn gọi là “Yếu đu lắm vùng đất Thanh Hóa. ne”, “khặp xòn láy”, “khặp xư”,... trong đó khặp ‘Yếu đu lắm ne” là đặc thù riêng Trong giai đoạn hiện nay, môĩ quan của người Thái ở Thanh Hóa. Y ếu đu hệ giao thoa, hoà nhập về văn hóa giữa lắm ne” có nghĩa là thương lắm thương người Thái với người Mường và với các tộc nhiều, là lời mở đầu làn điệu khặp. Công người khác trên địa bàn miền núi Thanh thức mỏ đầu làn điệu khặp này tương tự Hóa ngày càng có điều kiện thuận lợi, mà như công thưc mở đầu xường giao duyên biểu hiện sinh động nhất là quan hệ hôn của người Mưồng ỏ Thanh Hóa là “Xương nhân. Mỗi mái nhà sàn nơi quần tụ của xiết xương xì” (cũng có nghĩa là thương một gia đình người Thái, người Mường ở lắm thương nhiều). Khặp của người Thái Thanh Hóa đâu chỉ có một thành phần và xưòng của ngưồi Mường hoà quyện với dân tộc, nhiều gia đình đã có các thành nhau trong nhiều cuộc hát giao duyên, viên thuộc các dân tộc: Thái, Mưòng, trong những ngày tết đến xuân về, trong Kinh,... Đó là một biểu hiện của sự cảm những ngày hội mùa, trong đám cưới và thông và hiểu biết sâu sắc giữa các tộc các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. người. Đó cũng chính là môi trường thuận Điểm qua một số nét biểu hiện sự gần lợi nuôi dưỡng sự hoà hợp đoàn kết các gũi tương đồng giữa văn hóa của người dân tộc và sự thẩm thấu, tiếp nhận nhiều Mường và người Thái ở Thanh Hóa, nét sinh hoạt văn hóa giữa các tộc ngưòi chúng ta nhận thấy rõ mối quan hệ lịch với nhau.n sử, gắn bó lâu đời của hai tộc người này M.T.H.H trong tiến trình phát triển, không chỉ TÀI UỆU THAM KHẢO trong lịch sử mà ngay cả hiện tại và giữa 1. Địa chí Thanh Hóa (2000) tập 1, Nxb. họ đã diễn ra một quá trình giao lưu, hoà Văn hóa - Thông tin, H, tr. 295, 305. nhập sâu sắc về văn hóa. Đây là sự giao 2. Địa chí Thanh Hóa (2004) tập 2, Nxb. lưu ảnh hưởng hai chiều, trong văn hóa Khoa học xã hội, H, 2004, tr.36. Mưồng có yếu tố của văn hóa Thái và 3. Lê Sỹ Giáo (1991), “Đặc điểm phân bô' ngược lại, trong văn hóa Thái có sự thẩm các tộc ngưòi ồ miền núi Thanh Hóa”, Tạp chí thấu của văn hóa Mường. Yếu tố gần gũi Dân tộc học, số 2, tr. 37 - 43. về địa vực cư trú và yếu tô' giao lưu là (Xem tiếp trang 34)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ngôn ngữ và văn hoá
5 p | 492 | 99
-
PHÓNG SỰ BÁO CHÍ VÀ PHÓNG SỰ VĂN HỌC ĐƯỜNG BIÊN THỂ TÀI
5 p | 338 | 46
-
BÀI GIẢNG OOAD BÀI 3: XÁC ĐỊNH YÊU CẦU
37 p | 101 | 16
-
Bài giảng Giao thoa văn hóa - Bài 2: “Quyền lực” (P), “khoảng cách” (D), “độ áp đặt” (R) và “lịch sự” trong giao tiếp
13 p | 31 | 5
-
Quan điểm của Trần Đức Thảo về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội - Ngô Thị Nụ
7 p | 89 | 4
-
Bài giảng Giao thoa văn hóa - Bài 3: Các chiến lược lịch sự dương tính trong giao tiếp
30 p | 47 | 3
-
Những thay đổi của trang phục cổ truyền và cách ăn mặc hiện nay ở các dân tộc thiểu số nước ta
4 p | 6 | 2
-
Quan hệ văn hóa Tày - Việt trong tiến trình lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam
6 p | 4 | 2
-
So sánh nội dung thống nhất và đa dạng của tục ngữ người Việt với tục ngữ các dân tộc thiểu số
14 p | 4 | 2
-
Quan hệ văn hóa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU)
5 p | 2 | 1
-
Âm giới và biểu tượng vũ trụ luận trong tang ma của người Mường
10 p | 0 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn