1

Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................... 5 Chương 1 ............................................................................................................. 12 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 12 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án..................... 12 1.2. Khái quát những kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra.................................................................................... 31 Chương 2 ............................................................................................................. 34 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI.... 34 2.1. Cơ sở lý luận việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp......................................................................................................... 34 2.2. Mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp với quá trình xây dựng nông thôn mới ............................................................................ 58 Chương 3 ............................................................................................................. 69 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NỘI ............. 69 3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của Hà Nội có ảnh hướng đến giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ................................................................................... 69 3.2. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội tới việc làm cho lao động nông nghiệp................................................................... 75 3.3. Thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội ....................... 93 Chương 4 ........................................................................................................... 117 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 ........................................................................................................................... 117 4.1. Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội................................ 117 4.2. Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội................................ 124 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 161 PHỤ LỤC .......................................................................................................... 171

2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN Các nước Đông Nam Á

NN-ND-NT Nông nghiệp – Nông dân- Nông Thôn

CNH Công nghiệp hóa

NTM Nông thôn mới

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP Thu nhập quốc dân

Hiện đại hóa HĐH

ILO Tổ chức lao động quốc tế

KH&CN Khoa học và công nghệ

Lực lượng lao động LLLĐ

UBND Ủy ban nhân dân

USD Đô la Mỹ

WTO Tổ chức thương mại thế giới

3

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng của các ngành ...... 72

Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2011-2013 và đóng góp của các ngành vào mức tăng trưởng chung.................................................. 73

Bảng 3.3: Dân số từ 15 tuổi trở lên và dân số trong độ tuổi lao động có việc làm chia theo huyện ở khu vực nông thôn (năm 2012).............................................. 97

Bảng 3.4: Cơ cấu lao động nông nghiệp có việc làm trong tuổi LĐ ở khu vực nông thôn Hà Nội năm 2012 chia theo trình độ CMKT và giới tính................ 108

Bảng 4.1: Dự kiến tốc độ tăng trưởng dân số .................................................. 119

Bảng 4.2: Dự báo dân số Thủ đô Hà Nội có tác động tới việc làm .................. 120

Bảng 4.3: Dự báo cơ cấu sử dụng lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới .......................................................................................... 121

Bảng 4.4: Kế hoạch đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 ............ 121

Bảng 4.5: Kế hoạch giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015......................................... 123

4

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Số cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ huyện Từ Liêm từ năm 2010 đến năm 2013 ................................................................................. 84

Hình 3.2. Số lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện Từ Liêm các năm 2010 đến 2013 ............................................................................................. 84

Hình 3.3. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất ở Huyện Từ Liêm .................... 85

Hình 3.4. Số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ở huyện Phúc Thọ qua các năm ......................................................................................................... 86

Hình 3.5. So sánh cơ cấu kinh tế giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm năm 2011 ... 87

Hình 3.6. So sánh cơ cấu lao động giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm......... 88

Hình 3.7. So sánh về trình độ lao động giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì năm 2011 ..... 88

Hình 3.8. So sánh thu nhập của lao động nông nghiệp giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì.................................................................................................................... 89

Hình 3.9. Cơ cấu lao động nông nghiệp phân theo mức độ tham gia................. 98

Hình 3.10. Phân bổ lao động nông nghiệp ở các huyện trên địa bàn Hà Nội..... 99

Hình 3.11. Phân bổ lao động nông nghiệp trẻ ở các huyện trên địa bàn Hà Nội ....... 99

Hình 3.12. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội 2009.................................... 100

Hình 3.13. So sánh cơ cấu lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì và Hoài Đức101

Hình 3.14. So sánh chất lượng lao động giữa huyện Phúc Thọ và huyện Từ Liêm.. 103

Hình 3.15. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội phân theo trình độ chuyên môn .. 104

Hình 3.16. So sánh trình độ lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm, Sóc Sơn, Phúc Thọ............................................................................................................ 104

Hình 3.17 . Phân bố làng nghề tại các huyện trên địa bàn Hà Nội ................... 107

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, giải quyết việc làm đã trở thành chương trình mục tiêu quốc

gia ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhà nước đã dành ngân

sách lập Quỹ Quốc gia hỗ trợ và giải quyết việc làm, cho vay trực tiếp với các

dự án có mục tiêu để thu hút lao động, tạo việc làm cho người lao động. Tuy

nhiên, vấn đề việc làm đang đứng trước các mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa nhu cầu

việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết việc làm còn hạn chế; giữa nhu

cầu giải quyết việc làm với trình độ tổ chức, quản lý, trình độ, kỹ năng của

người lao động chưa theo kịp yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, sự nghiệp xây dựng nông thôn mới trong cả nước.

Trong gần 30 năm đổi mới, Hà Nội đã giành được nhiều thành tựu to lớn

trong phát triển kinh tế ngoại thành trong đó có việc giải quyết việc làm cho

người lao động theo chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là từ sau mở rộng

địa giới hành chính Hà Nội thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị

lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về xây

dựng nông thôn mới (NTM) với quan điểm chỉ đạo là: “Nông nghiệp, nông dân,

nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng trong phát triển

kinh tế - xã hội bền vững, gìn giữ ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc

phòng, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh

thái của đất nước. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển; xây dựng nông

thôn mới là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là khâu then

chốt” [22]; Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội

về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời

sống nông dân” giai đoạn 2011-2015 [55] với mục tiêu: “Xây dựng nông thôn

mới Thủ đô Hà Nội có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được

6

xây dựng đồng bộ, hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày

càng được nâng cao. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nông thôn được

bảo đảm, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại”; Thực

hiện Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND ngày 21/4/2010 của Hội đồng nhân dân

Thành phố về xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020,

định hướng 2030 [31]. Kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội

những năm qua đã làm chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động nông

nghiệp theo hướng tích cực, hiện đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế

nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông

nghiệp. Xây dựng nông thôn mới tạo thêm nhiều việc làm trong khu vực phi

chính thức phù hợp với lao động nông thôn.

Xây dựng nông thôn mới thúc đẩy mở rộng không gian đô thị, cải tạo, xây

dựng phát triển hệ thống cơ sở kết cấu hạ tầng, tạo ra nhiều việc làm cho lao

động ở nông thôn và cơ hội cho lao động nông nghiệp chuyển dịch sang các

ngành nghề khác.

Xây dựng nông thôn mới làm thay đổi cơ cấu việc làm thúc đẩy nâng cao

chất lượng lao động, chất lượng việc làm và năng suất lao động.

Sự thay đổi cơ cấu việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới làm

cho thị trường lao động nông nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tiến trình xây

dựng nông thôn mới ngày càng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm ngày càng

lớn. Sự gia tăng cung – cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng động là

những điều kiện thuận lợi cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt động tư vấn,

giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin thị trường lao

động,... Vì vậy, lao động nông nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ

việc làm hiện đại, thực hiện các giao dịch trên thị trường lao động.

Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới cũng có sức ép lớn đối với

vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp Hà Nội: Quá trình chuyển

đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn làm một bộ phận lao động nông

7

nghiệp không đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp và phát triển kinh tế

nông thôn mới theo yêu cầu hiện đại về trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động.

Bộ phận lao động nông nghiệp này phần lớn đã lớn tuổi hoặc trình độ học vấn

thấp không còn cơ hội đào tạo nâng cao trình độ và không còn phù hợp với yêu

cầu đổi mới của doanh nghiệp, của nền kinh tế, khả năng chuyển đổi nghề

nghiệp của họ rất hạn chế. Đây là vấn đề kinh tế - xã hội khá phổ biến trong quá

trình xây dựng nông thôn mới, tạo sức ép về việc làm đối với lao động nông

nghiệp, nông thôn dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Xây dựng nông

thôn mới làm tăng lượng lao động nhập cư ngày càng cao gây sức ép lớn về việc

làm và sự quá tải về kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục,... ở các khu đô thị.

Quá trình xây dựng nông thôn mới đang tạo ra những cơ hội và thách thức

về lao động và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Hà Nội. Do đó

việc phân tích và chỉ ra mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp với

quá trình xây dựng nông thôn mới, việc đánh giá thực trạng việc làm cho lao

động nông nghiệp và đề xuất các giải pháp để giải quyết việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn năm 2015 –

2020, định hướng đến năm 2030 là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, đề tài “Việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô

Hà Nội” được lựa chọn để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Nhận thức cơ sở khoa học về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới

- Đánh giá, phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội

giai đoạn 2008 -2013.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp để gắn giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội giai

đoạn 2015 - 2020 định hướng 2030.

8

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi đề tài: Luận án tập trung nghiên cứu việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở một số huyện của Thủ

đô Hà Nội theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

- Phạm vi thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2013.

4. Phương pháp tiếp cận và nghiên cứu

4.1. Phương pháp tiếp cận

Đề tài sử dụng phương pháp tiếp cận theo vùng: Mỗi vùng có những điều

kiện tự nhiên kinh tế xã hội khác nhau, xuất phát điểm xây dựng nông thôn mới

khác nhau. Theo đó, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp cũng

không giống nhau ở mỗi địa phương về quy mô, số lượng, chất lượng, cơ cấu.

Do đó tiếp cận vùng sẽ cho phép nghiên cứu những yếu tố riêng biệt của mỗi

vùng từ đó có những giải pháp cụ thể phù hợp với mỗi vùng.

Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá tình hình lao động, việc làm và giải quyết

việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở

thủ đô Hà Nội được sử dụng trong đề tài:

- Cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo trình độ văn hoá và trình

độ chuyên môn.

- Cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo ngành nghề.

- Cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo độ tuổi, giới tính.

- Phân bố lao động nông nghiệp phân loại theo vùng.

- Tỷ lệ lao động nông nghiệp có việc làm và lao động nông nghiệp thiếu

việc làm.

9

4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu

4.2.1.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:

Thu thập số liệu thứ cấp được lấy từ các tài liệu chuyên ngành, từ sách

tham khảo, các nghị quyết, chương trình của trung ương, chính phủ, thành ủy,

hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; các đề án, kế hoạch, báo

cáo, tổng kết của thành phố Hà Nội. Trong đó số liệu thứ cấp chủ yếu được thu

thập và phân tích đánh giá từ đề án xây dựng nông thôn mới của thành phố Hà

Nội; đề án xây dựng nông thôn mới của 19 huyện thị xã và 401 xã trên địa bàn

thành phố Hà Nội; thu thập số liệu theo kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông

thôn và thủy sản thành phố Hà Nội tại thời điểm ngày 01/7/2011; thu thập số

liệu về báo cáo kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành

phố Hà Nội trong các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013; thu thập số liệu từ báo

cáo kết quả thực hiện đề án 1956 của thành phố Hà Nội về đào tạo vào giải

quyết việc làm cho lao động nông thôn từ năm 2011 đến năm 2013.

4.2.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp

Số liệu qua chọn mẫu điều tra được thu thập thông qua chọn mẫu điều tra

phi ngẫu nhiên. Cụ thể là kết hợp giữa phương pháp điều tra phân cấp và

phương pháp điều tra theo tiêu thức kết hợp. Luận án đã có khảo sát một số

huyện trong địa bàn thành phố Hà Nội và đã điều tra theo mẫu phiếu số

01/TĐTNN-HO của Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản

trung ương trong đó tác giả luận án là trưởng ban chỉ đạo điều tra của toàn bộ

các hộ thường trú ở khu vực nông thôn tại huyện Từ Liêm. Số liệu được thu thập

và tổng hợp bằng công nghệ quét (scanning): phiếu mẫu số 01/TĐTNN-HO của

Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản trung ương được ghi

chép, bảo quản, vận chuyển cẩn thận theo đúng quy trình tránh bị quăn, rách,

ẩm… và được bảo quản theo đúng quy trình trách nhiệm từ điều tra viên, tổ

trưởng đến ban chỉ đạo các xã và huyện.

10

4.2.2. Phương pháp xử lý số liệu

4.2.2.1. Với số liệu thứ cấp

Với số liệu thứ cấp được sử dụng phân nhóm theo nội dung của đề tài

nhằm chứng minh làm rõ những nội dung mà đề tài yêu cầu. Các số liệu thứ cấp

này đều được trích dẫn nguồn gốc cụ thể

4.2.2.2. Với số liệu sơ cấp

Với số liệu sơ cấp luận án đã phân nhóm theo các tiêu thức phân tổ và tính

các chỉ tiêu phân tích trên bảng tính excel.

4.2.3. Phương pháp khác

Đề tài sử dụng và tuân theo cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải phân tích các vấn đề. Cụ thể:

Trong đó luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu: trừu tượng hóa khoa

học; phương pháp nghiên cứu hệ thống tổng hợp phân tích thống kê so sánh,

phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc; phương pháp định tính và định

lượng… đồng thời sử dụng phương pháp tổng kết tình hình thực tiễn để tìm ra

những đặc trưng của vấn đề nghiên cứu và tính quy luật của đối tượng nghiên cứu

Chương 1: Luận án đã tổng hợp và hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về

các phạm trù lao động và lực lượng lao động, việc làm, thất nghiệp, trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội của các học giả ngoài nước và trong nước. Đề tài cũng

đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu từ đó phân tích đánh giá tìm ra các vấn đề có

tính kế thừa bổ sung và hoàn thiện, đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề còn chưa

đầy đủ trong nghiên cứu về việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô.

Chương 2: Luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để rút

ra những khái niệm cơ bản và luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về giải

quyết việc làm, lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm trong quá trình

phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới, đồng thời đề tài cũng sử

dụng phương pháp nghiên cứu đánh giá thực tiễn các vấn đề lao động giải quyết

việc làm kinh nghiệm của một số nước và một số địa phương trong nước để từ

đó rút ra bài học cho Hà Nội.

11

Chương 3: Luận án sử dụng các phương pháp phân tích định tính và định

lượng; phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc; phương pháp thống kê;

phương pháp so sánh, tổng hợp theo logic kết hợp và sử dụng một số sơ đồ, biểu

đồ, đồ thị nhằm đánh giá thực trạng việc làm cho lao động nông nghiệp trong

quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội. Các số liệu được tác giả thu

thập từ các nguồn tài liệu và dữ liệu điều tra được xử lý bằng phần mềm

Microsoft Excel để đưa ra cái nhìn trực quan hơn về tình hình việc làm và giải

quyết việc làm của lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ xây

dựng nông thôn mới.

Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp khái quát hóa nhưng

vấn đề đã nghiên cứu ở chương 2 và chương 3 để rút ra phương hướng và giải

pháp có tính khả thi giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá

trình xây dựng nông thôn mới đến năm 2020, định hướng 2030.

5. Đóng góp của luận án

- Về lý luận: luận án hệ thống lại lý luận về vấn đề việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

- Về thực tiễn: luận án đã phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội gắn với thời kỳ xây dựng nông

thôn mới. Đưa ra một cái nhìn tổng thể nhất về thực trạng việc làm và giải quyết

việc làm cho lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở

Thủ đô giai đoạn 2008 – 2013. Luận án chỉ ra những tác động qua lại giữa quá

trình thực hiện xây dựng nông thôn mới tới việc làm cho lao động nông nghiệp

trong điều kiện đặc thù của Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới và dự

báo tình hình phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030,

luận án đã đưa ra các phương hướng, giải pháp để giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội.

12

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN

Việc làm cho người lao động là một vấn đề luôn được quan tâm. Bởi lẽ,

đây không chỉ là vấn đề có liên quan đến cuộc sống của người lao động, mà còn

liên quan đến tất cả các quá trình phát triển xã hội. Đây là một vấn đề có liên hệ,

liên kết giữa các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu. Quá trình đó diễn ra

trong mỗi quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người trong

đó có liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp. Đây là vấn đề chủ yếu của

toàn bộ đời sống xã hội. Nhưng vào mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, giải quyết

việc làm cho người lao động cũng có những đặc điểm khác nhau.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu về việc làm cho người lao động được nhiều

nhà khoa học, nhà quản lý cả trong và ngoài nước quan tâm. Trong phạm vi của

luận án, chương tổng quan tình hình nghiên cứu chỉ tập trung giới thiệu một số

công trình tiêu biểu liên quan đến việc làm cho người lao động, trong đó có lao

động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội.

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.1.1 Tài liệu chuyên khảo và tham khảo nước ngoài

1.1.1.1 Sách tham khảo và bài báo khoa học

* Các Mác (1818-1883) - nhà kinh tế học và triết học người Đức có công

trình vĩ đại “Tư bản” được phát hành vào năm 1867 [5]. Sự xuất hiện của công

trình này đã đưa ông trở thành nhà khoa học kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ XIX.

Trong tác phẩm nổi tiếng này, Ông đã đưa ra lý thuyết giá trị thặng dư và

phân tích bản chất và những thành tố đặc biệt của hàng hoá sức lao động - một

loại hàng hoá đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình nghiên cứu,

Các Mác đã phát hiện ra rằng, cái giá trị tăng thêm mà các ông chủ tư bản có

được sau khi bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh chính là do lao động không

13

công của người công nhân làm thuê tạo ra. Song để có những giá trị thặng dư ấy,

nhà tư bản phải tạo ra một chỗ làm việc cụ thể trong chuỗi kế hoạch sản xuất

kinh doanh của họ bằng cách đầu tư tư bản vào sản xuất, kinh doanh. Và hơn

nữa, người lao động nếu không thể kết hợp sức lao động sống của mình với chỗ

làm việc cụ thể do nhà tư bản tạo ra, thì bản thân họ cũng không thể chuyển sức

lao động thành việc làm, và do đó cũng không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.

Vấn đề việc làm được ông nghiên cứu chi tiết ở chương XXIII, tập 23

C.Mác - Ăngghen toàn tập về “Quy luật phổ biến của tích luỹ tư bản chủ nghĩa”

[4], trong đó ông phân tích sự tăng thêm của tư bản đến vị trí của giai cấp công

nhân và việc làm. Luận cứ quan trọng nhất của công trình này là sự biến đổi cấu

tạo hữu cơ của tư bản trong quá trình tích luỹ. C.Mác cho rằng, cùng với những

điều kiện khác không thay đổi, kết cấu của tư bản cũng vẫn không thay đổi -

nghĩa là để vận dụng một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất

định, bao giờ cũng cần một khối lượng sức lao động như trước. Rõ ràng là lượng

cầu về sức lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỷ lệ

với tư bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng

tăng lên nhanh bấy nhiêu. Theo ông, đầu tư tăng (tăng tư bản) sẽ làm gia tăng

cầu sức lao động, do đó, khả năng có việc làm của người lao động sẽ được gia

tăng. Tuy nhiên, với mục đích có được càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, việc gia

tăng tư bản của nhà tư bản luôn được tính toán làm sao tốc độ gia tăng tư bản bất

biến nhanh hơn tốc độ gia tăng tư bản khả biến. Đầu tư cải tiến kỹ thuật công nghệ

là biện pháp tốt nhất để tăng năng suất lao động, gia tăng sản xuất giá trị thặng dư.

Do đó, sự gia tăng việc làm trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa không tăng

cùng tỷ lệ với sự gia tăng đầu tư tư bản, mà có xu hướng giảm tương đối.

Như vậy, xét trên tổng thể, tư bản khả biến và cầu sức lao động giảm

tương đối, số lượng việc làm tăng chậm hơn toàn bộ vốn của nền sản xuất xã

hội. Từ đó Mác đưa ra nhận định về nạn nhân khẩu thừa tương đối trong phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định, sự tăng lên của bộ phận tư bản

khả biến bao giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ của việc sản xuất

14

ra số nhân khẩu thừa tạm thời. Và cùng với sự tích luỹ tư bản do bản thân nó đẻ

ra, nhân khẩu công nhân cũng sản xuất ra với một quy mô ngày càng lớn những

phương tiện làm cho họ trở thành nhân khẩu thừa tương đối. Dân cư dôi dư này

có ý nghĩa rất quan trọng để phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa, đảm bảo lao

động thường xuyên cần thiết cho xã hội và cũng là đòn bẩy quan trọng cho việc

đẩy mạnh sản xuất giá trị thặng dư [dẫn theo 24].

Những nghiên cứu của C.Mác về hàng hoá sức lao động, về sự sản xuất ra

giá trị thặng dư, về ngày lao động, sự phân công lao động, sự thay đổi trong đại

lượng giá cả sức lao động và của giá trị thặng dư, sự chuyển hoá giá trị sức lao

động hay giá cả sức lao động thành tiền công, quá trình tích luỹ tư bản, nhất là

lý luận của ông về tích luỹ tư bản... được chuyển tải trong tập 23 đã cung cấp

những cơ sở khoa học cơ bản, trong đó có quan niệm về lao động, việc làm cho

các nhà kinh tế Mác-xít, các nhà nghiên cứu về các nền kinh tế trên thế giới

cũng như các vấn đề phát sinh trong xây dựng và phát triển kinh tế của các quốc

gia [14]. Đồng thời, đây cũng là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta xây dựng

đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới cũng như

giải quyết việc làm cho người lao động trong đó có lao động nông nghiệp.

* John Maynard Keynes trong cuốn Lý luận chung về việc làm, lãi suất và

tiền tệ [32] đã xem việc làm trong mối quan hệ chặt chẽ với sản lượng - thu nhập

- tiêu dùng - đầu tư - tiết kiệm. Vị trí trung tâm trong lý thuyết của ông là việc

làm. J.M.Keynes cho rằng, tình trạng việc làm được xác định trong mối quan hệ

giữa tác động các yếu tố thị trường lao động, sự vận động của thất nghiệp, tình

trạng sản xuất, khối lượng sản phẩm, quy mô thu nhập, ông khẳng định: khi việc

làm tăng lên thì tổng thu nhập tăng lên. Cùng với sự tăng lên của thu nhập, ông

cho rằng, khi thu nhập tăng thì tiêu dùng cũng tăng lên, nhưng do tâm lý của

quần chúng, tốc độ tăng tiêu dùng luôn thấp hơn tốc độ tăng thu nhập, làm cho

cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu nhập, dẫn đến một bộ phận hàng

hoá không bán được. Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh hưởng đến

15

sản xuất chu kỳ sau, do đó làm giảm việc làm, gia tăng thất nghiệp. Muốn khắc

phục tình trạng đó, cần phải có một khối lượng đầu tư nhằm kích thích quần

chúng tiêu dùng phần tiết kiệm của họ. Do vậy, theo ông, để tăng việc làm, giảm

thất nghiệp phải tăng tổng cầu nền kinh tế, gồm cả cầu tiêu dùng và cầu đầu tư.

Ông chỉ ra rằng, việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi

hỏi phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư và

giảm tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và thất

nghiệp. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng để tăng tổng cầu thông qua các

khoản chi tiêu chính phủ, hoặc thông qua các chính sách đầu tư.

Ông phê phán lý thuyết thất nghiệp của A.Pigou và cho rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không tồn tại cơ chế nào có thể đảm bảo được việc làm đầy đủ, nguyên nhân của thất nghiệp và lạm phát không phải du nhập từ bên ngoài, mà chính ở trong hệ thống kinh tế đó, chứ không thể và cũng không phải là một hệ thống tự điều tiết.

Như vậy, theo J.M.Keynes, để tạo việc làm, hạn chế thất nghiệp, cần gia tăng cầu tiêu dùng và đầu tư. Tăng cầu tiêu dùng và đầu tư nhằm kích thích lượng tiền cất trữ đưa vào lưu thông, từ đó sẽ giúp mở rộng quy mô nền kinh tế, làm tăng thu nhập. Và đến lượt nó, thu nhập tăng sẽ làm gia tăng đầu tư, tăng việc làm và tăng tiêu dùng [30].

* Nolwen Heraff - Jean Yves Martin trong cuốn Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới [29] đã nghiên cứu khái quát về tình hình lao động, việc làm và nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 1986-2000. Theo đó cho thấy, bắt đầu sự nghiệp đổi mới, Việt Nam có một ưu thế lớn là có nguồn nhân lực dồi dào, khả năng mở rộng việc làm trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường rất lớn, song do chất lượng nguồn nhân lực thấp, đa số là lao động chưa qua đào tạo nghề nên khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển rất hạn chế.

Điểm đáng chú ý nhất ở tác phẩm này là đã chỉ ra những hạn chế của nguồn nhân lực và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta giai đoạn 1986-2000. Những kết quả nghiên cứu

16

của công trình này, cũng như nghiên cứu của Slandes [49] đã cung cấp cho người đọc có một cái nhìn tương đối khách quan, khoa học về lao động, việc làm và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là những tư liệu giúp cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về lao động, việc làm và nguồn nhân lực Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

* Tuan Francis, Somwaru Agapi, Diao Xinshen trong cuốn Lao động nông thôn di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa trên điều tra nông nghiệp Trung Quốc [28] cho rằng quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc và sự gia tăng năng suất trong nông nghiệp hàm ý rằng những lao động nông thôn sẽ được thu hút vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Kết quả là họ sẽ có nhiều cơ hội để tăng thu nhập phi nông nghiệp. Công trình này tập trung nghiên cứu cấu trúc lực lượng lao động nông thôn và những đặc điểm của lao động nông thôn để đánh giá tiềm năng di cư lao động nông thôn vào các lĩnh vực phi nông nghiệp. Công trình phân tích thị trường lao động nông thôn Trung Quốc dựa trên điều tra dân số nông nghiệp Trung Quốc lần thứ nhất, với những đặc điểm nhân khẩu học của lực lượng lao động nông thôn, tính liên kết giữa các loại công việc, nơi làm việc và di cư lao động của lao động nông thôn. Dựa trên sự phân bổ nhân khẩu học của lực lượng lao động nông thôn, các tác giả đã tìm ra được mối liên hệ giữa lao động nông thôn với việc phân bổ các nguồn lực khác, đặc biệt là quỹ đất đai ngày càng hạn chế, từ đó áp dụng kỹ thuật logit polytomous tổng quát để phân tích các mô hình sử dụng lao động nông thôn và dự báo quá trình di cư lao động nông thôn.Tác phẩm này cung cấp cho các nhà nghiên cứu cơ cấu của lao động nông thôn có khả năng chuyển đổi theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu lao động và việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.

* Ren Mu, Dominique van de Walle trong cuốn Left Behind to Farm? -

Women’s Labor Re-Allocation in Rural China [34] chứng minh rằng sự chuyển

đổi công việc và di cư lao động trong quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng

17

của Trung Quốc diễn ra rất mạnh mẽ, song có vấn đề tồn tại là sự phân bổ lại lao

động nông nghiệp truyền thống đối với những người phụ nữ nông thôn. Báo cáo

nghiên cứu phương thức làm việc và phân bổ thời gian của những người phụ nữ

không di cư nhưng chịu ảnh hưởng bởi sự di cư của những người thân trong gia

đình. Thực tế cho thấy, những người phụ nữ bị bỏ lại ở nông thôn đang phải làm

nhiều công việc đồng áng hơn trước, và điều này diễn ra trong thời gian dài chứ

không chỉ là tạm thời đảm nhiệm. Trong khi đó, đối với những người đàn ông bị

bỏ lại ở nông thôn thì không gặp phải trường hợp này. Các chuyên gia kinh tế đã

đặt câu hỏi về mô hình thu nhập tổng hợp của hộ gia đình dựa trên những bằng

chứng thực nghiệm, những khả năng phát sinh có thể đi kèm với các hiệu ứng

phân phối trong các hộ gia đình trong quá trình phát triển kinh tế tổng thể.

Đối tượng nghiên cứu của công trình này là những phụ nữ nông thôn

không di cư, phương cách làm việc, phân bổ thời gian lao động và sức khỏe của

họ bị ảnh hưởng khi sống trong những gia đình có người di cư. Những vấn đề về

bình đẳng giới thường chỉ chú ý đến việc trao quyền cho người phụ nữ mà bỏ

quên các khía cạnh khác của họ về phúc lợi, như các loại công việc và thời gian

để giải trí. Phụ nữ có thể được trao quyền nhiều hơn nhưng họ phải làm việc

nhiều hơn, ít có thời gian giải trí và ít chăm sóc sức khỏe bản thân hơn. Thu

nhập hộ gia đình có thể gia tăng cùng với lượng kiều hối của người di cư, nhưng

hạnh phúc của người phụ nữ có thể không tăng lên.

Tìm hiểu lợi ích của những người phụ nữ bị bỏ lại ở nông thôn có ý nghĩa

quan trọng đối với tăng trưởng chung và các chính sách phát triển kinh tế - xã

hội. Những cải thiện hay hỗ trợ người phụ nữ trong việc cung cấp các dịch vụ

công cho trẻ em và chăm sóc người cao tuổi có thể giúp làm giảm bớt gánh nặng

của công việc đồng áng đối với những người phụ nữ này. Dịch vụ khuyến nông

có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ có học vấn và kiến thức về nông

nghiệp thấp trong các gia đình có người di cư. Ngoài ra những chính sách xóa

đói giảm nghèo thông qua các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tín dụng, việc làm phi

18

nông nghiệp và mạng lưới an sinh xã hội an toàn cũng sẽ giúp những phụ nữ này

có cuộc sống tốt hơn. Từ đó, nghiên cứu đã đề nghị những chính sách nhằm tạo

việc làm, nâng cao thu nhập và chăm sóc toàn diện đối với người phụ nữ bị bỏ

lại ở nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc trong quá trình di cư lao động từ nông

thôn ra thành thị. Nội dung nghiên cứu của công trình sẽ giúp cho chúng ta có

cái nhìn thực tế, quan tâm nhiều hơn đến lao động nông nghiệp trong quá trình

xây dựng nông thôn mới trong đó có lao động nữ tại nông thôn Việt Nam.

* Li Luping trong báo cáo Biến đổi thu nhập hộ gia đình ở nông thôn

Trung Quốc [33] đã nghiên cứu những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp và

hệ thống sinh kế của bốn khu vực nông thôn Trung Quốc trên cơ sở hai đợt khảo

sát các hộ gia đình trong giai đoạn 1999-2009. Kết quả cho thấy, trong các yếu

tố quan trọng giải thích cho sự thay đổi thu nhập của hộ gia đình thì giáo dục là

yếu tố chính ảnh hưởng đến tăng trưởng thu nhập của các hộ gia đình. Thời gian

đi học của người dân càng tăng lên thì thu nhập bình quân đầu người của họ

càng tăng lên nhiều hơn. Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hóa đã tạo ra nhiều

việc làm phi nông nghiệp hơn cho các hộ gia đình ở nông thôn, đồng thời quá

trình đô thị hóa lại hấp thụ một lượng lớn lao động nông thôn trong lĩnh vực

dịch vụ. Kết quả của phân tích những biến động thu nhập của hộ gia đình nông

thôn Trung Quốc cho thấy nông dân nghèo là những người có thu nhập bình

quân đầu người tăng nhiều nhất trong một thập kỷ qua. Như vậy có thể thấy

công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn đã và đang cung cấp nhiều hơn những

cơ hội cho người nghèo thoát nghèo và tăng thu nhập bình quân đầu người cho

họ. Vấn đề còn lại là ở chính những người nông dân đó, tự họ có đủ năng động

để tranh thủ những cơ hội thoát nghèo đó hay không. Những nội dung này cũng

được đề cập trong cuốn Vấn đề tam nông ở Trung Quốc: Thực trạng và giải

pháp” [25].

19

1.1.1.2. Tạp chí khoa học nước ngoài

* Jennifer Cheung trong bài viết China's Inland Growth Gives Rural

Laborers More Opportunities Near Home [6] khẳng định rằng các khu vực kinh

tế nội địa Trung Quốc đang trên đà phát triển trong khi các vùng duyên hải có

xu hướng bão hòa khiến cho lao động di cư của Trung Quốc có xu hướng tính

đến những cơ hội việc làm ở gần nhà hơn.

Tứ Xuyên, một tỉnh của Trung Quốc vốn được mệnh danh là nơi xuất

khẩu lao động nông thôn đã có tình trạng người lao động nông thôn làm việc ở

nhà ngày càng nhiều hơn. Sáu tháng đầu năm 2012, đã có 10,9 triệu lao động

nông thôn Tứ Xuyên làm việc ở trong tỉnh, tăng 23,7% so với năm trước và 10,1

triệu lao động nông thôn di cư khỏi tỉnh, giảm 4,1% so với cùng kỳ. Điều này đã

trở thành một xu hướng mới của người lao động, “ly nông bất ly hương”.

Bài báo phân tích quan điểm của những người lao động nông thôn đã trở

về nhà sau nhiều năm di cư cho rằng hiện nay, với sự phát triển kinh tế của

những khu vực nội địa Trung Quốc đã làm giảm đáng kể khoảng cách thu nhập

của lao động di cư với lao động làm việc gần nhà. Thêm nữa, với việc làm gần

nhà, các lao động nông thôn có nhiều thời gian để chăm sóc gia đình của mình.

Sự trở về của các lao động di cư cũng khiến cho những người lao động ở lại các

khu vực thành thị và các khu công nghiệp có nhiều lợi thế hơn khi thương lượng

về mức lương với những ông chủ sử dụng lao động. Trong nửa đầu năm 2012,

tiền lương công nhân nhập cư đã tăng 15%, nhanh hơn so với lao động thành thị.

Không chỉ lao động di cư bị thu hút bởi cơ hội việc làm gần nhà, mà ngay

chính họ - những người lao động đã từng di cư cũng có thể thành lập các doanh

nghiệp mới trên địa bàn tỉnh với các kỹ năng và kinh nghiệm thu được từ nhiều

năm làm việc tại các tỉnh ven biển. Đây là triển vọng cho các chính sách giải

quyết việc làm cho lao động nông thôn nhưng không làm gia tăng sức ép lên các

đô thị lớn ở Trung Quốc.

20

* Arnab K. Basu trong Impact of Rural Employment Guarantee Schemes

on Seasonal Labor Markets: Optimum Compensation and Workers' Welfare [1]

cho rằng việc ban hành Đạo luật quốc gia về Bảo lãnh việc làm nông thôn ở Ấn

Độ được ca ngợi như một chính sách cung cấp một mạng lưới an sinh xã hội cho

người nghèo nông thôn để tăng thu nhập, ổn định sản xuất nông nghiệp và làm

giảm tốc độ di cư từ nông thôn ra đô thị. Bài báo phân tích tác động của Chương

trình đảm bảo việc làm trong bối cảnh của một nền kinh tế nông nghiệp đặc

trưng bởi lao động thất nghiệp theo mùa vụ như một hệ quả của hợp đồng ràng

buộc lao động. Dựa trên những kết quả kiểm tra lao động và sản lượng đáp ứng

thị trường để có thể thực hiện đề án “Bảo lãnh việc làm cho lao động nông thôn

và xác định việc bồi thường cho người lao động phù hợp với các mục tiêu”: (i)

hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp và (ii) phúc lợi tối đa hóa của người lao

động. Từ đó, tác giả cung cấp khung lý thuyết cho việc đánh giá những quan sát

và kết quả thực nghiệm về tác động của đề án: bảo lãnh việc làm cho lao động

nông thôn với tiền lương nông nghiệp, việc làm, đầu ra của nông nghiệp và nhấn

mạnh tầm quan trọng của năng suất tương đối của người lao động trong các

chương trình này với đối tác của họ khi tham gia sản xuất nông nghiệp.

* Jonna Estudillo và các cộng sự trong Labor markets, occupational choice,

and rural poverty in four Asian countries [26] đã khám phá những cơ chế cơ bản

trong thị trường lao động nông thôn dẫn đến tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo

ở các vùng nông thôn của Philippines, Việt Nam, Bangladesh và Sri Lanka. Việc

gia tăng thu nhập phi nông nghiệp, trong đó tăng thu nhập từ việc làm chính thức,

được xem là một động lực quan trọng của tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo. Vì

vậy, để giảm đói nghèo ở nông thôn, các chính phủ cần phải có chính sách nhằm

tạo ra nhiều việc làm chính thức, vì vấn đề chất lượng công việc có tác động lớn

trong việc cải thiện mức sống của người lao động nông thôn.

Từ một số công trình nêu trên của các tác giả nước ngoài, có thể thấy, vấn

đề việc làm cho lao động nông thôn, lao động nông nghiệp có mối quan hệ hữu

21

cơ với các yếu tố khối lượng đầu tư, khối lượng sản phẩm được tạo ra và chất

lượng của nguồn nhân lực [27]. Các nhân tố có những quan hệ luôn luôn biến

động, và sự điều chỉnh của nó không dễ dàng. Các chính sách điều chỉnh của

nhà nước chỉ có tác dụng khi có sự tác động đến tổng thể các yếu tố của quá

trình kinh tế xã hội.

1.1.2. Tài liệu chuyên khảo, tham khảo trong nước

1.1.2.1. Đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ

* Đề tài KX.04 Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách giải quyết

việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do

Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm [35] đã nghiên cứu các nội dung sau: Xây

dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách giải quyết việc làm của

Việt Nam trong điều kiện chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế và đổi mới cơ chế

quản lý kinh tế; Khuyến nghị một số chính sách quan trọng nhất trong lĩnh vực

việc làm; Đề xuất mô hình tổng quát và hệ thống biện pháp nhằm đảm bảo thực

hiện chính sách quốc gia xúc tiến việc làm. Kết quả nghiên cứu của đề tài này đã

đóng góp một số luận cứ, cơ sở khoa học cho Đảng và Nhà nước ta trong việc

hình thành các chủ trương, chính sách về giải quyết vấn đề việc làm thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong quá trình xây dựng nông

thôn mới ở Việt Nam

* Đề tài cấp Bộ Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn năm 2009

(Lao động và việc làm nông thôn) do Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm [3] tập

trung nghiên cứu một số vấn đề trong quá trình phát triển xã hội nông thôn năm

2009 như tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, đào tạo nghề cho lao động, tình

trạng di dân đô thị và nghèo đói của người lao động ở nông thôn Việt Nam,...

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông

thôn, tình trạng thất nghiệp mùa vụ ở nông thôn là nguyên nhân cơ bản dẫn đến

sự di dân như một chiến lược kinh tế của người nông dân. Đô thị trở thành “cái

túi” chứa lao động nông thôn, với sức ép gia tăng ngày càng lớn về việc làm, y

22

tế, giáo dục, ổn định xã hội,... Người lao động di cư đang phải đối mặt với nhiều

khó khăn khi mưu sinh ở thành thị dẫn đến hiện tượng dòng di cư “đảo chiều”

về nông thôn, gây nên tình trạng thiếu việc làm cho lao động nông thôn không di

cư. Phân tích các chính sách giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất và tiếp cận các dịch vụ

xã hội cơ bản ở nông thôn, tác giả cũng chỉ ra những bất cập trong xây dựng và

thực hiện chính sách của Nhà nước.

Ngoài ra, đề tài cấp Bộ Hiện trạng cung - cầu nguồn lao động kỹ thuật

thành phố Hồ Chí Minh và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai đoạn

tới 2010 do Nguyễn Trần Dương làm chủ nhiệm [45] cũng đề cập đến rất nhiều

vấn đề quan trọng liên quan đến chủ đề nghiên cứu này. Đặc biệt, đề tài đã cung

cấp một hệ thống giải pháp đào tạo, sử dụng lao động kỹ thuật cho thành phố Hồ

Chí Minh. Các kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo rất tốt khi tìm

kiếm các giải pháp về lao động, việc làm cho thủ đô Hà Nội.

1.1.2.2. Luận án Tiến sỹ * Luận án của Trần Thị Bích Hạnh [57] đã nghiên cứu để tìm kiếm các giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lao động, xem đây là những vấn đề có tính chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của khu vực. Tuy vậy, luận án mới chỉ tập trung nghiên cứu, tìm kiếm các biện pháp, các cách thức dưới góc độ quản lý, gợi mở các phương án có tính kỹ thuật, luận án chưa đi sâu nghiên cứu về bản chất của tình hình lao động, việc làm để từ đó có thể đề ra những giải pháp mang tính bền vững, lâu dài, có thể dẫn dắt các biện pháp có tính tình thế trong việc xử lý các vấn đề lao động, việc làm khi có phát sinh. Bên cạnh đó, công trình trên chưa phát hiện được những vấn đề có tính quy luật của sự vận động về việc làm và chất lượng nguồn lao động, nên các giải pháp đưa ra mang đậm tính kỹ thuật, thiếu một sự khái quát có tính nguyên lý, giúp cho chúng ta có thể kế thừa nó trong việc nhận diện các hiện tượng nảy sinh về vấn đề việc làm, lao động trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, tiến trình đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới nói riêng.

23

* Luận án của Phạm Đức Chính [47] với mục tiêu cải thiện việc sử dụng nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng làm việc sau khi xuất khẩu lao động ở nước ngoài trở về, đã nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động, phân tích thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách nói trên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Luận án đã xác định những đặc trưng, đặc điểm nổi bật của nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động với ưu thế là sự thích ứng cao với nền kinh tế thị trường, làm rõ vai trò của nhà nước cùng với những nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và thực thi chính sách, hệ thống các lĩnh vực liên quan đến điều kiện tái hòa nhập và lập nghiệp, tạo việc làm cho người lao động sau khi trở về nước trên cơ sở các tiêu chí đánh giá phù hợp trong điều kiện quản lý ở nước ta hiện nay.

Phân tích thực trạng chính sách của nhà nước đối với nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động trong thời gian qua, luận án đã nghiên cứu, làm rõ những nội dung của chính sách cần được điều chỉnh như: Các đối tượng thực thi chính sách cần nắm bắt được kế hoạch nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động về nước hàng năm, vì nhu cầu sử dụng trong nước là không nhỏ nhằm bảo đảm sự tác động, tính đáp ứng của chính sách cũng như hiệu lực của chính sách; Khắc phục tình trạng chỉ có khoảng 20% số lao động trở về được sử dụng. Nhà nước cần bổ sung những nội dung cụ thể nhất là sự đồng bộ của hệ thống chính sách để tăng tính hiệu quả và tính phù hợp, thích đáng của chính sách. Trên cơ sở phân tích, đánh giá chính sách thời gian qua và định hướng phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn tới trong đó có mục tiêu của hoạt động xuất khẩu lao động, luận án đã đề xuất 6 nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động, nhưng chưa có giải pháp cụ thể để sử dụng nguồn nhân lực này đưa về nông thôn bổ sung cho lực lượng lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Đây cũng là những vấn đề được tác giả Nguyễn Lương Trào nghiên cứu khá kỹ trong luận án tiến sỹ của mình nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài [40].

24

1.1.2.3. Một số sách tham khảo, chuyên khảo liên quan đến đề tài * Cuốn Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” của Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung [37] nghiên cứu về chính sách việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nội dung công trình có thể khái quát trên một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, nghiên cứu về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận chính sách việc làm. Các tác giả cho rằng: “vấn đề cốt lõi, bao trùm nhất là phải tạo ra điều kiện và cơ hội để người lao động có việc làm, thu nhập đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình, đồng thời góp phần cho xã hội. Đó là nội dung cơ bản của chính sách việc làm”.

Thứ hai, tiếp cận phương pháp nghiên cứu chính sách việc làm. Các tác

giả cho rằng, chính sách việc làm phải được đặt trong hoàn cảnh của quá trình

chuyển đổi nền kinh tế cũng như chủ trương đa phương hoá các quan hệ quốc tế.

Đồng thời, chính sách việc làm cũng phải dựa trên sự sáng tạo của quần chúng

nhân dân, nhằm phát huy tối đa sức sáng tạo của nhân dân, phục vụ hiệu quả

công cuộc đổi mới phát triển đất nước.

Thứ ba, công trình đã hệ thống khái niệm về lao động, việc làm. Các tác

giả đã nghiên cứu và đề cấp đến các nội dung chủ yếu như: quan niệm cơ bản về

lao động và việc làm; hệ thống khái niệm cơ bản về lao động và việc làm được

vận dụng ở nước ta. Ở những nội dung này, trên cơ sở kế thừa các công trình

nghiên cứu có trước, các phạm trù: việc làm, lực lượng lao động, người có việc

làm, người thất nghiệp, những người không thuộc lực lượng lao động được tác

giả giới thiệu một cách khái quát, nhằm phục vụ cho mục tiêu làm rõ những vấn

đề có liên quan đến chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam.

Thứ tư, công trình phân tích làm rõ nguyên nhân và những mâu thuẫn chủ

yếu của vấn đề thị trường lao động và việc làm ở Việt Nam trong những năm

đầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thứ năm, công trình đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng giải

quyết việc làm phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.

25

Và cho rằng: một trong những vấn đề cơ bản nhất của sự thay đổi trong nhận

thức về việc làm là coi trọng yếu tố tự tạo việc làm của người lao động trong các

thành phần kinh tế. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho việc giải phóng tiềm năng lao

động của đất nước một cách hiệu quả nhất. Đây là một trong những thay đổi có

tính căn bản của nhận thức về vấn đề tìm kiếm việc làm của người lao động,

trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam hiện nay.

Với những nội dung chính vừa nêu, công trình này đã đề cập đến rất nhiều

khía cạnh khác nhau liên quan đến vấn đề việc làm-cho người lao động. Song do

được nghiên cứu ở những năm trước 1997, nên các lập luận, kiến giải có những

hạn chế nhất định. Tuy nhiên, công trình đã mang đến người đọc những kiến

thức bổ ích, nhất là phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu về chính sách giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn

mới ở Việt Nam.

* Cuốn Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hóa

trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Tiệp [43] đã nêu những vấn

đề lý luận và thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Những

đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình đô thị hóa tác

động chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, chuyển lao động nông thôn sang

làm các công việc công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, quá trình đô thị hóa và hội

nhập toàn cầu hóa kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công

nghiệp dịch vụ. Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi hỏi nguồn nhân lực

nông thôn phải có sự đổi mới nâng cao chất lượng để thích ứng, đáp ứng nhu

cầu của thị trường lao động. Đô thị hóa và di chuyển lao động nông thôn ra

thành thị trở thành xu thế không thể cưỡng nổi, nó có tác dụng giảm sức ép căng

thẳng về việc làm ở các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao

động ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du

26

lịch. Dòng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm có lao động

nhập cư và sinh sống làm việc tại các thành phố và lao động nông thôn đến

thành phố làm việc mang tính chất thời vụ. Trong quá trình đô thị hóa quy mô

lao động ngành nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp tăng lên và có vai

trò quan trọng trong đảm bảo việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. Các

làng nghề được cơ giới hóa, điện khí hóa, sản xuất hướng vào xuất khẩu nhiều

hơn và có vai trò trong phát triển lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Do đó

đặt ra vấn đề phải phát triển đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn

để đảm bảo cung ứng lao động cho các làng nghề và các cơ sở tiểu thủ công

nghiệp. Trong quá trình đô thị hóa, đa số lao động nông thôn ở nước ta còn ở

mức thu nhập thấp do đó đòi hỏi các hộ gia đình phải có sự đầu tư rất lớn cho

đào tạo phát triển nhân lực để chuyển hướng sang hoạt động phi nông nghiệp.

Các chính sách hỗ trợ hoặc phát triển hệ thống tín dụng ưu đãi cho đào tạo nhân

lực nông nghiệp nông thôn từ nhà nước còn hạn chế, chưa có tác động lớn để

nâng cao chất lượng nông nghiệp nông thôn. Đây thực sự là thách thức lớn đối

với nông nghiệp nông thôn trong quá trình đô thị hóa. Cuốn sách cũng phân tích

những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực nông thôn như động thái dân số,

mức sống của dân cư, giáo dục và đào tạo, tăng trưởng và phát triển kinh tế, việc

làm và thu nhập, sự phát triển hệ thống giao thông và công nghệ thông tin, các

chính sách của chính phủ. Cuốn sách cũng khẳng định phát triển nguồn nhân lực

là nhân tố quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông

thôn; Khẳng định vai trò trọng tâm của đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực

và những yêu cầu đối với đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá

trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải đáp ứng được

nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho thúc đẩy quá trình đô thị hóa, công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; mức độ đáp ứng nhân lực chuyên môn

kỹ thuật nông thôn về số lượng, chất lượng, cơ cấu cấp trình độ, cơ cấu ngành

nghề cho quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông

27

thôn và thể hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Cuốn sách đưa ra các căn cứ

để xác định phương án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn, các chủ

trương chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn

ngoại thành Hà Nội… Đặc biệt cuốn sách đã đưa ra các giải pháp đẩy mạnh và

nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành

Hà Nội trong quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nội

dung của cuốn sách là tài liệu quý báu để tác giả nghiên cứu các vấn đề liên

quan đến luận án.

* Cuốn Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Việt

Nam của Nguyễn Xuân Khoát [46] bàn về nhiều vấn đề cấp thiết của việc sử

dụng nguồn lao động và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt Nam trong

các giai đoạn phát triển. Ở mỗi một công trình được giới thiệu trong cuốn sách,

tác giả đã cố gắng nêu được vai trò, ý nghĩa, thực trạng và phương hướng, biện

pháp giải quyết các vấn đề đặt ra. Đồng thời, cuốn sách đã góp phần làm sáng rõ

cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng hợp lý nguồn lao động và phát triển

kinh tế- xã hội ở nông thôn nước ta. Điều đó có ý nghĩa cho việc hoạch định

việc sử dụng nguồn lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn

mới hiện nay.

Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác như Một số vấn đề lao

động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay [23] hay Thị

trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển [42] cũng cung cấp rất

nhiều bàn luận có giá trị cho đề tài nghiên cứu của luận án.

1.1.2.4. Các bài viết, nghiên cứu chuyên đề

Các bài báo khoa học nghiên cứu về vấn đề việc làm ở trong nước thời gian

qua cũng được rất nhiều người quan tâm, trong đó nổi bật là những bài viết sau:

- Bài viết Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay

của tác giả Trần Đình Hoan [56] đã nêu lên những quan điểm và phương hướng

cơ bản của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề việc làm trong giai đoạn công

28

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa.

- Bài Một số vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa của tác giả Võ Hồng Phúc đã khẳng

định vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển và hưng thịnh đất nước: Nguồn

nhân lực là mục tiêu của phát triển, được thụ hưởng những thành quả của sự

phát triển. Và chính sự thụ hưởng đó tiếp tục tạo ra sự kích thích, động lực cho

sự phát triển của chính bản thân nguồn lực và sự phát triển chung. Nguồn nhân

lực có vị trí, vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân

lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tốc độ

phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt, nhất là

nhân lực có trình độ cao đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định

sáng suốt, đúng đắn đối với đường lối, chủ trương, chính sách và phương thức

thực hiện các quyết sách về phát triển và hưng thịnh quốc gia. Đồng thời góp

phần quyết định đến sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tạo điều kiện thuận

lợi cho sự thành công của việc xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa. Nguồn nhân lực có trình độ cao là nền tảng vững chắc đảm bảo

cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành công quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

và hợp tác quốc tế, đồng thời là cơ sở quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ giữ trật

tự an ninh xã hội, củng cố sức mạnh quốc phòng và bảo vệ vững chắc sự toàn vẹn

lãnh thổ của đất nước. Bài viết đưa ra một số nội dung cơ bản của chiến lược phát

triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

Trước hết quy mô nguồn nhân lực tiếp tục tăng nhanh đồng thời với yêu

cầu chuyển hướng mạnh sang đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng của sự phát

triển đang tạo áp lực lớn về đầu tư cả về chiều rộng và theo chiều sâu cho phát

triển nhân lực.

Thứ hai, yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, bền vững và chuyển

dịch mạnh cơ cấu theo hướng tiến bộ, năng suất, hiệu quả và nâng cao sức cạnh

29

tranh của nền kinh tế đòi hỏi nguồn nhân lực phải có sự phát triển mạnh mẽ,

thay đổi toàn diện về chất lượng.

Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng với sự hình thành nền

kinh tế trí thức và hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản

phẩm, nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú và dễ dàng tiếp cận đến tất cả mọi

người, tác động toàn diện đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nguồn nhân

lực phải năng động, nhanh chóng nắm bắt những tri thức và tiến bộ khoa học –

công nghệ mới, thích nghi với những bối cảnh mới đang liên tục thay đổi.

Thứ tư, quá trình hội nhập, hợp tác và toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh

chóng đòi hỏi nguồn nhân lực nước ta phải phát triển đến trình độ ngang tầm

quốc tế nhằm vừa đáp ứng yêu cầu mới thường xuyên thay đổi của hệ thống luật

pháp quốc tế, đồng thời phải giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Thứ năm, sự phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vừa

đòi hỏi sự đổi mới không chỉ về một số nội dung của phát triển nguồn nhân lực,

mà còn về phương thức phát triển nguồn nhân lực.

Thứ sáu, công cuộc cải cách hành chính nhà nước, đổi mới quản lý kinh tế

và xã hội diễn ra một cách sâu, rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu mới đối

với sự phát triển nguồn nhân lực không chỉ riêng đối với những người làm công

tác quản lý, mà cả trong nhận thức về hành vi, trách nhiệm và cách ứng xử của

mọi người dân. Bài viết cũng xác định những quan điểm cơ bản về phát triển

nguồn nhân lực ở Việt Nam đó là: phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng

đầu và là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn

hiện nay. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào việc xây dựng

đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao với cơ

cấu hợp lý về trình độ, ngành nghề và theo lãnh thổ. Coi trọng việc phát hiện,

bồi dưỡng, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Phát triển nguồn nhân lực là trách

nhiệm của nhà nước và toàn xã hội. Đảm bảo công bằng xã hội trong phát triển

30

nguồn nhân lực, quan tâm nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân lực đến các vùng

kém phát triển và các bộ phận dân cư hiện còn đang gặp nhiều khó khăn, thực

hiện mục tiêu đoàn kết, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Bài viết cũng đưa

ra các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể về phát triển nguồn nhân lực cho 10

năm đầu của thế kỷ 21 ở nước ta. Ngoài chức năng sản xuất và dịch vụ, bộ phận

này có nhiệm vụ chuẩn bị lao động kỹ thuật cao hơn cho giai đoạn sau. Lao

động phổ thông, chủ yếu ở nông thôn và khu vực phi kết cấu với chức năng

chính là tạo việc làm, phục vụ nhu cầu tại chỗ và đảm bảo thu nhập, đời sống

cho người lao động. Những nội dung xóa đói, giảm nghèo nhằm phát triển

nguồn nhân lực sẽ thay đổi, hướng vào việc nâng cao chất lượng của các mục

tiêu giảm nghèo và cải thiện đời sống, sử dụng mức chuẩn nghèo quốc tế và

lồng ghép với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã được 149 nguyên thủ quốc gia

và những người đứng đầu chính phủ của 180 nước( trong đó có Việt Nam) thông

qua tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ tháng 9-2000. Những biến đổi tiến

bộ trong cơ cấu lao động, cùng với quá trình giảm nghèo sẽ góp phần tích cực

vào việc hình thành và phát triển ở nước ta một tầng lớp trung lưu chiếm đa số

trong xã hội và có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển tiếp theo của nguồn

nhân lực trong những năm tới. Đây cũng là những nội dung được tác giả Nguyễn

Hữu Dũng đề cập trong bài viết của mình [36].

- Bài Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau 25 năm thực hiện

Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khóa VI) của tác giả Nguyễn Sinh Cúc [41] đã

đánh giá những thành tựu và hạn chế về sản xuất nông nghiệp và đời sống ở

nông thôn sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 10. Đây là những tư liệu quan trọng

để luận án đánh giá hiện trạng về phát triển nông nghiệp nông thôn trước khi có

chương trình xây dựng nông thôn mới.

Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả khác cũng cung cấp rất nhiều

thông tin có giá trị tham khảo cho đề tài luận án về thực trạng, các vấn đề đặt ra

cũng như các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề đó [39, 44].

31

Các bài viết nói trên mới chỉ đề cập đến từng mặt, từng góc cạnh của vấn

đề việc làm cho người lao động như cung cầu sức lao động, số lượng, chất lượng

sức lao động, chính sách sử dụng lao động, các biện pháp, cách thức giải quyết

việc làm cho người lao động ở Việt Nam. Nhìn chung, dưới các góc độ nghiên

cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu của các tác giả đã tiếp cận và làm rõ

được nhiều khía cạnh của tình hình việc làm, tình hình nguồn lao động, thị

trường lao động và việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, giải

quyết việc làm cho người lao động. Đây là những căn cứ khoa học quan trọng để

kế thừa và phát triển cho quá trình nghiên cứu thực hiện của luận án.

1.2. Khái quát những kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến đề

tài và những vấn đề đặt ra

1.2.1. Những kết quả được khẳng định về mặt khoa học, thực tiễn và

một số vấn đề chưa được đề cập đến

Các công trình nghiên cứu của nước ngoài đã nghiên cứu những vấn đề lý

luận và thực tiễn của tình trạng việc làm, thất nghiệp và các chính sách giải quyết

việc làm cho lao động nông thôn ở các quốc gia có đặc điểm về phát triển kinh tế

- xã hội tương đồng với Việt Nam, từ đó cung cấp những tiền đề khoa học quan

trọng làm cơ sở để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm cho lao

động nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.

Ở các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề lao động, việc làm

được các tác giả nêu tương đối đầy đủ từ những quan niệm cơ bản, đến định

hướng phát triển việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những quan

niệm, định hướng đó đã giúp cho tác giả luận án có nhiều cơ sở khoa học, lý

luận cũng như thực tiễn khi triển khai nghiên cứu vấn đề việc làm cho người lao

động nông nghiệp ở Hà Nội được thuận lợi hơn.

Về mặt lý luận, những nghiên cứu trên đã đưa ra quan niệm về giải quyết

việc làm cho lao động trong nền kinh tế thị trường với các chính sách về giáo

32

dục đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ của người lao động; các chính sách về

tín dụng nông thôn nhằm hỗ trợ cho người lao động nông thôn tự tạo việc làm,

ổn định thu nhập; chính sách đối với phụ nữ nông thôn không di cư ra đô thị để

đảm bảo nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của họ. Các công trình

khoa học, chuyên đề nghiên cứu, bài viết đều khẳng định vai trò quan trọng của

chính sách nhà nước trong việc nâng cao tính năng động, tự chủ của người lao

động nhằm tự giải quyết việc làm cho bản thân và gia đình trong đó, có tác động

rất lớn đến đời sống của người dân, đảm bảo thu nhập ổn định và ngày càng

tăng. Tác động của quá trình công nghiệp hóa gắn với đô thị hóa nông thôn là

một nguyên nhân thúc đẩy người lao động nông thôn tìm kiếm việc làm trong

các ngành nghề phi nông nghiệp, tạo ra thu nhập và cơ hội việc làm tốt hơn cho

lao động nông thôn. Từ đó, luận giải sự cần thiết khách quan, bản chất, hình

thức và một số đặc điểm quan trọng của lao động nông nghiệp, nông thôn đối

với phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn.

1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu

Từ những phân tích số liệu về thị trường lao động nông nghiệp và các chính sách tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn tại các quốc gia và tại Việt Nam, các tác giả đã đưa ra những khuyến nghị chính sách trong việc hình thành một thị trường tín dụng cho lao động nông nghiệp của Việt Nam; phát triển kinh tế - xã hội cho các khu vực nông thôn để giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ; thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nông thôn như là những động lực quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Tuy nhiên, có thể thấy chưa có một công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là trong điều kiện khu vực nghiên cứu là Thủ đô, nơi có nhiều đặc điểm đặc thù so với các địa phương khác. Các lý luận đều mang tính tổng

33

quát và chưa đề cập đến vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp gắn với những vấn đề mới nảy sinh do yêu cầu của quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Với các điều kiện đặc trưng như tốc độ xây dựng nông thôn mới nhanh, nguồn vốn thuận lợi, sức ép về việc làm lao động nông nghiệp lớn, đòi hỏi phải có một nghiên cứu riêng mới có thể giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Do vậy, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới và những đặc trưng riêng biệt của Thủ đô nhằm bổ sung lý luận về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong hoàn cảnh mới.

- Về lý luận: xây dựng khung lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tác động qua lại với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội. Làm rõ và phân tích đặc điểm của lao động nông nghiệp nói chung và lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Đánh giá những tác động của việc thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở thủ đô tới việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở các huyện của thủ đô Hà Nội.

- Về thực tiễn: Đánh giá tình hình thực trạng việc làm cho lao động nông nghiệp ở thủ đô Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2008 – 2013. Phân tích kết quả thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới tác động tới việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Qua đó, đề xuất phương hướng và giải pháp để giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội giai đoạn 2015 - 2020 định hướng 2030.

34

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG

NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

2.1. Cơ sở lý luận việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp

2.1.1. Khái niệm về việc làm

*Quan niệm về vấn đề việc làm của một số nước trên thế giới

- Các nhà kinh tế học Anh cho rằng: “việc làm, theo nghĩa rộng, là toàn

bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến

cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn

hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế”. Theo quan điểm này thì tất

cả những hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật

cho phép hay bị ngăn cấm, đều được gọi là việc làm. Quan điểm này chỉ đặt

nặng vấn đề kinh tế của việc làm, trong khi đó, tính pháp lý là một trong những

nguyên tắc cơ bản để xác định là việc làm thì chưa được đề cập đến.

- Các nhà kinh tế học của Liên Xô lại cho rằng: “Việc làm là khả năng

tham gia của người lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã

hội hoá sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của

các nông trang viên”. Quan điểm này đã coi cả các công việc như đang đi học,

đang tham gia các lực lượng vũ trang, làm các công việc nội trợ đều được coi là

việc làm. Cũng như quan điểm của các nhà kinh tế học Anh, quan điểm này chủ

yếu tập trung tính hữu ích của việc làm nói chung, coi các hoạt động hữu ích của

con người là việc làm, song tính pháp lý của việc làm lại không đề cập đến.

- Bộ luật “Việc làm của cư dân Liên bang Nga” xác định một hoạt động

được xem là việc làm như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả

mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không

bị luật pháp Liên bang Nga nghiêm cấm”. Quan điểm này cho thấy, đối với Nhà

35

nước Nga hiện nay, quan niệm về vấn đề việc làm được rộng mở trên tất cả các

hoạt động của con người, song nó phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản sau:

+ Hoạt động đó nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem

đến cho họ thu nhập.

+ Không bị luật pháp Liên bang Nga nghiêm cấm.

Do đó, những hoạt động trái với những quy định trên đều không được Nhà

nước Nga công nhận là việc làm. Với quan niệm như vậy, tất cả các hoạt động

nhằm mang lại lợi ích cho xã hội và cá nhân được nhà nước khuyến khích, bảo

vệ đều được xem là việc làm. Theo quan niệm này, việc làm bao gồm cả công

việc có mang lại thu nhập hoặc không mang lại thu nhập, miễn là hoạt động đó

không bị luật pháp ngăn cấm. Đây là một quan niệm rất phù hợp với điều kiện

phát triển của thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam.

- Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) quan niệm việc làm là một phạm trù

kinh tế, nó xác định hệ thống quan hệ giữa con người về việc đảm bảo cho họ

những chỗ làm việc và tham gia vào hoạt động sản xuất. Vì vậy, việc làm có thể

được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện

vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực

sản xuất. Khái niệm này đã được chính thức thông qua tại Hội nghị quốc tế của

ILO lần thứ 13 (1993) và đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên,

nếu xem tất cả các công việc được trả công (được nhận thù lao) là việc làm thì

sẽ dẫn đến sự thừa nhận các hoạt động bất hợp pháp (như các hoạt động tội

phạm buôn bán ma tuý, khủng bố...), các hoạt động vi phạm đạo đức xã hội (mại

dâm), truyền thống các dân tộc... cũng xem là việc làm. Hơn nữa, mỗi một quốc

gia có quan niệm khác nhau về việc làm phù hợp với điều kiện của quốc gia

mình. Có những hoạt động được quốc gia này xem là việc làm nhưng lại vi

phạm đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia khác, thì sẽ bị xem là phạm pháp, và

không coi đó là việc làm. Do vậy, khái niệm trên là một khái niệm có tính chung

36

nhất, nhằm tạo cơ sở để các quốc gia có thể vận dụng những thành tố phù hợp

cho từng điều kiện cụ thể đất nước mình.

* Quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam

- Theo quan niệm trong Đại từ điển kinh tế thị trường, “Việc làm là hành

vi của nhân viên, có năng lực lao động, thông qua hình thức nhất định kết hợp

với tư liệu sản xuất, để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh” [38, tr. 1073].

Với quan niệm này, việc làm được coi là quá trình hoạt động sản xuất của cải

vật chất, tinh thần cho xã hội. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay, để phát huy tốt các nguồn lực

xã hội, nhất là nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, với quan niệm trên, có rất nhiều hoạt động lao động của

người lao động sẽ không được xem là việc làm. Ví dụ như những hoạt động: bảo

đảm sự ổn định phát triển của xã hội, hỗ trợ cho những người thân tham gia trực

tiếp sản xuất, kinh doanh... để có thu nhập ổn định không được tính đến. Chính

những hoạt động đó đã tạo nên sự ổn định về các điều kiện cần thiết cho các

hoạt động sản xuất trực tiếp diễn ra suôn sẻ.

- Theo các tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung, “việc làm là

hoạt động lao động được thể hiện ở một trong 3 dạng sau: Làm các công việc để

nhận tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc bằng hiện vật cho công việc đó; Làm

các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân; Làm các công việc cho gia đình”

[37, tr. 52]. Với quan điểm này, vấn đề việc làm được quan niệm một cách rộng

rãi hơn. Ở đây ngoài những hoạt động mang lại thu nhập (như tiền công, tiền

lương, lợi nhuận), các công việc gia đình tuy không trực tiếp mang lại thu nhập

cũng được xem là việc làm. Song, quan điểm này vẫn còn chưa đề cập đến một

sổ hoạt động khác như hoạt động của các lực lượng vũ trang, của những thanh

niên tham gia nghĩa vụ quân sự. Theo chúng tôi, những công việc đó cũng phải

được xem là việc làm, vì, mặc dù không mang lại thu nhập nhưng đảm bảo an

ninh xã hội và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng môi trường hoà bình, ổn định cho đất

37

nước, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những hoạt động

mang lại lợi ích to lớn cho xã hội như vậy cần phải được xem là việc làm. Hơn

nữa, quan điểm này cũng không đề cập đến tính pháp lý của việc làm, tức hoạt

động mang lại thu nhập nhưng phải được luật pháp cho phép.

- Tác giả Bùi Anh Tuấn thì cho rằng, "Việc làm có thể được hiểu là phạm

trù để chỉ trạng thải phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất hoặc những

phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội" [2, tr. 8].

Cũng như các quan điểm vừa nêu, quan niệm này xem việc làm là một chỗ làm

việc cụ thể nào đó của quá trình lao động được diễn ra, nhằm phân biệt với tình

trạng thất nghiệp hoặc không làm việc. Quan niệm này đã nêu lên các đặc trưng

về việc làm như:

+ Là sự biểu hiện quan hệ của hai yếu tố là sức lao động kết hợp với tư

liệu sản xuất. Là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc

những phương tiện mà họ sử dụng để làm việc.

+ Lấy các lợi ích (vật chất và tinh thần) mà các hoạt động đem lại để xem

xét hoạt động đó có được coi là việc làm hay không.

- Quan điểm về việc làm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Đối với nước ta, quan niệm về việc làm đã được điều 13, Chương 2, Phần

Việc làm của Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội Khoá IX Nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 1994 nêu rõ như sau: "Mọi hoạt động

lao động tạo ra thu nhập, không bị luật pháp cấm đoán đều được thừa nhận là

việc làm" [48]. Hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm: làm

những công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật, những công

việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình

nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc đó. Vai trò

của nhà nước đối với vấn đề việc làm cũng được Điều 14 của Bộ Luật chỉ rõ:

“- Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay

38

vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người

có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân

thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho

nhiều người lao động.

- Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử

dụng lao động là người dân tộc thiểu số.

- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các

tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định

cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm

cho người lao động.”

Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, việc làm không chỉ tạo ra trong khu vực

nhà nước mà trong tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy người

lao động linh hoạt, chủ động trong tìm kiếm việc làm, không ỷ lại hoặc trông

chờ vào Nhà nước. Người có việc làm hiện nay bao gồm tất cả những người làm

việc trong các ngành kinh tế quốc dân, trong hệ thống các cơ quan Đảng, đoàn

thể, các tổ chức có hưởng thù lao dưới các hình thức thể hiện qua mức thu nhập

bằng tiền hoặc hiện vật, nhằm phục vụ nhu cầu cho bản thân và gia đình người

lao động. Quan điểm này cũng xác định những người làm việc trong các lực

lượng vũ trang chuyên nghiệp, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước cũng

được thừa nhận là có việc làm. Bên cạnh đó, theo quan niệm này, việc làm còn

bao hàm cả những người làm việc trong gia đình, tức là tự làm để thu lợi cho

bản thân và gia đình nhưng không được trả công cho các công việc đó.

2.1.2. Một số lý thuyết tạo việc làm * Lý thuyết tạo việc làm và thất nghiệp của các nhà khoa học trước Mác

- Adam Smith (1723-1790) là một trong những người đặt nền móng và

sáng lập ra khoa kinh tế chính trị và tạo dựng những cơ sở lý thuyết về giá trị lao

động, đặt lao động vào trung tâm kinh tế và những nghiên cứu của mình.

39

Trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các

dân tộc”, ông khẳng định rằng, hoạt động của con người, những khát vọng của

họ được xác định bởi quyền lợi riêng, lợi ích cá nhân của chính họ. Một trong

những nội dung trong học thuyết của ông là, soạn thảo lý thuyết giá trị lao động

và việc vận dụng nó vào phân tích kinh tế thị trường, mà trong đó ông chứng

minh rằng, nguồn gốc của mọi sự giàu có là lao động, và lao động tạo ra giá trị,

xác định không chỉ lương, mà cả lợi nhuận và lợi tức. Ông đã đặt nền móng cho

việc nghiên cứu về nguồn gốc của lợi nhuận và lợi tức của phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa. Ồng cho rằng, giá trị mà người công nhân cộng thêm vào giá

trị vật chất, được tách ra trong trường hợp này gồm 2 phần, một phần từ đó chi

trả cho lương người công nhân, phần kia tính vào lợi nhuận của doanh nghiệp,

tính vào toàn bộ số vốn mà nhà doanh nghiệp đã tạm ứng dưới dạng vật chất và

lương. Giới chủ sẽ không thuê những công nhân này, nếu họ tính toán thấy

không nhận được từ việc bán những sản phẩm do công nhân đó làm ra cao hơn

tổng số vốn mà họ bỏ ra. Lao động xác định không chỉ một phần vào lương, mà

cả trong một phần được tính vào lợi nhuận và lợi tức.

- Alfred Marshall (1842-1924) được cho là sáng lập trường phái tân cổ

điển. Trong tác phẩm nổi tiếng “Những nguyên tắc cơ bản của khoa kinh tế”

được công bố năm 1890, ông cho rằng, để đảm bảo việc làm thì vấn đề điều tiết

cung và cầu có ý nghĩa rất quan trọng, và điều tiết cuối cùng là cầu tiêu thụ, và

sự điều tiết này thị trường thực hiện tự động hoàn toàn.

Ông cũng cho rằng, cân bằng, đặc biệt trong lĩnh vực lao động không

thường xuyên có chỗ, và cùng với dòng thời gian, cung lao động ở trong bất kỳ

trường hợp nào ít nhiều thích nghi với cầu lao động, hơn nữa, tương thích giữa

cung và cầu thường bị rối loạn đột ngột. Ông cho rằng, tăng số lượng công nhân

sẽ dẫn đến giảm năng suất lao động tốỉ đa, và cũng chính là dẫn đến giảm lương.

Cách lập luận này chỉ đúng trong giới hạn một cá thể sản xuất với những điều

kiện khác không đổi, tức là chỉ đúng khi tất cả các thành tố của quá trình sản

xuất đều cố định, chỉ có đại lượng số lượng công nhân là thay đổi.

40

- Arthur Pigou (1877-1959) trong “Lý thuyết thất nghiệp” xuất bản 1933

cho rằng, nguyên nhân của thất nghiệp là mức lương cao, còn giảm lương sẽ

tăng được việc làm, bởi vì sẽ giảm được chi phí sản xuất và sẽ mở ra được khả

năng thuê mướn thêm lao động. Theo A.Pigou, giảm chi phí sản xuất sẽ dẫn đến

giảm chung được giá cả hàng hoá và tăng được sức mua, kích thích đầu tư phát

triển sản xuất, và tăng việc làm. Tác dụng từ cầu về lao động thực tế sẽ là yếu tố

xác định khối lượng việc làm. Từ đó ông kết luận rằng, trong môi trường cạnh

tranh hoàn toàn tự do giữa những người làm thuê và lao động hoàn toàn cơ

động, thì tính chất mối liên hệ giữa biểu giá lương thực tế mà người lao động đòi

hỏi và tác dụng của cầu về lao động sẽ rất đơn giản. Khuynh hướng cứng rắn tới

việc xác lập hệ số như thế giữa biểu giá lương và cầu để mọi người đều có việc

làm sẽ thường xuyên hoạt động

* Lý thuyết tạo việc làm và thất nghiệp của Chủ nghĩa Mác- Lênin

Vấn đề việc làm được C.Mác nghiên cứu ở tập 1, chương 23 trong tác

phẩm “Tư bản”. Ông cho rằng, cầu về lao động tăng lên cùng với sự gia tăng

đầu tư của tư bản, tăng đầu tư tư bản sẽ làm tăng năng suất lao động và sẽ dẫn

đến tăng lương. Song do tác động của quy luật giá trị thặng dư và cấu tạo hữu cơ

tư bản sự gia tăng đó bị chế định. Để thu được nhiều giá trị thặng dư, việc gia

tăng tư bản sẽ tập trung vào tư bản bất biến (c) nhiều hơn là tư bản khả biến (v).

Bởi vì nhà tư bản tăng đầu tư là nhằm gia tăng sản xuất nhiều giá trị thặng dư,

do đó, để tăng sản xuất giá trị thặng dư, phải cảỉ tiến kỹ đầu tư kỹ thuật- công

nghệ mới, làm cho đầu tư tư bản cố định tăng. Kết quả dẫn đến là, vốn lưu động

và cầu sức lao động giảm tương đối, số lượng việc làm tăng chậm hơn so với

toàn bộ tư bản của nền sản xuất xã hội. Ông cho rằng:

Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định,

mà do quy mô của bộ phận khả biến của tư bản quyết định, cho nên cùng

với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần

giảm bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỷ lệ với sự tăng thêm của tổng

41

tư bản, như chúng ta giả định trước đây. Lượng cầu về lao động giảm

xuống một cách tương đối so với đại lượng của tổng tư bản và giảm

xuống theo một cấp số ngày càng nhanh cùng với sự tăng lên của đại

lượng ấy. Thật ra, cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì phần khả biến

của nó, hay sức lao động kết hợp vào nó, cũng tăng lên, nhưng lại tăng lên

theo một tỷ lệ không ngừng giảm sút [4, tr. 886-887].

Nghiên cứu số nhân khẩu thừa trong phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa, ông đưa ra nhận định về dân số cho phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa. Ông cho rằng, trong khi giai cấp làm thuê tạo ra tích luỹ tư bản, và theo

chừng mực mà nó thành công trong công việc đó, thì giai cấp làm thuê chính

mình cũng tạo ra những công cụ để sa thải mình hay biến mình thành nhân khẩu

thừa tương đối, có nghĩa là những người thất nghiệp. Ông viết, “cùng với sự tích

luỹ tư bản do bản thân nó đẻ ra, nhân khẩu công nhân cũng sản xuất ra với một

quy mô ngày càng lớn những phương tiện làm cho họ trở thành nhân khẩu thừa

tương đối”. Dân cư dôi dư này có ý nghĩa rất quan trọng để phát triển sản xuất tư

bản chủ nghĩa, đảm bảo lao động thường xuyên cần thiết cho xã hội và cũng là

đòn bẩy quan trọng cho việc đẩy mạnh bóc lột, cùng tồn tại và không thể tránh

khỏi của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông viết:

Nhưng nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ,

hay của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại,

nhân khẩu thừa này lại trở thành một đòn bẩy của tích luỹ tư bản chủ

nghĩa và thậm chí còn là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản

chủ nghĩa nữa. Số nhân khẩu thừa đó tạo thành một đội quân công nghiệp

trù bị có sẵn, cũng hoàn toàn thuộc về tư bản một cách tuyệt đối, tựa hồ

như thể tư bản đã bỏ công của ra nuôi dưỡng nên đội quân công nghiệp

trù bị ấy. Đội quân công nghiệp trù bị này cung cấp cho những nhu cầu

hay thay đổi của việc làm tăng giá trị của tư bản một nguồn sức người bao

42

giờ cũng sẵn sàng có thể bóc lột được, và không phụ thuộc vào giới hạn

của số tăng nhân khẩu thực tế. [4, tr. 891]

Gắn với hình thức thừa nhân khẩu tương đối, ông cho rằng nhân khẩu

tương đối (thất nghiệp) luôn có 3 hình thức: lưu động, ngấm ngầm và ứ đọng.

Hình thức thứ nhất gồm những công nhân khi thì bị xô đẩy ra khỏi chỗ việc làm,

khi thì bị lôi kéo với số lượng tương đối lớn vào công việc trong cả khi số lượng

việc làm tăng lên. Hình thức thứ hai gồm những nhân khẩu thừa trong nông

nghiệp, nơi mà người lao động giống như người đang làm việc nhưng việc làm

không đầy đủ, khi có cơ hội họ chuyển vào các khu vực đô thị, hoặc tìm kiếm

các công việc khác. Hình thức thứ ba gồm những người làm việc không thường

xuyên, tức là thường không có việc làm trong một thời gian dài. Hình thức thất

nghiệp ứ đọng này tạo ra một tầng lớp vô sản lưu manh, những kẻ lang thang,

tội phạm, từ đó làm bất ổn xã hội.

* Lý thuyết tạo việc làm và thất nghiệp của một số nhà kinh tế học hiện đại

- Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của Keynes:

J.M.Keynes là người sáng lập ra lý thuyết việc làm và kinh tế tư bản có

sự điều tiết của Nhà nước, ông được đánh giá là là nhà kinh tế lỗi lạc nhất của

nhân loại thế kỷ XX.

Công trình “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" của ông xuất

bản năm 1936 [32] nghiên cứu đề cập đến vấn đề việc làm và xác định mức độ

việc làm được quy định bởi những nhân tố nào. Cơ sở lý thuyết việc làm của

J.M.Keynes được tổng hợp từ phân tích có phê phán và so sánh với lý thuyết

việc làm của trường phái tân cổ điển về cân bằng cung cầu. Ồng cho rằng, cầu

có hiệu quả kết hợp với việc làm đầy đủ là một trường hợp đặc biệt chỉ được

thực hiện nếu không ngừng tăng tiêu dùng và mong muốn đầu tư trong một tỷ lệ

nhất định.

Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa thu nhập, tiết kiệm, tiêu dùng đầu tư và

việc làm, ông cho rằng, quy mô tiết kiệm và đầu tư không tương thích với nhau,

43

không tạo ra được cân bằng, bởi vì chúng có dao động đáng kể của khối lượng

sản xuất chung và việc làm. Ông không đồng ý với quan điểm giảm lương để

tăng việc làm, theo ông, giảm lương sẽ dẫn đến giảm thu nhập, giảm sức mua và

thu hẹp thị trường tiêu thụ, từ đó không thúc đẩy phát triển sản xuất và việc làm

sẽ không tăng, ông nêu ra nguyên nhân của khủng hoảng và thất nghiệp là do

thiếu hụt hiệu quả của tập hợp cầu, ông khẳng định, cần thiết phải tăng quy mô

chung của tập hợp cầu. Thiếu hụt hiệu quả của tập hợp cầu sẽ dẫn đến sản xuất

sụt giảm, xuất hiện khủng hoảng và thất nghiệp.

Ông cũng chỉ ra rằng, việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng

thu nhập đòi hỏi phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế nhằm khuyến

khích đầu tư và giảm tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng

khủng hoảng và thất nghiệp. Mở rộng lượng cầu, nhà nước sẽ góp phần làm

giảm thất nghiệp. Đây là lần đầu tiên trong khoa học kinh tế ông đã chứng minh

và xác định được những phương hướng cơ bản của nền kinh tế thị trường, mà ý

nghĩa về sự can thiệp của nhà nước vào sự vận hành của nó đang được nhiều

nước áp dụng.

Nghiên cứu về tác động của lãi suất, J.M.Keynes khẳng định, lãi suất có

liên quan mật thiết đến đầu tư và việc làm. Ông lý giải, khi khối lượng tiền tệ

đưa vào lưu thông càng tăng thì lãi suất càng giảm, vì vậy, để kích thích đầu tư,

cần tìm biện pháp giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất có tác dụng kích thích đầu tư

và do đó sẽ mở rộng quy mô việc làm, hạn chế thất nghiệp. Ông khẳng định, lãi

suất cao là một trong những nguồn gốc quan trọng nhất dẫn đến thất nghiệp.

Nghiên cứu về thất nghiệp, ông nói đến 3 hình thức, bên cạnh 2 hình thức

thất nghiệp cấu trúc và thất nghiệp tự nguyện (tức là thất nghiệp do di chuyển từ

doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác và do khước từ mức lương không

hợp lý) được lý thuyết cổ điển đưa ra, ông cho rằng có hình thức thứ 3 tức là thất

nghiệp bắt buộc. Hình thức thất nghiệp bắt buộc này do tập hợp cung lao động

44

của những người lao động sẵn sàng chấp nhận mức lương hiện hành nhưng do

thu hẹp sản xuất nên không thể có được việc làm.

J.M.Keynes đặc biệt chú trọng xác lập mối quan hệ khối lượng đầu tư,

tiêu thụ và thu nhập quốc dân. Ông đã sử dụng khái niệm số nhân đầu tư để

chứng minh và xác định, tăng hoặc giảm đầu tư có thể đem lại tăng hoặc giảm

nhiều lần GDP. Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia

tăng thu nhập. Nó cho chúng ta biết rằng khi có thêm một lượng về đầu tư tổng

hợp, thì thu nhập sẽ tăng thêm một lượng bằng K lần mức gia tăng đầu tư.

Sự thay đổi giá trị đầu tư sẽ sinh ra phản ứng dây chuyền, làm tăng việc

làm ở các ngành được đầu tư, đồng thời tác động đến gia tăng đầu tư và gia tăng

việc làm ở các ngành khác. Theo Keynes, mỗi sự gia tăng đầu tư đều kéo theo sự

gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản xuất, do vậy, làm tăng

cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm

cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng

đầu tư mới. Như vậy, số nhân đầu tư có tác động dây chuyền, nó khuếch đại thu

nhập quốc dân lên. Quá trình đó là quá trình tăng đầu tư làm tăng thu nhập; tăng

thu nhập làm tăng đầu tư mới; tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới. Quá trình

số nhân làm phóng đại thu nhập lên.

Để tạo điều kiện tăng đầu tư và việc làm, J.M.Keynes đưa ra các biện

pháp sau:

- Thứ nhất, giảm lãi suất. Giảm lãi suất sẽ cho phép gia tăng tín dụng vào

sản xuất, làm tăng tuyệt đối khoản đầu tư.

- Thứ hai, xã hội hoá đầu tư, đầu tư đúng địa chỉ và cung cấp tín dụng

cho doanh nghiệp từ quỹ quốc gia, và nhà nước sẽ mua lại hàng hoá và dịch vụ

từ nó.

- Thứ ba, kích cầu tiêu dùng. Tìm kiếm biện pháp không ngừng tăng tiêu

dùng, tiêu dùng phải vượt trội so với mức đầu tư.

45

Từ những nghiên cứu trên cho thấy, theo J.M.Keynes, để tạo việc làm,

hạn chế thất nghiệp, cần gia tăng cầu tiêu dùng và đầu tư. Tăng cầu tiêu dùng và

đầu tư nhằm kích thích lượng tiền cất trữ đưa vào lưu thông, từ đó sẽ giúp mở

rộng quy mô nền kinh tế, làm tăng thu nhập. Và đến lượt nó, thu nhập tăng sẽ

làm gia tăng đầu tư, tăng việc làm và tăng tiêu dùng.

Tuy nhiên, mô hình J.M.Keynes có những vấn đề đáng quan tâm sau:

- Nó chỉ có khả năng đúng đối với các nước có nền kinh tế phát triển, cơ

cấu kinh tế hợp lý. Còn đối với các nước chậm phát triển, khó khăn cơ bản trong

việc tăng sản lượng và tạo công ăn, việc làm không phải là mức tổng cầu không

đủ cao, mà là do những hạn chế về mặt cơ cấu và thể chế đối với khâu cung ứng

vốn đầu tư. Hơn nữa do quy mô nhỏ bé của nền kinh tế ở các nước đang phát

triển, việc kích cầu tiêu dùng sẽ rất khó. Ngân sách quốc gia nghèo nàn, tiềm lực

kinh tế nhỏ bé, việc thực hiện vốn vay để phát triển rất khó khăn, trong khi đó

nếu nhà nước tăng cường in tiền để tiêu dùng sẽ làm cho giá cả và lạm phát gia

tăng triền miên.

- Trong kích cầu, nếu quá chú ý kích cầu khu vực thành thị sẽ làm gia tăng

dòng di chuyển nhân khẩu từ vùng nông thôn bỏ ra đô thị để kiếm sống, điều đó sẽ

gia tăng áp lực tìm kiếm việc làm cho khu vực thành thị. Như vậy, kích cầu để gia

tăng việc làm và giảm thất nghiệp ở thành thị không đạt mục tiêu đề ra.

- Lý thuyết đường cong Philip của Philip:

Vào những năm 1970, nền kinh tế thế giới xuất hiện lạm phát cao, và trở

thành nhân tố thường xuyên trong nền kinh tế các nước đang phát triển. Nghiên

cứu sự phụ thuộc giữa lạm phát và thất nghiệp, giáo sư Philip (người Anh) đã

đưa ra phát hiện về mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa tốc độ lạm phát và mức độ

thất nghiệp. Ông giới thiệu sự phụ thuộc này dưới dạng gọi là “vòng cung đơn

giản” và sau này nó được điều chỉnh và đặt tên là “đường cong Philip”.

Lý thuyết đường cong Philip cho rằng, mức độ lạm phát càng cao thì mức

độ thất nghiệp càng thấp và ngược lại, việc làm đầy đủ không thể có nếu thiếu

thất nghiệp. Song thực tế phát triển kinh tế thời gian quan nhất là trong cuộc đại

46

khủng hoảng đang diễn ra từ 2008 đến nay cho thấy lạm phát sẽ kéo theo tăng

chi phí sản xuất, tăng chi phí sẽ dẫn đến tăng giá thành, giảm khối lượng thực tế

GDP và tăng thất nghiệp.

Khi nghiên cứu về mối quan tương quan giữa thất nghiệp và lạm phát theo

lý thuyết đường cong Philip trong nền kinh tế nước Nga thời kỳ chuyển đổi

những năm sau 1991, các nhà kinh tế Nga phát hiện ra rằng nó không phải như

vậy. Ở Nga thất nghiệp tăng lên cùng với gia tăng của lạm phát, kìm chế lạm

phát đã giúp cho nền kinh tế Nga kìm chế được nạn thất nghiệp. Một vấn đề

quan tâm là, trong lý thuyết đường cong Philip, ông không đánh giá giữa lạm

phát và thất nghiệp cái nào đáng lo hơn? Nhiều nhà khoa học cho rằng, thất

nghiệp là vấn đề đáng lo ngại hơn cả. Chấp nhận lạm phát mà giảm được thất

nghiệp sẽ tốt hơn cho nền kinh tế. Và nhiều nhà khoa học cũng cho rằng, mối

quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp chỉ có thể đúng trong thời kỳ

ngắn hạn, và rất ít xảy ra trong thời gian dài.

- Lý thuyết nhị nguyên của W.Arthur Lewis:

W.Arthur Lewis, nhà kinh tế được giải thưởng Nobel 1979, đã đưa ra mô

hình kinh tế nhị nguyên. Sau đó được các nhà kinh tế học John Fei và Gustar

Ranis áp dụng phân tích quá trình tăng trưởng ở các nước đang phát triển. Tư

tưởng cơ bản của mô hình này là chuyển số lao động dư thừa từ các ngành

truyền thống sang các ngành hiện đại do hệ thống tư bản nước ngoài đầu tư vào

các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho các nước lạc hậu phát triển

kinh tế nước mình. Bởi vì trong nền kinh tế truyền thống đất đai vốn chật hẹp,

lao động dư thừa, số lao động dôi dư này không có công ăn việc làm. Nói cách

khác, họ không có tiền lương và thu nhập. Vì vậy khi có một mức lương cao hơn

trong khu vực này thì các nhà đầu tư sẽ có ngay nguồn lao động vô hạn từ nông

nghiệp chuyển sang. Do chỉ trả lương theo năng suất cận biên nên phần còn lại

sẽ thuộc về các nhà đầu tư, từ đó các nhà đầu tư sẽ thu hồi vốn nhanh, có lợi

nhuận và tiếp tục tái sản xuất mở rộng.

47

Theo họ, việc chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp có hai

tác dụng:

+ Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi nông nghiệp, chỉ để lại một số lao

động đủ tạo ra sản lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo đầu người

đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp.

+ Hai là, việc di chuyển này sẽ tạo điều kiện làm tăng lợi nhuận trong

lĩnh vực công nghiệp, đẩy mạnh sức tăng trưởng kinh tế nói chung.

Như vậy, theo lý thuyết này, các nước đang phát triển có thể đạt sự tăng

trưởng khi tập trung vào phát triển khu vực kinh tế hiện đại, kinh tế công nghiệp

mà không cần quan tâm đến khu vực kinh tế truyền thống.Và nhịp độ tăng

trưởng của khu vực hiện đại cũng quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế

nói chung.

Lý thuyết nhị nguyên của Lewis được nhiều nhà kinh tế nổi tiếng khác

(như G.Ranis, J.Fei, Harris) tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận cứ của họ

xuất phát từ khả năng phát triển và tiếp nhận lao động của khu vực công nghiệp

hiện đại. Khu vực này có nhiều khả năng lựa chọn công nghệ sản xuất, trong đó

có công nghệ sử dụng nhiều lao động nên về nguyên tắc, có thể thu hút hết

lượng lao động dư thừa của khu vực nông nghiệp. Nhưng việc di chuyển lao

động được giả định là do chênh lệch về thu nhập giữa lao động của hai khu vực

kinh tế trên quyết định (các tác giả giả định rằng thu nhập của lao động công

nghiệp tối thiểu cao hơn 30% so với lao động trong khu vực nông nghiệp). Như

vậy, khu vực công nghiệp chỉ có thể thu hút lao động nông nghiệp khi có sự dư

thừa lao động nông nghiệp và chênh lệch tiền công giữa hai khu vực đủ lớn.

Nhưng khi nguồn lao động nông nghiệp dư thừa ngày càng cạn dần thì khả năng

duy trì sự chênh lệch về tiền lương này sẽ ngày một khó khăn. Đến khi đó, việc

tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản

lượng nông nghiệp và làm cho giá cả nông sản tăng lên, và kéo theo đó là mức

tăng tiền công tương ứng trong khu vực công nghiệp. Sự tăng lương của khu vực

48

công nghiệp này đặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm đối với lao động của khu

vực này. Như thế, về mặt kỹ thuật, mặc dù khu vực công nghiệp có thể thu hút

không hạn chế lượng lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang

nhưng xét về mặt thu nhập và độ co giãn cung cầu, thì khả năng tiếp nhận lao

động từ khu vực nông nghiệp của khu vực công nghiệp là có hạn.

- Lý thuyết di chuyển lao động của Todaro:

Một hướng phân tích khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên của w. Arthur

Lewis là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn (khu vực nông

nghiệp) ra thành thị (khu vực công nghiệp) mà Todaro là một điển hình. Quá

trình dịch chuyển lao động chỉ diễn ra suôn sẻ khi tổng cung về lao động từ

nông nghiệp phù hợp với tổng cầu ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển lao

động này không những phụ thuộc vào chênh lệch thu nhập mà còn dựa vào xác

suất tìm được việc làm đối với lao động nông nghiệp.

Lý thuyết của Todaro nghiên cứu sự di chuyển lao động trên cơ sở thực

hiện điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Theo

ông, những người lao động ở khu vực nông thôn có thu nhập trung bình thấp.

Họ lựa chọn quyết định di chuyển lao động từ vùng có thu nhập thấp sang khu

vực thành thị có thu nhập cao hơn. Như vậy, quá trình di chuyển lao động mang

tính tự phát, phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân. Điều này

làm cho cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn định, gây khó khăn cho

chính phủ trong việc quản lý lao động và nhân khẩu.

Mô hình này cho thấy ở các nước nông nghiệp muốn đẩy mạnh tăng

trưởng cần phải tập trung vào việc phát triển, trước hết là ngành nông nghiệp và

kinh tế nông thôn, để tạo ra thị trường cho công nghiệp và dịch vụ phát triển.

Điều này càng có ý nghĩa trong thời kỳ hiện nay khi cuộc khủng hoảng kinh tế

toàn cầu đang làm cho tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chậm lại, nhiều ngành

kinh tế hầu như không phát triển. Do đó, một trong các biện pháp thoát ra khủng

49

hoảng kinh tế ở các nước này là quan tâm hơn nữa cho việc phát triển nông

nghiệp và kinh tế nông thôn của mình.

- Lý thuyết tạo việc làm trong sản xuất nông nghiệp của Harry Toshima:

Khi áp dụng mô hình tăng trưởng vào khu vực các nước Châu Á gió mùa

thì Toshima cho rằng mô hình cùa Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình hình

dư thừa lao động trong nông nghiệp Châu Á gió mùa, bởi vì nền nông nghiệp

lúa nước vẫn thiếu lao động trong mùa vụ và thừa lao động trong lúc nông nhàn.

Từ đó ông đưa ra mô hình tăng trưởng mới. Vì vậy, ông cho rằng cần giữ lại lao

động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn rỗi bằng

cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi... Đồng thời, sử dụng lao động

nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều lao

động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm đầy đủ cho mọi thành viên gia

đình nông dân trong những tháng nhàn rồi sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm

của họ và sẽ mở rộng được thị trường trong nước cho các ngành công nghiệp và

dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết.

Từ đó ông cho rằng, sự phát triển phải bắt đầu từ nông nghiệp. Phải tạo ra

công ăn việc làm cho nông dân trong lúc nông nhàn bằng cách phát triển các

ngành nghề trong kinh tế nông thôn. Có như vậy mới nâng cao được thu nhập

của nông dân và mở rộng được thị trường nội địa cho các ngành công nghiệp,

dịch vụ phát triển. Nhờ đó lao động dư thừa trong nông nghiệp mới được sử

dụng hết.

Khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản xuất vật

chất quan trọng nhất của nền kinh tế các nước đang phát triển, các lý thuyết nhị

nguyên đã đi từ việc cho rằng chỉ cần tập trung vào phát triển công nghiệp mà

không quan tâm đến sự phát triển của khu vực nông nghiệp đến việc chỉ ra

những giới hạn của việc này và như vậy, khu vực nông nghiệp cũng cần được

quan tâm thích đáng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Tóm lại, vấn đề việc làm, thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường là một

trong những vấn đề luôn được nhiều người quan tâm. Những trường phái lý

50

thuyết, những quan điểm khác nhau của các nhà khoa học trong những thời kỳ

lịch sử nhất định đều có những giá trị khoa học và chuẩn mực riêng. Và đến nay,

vấn đề việc làm, thất nghiệp tiếp tục là vấn đề được các nhà khoa học, các nhà

hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.

2.1.3. Việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng

nông thôn mới

* Lý luận về việc làm, việc làm cho lao động nông nghiệp Việc làm, trước tiên là hoạt động lao động của con người, đó là sự kết hợp

giữa sức lao động với tư liệu sản xuất theo những điều kiện phù hợp nhất định,

nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích con người. Hoạt

động lao động đó không bị luật pháp ngăn cấm

Việc làm liên quan đến những điểm cơ bản như sau:

- Thứ nhất, là hoạt động lao động của con người. Đây là hoạt động có

mục đích của con người, con người dùng sức lực cơ bắp và thần kinh tác động

vào đối tượng lao động, cải biến nó phù hợp với nhu cầu của chính mình.

- Thứ hai, để có việc làm đòi hỏi phải có tư liệu sản xuất và sức lao động.

Với ý nghĩa này, để người lao động có việc làm đòi hỏi phải đầu tư phát

triển sản xuất, phải tạo ra một số lượng tư liệu sản xuất có khả năng đáp ứng yêu

cầu của người lao động. Đồng thời, phải thường xuyên chăm lo nâng cao chất

lượng, số lượng sức lao động, để có thể sử dụng hiệu quả tư liệu sản xuất có

được.

- Thứ ba, trình độ của tư liệu sản xuất phải phù hợp với trình độ và năng

lực lao động của người lao động. Hay nói cách khác, để sức lao động có thể kết

hợp được với tư liệu sản xuất, thì người lao động phải có một trình độ chuyên

môn kỹ thuật phù hợp để sử dụng tư liệu sản xuất đó.

- Thứ tư, sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất phải tạo ra một

loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhất định nào đó. Sản phẩm hàng hóa, dịch vụ

đó phù hợp với lợi ích của con người.

51

- Thứ năm, sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động đó không bị

luật pháp ngăn cấm. Ở đây xác định rõ tính pháp lý của việc làm. Tính hợp pháp

đó cho phép người lao động được tự do lựa chọn việc làm cho mình trong khuôn

khổ pháp luật quy định. Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh,

liên kết, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ pháp luật và sự hướng dẫn

của Nhà nước để có thể tự tạo việc làm cho mình. Tại khoản 1 Điều 16 Bộ luật

Lao động cũng nêu rõ:

“Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động

nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. Người cần tìm việc làm có

quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc làm

để tìm việc tuỳ theo nguyện vọng, khả năng trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ

của mình”.

Là lao động tạo ra thu nhập và không bị Nhà nước ngăn cấm, được thể

hiện ở một trong các dạng cụ thể như sau:

+ Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc

hiện vật cho công việc đó;

+Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất

nông nghiệp trên đất do mình là chủ sử dụng, hoạt động kinh tế ngoài nông

nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần;

+ Làm các công việc cho gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình

thức tiền công, tiền lương cho công việc đó. Tức là các hoạt động mang lại lợi

nhà, ích nước.

+ Làm những công việc không được trả công (hoặc lương) nhưng mang

lại sự ổn định chính trị, xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và phát

triển đất nước diễn ra thuận lợi hơn.

Các điều kiện trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên các

điều kiện xác định là việc làm. Nếu một hoạt động nào đó, tuy có mang lại thu

nhập, mang lại lợi ích cho một người nào đó mà bị luật pháp ngăn cấm thì không

thể xác định là việc làm.

52

* Lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới

Người lao động

Điều 6, Bộ Luật Lao động của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam (đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5, thông qua ngày 23 tháng 6 năm

1994), quy định: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao

động và có giao kết hợp đồng lao động”. Như vậy, người lao động là những

người phải đủ 15 tuổi trở lên, là những người có sức khoẻ, có khả năng dùng sức

lao động của mình để tham gia các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần cho

xã hội. Với mức xác định biên độ tuổi như trên cho thấy, dân số trong độ tuổi

lao động kể cả những người nghỉ hưu nhưng còn khả năng lao động cũng được

xác định là người lao động. Điều này cho phép chúng ta có thể tận dụng và phát

huy tối đa nguồn nhân lực phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Tuy nhiên luật cũng không quy định rõ những người có khả năng lao động

nhưng bị phạt tù có phải là người lao động hay không. Theo tác giả Luận án,

những người tuy có khả năng lao động, nhưng bị phạt tù thì không thể xác định

là người lao động. Bởi vì để có thể tự do tìm kiếm việc làm trên thị trường lao

động hoặc tự tạo việc làm cho bản thân và gia đình, người đó phải là người tự do

về thân thể, để có thể tự quyết định và chịu trách nhiệm của mình trước những

công việc mà mình đảm nhận. Bên cạnh đó, luật cũng cho rằng, người lao động

là người có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Với quan niệm

này thì những người làm việc cho riêng mình, những công việc gia đình, không

có giao kết hợp đồng lao động không được Bộ luật xem xét đến có phải là người

lao động hay không. Theo tác giả Luận án, quan điểm như vậy là chưa xem xét

đến một lực lượng rất lớn những người làm việc cho riêng mình, như làm việc ở

lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn, làm những công việc do mình làm

chủ, không cần phải giao kèo hợp đồng với người khác. Trong điều kiện phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, loại hình kinh tế

cá thể, tiểu chủ (tư nhân) chiếm một vị trí rất quan trọng. Với tính chất cơ động,

nhạy bén, không cần đòi hỏi nguồn vốn lớn, loại hình kinh tế này đã cho thấy là

53

một bộ phận đóng góp hiệu quả cho việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm,

cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhiều người.

Từ những phân tích trên, tác giả Luận án cho rằng: người lao động là

người đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và được tự do về thân thể. Với

quan niệm này, tác giả Luận án xác định người lao động là những người có

những điều kiện sau:

- Đủ 15 tuổi trở lên.

- Có khả năng lao động để có thể làm việc ở bất cứ lĩnh vực nào của xã

hội khi cần đến, kể cả làm việc cho chính bản thân và gia đình mình.

- Phải là người tự do, không bị luật pháp phạt tù hoặc truy nã.

Việc làm cho người lao động

Việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động có một ý nghĩa vô

cùng to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế, bởi vì sự phát triển kinh tế

phụ thuộc vào vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn

nhân lực và nguồn vốn, trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trò quan

trọng và quyết định sự phát triển đó.

Luận án cho rằng, việc làm cho người lao động là tạo ra những chỗ làm

việc, tạo ra những tiền đề, điều kiện để người lao động có thể sử dụng sức

lao động cơ bắp và trí tuệ của mình tác động vào đối tượng lao động, nhằm

tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân, gia đình và phát triển xã hội. Đó là

tạo ra tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện cần

thiết để kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, kết hợp sức lao động với các

công việc người lao động sẽ thực hiện, đó cũng chính là tạo các điều kiện để

khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó quan trọng nhất là

nguồn lực con người. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo việc

làm cho người lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: nhà nước và xã

hội, tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì

người lao động không thể tạo ra thu nhập, dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ,

không cống hiến được sức lực của mình, cản trở sự phát triển của kinh tế.

54

Người có việc làm và thất nghiệp

 Người có việc làm.

Quan niệm người có việc làm được Nhà nước ta xác định tại các cuộc

điều tra về lao động- việc làm ở Việt Nam hàng năm, là những người trong lực

lượng lao động mà trong tuần lễ trước điều tra biểu hiện ở các tình trạng sau:

“- Đang làm công việc nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng

tiền hay hiện vật.

- Đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi

nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình.

- Đã có công việc trước đó, song trong tuần lễ trước điều tra tạm thời

không làm việc và sẽ trở lại làm việc ngay sau thời gian tạm nghỉ việc”.

 Thất nghiệp và các phạm trù liên quan.

- Thất nghiệp.

Thất nghiệp là một biểu hiện kinh tế xã hội khi mà con người có khả năng

làm việc, muốn làm việc mà không thể tìm được việc làm. Đó là hiện tượng tồn

tại khi một số người trong độ tuổi lao động mong muốn và có khả năng làm

việc, rất tích cực tìm kiếm nhưng không tìm được việc làm vì lý do không có

chỗ làm việc hoặc trình độ chuyên môn không phù hợp.

Tổ chức Lao động quôc tế (ILO) cho rằng, thất nghiệp là tình trạng tồn tại

khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm

được việc làm ở mức tiền công thịnh hành. Và để xác định số những người thất

nghiệp, tổ chức này đưa ra những tiêu chí cụ thể, họ cho rằng, xét trong một

khoảng thời gian nhất định, những người thất nghiệp là những người đang ở

trong các tình trạng sau: 1) không có việc làm; 2) có khả năng làm việc; 3) tích

cực tìm việc làm.

Theo các quan niệm này thì thất nghiệp là tình trạng người lao động có

nguyện vọng tìm việc làm nhưng không có vị trí việc làm. Phần lớn các nước

trên thế giới sử dụng quan niệm của Tổ chức lao động quốc tể (ILO) để xác định

người thất nghiệp, nhưng mỗi nước xác định khoảng thời gian thất nghiệp có

55

khác nhau. Ở Thái Lan quy định, trong các cuộc điều tra xác định người thất

nghiệp là những người không có việc làm 7 ngày trước lúc điều tra; ở Úc cho

rằng, người thất nghiệp là những người không có việc làm trong tuần lễ điều tra

và đã chủ động tìm việc làm cả ngày hoặc nửa ngày tại bất kỳ thời điểm nào

trong 4 tuần, bao gồm cả tuần điều tra và sẵn sàng làm việc khi có việc làm...

Việc phân loại thất nghiệp là một yếu tố rất quan trọng để xác định tính

chất thất nghiệp, nhằm làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách chống thất

nghiệp. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đã phân thất nghiệp thành 3 loại:

1) Thất nghiệp do mức cầu lao động không đủ; 2) Thất nghiệp do thiếu thiết bị

hoặc thiếu những nguồn lực bổ sung; 3) Thất nghiệp do cung và cầu lao động

không ăn khớp với nhau. Sự phân loại này đến nay cho thấy, xét trên nhiều khía

cạnh, mặc dù đúng nhưng không chính xác hoàn toàn, nhất là đối với những

quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế như nước ta.

- Người thất nghiệp.

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng:

“Người thất nghiệp đó là những người, có thể và muốn làm việc, chủ

động và tích cực đi tìm kiếm việc làm, nhưng không thể tổ chức được lao động

vì không có chỗ làm việc trống hoặc là vì nghề nghiệp không phù hợp”

Ở Mỹ, người thất nghiệp là người lao động có khả năng làm việc, mong

muốn tìm được việc làm trong vòng 4 tuần đã qua, có đăng ký tìm việc làm ở

các trung tâm dịch vụ việc làm hoặc liên hệ trực tiếp với người lao động nhưng

không có việc làm trong tuần thực hiện điều tra tình trạng thất nghiệp. Ở Liên

bang Đức thì cho rằng, người thất nghiệp là người lao động tạm thời không có

quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện những công việc ngắn hạn. Ở Thái Lan,

người thất nghiệp là người lao động muốn làm việc, có khả năng làm việc nhưng

không có việc làm. Nhật Bản thì cho rằng, người thất nghiệp là người không có

việc làm trong tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm kiếm

việc làm hoặc chờ kết quả xin việc làm.

56

Nhìn chung, trên cơ sở quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO),

mỗi nước có một quan niệm khác nhau về người thất nghiệp phù hợp với điều

kiện của quốc gia mình.

Song, để quan niệm người thất nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế ở

Việt Nam hiện nay, theo luận án, người thất nghiệp là những người lao động

trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang ở trong tình trạng

không có việc làm và đang đi tìm việc làm, đồng thời sẵn sàng đi làm ngay

nếu được chấp nhận. Với quan niệm này, người thất nghiệp có thể là những

công nhân trong các doanh nghiệp, học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường

chuyên nghiệp, bộ đội xuất ngũ nhưng chưa có việc làm. Những người trong độ

tuổi lao động, hoặc ngoài độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không

có nhu cầu tìm việc làm thì không được coi là người thất nghiệp. Ví dụ như:

những người ốm đau, nghỉ tạm thời vì tai nạn, nghỉ phép, nhưng học sinh, sinh

viên đang học ở các trường học, những người nội trợ... không phải là những

người thất nghiệp. Tóm lại, những người lao động có khả năng lao động, mặc dù

trong tình trạng không có việc làm nhưng không có nhu cầu tìm việc làm thì

không phải là người thất nghiệp.

- Các hình thức thất nghiệp. Có rất nhiều hình thức thất nghiệp, song đáng

quan tâm là một số hình thức sau:

+ Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp gắn với sự thay đổi cơ cấu sản xuất,

nó xuất hiện do nhu cầu biến đổi thường xuyên của các loại hàng hoá dịch vụ

khác nhau. Thất nghiệp cơ cấu là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế, nó

xuất hiện trong ngắn hạn do thường xuyên có sự thay đổi kỹ thuật, công nghệ

theo hướng hiện đại trong sản xuất.

+ Thất nghiệp tạm thời: là tình trạng người lao động không làm việc do

mình từ chối công việc ở một doanh nghiệp này để tìm một công việc ở doanh

nghiệp khác hấp dẫn hơn, hoặc do sắp xếp lại hoạt động, tinh giản biên chế

57

trong một bộ máy, hoặc bị sa thải. Đây là dạng thất nghiệp gồm vừa mang tính

tự nguyện, vừa mang tính bắt buộc.

Thất nghiệp tạm thời khác với thất nghiệp cơ cấu ở chỗ, việc tìm kiếm

việc làm của thất nghiệp tạm thời về cơ bản diễn ra theo chuyên môn, kỹ năng,

kỹ xảo sẵn có, còn thất nghiệp cơ cấu thường đòi hỏi phải đào tạo lại và như vậy

phải cần một khoảng thời gian nhất định. Thất nghiệp tạm thời chỉ diễn ra trong

thời gian ngắn, thời gian chờ đợi để đến chỗ làm việc mới.

+ Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn với sự sút giảm trong chu kỳ tái

sản xuất, tức là gắn với giai đoạn khủng hoảng, dẫn đến giảm cầu về chỗ làm

việc, làm cho số lượng chỗ làm việc sẵn có ít hơn số người mong muốn làm

việc.

+ Thất nghiệp tồn đọng: là tình trạng người có việc làm không thường

xuyên, hoặc không có việc làm trong một thời gian dài, phải tồn đọng kéo dài

dồn từ năm này sang năm khác.

- Người thiếu việc làm. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người

thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức

quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.

Ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu

việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 ngày công) trong tuần lễ tham khảo hoặc

trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần

trước đó làm việc dưới 160 giờ (20 ngày công) và có nhu cầu làm thêm.

- Người đủ việc làm, Là những người có việc làm với thời gian làm việc

không ít hơn mức giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham

khảo. Mức chuẩn: làm việc 40 giờ trở lên trong tuần lễ tham khảo.

Sự xác định tiêu thức thất nghiệp và thiếu việc làm chi có tính tương đối,

vì đối với khu vực nông thôn, việc làm hiện nay buộc phải dàn trải ra cho nhiều

người nên hiệu quả việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thời gian lao động được

sử dụng rất thấp. Xác định người có việc làm và người thất nghiệp là cơ sở để

58

xác định các chính sách chống thất nghiệp và tạo việc làm. Nếu như không xác

định được một cách tương đối chính xác những chỉ số này trong quá trình điều

tra sẽ là thiếu sót trong việc xây dựng những luận cứ của các chính sách phát

triển kinh tế- xã hội, làm cho các chính sách đó thiếu tính thực tiễn, khả năng

thành công và hiệu quả thấp.

Lực lượng lao động

Lực lượng lao động là toàn bộ những năng lực từ sức khoẻ cơ bắp đến

kiến thức, năng lực trí tuệ của tổng thể các thành viên xã hội có khả năng và có

mong muốn lao động. Nó bao gồm những người trong độ tuổi lao động và ngoài

độ tuổi lao động có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm

việc.

Theo Từ điển ngữ pháp tiếng Việt, lực lượng lao động là số lượng và chất

lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả

năng lao động có thể được sử dụng. Trên thực tế tuổi của lực lượng lao động ở

các nước cũng có những quy định khác nhau, độ tuổi giới hạn này do luật pháp

của mỗi quốc gia quy định dựa trên những điều kiện kinh tế- xã hội, trình độ

phát triển của quốc gia đó. Ví dụ như: ở Anh, Mỹ, Nga độ tuổi tối thiểu của lực

lượng lao động là 16, còn ở Pháp, Nhật, Canađa quy định độ tuổi tối thiểu là 15;

độ tuổi tối đa của của lực lượng lao động ở Ba Lan là 74, hoặc như ở Ma-lai-xi-

a, Mê-xi-cô thì tuổi tối đa là 65... Nhưng nhìn chung phổ biến nhất về độ tuổi

lao động trên thế giới là đủ 15 đến 60 tuổi, trong đó có Việt Nam.

2.2. Mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp với quá

trình xây dựng nông thôn mới

2.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng nguồn lao động nông

nghiệp

- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố có ảnh

hưởng rất lớn đến việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, thông

qua đó nó tác động đến nguồn lao động và ổn định việc làm cho người lao động.

59

Thực tế cho thấy, ở đâu có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi, có

đời sống vật chất, tinh thần khá giả thì ở đó các ngành sản xuất vật chất phát

triển, dân số, lao động tập trung nhiều hơn. Vì vậy điều kiện tự nhiên và tài

nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng nguồn lao động nông

nghiệp, nông thôn.

- Tình hình phân bố dân cư và mật độ dân số.

Ở nước nào cũng vậy, sự phân bố dân cư và mật độ dân số của từng vùng

từng địa phương ảnh hưởng rất lớn đến số lượng cũng như chất lượng nguồn lao

động. Ở nơi có mật độ dân số quá thấp sẽ hạn chế sự phân công lao động xã hội,

giảm khả năng chuyên môn hoá và hiên đại hoá trong tổ chức sản xuất xã hội.

Thiếu lao động, mọi quá trình phát triển sẽ mất đi cả động lực và mục đích của

nó. Ở nơi mật độ dân số quá cao, số lượng dân số gia tăng lớn, điều đó dẫn đến

sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất, gây ra những trở ngại cho việc

sử dụng hợp lý các nguồn lực của đất nước; vì vậy, mỗi quốc gia trong quá trình

phát triển đều cần phải có sự điều chỉnh, phân bố lại mật độ dân số, nhằm tạo ra

một sự phù hợp giữa số lượng lao động với tư liệu sản xuất ở từng vùng, trong

từng thời kỳ nhất định.

- Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch

vụ, nhưng phần lớn lao động ở nông thôn là làm nông nghiệp. Trong nông

nghiệp có hai tiểu ngành là trồng trọt và chăn nuôi.

Mỗi một ngành, tiểu ngành đều có những đặc thù nhất định, đòi hỏi những

điều kiện khác nhau về nguồn lao động. Ở nước ta cơ cấu kinh tế theo từng vùng

được phân bố rõ rệt; ở những vùng có cơ cấu kinh tế phát triển như vùng Đông

Nam Bộ, vùng trọng điểm kinh tế phía Nam có khả năng thu hút nhiều lao động.

Ở các vùng khác như: Duyên hải miền Trung, Tây nguyên, đồng bằng Sông

Hồng...mỗi vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau, phù hợp với từng loại cây,

con khác nhau nên lực lượng lao động được thu hút và sản xuất trong các ngành

cũng khác nhau.

60

Thực tế đó cho thấy, nơi nào có khả năng phát triển mạnh, có cơ cấu kinh

tế chuyển dịch theo hướng tích cực từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp-công nghiệp-

dịch vụ chuyển dần thành cơ cấu kinh tế công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp tiến

tới cơ cấu kinh tế dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp, thì nơi đó có lực lượng lao

động tập trung nhiều.

- Bên cạnh những nhân tố đó, quá trình du canh, du cư, di dân phát triển

vùng kinh tế mới cũng như việc quy hoạch xây dựng đô thị, thị trấn, thị tứ, xây

dựng nông thôn mới cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn lao động nông

nghiệp, nông thôn.

2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động nông

nghiệp

- Sức khoẻ và đời sống: Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông

thôn phụ thuộc trước hết vào chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống được

đảm bảo thì yếu tố sức khoẻ và yếu tố văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ của

người lao động có điều kiện phát triển; sự nhận thức của người lao động về công

ăn việc làm, tinh thần, ý thức trách nhiệm cũng được được nâng lên. Điều này sẽ

tạo tiền đề cho người lao động có việc làm và làm việc có năng suất cao, chất

lượng, hiệu quả hơn [63].

- Trang bị tư liệu lao động và điều kiện sản xuất. Trong mọi nền sản xuất

xã hội, trang bị tư liệu lao động và điều kiện sản xuất luôn ảnh hưởng sâu sắc

đến chất lượng lao động. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển không

chỉ làm thay đổi các bộ phận của tư liệu lao động theo hướng tinh vi, hiện đại

mà còn đặt ra những yêu cầu mới đối với sức lao động, đòi hỏi người lao động

phải nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, chuyên môn nghiệp vụ của mình một

cách tương xứng.

Đối với nước ta, điều kiện sản xuất còn ở trình độ thấp, công cụ lao động

phần lớn là thủ công, lạc hậu, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn

chậm... Nên vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nói chung và trong

61

nông nghiệp, nông thôn nói riêng càng trở nên cấp thiết, đòi hỏi phải được

nghiên cứu và xem xét một cách toàn diện.

- Đào tạo và tập huấn tay nghề. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh

tranh luôn diễn ra gay gắt. Để chiến thắng trong cạnh tranh, buộc chúng ta phải

thường xuyên đổi mới máy móc, thiết bị, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ

thuật tiên tiến, đổi mới thiết kế sản phẩm....Điều này đã đặt ra những yêu cầu

mới đối với việc đào tạo và tập huấn tay nghề cho người lao động.

Đào tạo ở đây không chỉ là đào tạo mới mà còn bao gồm cả đào tạo lại, bổ

sung kiến thức và nâng cao tay nghề. Đào tạo không chỉ nhằm vào đội ngũ trí

thức mà còn phải đào tạo những người lao động bình thường nhất.

Đó chính là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng người lao

động trong đó có lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới

ở nước ta hiện nay.

2.2.3. Mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp và quá

trình xây dựng nông thôn mới

Việc làm cho lao động nông nghiệp và quá trình xây dựng nông thôn mới

có mối tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển.

Nhu cầu tạo việc làm cho lao động nông nghiệp là một trong những

nguyên nhân quá trình xây dựng nông thôn mới diễn ra. Quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế ở những nước đang phát triển tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển kinh

tế nhưng cũng gây ra những thách thức lớn cho nền nông nghiệp. Nhiều sản

phẩm nông nghiệp bị cạnh tranh gay gắt khi hàng của nước ngoài tràn vào và do

mất ưu thế bảo hộ trước đây. Tuy nhiên, sẽ có một số sản phẩm được hưởng lợi

và phát triển nhờ giá nông sản được đẩy lên, người lao động có điều kiện lựa

chọn cây, con giống cho chất lượng và năng suất tốt hơn, làm gia tăng giá trị

trên cùng một sản phẩm. Sự chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận lao động

nông nghiệp thúc đẩy nhu cầu tìm thêm việc làm, tăng thu nhập.

Để tìm kiếm thêm việc làm, di cư là xu thế chung của các nước đang phát

triển. Hậu quả là sức ép lên đô thị ngày càng lớn, phần lớn những người lao

62

động nông nghiệp không có được công việc ổn định do trình độ còn thấp, làm

tăng tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị.

Để giải quyết các mâu thuẫn trên và cũng tạo cơ sở xây dựng một nền

nông nghiệp phát triển bền vững, theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái thì

công cuộc xây dựng nông thôn mới là tất yếu. Xây dựng nông thôn mới giúp

giảm chênh lệch giàu nghèo, nâng cao chất lượng đời sống, tạo điều kiện cho

nền nông nghiệp phát triển có quy hoạch tập trung, sản xuất hàng hóa, ứng dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển bền vững.Việc đầu tư xây dựng nông

thôn mới sẽ hoàn chỉnh các hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội tạo điều

kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đó sẽ chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hướng tích cực.

Quá trình xây dựng nông thôn mới cũng có tác động tới việc làm cho lao

động nông nghiệp ở nhiều mặt.

Xây dựng nông thôn mới trước hết là tiến hành quy hoạch kinh tế xã hội,

quy hoạch nông nghiệp, quy hoạch khu dân cư theo hướng hiện đại, tập trung

hơn. Tất cả các công trình phụ trợ, các khu dân cư đều được bố trí phù hợp, phục

vụ hoạt động sinh hoạt, sản xuất của người dân và đảm bảo vệ sinh môi trường.

Điều này giúp cho việc sản xuất của lao động nông nghiệp thuận lợi hơn, các

khu sản xuất được bố trí tập trung, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất , thu

hút và tạo thêm việc làm cho nhiều lao động khác.

Việc quy hoạch xây dựng các khu vui chơi, giải trí, các khu chợ, dịch vụ

theo tiêu chí cũng khiến cho nhu cầu tiêu dùng của người dân nông thôn nói

chung và lao động nông nghiệp nói riêng tăng lên [59]. Điều đó thúc đẩy lao

động nông nghiệp tìm cách nâng cao thu nhập của mình qua việc cải tiến sản

xuất, nâng cao sản lượng, tay nghề hoặc tìm thêm việc làm. Và một bộ phận

không nhỏ lao động nông nghiệp sẽ chuyển đổi sang thành lao động dịch vụ

hoạt động ở các khu vui chơi giải trí, khu chợ và dịch vụ mới được hình thành.

Một trong những giải pháp quan trọng của quy hoạch xây dựng nông thôn

mới đó là dồn điền đổi thửa, đây là biện pháp nhằm làm giảm đi diện tích đất

63

hoang hóa và tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Việc đồn diền đổi thửa

cũng chuyển đổi một bộ phận đất nông nghiệp thành đất công nghiệp, khiến cho

một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thiếu việc làm

nếu như không có những định hướng và những biện pháp từ các cấp lãnh đạo.

Lợi ích lớn nhất của việc dồn điền đổi thửa là tạo được các cánh đồng mẫu lớn,

dễ dàng áp dụng việc cơ giới hóa và các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất

nông nghiệp hàng hóa, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao

động, tạo sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp và việc làm ổn định, bền

vững cho lao động nông nghiệp [12].

Cũng nhờ xây dựng nông thôn mới tỷ lệ đường trục xã, đường liên thôn

được nhựa hóa và bê tông hóa đều tăng. Đây là điều kiện thúc đẩy giao thương

buôn bán giữa các địa phương và trong mỗi địa phương. Là cơ sở cho phát triển

kinh tế nông nghiệp và mở rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp, chế biến,

kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ở nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho lao

động nông nghiệp và lao động dịch vụ.

Tỷ lệ trường học và các công trình văn hóa, thể thao cũng tăng cao giúp

nâng cao đời sống tinh thần của người dân, nâng cao dân trí. Tỷ lệ internet đến

thôn tăng cũng giúp cho việc tìm hiểu kiến thức và tiếp thị, thương mại điện tử

của lao động nông nghiệp dễ dàng hơn, tăng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập.

Xây dựng hạ tầng kinh tế kỹ thuật là điều kiện để tiến hành đô thị hóa

nông thôn. Đô thị hoá nông thôn là quá trình hình thành các điểm dân cư đô thị

ở vùng nông thôn, cùng với nó là sự chuyển dịch lao động từ hoạt động nông

nghiệp, sang hoạt động phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn.

Quá trình đô thị hoá nông thôn là quá trình có tính qui luật, đó là quá trình

phát triển nông thôn và du nhập lối sống thành thị vào các vùng nông thôn, sẽ

làm cho dân số và diện tích đô thị không ngừng tăng; các hoạt động của kinh tế

phi nông nghiệp và các hoạt động kinh tế của đô thị không ngừng được mở rộng.

64

Lực lượng lao động nông nghiệp dần bị thu hẹp, một bộ phận lực lượng lao

động nông nghiệp chuyển sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.

Quá trình đô thị hoá nông thôn sẽ thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh

tế - xã hội nông thôn, thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, sức

mua của các đô thị tăng nhanh, làm cho sức mua hàng nông - lâm - thuỷ sản

tăng, đồng thời cũng đòi hỏi các mặt hàng này phải có chất lượng ngày cao đáp

ứng được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng đô thị. Sức mua của người

dân ở các đô thị tăng, kéo theo đó hàng hoá nông sản tiêu thụ nhiều, sẽ tác động

đến việc sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp cung cấp đô thị, góp phần

chuyển đổi tập quán sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông

nghiệp theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, nâng cao chất lượng hàng

nông sản trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất

nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp chế biến và phát triển các ngành dịch vụ,

do đó, tác động mạnh đến việc làm biến đổi cơ cấu lực lượng lao động trong

nông nghiệp [21].

Ở một địa phương được coi là nông thôn mới, thu nhập bình quân đầu

người của lao động nông nghiệp tăng theo từng năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm và tỷ

lệ lao động có việc làm thường xuyên cao. Để đạt được mục tiêu đó, quá trình

xây dựng nông thôn mới ở các địa phương gắn chặt với sự nghiệp công nghiệp

hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp

chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng

dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa

thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm

nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá

trên thị trường.

65

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cho phép sử dụng rộng rãi

máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ tiên tiến vào các hoạt động sản xuất nông

nghiệp từ khâu làm đất, gieo cấy, vận chuyển được cơ giới hoá đến sử dụng

công nghệ sinh học từ khâu làm giống, đến sản xuất, bảo quản, chế biến và giới

thiệu sản phẩm rộng rãi trên thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản

phẩm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho năng suất và hiệu quả kinh tế của

sản xuất nông nghiệp được nâng cao và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại.

Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình

chuyển nền nông nghiệp truyền thống tự cung, tự cấp, với sử dụng công cụ thủ

công, sức lao động là chính sang phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiện đại

hoá các công cụ sản xuất, các biện pháp sản xuất và phương thức quản lý sản

xuất trong nông nghiệp, làm cho năng suất lao động tăng cao, sản phẩm nông

nghiệp tăng nhanh, đa dạng và phong phú đồng thời chất lượng sản phẩm cũng

tăng nhanh và đáp ứng yêu cầu thị trường...

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp tất yếu đưa đến hai

tác động ngược chiều nhau: một mặt, nó làm cho trình độ cơ giới hoá, tự động

hoá được nâng lên, làm cho một bộ phận lao động nông nghiệp dôi thừa thêm;

mặt khác, nó lại tạo ra nhiều ngành nghề mới, chỗ làm mới, thu hút thêm lao

động. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp tạo điều kiện rút phần lớn lao

động nông nghiệp ra khỏi ngành nông nghiệp và chuyển sang hoạt động ở các

ngành công nghiệp và dịch vụ, là những ngành có hiệu quả kinh tế cao hơn. Do

đó nó tác động lớn tới sự biến đổi cơ cấu lực lượng lao động ở nông thôn theo

hướng tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ

trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhưng chất lượng nguồn lao động

nông nghiệp đòi hỏi phải không ngừng được nâng cao.

Quá trình xây dựng nông thôn mới cũng đề cao vai trò hoạt động của các

hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân có hiệu quả hơn, giúp đào tạo việc

66

làm và hỗ trợ cho lao động nông nghiệp sản xuất tốt hơn, tránh xa các tệ nạn xã

hội.

Môi trường giảm thiểu ô nhiễm, chất thải được xử lý, lao động nông

nghiệp yên tâm an cư lập nghiệp, tập trung vào sản xuất, đảm bảo sức khỏe cho

lao động. Việc tuyên truyền bảo vệ môi trường cũng làm tăng ý thức của người

dân, hướng người dân tự chuyển đổi đến một nền nông nghiệp sinh thái, thân

thiện với môi trường.

Một yếu tố quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới là hoàn

thiện bộ máy chính trị, xây dựng hệ thống chính trị đạt chuẩn, cán bộ, lãnh đạo

quản lý có trình độ là điều kiện đảm bảo để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý

của nhà nước, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi

để thu hút đầu tư, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tổ chức lại sản

xuất ở nông thôn theo hướng hàng hóa, nông nghiệp đô thị sinh thái, nâng cao

thu nhập cho đời sống của người nông dân trong đó có lao động nông nghiệp.

Hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh sẽ phát huy được tinh thần làm chủ,

sức mạnh đoàn kết và sáng tạo của nhân dân lao động cả trong phát triển kinh tế

và xây dựng làng xã văn hóa. Người dân nói chung và lao động nông nghiệp nói

riêng yên tâm tham gia sản xuất phát triển kinh tế dưới sự ủng hộ và hướng dẫn

đường lối của bộ máy lãnh đạo. Nhờ đó việc làm của lao động nông nghiệp ổn

định hơn, người lao động có cơ hội tập trung vào mở rộng sản xuất, tăng cao thu

nhập và tạo thêm nhiều việc làm.

2.2.4. Một số vấn đề đặt ra về giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội

- Về chính sách ruộng đất, Hà Nội tiếp tục giải pháp đẩy nhanh việc dồn

điền đổi thửa tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển sản xuất và hình

thành các trang trại sản xuất hàng hoá có hiệu quả. Thực tế cho thấy, ở Hà Nội

công việc này diễn ra với tốc độ chưa đều giữa các địa phương. Các hộ có nhiều

thửa ruộng nhỏ ở nhiều cánh đồng khác nhau điều đó cản trở sự phát triển nông

67

nghiệp theo hướng hàng hoá. Thực hiện xây dựng nông thôn mới, công tác dồn

điền đổi thửa ở các huyện của Hà Nội là một nhiệm vụ trọng tâm cấp bách của

cả hệ thống chính trị.

Hà Nội có tiềm năng phát triển kinh tế trang trại tổng hợp, thành phố

nghiên cứu bổ sung chính sách hiện có để phát triển trang trại nhằm giải quyết

việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông nghiệp và chất lượng lao động

nguồn nhân lực, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, nâng cao hiệu quả của kinh tế

trang trại, thu hút tạo nhiều việc làm cho người lao động [61].

- Về chính sách tín dụng: việc thực hiện chính sách tín dụng như lãi suất

cho vay, thời gian vay, số lượng tiền cho vay mỗi lần lên nghiên cứu điều chỉnh

phù hợp với dự án, phong tục tập quán và trình độ dân trí của mỗi vùng. Trước

hết nên đơn giản hoá các thủ tục vay vốn để nông dân dễ tiếp cận với ngồn vốn

tín dụng.

- Đối với các hộ nông dân trung bình và nghèo, việc cho vay cần tuân theo

những nguyên tắc sau:

Một là cần sự sâu sát của cán bộ khuyến nông để nông dân biết đầu tư vào

cái gì và làm như thế nào.

Hai là cho vay ít nhưng làm nhiều lần để đảm bảo hiệu quả của vốn vay

và nông dân có khả năng từng bước mở rộng quy mô và hiệu quả sản xuất của

họ.

Ba là tuỳ theo điều kiện cụ thể mà cho vay bằng hiện vật rồi xoay vòng

theo nhóm. Điều này sẽ hạn chế việc sử dụng vốn sai mục đích của nông dân.

- Đa dạng hóa sản phẩm, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hoá. Ở Hà Nội tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra chưa đều ở

các địa phương. Có rất nhiều làng nghề trên địa bàn thủ đô tuy nhiên việc phát

huy hiệu quả làng nghề, tập trung sản xuất và mở rộng sản xuất chưa thực sự

mãnh mẽ [60]. Điều quan tâm đối với Hà Nội trong quá trình xây dựng nông

thôn mới có tác động trực tiếp tới lao động nông nghiệp đó là việc sử dụng có

68

hiệu quả diện tích đất nông nghiệp hiện có ở mỗi xã, mỗi huyện là rất khác xa

nhau (giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp chênh lệch khoảng 10 lần giữa

vùng sản xuất hoa với vùng sản xuất lúa).

69

Chương 3

TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP

TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NỘI

3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của Hà Nội có ảnh

hướng đến giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình

xây dựng nông thôn mới

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của Hà Nội ảnh hưởng trực tiếp

tới giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

* Vị trí địa lý, địa hình

Nhìn chung, địa hình Hà Nội khá đa dạng với núi thấp, đồi và đồng bằng.

Hà Nội có nhiều hồ, đầm thuận lợi cho phát triển thủy sản và du lịch, nhưng do

thấp trũng nên khó khăn trong việc tiêu thoát nước nhanh, gây úng ngập cục bộ

thường xuyên vào mùa mưa. Vùng đồi núi thấp và trung bình ở phía Bắc Hà Nội

thuận lợi cho xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp và tổ chức nhiều loại

hình du lịch. Những vùng trung du và miền núi (đặc biệt là miền núi) có địa hình

hiểm trở bị chia cắt do đó rất khó khăn trong việc phát triển giao thông và thuỷ

lợi. Việc áp dụng máy móc kỹ thuật cũng rất hạn chế do đất đai bị chia cắt manh

mún. Vì vậy, năng suất lao động thấp, hạn chế trong khả năng giao lưu kinh tế

và tiếp cận với thị trường, với các thông tin về văn hoá, khoa học kỹ thuật do

vậy cũng hạn chế quá trình sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến thu nhập.

Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị- hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở

của các cơ quan trung ương của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội,

cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo

dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Tuy nhiên

sau khi mở rộng địa giới hành chính thì có sự khác nhau giữa các vùng nông

thôn của Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, giải

quyết việc làm cho lao động nông thôn đặc biệt là thu nhập của lao động nông

70

nghiệp. Đây là vấn đề rất quan trọng đòi hỏi phải có sự tập trung giải quyết của

cả hệ thống chính trị và chung sức của toàn dân, tạo sự đột phá trong lĩnh vực

nông nghiệp nông thôn của Thủ đô.

* Khí hậu

Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu cận

nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và

có mưa phùn về nửa cuối mùa.

Nhìn chung, những điều kiện khí hậu thời tiết ở Hà Nội là rất thuận lợi

cho phát triển sản xuất nông nghiệp, kết hợp với địa hình đa dạng, Hà Nội có

những điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp sinh thái, đa dạng hóa sản

phẩm nông nghiệp và đặc biệt có khả năng đi vào sản xuất các loại cây trồng vật

nuôi mang tính đặc sản có giá trị cao.

* Tài nguyên đất

Theo số liệu Tổng kiểm kê đất đai năm 2010, tổng diện tích đất tự nhiên

của Thành phố là 332.889 ha, bao gồm: đất nông nghiệp 188.365 ha, chiếm

56,6% diện tích tự nhiên, đất phi nông nghiệp 135.193 ha, chiếm 40,6% diện

tích tự nhiên, đất chưa sử dụng còn 9.331 ha, chiếm 2,8% diện tích tự nhiên.

Thực hiện mở rộng địa giới hành chính đã tạo cho Hà Nội rất nhiều lợi thế

để phát triển nông nghiệp toàn diện, đa dạng cây trồng, vật nuôi và hình thành

các vùng sản xuất nông sản hàng hóa chất lượng cao. Tuy nhiên, nông nghiệp

Hà Nội phải đối diện nhiều khó khăn khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng

thu hẹp, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chuyển dịch còn chậm, thiếu vững

chắc, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất chưa đáp ứng để phát triển nông nghiệp

Hà Nội theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Mặt khác giá trị sản xuất nông

nghiệp trên 1 ha đất nông nghiệp của các địa phương đạt được trong 3 năm qua

có sự chênh lệch lớn. Vấn đề đặt ra là phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông

nghiệp hiện có, vừa tạo thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông

71

nghiệp là nhiệm vụ quan trọng gắn với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới của

Thủ đô.

* Văn hóa

Với bề dày hàng ngàn năm lịch sử, Hà Nội có nhiều danh thắng, di tích

lịch sử, công trình văn hoá - nghệ thuật, khảo cổ, kiến trúc cùng các di tích phi

vật thể khác, các lễ hội, làng nghề và văn hoá dân gian; nơi tập trung những bảo

tàng lớn và quan trọng của cả nước. Những đặc trưng văn hoá Việt là nguồn lực

và lợi thế cho phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đem lại

những giá trị gia tăng cao trong xuất khẩu các sản phẩm này cũng như phục vụ

cho du lịch và các dịch vụ văn hoá khác.

Hà Nội cũng là nơi tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng, trong đó có các

nghề đặc sắc như: làm tranh dân gian (tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ); gốm

sứ Bát Tràng, nghề làm giấy lụa, dệt tơ lụa Bưởi, Vạn Phúc, nghề thêu ở Yên

Thái, nghề đúc đồng Ngũ Xá, nghề chạm khảm trang trí đồ gỗ Vân Hà; nghề sản

xuất đồ da ở Kiêu Kỵ, nón Chuông, quạt Vác, khảm trai Chương Mỹ, hàng mây

tre Phú Vinh, đồ mộc Tràng Sơn, tượng gỗ Sơn Đồng... với các điều kiện trên

tạo thuận lợi cho người lao động nông thôn, lao động nông nghiệp tìm kiếm việc

làm và chuyển dịch việc làm từ lao động nông nghiệp thuần sang lao động phi

nông nghiệp có hoạt động phụ trong nông nghiệp. Tạo cơ hội thuận lợi cho việc

phát triển dịch vụ du lịch từ đó càng đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực trong đó

có lao động nông nghiệp, phải tự đào tạo nâng cao tay nghề và học các nghề

mới. Đây là nơi có thể giải quyết được việc làm cho nhiều lao động nông nghiệp

trong quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển đô thị của thủ đô.

3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội

* Đặc điểm kinh tế

Tổng quy mô GDP của Hà Nội năm 2008 đạt trên 178,5 nghìn tỷ đổng

(giá thực tế), tương đương với 10,77 tỷ USD, chiếm hơn một nửa tổng GDP

vùng Đồng bằng sông Hồng và 12,1% cả nước [15]. Nếu xét theo thứ tự về quy

72

mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Thủ đô Hà Nội đứng vị trí thứ hai và bằng

61,5% tổng GDP của địa phương, đứng đầu là Thành phố Hồ Chí Minh.

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng của các ngành

Đơn vị tính: %

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Chỉ tiêu

2001- 2005

2006

2008

2010

2006-2010

2005 11,0

12,2

10,6

7,5

9,8

1. Tốc độ tăng trưởng

10,7

10,3

10,9

8,5

9,8

- Dịch vụ

13,4

17,2

11,9

7,5

11,3

- Công nghiệp - xây dựng

4,1

1,3

1,6

2,0

1,4

- Nông, lâm, thuỷ sản

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

2. Cơ cấu ngành

50,7

43,8

52,1

58,3

51,8

- Dịch vụ

45,2

55,3

46,7

40,9

47,1

- Cồng nghiệp - xây dựng

4,1

0,9

1,1

0,8

1,1

- Nông, lâm, thuỷ sản

Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê Hà Nội [16]

Biểu 3.1 cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngành nông nghiệp tại

Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010 ngày càng có xu hướng giảm đi và rất thấp so

với công nghiệp và dịch vụ. Nguyên nhân là do diện tích đất nông nghiệp bị thu

hồi chuyển đổi sang các hoạt động nông nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên điều này

cũng một phần cho thấy hiệu quả của sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội chưa cao.

Giai đoạn 2010 - 2013, kinh tế Hà Nội tiếp tục phải đối mặt với khá nhiều

khó khăn như giá cả nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào tăng; lạm phát, lãi suất ngân

hàng ở mức cao; sản xuất kinh doanh đình trệ; tình hình thời tiết có nhiều bất lợi

đối với sản xuất nông nghiệp; kinh tế thế giới có nhiều biến động… song Hà Nội

vẫn giữ mức tăng trưởng tương đối cao, gấp 1,5 lần so với mức tăng chung của

cả nước.

73

Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2011-2013 và

đóng góp của các ngành vào mức tăng trưởng chung

Đơn vị: %

Chỉ tiêu

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

10,1

8,1

8,2

1. Tốc độ tăng trưởng chung

10,8

9,3

9,4

- Dịch vụ

10,2

7,7

7,5

- Công nghiệp - xây dựng

4,4

0,4

2,4

- Nông, lâm, thuỷ sản

2. Đóng góp cho tăng trưởng

5,5

4,08

4,1

- Dịch vụ

4,3

4,0

4,0

- Công nghiệp - xây dựng

0,3

0,02

0,15

- Nông, lâm, thuỷ sản

Nguồn: Cục Thống kê Hà Nội [20]

Như vậy, theo biểu 3.3 ở giai đoạn 2011 – 2013 tốc độ tăng trưởng của

ngành nông nghiệp đã có những dấu hiệu tích cực hơn giai đoạn 2006 -2010, tuy

nhiên đóng góp vào mức tăng trưởng chung của kinh tế Hà Nội của ngành nông

nghiệp vẫn ở mức thấp (0,15% năm 2013).

Tính đến hết tháng 12 năm 2013, giá trị tổng sản phẩm nội địa của Hà Nội

là 94.723 tỷ đồng, trong đó giá trị của ngành dịch vụ là 49.496 tỷ đồng, ngành

công nghiệp - xây dựng là 40.347 tỷ đồng, ngành nông, lâm, thủy sản là 4880 tỷ

đồng.

Cơ cấu kinh tế theo ngành của Hà Nội có sự dịch chuyển khá nhanh theo

hướng tích cực khi tỷ trọng ngành nông nghiệp chỉ còn 6,5% năm 2008. Khu

vực dịch vụ có tỷ trọng là 52,4% trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố

năm 2008 và là ngành có tỷ trọng cao nhất. Hà Nội là một trong số ít địa phương

có tỷ trọng dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp.

74

* Đặc điểm xã hội

Tính đến năm 2012, quy mô dân số Hà Nội là 6844,1 triệu người, với mật độ dân số là 2059 người/km2, đứng thứ hai cả nước, chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh với mật độ dân số là 3666 người/km2.

Theo Báo cáo kết quả thực hiện thu thập thông tin cung, cầu lao động trên

địa bàn thành phố năm 2012, tổng số dân từ đủ 10 tuổi trở lên là 4.148.706

người. Trong đó: thành thị có 3.388.209 người chiếm tỷ lệ 81,67%, nông thôn có

760.497 người chiếm tỷ lệ 18,33%.

Dân số trong độ tuổi làm việc: 3.316.360 người, chiếm tỷ lệ 79,94% tổng

dân số từ đủ 10 tuổi trở lên. Trong đó: nam có 1.643.512 người, chiếm 49,56%;

nữ có 1.672.848 người, chiếm 50,44%; thành thị có 2.698.252 người, chiếm

81,36%; nông thôn có 618.108 người, chiếm 18,64%.

Lao động Hà Nội tuy dồi dào song tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010

mới đạt 35%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 25,4%, chất lượng lao

động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phân bố không đều, tập trung ở vùng đô

thị, các quận nội thành. Lao động Hà Nội còn có tâm lý kén chọn việc làm và

thu nhập rất nặng nề. Tỷ trọng việc làm bền vững tăng chậm, việc làm không ổn

định, việc làm tạm thời còn khá cao, chiếm khoảng 45% kết quả giải quyết việc

làm hàng năm.

Tính đến năm 2012, lực lượng lao động: 2.693.330 người, chiếm tỷ lệ

69,39% lao động từ đủ 15 tuổi trở lên, trong đó: nam có 1.463.902 người, chiếm

54,35%; nữ có 1.229.428 người, chiếm 45,65%; thành thị có 2.189.065 người,

chiếm 81,28%; nông thôn có 504.265 người, chiếm 18,72% trong tổng số

504.265 người lao động nông thôn thì phần chủ yếu chính là lao động nông

nghiệp. [51]

* Hà Nội trong tổng thể cả nước, so sánh với các đô thị lớn, các thủ đô

Hà Nội chỉ chiếm 7,4% về dân số và 1% diện tích nhưng đóng góp

khoảng 12,1% GDP cả nước, 12,6% GTSX công nghiệp, 11,1% kim ngạch xuất

75

khẩu, 16,9% thu ngân sách quốc gia, thu hút 16,2% vốn đầu tư xã hội so với cả

nước (năm 2008).

So với Thành phố Hồ Chí Minh - đô thị lớn nhất cả nước, Hà Nội có diện

tích lớn hơn (bằng 159,8%), dân số chênh lệch không nhiều (bằng 93,2%) tuy

nhiên quy mô GDP của Hà Nội chỉ bằng 61,5% Thành phố Hồ Chí Minh. GDP

bình quân đầu người bằng 65,9%, thu ngân sách bằng 55,9%, kim ngạch xuất

khẩu bằng 31,1%, giá trị sản xuất công nghiệp bằng 48,3%, thu hút vốn đầu tư

bằng 81,9% (năm 2008).

3.2. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội tới

việc làm cho lao động nông nghiệp

3.2.1. Đặc điểm của quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội có tác

động tới việc làm cho lao động nông nghiệp

Hà Nội có một số đặc điểm riêng biệt trong xây dựng nông thôn mới so

với những tỉnh khác. Những đặc điểm này có những ảnh hưởng tiêu cực và tích

cực đến quá trình xây dựng nông thôn mới cũng như tạo việc làm cho lao động

nông nghiệp của Hà Nội. Do sự khác biệt này mà trong bộ tiêu chí nông thôn

mới, Hà Nội có rất nhiều chỉ tiêu được yêu cầu ở mức cao hơn so với những tiêu

chí chung của cả nước trong đó có tiêu chí giải quyết việc làm và đào tạo nghề

cho lao động nông thôn (chủ yếu là lao động nông nghiệp)

* Mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội

Đây là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết là hệ thống giao

thông, thuỷ lợi, hệ thống thông tin và năng lượng; hệ thống giao thông thuận lợi

sẽ giảm chi phí vận tải, thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hoá với các vùng

khác từ đó hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá và phát triển các

ngành nghề phi nông nghiệp. Hệ thống điện, thông tin giúp cho người dân có

khả năng trang bị máy móc kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động,

thuận lợi trong việc tiếp thu những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật, trình độ

dân trí được nâng cao. Hệ thống trường học, bệnh viện có vai trò quan trọng

76

trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và đào tạo nhân lực. Vì vậy, hệ

thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tác động một cách tổng hợp tới quá trình phát

triển kinh tế xã hội và mức sống của người dân nông thôn trong đó có lao động

nông nghiệp.

Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn Hà Nội phát triển hơn

nhiều địa phương khác trên cả nước. Năm 2007, Hà Nội đã có 63,5% đường

giao thông nông thôn được kiên cố hoá, trong đó nhiều xã đã thực hiện kiên cố

hoá 100% đường làng, ngõ xóm. Năm 2009 đã có trên 80% số trường, lớp học

được xây dựng kiên cố hóa; trong đó có 19% đạt chuẩn quốc gia. Có 90% trạm y

tế được xây dựng kiên cố trong đó có 76% đạt chuẩn quốc gia. Hệ thống thuỷ

lợi, đê điều được quan tâm đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ tưới tiêu và

phòng chống lụt bão. Công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm dân cư,

xử lý rác thải, vệ sinh môi trường có nhiều tiến bộ đã từng bước tạo dựng lên bộ

mặt nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại.

Để tăng nguồn kinh phí đầu tư cho giao thông nông thôn, thành phố Hà

Nội đã cho các quận, huyện thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất và được giữ lại

tỷ lệ thích đáng để tái đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật và phát triển kinh tế trong

đó đã giành tỷ lệ lớn cho giao thông nông thôn đến nay tỷ lệ đường giao thông

nông thôn được cứng hóa đạt khoảng 80%. Đây là điều kiện rất thuận lợi để cho

lao động nông nghiệp chuyển dịch sang lao động kinh doanh dịch vụ và tiểu thủ

công nghiệp

Hệ thống thủy lợi được đầu tư, tính đến năm 2009 đã cứng hóa được

100% kênh mương loại 1; 65% kênh loại 2 và 40% kênh loại 3, đảm bảo việc

tiêu thoát nước phục vụ cho nông nghiệp của Hà Nội từng bước phát triển.

Thành phố đã ban hành quyết định số 2863/QĐ-UBND phê duyệt Chương

trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn thành phố Hà Nội

giai đoạn 2009-2020, theo đó nguồn kinh phí dự kiến đầu tư cho Chương trình là

4.949 tỷ đồng. Hiện nay các huyện đang khẩn trương triển khai các dự án trong

chương trình phấn đấu đến năm 2020 đảm bảo 100% số hộ nông thôn được sử

77

dụng nước hợp vệ sinh và 80% số hộ dân được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn

quy định của bộ y tế.

Hệ thống điện nông thôn đã được cải tạo, nâng cấp theo đề án điện nông

thôn, 100% số thôn, xã và toàn bộ các hộ có điện sử dụng đáp ứng nhu cầu sản

xuất và sinh hoạt, triển khai bàn giao cho ngành điện quản lý và bán trực tiếp

cho hộ nông dân.

Hệ thống chợ, các trung tâm thương mại được đầu tư nâng cấp theo

hướng văn minh, hiện đại tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa phát triển. Hiện

nay có 100% số xã có chợ và chợ xây dựng kiên cố đây là những đầu mối phục

vụ nhu cầu buôn bán và lưu chuyển hàng hóa nông sản. Việc phát triển hệ thống

chợ nông thôn đã giải quyết được số lao động nông nghiệp dôi dư với trình độ

thấp không có khả năng học tập để chuyển đổi nghề nghiệp vào làm việc tại các

doanh nghiệp và khu công nghiệp. [58]

* Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của người lao động.

Con người với tư cách là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi hoạt động lao

động, vì vậy, chất lượng của nguồn lao động quyết định hiệu quả của hoạt động

lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay, con người

được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực cho phát triển. Do đó, trình độ văn

hoá, trình độ khoa học kỹ thuật của người lao động có ảnh hưởng quyết định đến

phát triển kinh tế. Điều đó đòi hỏi không ngừng đào tạo, tập huấn cho nông dân,

phát triển mạnh giáo dục ở các vùng nông thôn để hình thành một lực lượng lao

động có chất lượng ngày càng cao.

Hà Nội là địa phương có trình độ dân trí tương đối chênh lệch giữa các

huyện trên địa bàn. Những vùng gần trung tâm như huyện Từ Liêm, Thanh Trì

tỷ lệ lao động học hết cấp 3 cao hơn nhiều so với những vùng xa trung tâm như

Phúc Thọ, Ba Vì… Điều này đòi hỏi phải có những chính sách, cách tiếp cận

riêng biệt với từng vùng.

78

* Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quan trọng để tạo việc làm và

giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn

mới.

Để phát triển kinh tế phải có nguồn vốn đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất

và làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Với trình độ

phát triển kinh tế ở nông thôn hiện nay, hầu hết các hộ nông dân đều thiếu vốn

sản xuất. Với các hộ gia đình trẻ mới tách hộ thì tình trạng thiếu vốn càng trầm

trọng. Do vậy, để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp thì

cần phải giúp đỡ người nông dân có khả năng huy động mọi nguồn vốn vào sản

xuất, đồng thời mở lớp tập huấn cho người nông dân nâng cao khả năng quản lý

và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nhà

nước cũng cần cung cấp vốn cho lao động nông nghiệp qua nhiều hình thức để

mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng thu nhập.

Hà Nội là Thủ đô của cả nước, việc xây dựng nông thôn mới là trọng tâm

của thành phố do đó việc đầu tư rất được chú trọng:

Tổng vốn đầu tư năm 2011 của thành phố Hà Nội cho chương trình xây

dựng nông thôn mới: 2.775,996 tỷ đồng. Trong đó:

- Vốn ngân sách và có nguồn gốc ngân sách 1.865,479 tỷ đồng, (chiếm

67,20%).

- Vốn doanh nghiệp 216,108 tỷ đồng, (chiếm 7,78%).

- Vốn nhân dân đóng góp 227,166 tỷ đồng, (chiếm 8,18%).

- Vốn xã hội hóa 41,249 tỷ đồng, (chiếm 1,49%).

- Các nguồn khác 425,995 tỷ đồng, (chiếm 15,35%).

* Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của từng địa phương, từng

dân tộc tác động tới kết quả của quá trình xây dựng nông thôn mới, tới việc giải

quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp.

Mỗi địa phương có những phong tục tập quán riêng, có truyền thống văn

hoá riêng. Mỗi dân tộc cũng có những truyền thống, những phong tục tập quán

79

riêng. Có những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp có ảnh hưởng tích cực

đến sự phát triển kinh tế xã hội và ngược lại cũng có những phong tục tập quán,

lạc hậu trở thành vật cản cho sự tiến bộ xã hội. Truyền thống giúp đỡ nhau trong

đời sống hàng ngày, trong làm ăn kinh tế, trong khuyến học... là những truyền

thống tốt đẹp. Có những làng xã người dân xây dựng thành các nhóm, hội kinh

doanh rất hiệu quả, có làng khuyến khích người dân làm kinh tế và báo cáo kết

quả trong ngày hội làng... đã có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển và thu nhập

của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, những hủ tục như ma chay

cưới xin linh đình, các tệ nạn mê tín dị đoan, thói quen sống và làm việc mang

tính tự nhiên không tính toán... là lực cản lớn cho sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, các

giải pháp giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn cần

xem xét kỹ đến các yếu tố về phong tục tập quán của mỗi vùng, mỗi địa phương,

mỗi dân tộc, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.

Hà Nội sau khi mở rộng bao gồm rất nhiều làng nghề, làng cổ với nền văn

hóa phong phú và nhiều tập tục khác nhau. Vì vậy, yêu cầu quan trọng là phải

nắm rõ được những phong tục tập quán trong việc xây dựng phương hướng phát

triển của từng địa phương.

* Tiến bộ khoa học kỹ thuật

Hà Nội là địa phương có sự đầu tư lớn cho nghiên cứu khoa học và

chuyển giao công nghệ. Từ năm 2008 – 2013 các chương trình khoa học và công

nghệ cấp Thành phố đã triển khai 540 đề tài, dự án nghiên cứu. Trong đó, các đề

tài dự án trực tiếp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn là 89

đề tài. Tỷ lệ ứng dụng kết quả vào thực tiễn của các đề tài khoảng 70% và dự án

là 100%. Kết quả các đề tài, dự án này đã được áp dụng trực tiếp vào thực tiễn

của đơn vị nghiên cứu với các mức độ và quy mô khác nhau, đem lại hiệu quả

tốt trong các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh. Sản phẩm của các công trình

nghiên cứu khoa học gồm: Sản phẩm mới, các quy trình công nghệ mới và các

thiết bị, máy móc (thiết kế, cải tiến, chế tạo mới), mô hình mới và kỹ thuật mới

trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, kỹ thuật mới trong điều trị ngành y tế, hệ

80

thống các tiêu chuẩn mới, phương pháp mới, giải pháp mới trong các lĩnh vực

kinh tế - xã hội, đã góp phần thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ và

năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực quản lý

của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Thành phố.

Các đề tài trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân tập trung

chủ yếu vào các hướng ứng dụng công nghệ mới, sản phẩm mới, xây dựng mô

hình quản lý mới góp phần nâng cao năng lực sản suất, tạo ra sản phẩm có năng

suất cao, chất lượng tốt, giá thành hợp lý đáp ứng yêu cầu thực tế. Từ các kết

quả nghiên cứu khoa học đã hình thành các quy trình công nghệ và xây dựng các

giải pháp kỹ thuật mới, một số giống cây ăn quả đặc sản, giống lúa lai năng suất

cao cho vùng ngoại thành. Triển khai thực nghiệm mô hình đồng bộ: sản xuất

rau an toàn; phòng chống dịch bệnh tổng hợp trong chăn nuôi bò thịt, bò sữa

chất lượng, hiệu quả và an toàn dịch bệnh. Nhiều giải pháp về cơ chế chính sách

được đề xuất đưa vào áp dụng trong thực tiễn cùng với các giải pháp kỹ thuật,

các biện pháp kinh tế khác đã cho hiệu quả kinh tế - xã hội cao, giúp các nông

hộ, trang trại, doanh nghiệp phát huy tiềm năng về giống, đất đai và những lợi

thế của các tiểu vùng sinh thái; quản lý và khai thác hợp lý tài nguyên đất và

nước. Cùng với xu thế phát triển của khoa học và công nghệ trong lộ trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phong trào phát huy, cải

tiến sáng kiến kỹ thuật, ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp

phát triển mạnh mẽ. Nhiều giải pháp kỹ thuật hữu ích, nhiều công nghệ mới đã

được chuyển giao, ứng dụng đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn các

quận, huyện trên toàn Thành phố.

Cụ thể như sau:

* Trong lĩnh vực trồng trọt bảo vệ thực vật: Đã triển khai 09 đề tài nghiên

cứu, thực hiện 04 dự án sản xuất thử nghiệm cấp thành phố về lĩnh vực trồng

trọt - bảo vệ thực vật với tổng số kinh phí sự nghiệp KH&CN là 9,8 tỷ đồng và

từ nguồn khác là 13,5 tỷ đồng. Các đề tài như: nghiên cứu đánh giá mức độ ảnh

hưởng của kim loại nặng trong đất, nước đến sự tích luỹ của chúng trong một số

81

loại rau tại Hà Nội; nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp kỹ thuật, tổ chức sản

xuất và thị trường để phát triển sản xuất rau mầm ở Hà Nội; xác định một số

giống đậu xanh phù hợp trồng gối ngô xuân trên đất bồi ven sông của Hà Nội;

Hoàn thiện quy trình gieo thẳng lúa theo hàng bằng dụng cụ kéo tay trên các

chân đất và mùa vụ khác nhau ở địa bàn Hà Nội;…đều là những đề tài có ý

nghĩa thực tiễn lớn góp phần phát triển và nâng cao hiệu quả, chất lượng trồng

trọt nông sản, hoa màu.

* Trong lĩnh vực chăn nuôi – thú y: đã triển khai 06 đề tài nghiên cứu cấp

thành phố về lĩnh vực chăn nuôi thú y với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là

26 tỷ đồng và từ nguồn khác là 2,3 tỷ đồng.

* Trong lĩnh vực lâm nghiệp: đã triển khai 02 đề tài nghiên cứu cấp thành

phố về lĩnh vực lâm nghiệp với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 1,3 tỷ đồng

và từ nguồn khác là 0,2 tỷ đồng.

* Trong lĩnh vực thủy sản: đã triển khai 03 đề tài nghiên cứu cấp thành

phố về lĩnh vực thủy sản với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 1,2 tỷ đồng.

* Trong lĩnh vực cơ điện, bảo quản chế biến nông sản sau thu hoạch: đã

triển khai 05 đề tài dự án nghiên cứu cấp thành phố về cơ điện chế biến, bảo

quản nông sản sau thu hoạch với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 5,4 tỷ

đồng và từ nguồn khác là 5,1 tỷ đồng.

* Về thủy lợi: đã triển khai 02 đề tài nghiên cứu cấp thành phố về lĩnh vực

thủy sản với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 2,8 tỷ đồng.

* Về bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp nông thôn: đã triển

khai 07 đề tài nghiên cứu cấp thành phố về bảo vệ môi trường trong sản xuất

nông nghiệp và nông thôn với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 5,95 tỷ đồng

và từ nguồn khác là 440 triệu đồng.

* Về xây dựng chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn: đã

triển khai 02 đề tài nghiên cứu cấp thành phố với tổng kinh phí sự nghiệp

KH&CN là 0,88 tỷ đồng.

82

* Về các chương trình nghiên cứu về công nghệ sinh học trong lĩnh vực

nông nghiệp: đã triển khai 07 đề tài nghiên cứu cấp thành phố với tổng kinh phí

sự nghiệp KH&CN là 3,9 tỷ đồng và từ nguồn khác là 50 triệu đồng.

* Về xây dựng phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao/ vùng nông

nghiệp công nghệ cao: khu công nghệ cao sinh học Hà Nội (HABIOTECH) đã

được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương. Đề án thành lập đã được gửi lên

Bộ KH&CN được thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

Thành phố đang quy hoạch khu nông nghiệp công nghệ cao tại xã Song Phương,

Vân Côn, An Thịnh thuộc huyện Đan Phượng, nghiên cứu quy hoạch xây dựng

2 trung tâm: Xúc tiến thương mại nông nghiệp và trung tâm Ứng dụng nông

nghiệp công nghệ cao với tổng diện tích khoảng 70ha tại xã Yên Nghĩa quận Hà

Đông.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: được sự quan tâm chỉ đạo của UBND

Thành phố Hà Nội, các kết quả nghiên cứu KH&CN đã tập trung giải quyết các

nhiệm vụ bức thiết sản xuất ứng dụng công nghệ mới trong phát triển nông

nghiệp đô thị sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, hiện đại, giá trị gia tăng lớn,

đạt yêu cầu hiệu quả - chất lượng – sạch, theo hướng phục vụ cho đô thị, du lịch

và khu công nghiệp. Theo đó, trình độ lao động nông nghiệp được nâng cao đặc

biệt là ở các vùng chuyên canh như trồng hoa, nuôi trồng thủy sản…

3.2.2. Tác động của quá trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) xác định quan điểm chỉ đạo là: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững, gìn giữ ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển; xây dựng nông thôn mới là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là khâu then chốt”.

83

Thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của Chính phủ, Hà Nội đã ban hành Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND ngày 21/4/2010 của Hội đồng nhân dân Thành phố về xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020, định hướng 2030 và Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn 2011-2015 với mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới Thủ đô Hà Nội có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nông thôn được bảo đảm, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại.”

Chương trình xây dựng Nông thôn mới ở Hà Nội tất yếu sẽ làm chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động nông nghiệp theo hướng tích cực, hiện đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp.

Xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội là quá trình gắn liền với việc thực hiện 5 nhóm tiêu chí trong bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trong 3 năm xây dựng nông thôn mới (2010 – 2013), nông thôn Hà Nội đã có nhiều thay đổi và những lao động nông nghiệp cũng chịu tác động từ các thay đổi này. Trong đó, ảnh hưởng lớn nhất là các nhóm tiêu chí về quy hoạch, hạ tầng kinh tế - xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất.

Do việc thực hiện xây dựng nông thôn mới, nhiều công trình và đường giao thông được hoàn thành, hiện đại hóa. Các vùng nông thôn Hà Nội diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, kéo theo đó là hàng loạt ngành nghề dịch vụ được mở rộng phát triển. Quá trình này tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho lao động nông nghiệp. Điều này có thể thấy rõ ở một địa phương có tốc độ xây dựng nông thôn mới như huyện Từ Liêm (đã có 12/19 xã được công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới) (Hình 3.1):

Đơn vị tính: người

84

Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm 2010 – 2013 [9-11] Hình 3.1. Số cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ huyện

Từ Liêm từ năm 2010 đến năm 2013

Có thể thấy số lượng các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ huyện

Từ Liêm tăng nhanh khi thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới [10]. Điều

này cũng kéo theo một lượng lao động nông nghiệp không nhỏ chuyển hẳn sang

thành lao động dịch vụ hoặc vừa tham gia sản xuất nông nghiệp vừa tham gia

hoạt động dịch vụ. Số việc làm mới được tạo ra cho người lao động nông thôn

trong quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới được tăng gấp nhiều lần

so với số lao động nông nghiệp bị mất việc làm do bị thu hồi hết đất sản xuất

nông nghiệp (Hình 3.2).

Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm 2010 – 2013 [10, 11]

Đơn vị tính: người

Hình 3.2. Số lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện Từ

Liêm các năm 2010 đến 2013

85

Từ hình 3.2, số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đã tăng

rất nhanh từ 22.379 lao động năm 2010 thành 54.700 lao động năm 2013 (gấp

gần 2,5 lần). Một phần không nhỏ là do số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất

đã chuyển sang hoạt động dịch vụ khi có các cơ sở dịch vụ và đường xá được

mở rộng. Cụ thể ở một huyện có tốc độ xây dựng nông thôn mới nhanh như

huyện Từ Liêm, trong năm 2011 đã có 1888 lao động nông nghiệp bị mất việc

làm do thu hồi đất. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất của huyện Từ Liêm từ

năm 2010 đến 2013 được thể hiện ở biểu đồ ở hình 3.3

Đơn vị: ha

Nguồn: Tổng hợp Niêm giám thống kê huyện Từ Liêm 2010, 2013 [9, 11]

Hình 3.3. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất ở Huyện Từ Liêm

Như đã nói, sự thay đổi trên là do những tác động quá trình xây dựng

nông thôn mới. Vì vậy, trên địa bàn Hà Nội, những thay đổi là rất khác nhau

giữa các địa phương do quá trình xây dựng nông thôn mới là không đều. Để làm

rõ vấn đề này, tác giả lựa chọn huyện Phúc Thọ và Ba Vì để so sánh. Tính đến

hết năm 2013, Phúc Thọ và Ba Vì chưa có một xã nào được công nhận đạt

chuẩn nông thôn mới. Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Phúc Thọ diễn ra

chậm vì vậy không tạo ra nhiều chuyển biến cho quá trình giải quyết việc làm

cho lao động nông nghiệp. Các công trình hạ tầng được triển khai xây dựng

86

chậm vì vậy không tạo điều kiện cho người lao động tham gia vào hoạt động sản

xuất dịch vụ (hình 3.4). Điều này thể hiện qua số lượng lao động hoạt động

trong lĩnh vực dịch vụ tăng không đáng kể từ năm 2010 đến năm 2013 ở huyện

Phúc Thọ. Nguyên nhân của sự khác nhau này bắt nguồn từ xuất phát điểm xây

dựng nông thôn mới. Trong khi Phúc Thọ là một huyện thuần nông với kinh tế

chậm phát triển thì năm 2008 khi bắt đầu xây dựng nông thôn mới Từ Liêm đã

là một huyện phát triển rất mạnh về nhiều mặt, cùng với những thuận lợi về vị

trí địa lý đã làm cho kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới là

rất khác nhau.

Sự khác nhau này là đặc điểm cần xét đến khi đề ra những phương án giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Đòi hỏi mỗi địa phương cần có những

biện pháp và cách áp dụng riêng biệt phù hợp với tình hình của mỗi địa phương.

Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê huyện Phúc Thọ 2010 – 2013 [19]

Đơn vị tính: người

Hình 3.4. Số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ở huyện

Phúc Thọ qua các năm

Tổng quát hơn, chênh lệch về kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng

nông thôn mới là nguyên nhân tạo ra những khác biệt về cơ cấu kinh tế giữa các

huyện trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Sự khác nhau

87

về cơ cấu kinh tế có thể được thấy rõ khi so sánh giữa Huyện Từ Liêm và Ba Vì

(Hình 3.5)

Đơn vị tính: %

Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm và Ba Vì, 2011 [19]

Hình 3.5. So sánh cơ cấu kinh tế giữa huyện Ba Vì và huyện

Từ Liêm năm 2011

Qua đó có thể thấy ở huyện xây dựng nông thôn mới nhanh như Từ Liêm,

tỷ trọng nông nghiệp rất thấp (1,2%) trong khi tỷ lệ này ở Ba Vì là 43,7%. Việc

cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ

đòi hỏi người lao động có trình độ, được đào tạo nhiều hơn. Sự khác nhau về cơ

cấu kinh tế cũng dẫn đến sự khác nhau tương ứng về cơ cấu lao động ở các

huyện, trong khi ở những huyện công nghiệp hóa ít như Ba Vì phần lớn lực

lượng lao động là lao động nông nghiệp (87%) thì ở huyện Từ Liêm lao động

chủ yếu lại là công nghiệp (57%) và dịch vụ (40,1%) (Hình 3.6).

88

Đơn vị tính: %

Nguồn: Sở lao động thương binh và xã hội thành phố Hà Nội [51]

Hình 3.6. So sánh cơ cấu lao động giữa huyện Ba Vì

và huyện Từ Liêm

Hình 3.6 không chỉ cho thấy sự khác nhau giữa số lượng lao động giữa

các ngành ở hai huyện mà còn cho thấy một phần sự khác nhau về trình độ lao

động. Trong khi lao động ở huyện Từ Liêm có hoạt động tập trung ở ngành công

nghiệp và dịch vụ đòi hỏi trình độ tay nghề cao, kỷ luật tốt hơn thì lao động ở

huyện Ba Vì tập trung chủ yếu ở lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, trình độ

còn thấp. Trong khi ở huyện Từ Liêm tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là khá cao

(bằng 0,75 lần số lao động chưa qua đào tạo) thì ở Ba Vì số lượng lao động chưa

qua đào tạo gấp gần 6 lần số lao động đã qua đào tạo (Hình 3.7).

Đơn vị tính: người

Nguồn: Phân tích kết quả điều tra tại huyện Ba Vì và Từ Liêm [51]

Hình 3.7. So sánh về trình độ lao động giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì

năm 2011

89

Cũng do chênh lệch về trình độ lao động mà thu nhập bình quân của lao

động nông nghiệp ở các huyện là rất khác nhau. Do được, đào tạo và áp dụng

những công nghệ cao, thu nhập của người lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm

đạt 39,4 triệu đồng/người/năm trong khi đó lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì

chỉ có thu nhập 17,5 triệu đồng/người/năm (hình 3.8). Một phần nguyên nhân

của sự khác nhau này là do ở huyện Từ Liêm đã có sự chuyển đổi giống cây

trồng, chuyển từ trồng lúa sang các cây có giá trị kinh tế cao, tạo ra các vùng

chuyên canh như vùng hoa Tây Tựu, vùng bưởi Diễn. Đó cũng là một trong

những tiêu chí của nông thôn mới được thực hiện hướng tới nền nông nghiệp

hiện đại của thủ đô Hà Nội.

Đơn vị tính: Triệu đồng/ người/ năm

Nguồn: Phân tích kết quả điều tra huyện Ba Vì và Từ Liêm [51]

Hình 3.8. So sánh thu nhập của lao động nông nghiệp giữa huyện Từ

Liêm và Ba Vì

Sự khác nhau này gây ra một vấn đề khó khăn trong giải quyết việc làm ở

thành phố Hà Nội, đó là các chính sách do thành phố đề ra chưa thật sự phù hợp

với tất cả các huyện trên địa bàn, do đó kết quả của các chính sách này không

được như mong đợi.

90

Như vậy, tác động của xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội đến lao động

nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng là rất đa dạng, không chỉ thuần túy

ở số lượng việc làm hay thu nhập mà còn tới trình độ lao động, không chỉ về giải

quyết việc làm trước mắt mà còn là sự phát triển bền vững của ngành nông

nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội nói chung.

Có thể tổng kết một số tác động chính của việc xây dựng nông thôn mới

ở Thủ đô Hà Nội tới lao động nông nghiệp như sau:

* Xây dựng nông thôn mới tạo thêm nhiều việc làm trong khu vực phi

chính thức phù hợp với lao động nông thôn.

Thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới sẽ phát triển đồng bộ kết cấu

hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

nâng cao thu nhập và các nhu cầu vật chất, tinh thần của dân cư nông nghiệp,

nông thôn, kéo theo sự phát triển đa dạng về việc làm và các loại hình ngành

nghề trong các thành phần kinh tế, hình thành khu vực kinh tế phi chính thức,

những hoạt động kinh tế như các dịch vụ buôn bán nhỏ tại nhà, xây dựng, sửa

chữa và vận chuyển hàng hóa nhỏ lẻ, giúp việc gia đình, lao động tự do. Sự phát

triển của khu vực kinh tế phi chính thức tạo ra việc làm tạm thời, góp phần giải

quyết việc làm cho một lực lượng không nhỏ lao động nông thôn là những lao

động phổ thông, giản đơn, lao động dôi dư trong nông nghiệp, lao động thuộc

diện thu hồi đất,...

* Xây dựng nông thôn mới thúc đẩy mở rộng không gian đô thị, cải tạo,

xây dựng phát triển hệ thống cơ sở kết cấu hạ tầng, tạo ra nhiều việc làm cho lao

động ở nông thôn và cơ hội cho lao động nông nghiệp chuyển dịch sang các

ngành nghề khác.

Một trong những nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới Hà Nội là đầu tư

xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ hiện đại, gắn với

phát triển đô thị như: Đường giao thông nông thôn, hệ thống thủy lợi, mạng lưới

điện nông thôn, hệ thống trường học, cơ sở vật chất văn hóa, hệ thống chợ nông

91

thôn. Theo đó, nhiều việc làm trong lĩnh vực xây dựng và dịch vụ mới được tạo

ra như: xây dựng hệ thống cầu, đường, nhà cửa, trường học, bệnh viện, trạm y

tế, công viên,... đặt ra nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật

trong lĩnh vực xây dựng, kiến trúc. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều việc làm tạm

thời mà những lao động nông nghiệp lớn tuổi, trình độ thấp có khả năng đáp

ứng, góp phần đáng kể tạo điều kiện thuận lợi giải quyết việc làm cho lao động

tăng thêm.

* Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp với sự phát triển mạnh mẽ công

nghiệp chế biến cùng các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp và phát triển nông

nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao để phát triển kinh tế nông thôn, có

tác dụng thu hút lao động nông nhàn, lao động nông nghiệp chưa có việc làm

vào làm việc thường xuyên hoặc tăng thêm thời gian làm việc cho lao động

nông nghiệp lúc nông nhàn, giải quyết tình trạng lao động thiếu việc làm, từng

bước nâng cao thu thập cho cư dân nông thôn.

* Xây dựng nông thôn mới làm thay đổi cơ cấu việc làm thúc đẩy nâng

cao chất lượng lao động, chất lượng việc làm và năng suất lao động. Quá trình

xây dựng nông thôn mới dẫn đến một lượng lớn đất đai nông nghiệp chuyển

thành đất công nghiệp, đất đô thị và do sự phát triển của sản xuất công nghiệp,

dịch vụ cùng sự tác động của các lĩnh vực này vào nông nghiệp, nông thôn, thúc

đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu

kinh tế công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn cả về giá trị tổng sản lượng và

lao động. Điều đó dẫn đến cơ cấu việc làm sẽ thay đổi theo xu hướng tăng số

lượng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm chỗ làm

việc trong lĩnh vực nông nghiệp; tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ

thuật cao, giảm tỷ lệ lao động phổ thông, giản đơn, lao động chưa qua đào tạo;

tăng tỷ lệ lao động trí tuệ, có năng suất và thu nhập cao, giảm tỷ lệ lao động cơ

bắp có năng suất và thu nhập thấp.

92

* Sự thay đổi cơ cấu việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới làm cho thị trường lao động nông nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tiến trình xây dựng nông thôn mới ngày càng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm ngày càng lớn. Sự gia tăng cung – cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng động là những điều kiện thuận lợi cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin thị trường lao động. Vì vậy, lao động nông nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ việc làm hiện đại, thực hiện các giao dịch trên thị trường lao động.

* Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới cũng mang lại sức ép rất

lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp Hà Nội.

- Quá trình dồn điền đổi thửa đòi hỏi chuyển đổi một bộ phận lớn đất nông nghiệp thành đất công nghiệp, đồng thời đẩy nhanh quá trình đô thị hóa làm thu hẹp số lượng đất đai nông nghiệp, khiến cho một bộ phận ngày càng lớn lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.[58]

- Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn làm một bộ phận lao động nông nghiệp không đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn mới theo yêu cầu hiện đại về trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động. Bộ phận lao động nông nghiệp này phần lớn đã lớn tuổi hoặc trình độ học vấn thấp không còn cơ hội đào tạo nâng cao trình độ và không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới của doanh nghiệp, của nền kinh tế, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp của họ rất hạn chế [53]. Đây là vấn đề kinh tế - xã hội khá phổ biến trong quá trình xây dựng nông thôn mới, tạo sức ép về việc làm đối với lao động nông nghiệp, nông thôn dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.

- Xây dựng nông thôn mới làm tăng lượng lao động nhập cư ngày càng cao gây sức ép lớn về việc làm và sự quá tải về kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục,... ở các khu đô thị.

Quá trình xây dựng nông thôn mới đang tạo ra những cơ hội và thách thức về lao động và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Hà Nội, nhất là những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất. Do vậy, cần xây dựng chiến lược, quy hoạch về an toàn việc làm cho người lao động nông nghiệp dôi dư trước mắt. Mặt khác Hà Nội cần phải có chính sách vĩ mô mang tầm chiến lược về

93

phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội.

Để giải quyết có hiệu quả việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá

trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng cung về sức lao

động, tăng cầu lao động, phát triển thị trường lao động, có sự phối hợp chặt chẽ

giữa Nhà nước với người sử dụng lao động và người sử dụng lao động trong giải

quyết việc làm.

3.3. Thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội

3.3.1. Quá trình xây dựng nông thôn mới ảnh hưởng đến việc làm và

giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp mà trước hết là phát triển sản

xuất nông nghiệp

Trong ba năm qua, mặc dù sản xuất nông nghiệp đã gặp nhiều khó khăn,

ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế, giá cả đầu vào sản xuất liên

tục tăng cao, dịch bệnh, nhập lậu gia súc gia cầm diễn biến hết sức phức tạp, đã

ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sản xuất. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao

của Thành ủy, điều hành của UBND Thành phố, sự cố gắng nỗ lực của các cấp,

các ngành và nhân dân, nên sản xuất nông nghiệp năm 2013 vẫn đạt tăng trưởng

khá. Cụ thể, theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triên Nông thôn Hà Nội

về kết quả sản xuất nông nghiệp Hà Nội năm 2013:

Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2013 ước đạt 9.034,5 tỷ đồng (giá

cố định), tăng 8,85% so với năm 2011 (8.300 tỷ đồng) và ước đạt 38.000 tỷ

đồng (giá thực tế), tăng 26% so với năm 2011 (30.800 tỷ đồng). Giá trị sản xuất

nông, lâm, thủy sản (giá thực tế) đạt 212,4 triệu đồng/ha, tăng hơn 22 triệu

đồng/ha so với năm 2011 (188,4 triệu đồng/ha). Cơ cấu giá trị sản xuất ngành

trồng trọt chiếm 42,4% (giảm 1,62% so với năm 2011); ngành chăn nuôi, thủy

94

sản chiếm 54,4% (tăng 1,65% so với năm 2011); ngành dịch vụ 3,2% (giảm 0,03

so với năm 2011).

Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn Thành phố năm 2013 đạt

295.916,5 ha, giảm 16.615,5 ha so với năm 2011 (đạt 312.532 ha); Tổng sản

lượng lương thực cây có hạt đạt 1,28 triệu tấn, giảm 0,01 triệu tấn so với năm

2011 (đạt 1,29 triệu tấn).

Tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2013 là 26,06 triệu con, giảm 0,28 triệu

con so với năm 2011 (26,34 triệu con); tuy nhiên, tổng sản lượng thịt hơi các

loại năm 2013 đạt 384.478 tấn, tăng 19.478 tấn so với năm 2011 (365.000 tấn).

Sản lượng trứng gia cầm năm 2013 đạt 1.005 triệu quả, tăng 421 triệu quả so với

năm 2011 (584 triệu quả). Sản lượng sữa tươi đạt 22.808 tấn, tăng 6.508 tấn so

với năm 2011 (16.300 tấn). Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2013 là 20.800

ha, tăng 300 ha so với năm 2011 (20.500 ha); Sản lượng sản xuất 75.000 tấn,

tăng 6.000 tấn so với năm 2011 (61.000 tấn).

Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư nâng cấp; hệ thống đê điều, công

trình thủy lợi được củng cố đảm bảo phục vụ sản xuất, an toàn phòng chống lụt

bão và khắc phục hậu quả thiên tai; đời sống vật chất và tinh thần của nông dân

được nâng cao, bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới; góp phần phát triển

kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tư an toàn xã hội trên địa bàn.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TƯ (Nghị quyết Trung ương 7 -

Khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn [22], Hà Nội đã tổ chức triển khai

các thế mạnh về sản xuất nông nghiệp từ nhiều cách làm sáng tạo khác nhau,

mang lại diện mạo mới cho nông thôn Thủ đô. Tổng giá trị sản xuất nông lâm

thủy sản năm 2012 của Hà Nội đạt hơn 37.000 tỷ đồng, tăng 84,6% so với năm

2008. Các chương trình, đề án, dự án phát triển sản xuất nông nghiệp đã được

triển khai đem lại hiệu quả rõ rệt, hình thành và mở rộng nhiều vùng sản xuất

hàng hóa giá trị cao.

95

Tính đến năm 2013, Hà Nội đã xây dựng được 34 vùng sản xuất lúa hàng

hóa chất lượng cao tại 11 huyện, quy mô 10.670ha, 71.048 hộ được đào tạo kỹ

thuật và bước đầu hình thành mối liên kết của bốn nhà (quản lý, khoa học, doanh

nghiệp và nông dân) trong sản xuất. Cùng với sự phát triển ở lĩnh vực trồng trọt,

các chương trình phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm và chăn nuôi quy

mô lớn ngoài khu dân cư cũng đã được nông dân tích cực hưởng ứng, mang lại

hiệu quả cao [20].

Với tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng và sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng

trong nông thôn đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở khu vực

nông thôn, xu hướng hộ sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm và hộ sản xuất

công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng tăng đặc biệt là ở những khu vực

có sự đô thị hóa lớn như Từ Liêm, Hoài Đức… Năm 2011 số hộ thương mại,

vận tải, dịch vụ chiếm 28,67%; hộ nông lâm, thủy sản chiếm 32,4%, hộ công

nghiệp chiếm 28,67%, còn lại 6,34% là hộ khác [50].

Đặc biệt sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, đã có sự phát triển

cả về chất lượng và số lượng của kinh tế trang trại. Tính tới 1/7/2011, toàn thành

phố Hà Nội có 1124 trang trại, trong đó chia theo 4 loại hình bao gồm: 15 trang

trại trồng trọt (1,33%), 917 trang trại chăn nuôi (81,59%), 156 trang trại thủy sản

(13,88%) và 36 trang trại tổng hợp (3,2%) [54]. Theo số liệu trên ta thấy loại

hình sản xuất của trang trại đang có xu hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng

giảm loại hình trang trại trồng trọt, tăng loại hình trang trại chăn nuôi và trang

trại tổng hợp.

Kinh tế trang trại phát triển đã mang lại hiệu quả rất cao, tổng thu từ sản

xuất hàng hóa và dịch vụ bình quân 1 trang trại đạt 2.705,88 triệu đồng/1 trang

trại. Việc hoạt động sản xuất có hiệu quả của loại hình kinh tế trang trại đã giúp

cho đời sống và thu nhập của người dân ngày càng nâng cao và tạo nhiều việc

làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp. Năm 2011 kinh tế trang trại thu hút 5341

lao động thương xuyên và rất nhiều lao động thời vụ [66].

96

Sự phát triển của mô hình kinh tế trang trại ngày càng đòi hỏi trình độ

quản lý và chuyên môn kỹ thuật của người chủ trang trại cũng như của lao động

của trang trại ngày càng cao.

3.3.2. Cung, cầu về việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình

xây dựng nông thôn mới ở thủ đô

3.3.2.1. Cung lao động hiện tăng với số lượng lớn và có bước tiến mới về

chất lượng

a. Về số lượng:

Trong 2 năm 2006- 2007, dân số Hà Nội tăng gần 212.000 người, số

người trong độ tuổi lao động tăng 133.741 người (Bình quân năm tăng 66.870

người), số lao động tham gia hoạt động kinh tế tăng 68.065 người (bình quân

năm tăng 34.000 người)

Tại đề án xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội cho thấy: Từ 1-8-

2008, do thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-QH về mở rộng địa giới hành chính

Thủ đô Hà Nội, trên cơ sở hợp nhất Thủ đô Hà Nội với tỉnh Hà Tây, huyên Mê

Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã (tỉnh Hoà Bình) dân số Hà Nội tăng nhanh từ

3.556.000 người trước 01-01-2008 lên 6,4 triệu người sau hợp nhất, dân số trong

độ tuổi lao động từ 2.256.000 người lên 4,3 triệu, trong đó số lao động tham gia

hoạt động kinh tế 3,2 triệu người, quy mô cung lao động khoảng 170.000 lao

động/năm tương ứng 5,34% số lao động tham gia hoạt động kinh tế toàn Thành

phố.

Tính đến năm 2012, khu vực nông thôn Hà Nội có trên 2,1 triệu lao động

(trong đó chủ yếu là lao động nông nghiệp), chiếm 58,81% tổng dân số toàn

thành phố, cung ứng cho thị trường lao động một số lượng lao động lớn [64].

Tuy nhiên, do trình độ chuyên môn còn thấp và chưa đồng đều nên tỷ lệ lao

động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn cũng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,28%

(xem bảng 3.3).

97

Bảng 3.3: Dân số từ 15 tuổi trở lên và dân số trong độ tuổi lao động có việc làm

Đơn vị: Người

chia theo huyện ở khu vực nông thôn (năm 2012)

Dân số trên 15 tuổi

Lao động có việc làm

STT

Huyện

Chung

Nam

Chung

Nam

Nữ

Nữ

2

3

A

B

1

5

6

4

1

2.144.354 1.050.503 1.093.851 1.344.896

711.078

633.818

Tổng số

2

192.484

95.040

97.444

130.890

68.558

62.332

Huyện Sóc Sơn

3

196.606

95.544

101.062

125.840

65.149

60.691

Huyện Đông Anh

4

126.212

61.313

64.899

77.410

40.706

36.704

Huyện Gia Lâm

5

167.988

82.591

85.397

94.842

50.595

44.247

Huyện Từ Liêm

6

117.089

57.528

59.561

70.467

37.790

32.677

Huyện Thanh Trì

7

122.471

60.147

62.324

77.807

40.568

37.239

Huyện Mê Linh

8

121.976

59.254

62.722

76.589

40.145

36.444

Huyện Phúc Thọ

9

102.059

50.008

52.051

60.596

32.282

28.314

Huyện Đan Phượng

137.779

67.089

70.690

84.758

45.144

39.614

10 Huyện Hoài Đức

127.662

62.947

64.715

82.121

44.049

38.072

11 Huyện Thanh Oai

139.199

68.250

70.949

89.525

47.520

42.005

12 Huyện Phú Xuyên

128.589

63.897

64.692

81.693

43.793

37.900

13 Huyện Mỹ Đức

14

40.715

19.358

21.357

26.232

13.484

12.748

Thành phố Sơn Tây

114.203

55.673

58.530

73.667

38.527

35.140

15 Huyện Quốc Oai

160.302

78.705

81.597

102.882

54.810

48.072

16 Huyện Thường Tín

149.020

73.159

75.861

89.577

47.958

41.619

17 Huyện Ứng Hòa

Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2012 [18]

Từ bảng 3.9 cho thấy số lượng lao động thiếu việc làm là 799.458 người

chiếm tỷ lệ 37,28% trong đó tỷ lệ lao động nam thất nghiệp là 32,3% và tỷ lệ lao

động nữ thất nghiệp là 42%. Sự chênh lệch về tỷ lệ lao động nam và nữ thất

nghiệp có ảnh hưởng tới công tác hướng nghiệp và định hướng đào tạo nghề để

giải quyết việc làm cho lao động.

98

Năm 2011, tổng số lao động nông nghiệp của thành phố là 1.158.102

người trong đó lao động nông nghiệp chuyên nghiệp chiếm 35,1% (406.544

người), lao động nông nghiệp kiêm các ngành nghề khác chiếm 16,2% (187.852

người), lao động các ngành phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp

chiếm 48,7%( 563.706 người) (Hình 3.9).

Đơn vị tính: %

Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội thành phố Hà Nội [17, 52]

Hình 3.9. Cơ cấu lao động nông nghiệp phân theo mức độ tham gia

Lực lượng lao động nông nghiệp cũng phân bổ không đều giữa các huyện

trong thành phố (hình 3.10). Sự phân bố không đều này tạo ra nhiều khó khăn

khi áp dụng các chính sách giải quyết việc làm giữa các địa phương nhất là trong

công tác xây dựng mạng lưới đào tạo nghề. Dựa vào hình 3.10 có thể thấy lượng

lao động nông nghiệp cao nhất là ở huyện Ba Vì (85.637 người) và thấp nhất

thuộc huyện Từ Liêm (12.987 người) [7, 8]. Nguyên nhân của điều này là do

việc xây dựng nông thôn mới chưa đều ở các huyện dẫn đến sự khác nhau lớn về

cơ cấu kinh tế mà tác giả sẽ trình bày ở phần tiếp theo của luận án.

99

Đơn vị tính: người

Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội [53]

Hình 3.10. Phân bổ lao động nông nghiệp ở các huyện trên địa bàn Hà Nội

Để có thể có được những phương hướng giải quyết việc làm phù hợp cần

kết hợp giữa sự phân bổ lực lượng lao động nông nghiệp làm căn cứ lâu dài và

sự phân bổ nhu cầu đào tạo nghề trước mắt. Do đó tác giả đã thống kê phân bổ

lực lượng lao động trẻ theo các huyện ở Hà Nội (hình 3.11).

Đơn vị tính: người

Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội [51]

Hình 3.11. Phân bổ lao động nông nghiệp trẻ ở các huyện trên

địa bàn Hà Nội

100

Sự khác nhau về lao động nông nghiệp giữa các huyện còn được thể hiện

qua cơ cấu các nhóm ngành trong sản xuất nông nghiệp Hà Nội (hình 3.12).

Theo đó phần lớn lao động nông nghiệp ở Hà Nội tập trung ở lĩnh vực trồng trọt

và chăn nuôi (lần lượt là 44,44% và 42,5%) (tuy nhiên tỷ lệ này là khác nhau

giữa các địa phương, có thể thấy qua ví dụ so sánh giữa huyện Ba Vì và huyện

Hoài Đức) (Hình 3.13).

Đơn vị tính: %

Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội [51]

Hình 3.12. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội 2009

Theo hình 3.13, toàn bộ lao động nông nghiệp huyện Ba Vì và Hoài Đức

đều hoạt động trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, tuy nhiên trong khi phần

lớn lao động nông nghiệp huyện Ba Vì tập trung ở lĩnh vực trồng trọt chiếm

61% thì ở huyện Hoài Đức lực lượng lao động nông nghiệp trong lĩnh vực chăn

nuôi lại là lực lượng chính chiếm 62,2%. Sự khác nhau này là do điều kiện tự

nhiên cũng như tập quán lao động ở các địa phương. Đây là căn cứ quan trọng

để nghiên cứu xây dựng chính sách giải quyết việc làm riêng cho từng địa

phương ở Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

101

Đơn vị tính: %

Nguồn: Phân tích kết quả điều tra huyện Ba Vì và Hoài Đức [51]

Hình 3.13. So sánh cơ cấu lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì và

Hoài Đức

b. Chất lượng cung lao động:

Trong những năm qua, công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được

các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, triển khai với nhiều chương trình, giải

pháp đồng bộ, có hiệu quả, tạo ra sự chuyển biến tích cực. Quy mô và chất

lượng đào tạo nghề từng bước đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực công nhân

kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.

Tính đến tháng 4/2009, thực hiện xã hội hoá công tác dạy nghề, toàn

Thành phố có 279 cơ sở dạy nghề với đa dạng sở hữu và cấp độ đào tạo. Đồng

thời với việc phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, để đào tạo được lực

lượng công nhân kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá Thủ đô, Thành phố đã tập trung đầu tư xây dựng mới Trường đào

tạo công nhân kỹ thuật cao tại Tây Mỗ, Từ Liêm để đào tạo lao động cho khu

vực nông thôn trong 4 nhóm ngành chủ yếu là: Cơ khí, điện, điện tử, Tin học với

quy mô 3.000 học sinh/năm (đi vào hoạt động cuối năm 2010), năm 2009 triển

102

khai dự án đầu tư xây dựng Trường đào tạo công nhân kỹ thuật cao Việt- Hàn

(tại Nguyên Khê, Đông Anh) với quy mô đào tạo 3.000 học sinh/ năm.

Với hệ thống cơ sở dạy nghề ngày càng được tăng cường cả số lượng và

chất lượng, số lao động được dạy nghề cũng ngày một tăng lên, đáp ứng yêu cầu

cung lao động cho sản xuất, từ 68.500 lao động được đào tạo năm 2006, tăng lên

17.000 lao động năm 2008 (HN mới), ngoài đào tạo chính quy, Thành phố đã

chỉ đạo tổ chức dạy nghề, truyền nghề cho 14.000 lao động nông nghiệp, lao

động trong các làng nghề, trong đó 3.500 lao động chuyển đổi mục đích sử dụng

đất nông nghiệp, 1.803 người nghèo, 1.123 người tàn tật, 6.738 người cai

nghiện ma tuý.

Chất lượng đào tạo ngày một nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên

95%, tỷ lệ học sinh có việc làm sau tốt nghiệp đạt trên 70%, có nhiều trường dạy

nghề đạt 100% số học sinh ra trường có việc làm. Theo đánh giá của người sử

dụng lao động, kỹ năng nghề của lao động nông nghiệp qua đào tạo nghề trên

30% đạt khá giỏi, gần 59% đạt loại trung bình.

Tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo toàn Thành phố tăng lên đạt 45%,

trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 23% (tốc độ tăng 3,5% năm), tuy nhiên,

chất lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phân bố không đều, tập

trung ở vùng đô thị, các quận nội thành, lao động qua đào tạo nói chung, đào tạo

nghề nói riêng ở khu vực nông thôn còn thấp (Phụ lục 1).

Để thấy rõ tác động của việc xây dựng nông thôn mới tới chất lượng lao

động nông nghiệp có thể so sánh sự khác nhau về tỷ lệ lao động nông nghiệp

được đào tạo ở một huyện có sự xây dựng nông thôn mới mạnh mẽ (Từ Liêm:

có 12 xã đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới và 3 xã còn lại là cơ bản đạt) và

một huyện có tiến trình xây dựng nông thôn mới trung bình (Phúc Thọ: chưa xã

đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới tính đến hết năm 2013). (Hình 3.14)

103

Đơn vị tính: %

Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm và Phúc Thọ, 2010, 2013 [51]

Hình 3.14. So sánh chất lượng lao động giữa huyện Phúc Thọ và huyện Từ Liêm

Qua biểu đồ có thể thấy rõ sự khác nhau về trình độ lao động giữa hai

huyện. Ở Từ Liêm năm 2009 khi bắt đầu xây dựng nông thôn mới, số lao động

chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ 57%, sau 3 năm xây dựng nông thôn mới tỷ lệ này

đã giảm xuống còn 46,5% trong khi tỷ lệ lao động được đào tạo tăng từ 43% lên

53,5%. Trong khi đó ở một huyện có tốc độ xây dựng nông thôn mới ở mức

trung bình là Phúc Thọ, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo năm 2009 là 72% và sau

4 năm tỷ lệ này đã tăng lên 86,4%, tỷ lệ lao động được đào tạo chỉ ở mức 13,6%.

Như vậy chất lượng lao động là rất khác nhau giữa các vùng của thành phố mà

nguyên nhân là chủ trương đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tổ chức

thực hiện có hiệu quả khác nhau trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

Xét riêng về lao động nông nghiệp, năm 2011 ở Hà Nội tỷ lệ lao động

chưa qua đào tạo ở mức cao (93,55%), tỷ lệ có trình độ đại học trở lên chỉ đạt

0,28% (Hình 3.15)

104

Đơn vị tính: %

Nguồn: Phân tích số liệu điều tra 401 xã Hà Nội (phụ lục 4)

Hình 3.15. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội phân theo trình độ

chuyên môn

Trình độ của lao động nông nghiệp cũng có sự khác biệt giữa những

huyện xây dựng nông thôn mới mạnh mẽ như ở huyện Từ Liêm và những huyện

có tốc độ xây dựng nông thôn mới ở mức trung bình như ở huyện Phúc Thọ,

huyện Sóc Sơn.

Đơn vị tính: %

Nguồn: Phân tích số liệu điều tra ba huyện (phụ lục 4)

Hình 3.16. So sánh trình độ lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm,

Sóc Sơn, Phúc Thọ

105

Hình 3.16 chỉ rõ ảnh hưởng của quá trình xây dựng nông thôn mới tới

trình độ của người lao động. Ở Huyện Từ Liêm tỷ lệ người lao động được đào

tạo đạt 17,36% cao hơn gấp 4 lần ở huyện Sóc Sơn và Phúc Thọ (đều chỉ đạt

gần 4%) , và gấp 2,7 lần so với tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo của

thành phố ( đạt 6,45%). Đây chính là kết quả tích cực của quá trình xây dựng

nông thôn mới ở Từ Liêm. Quá trình xây dựng nông thôn mới kéo theo sự phát

triển của kinh tế và chất lượng cuộc sống, đòi hỏi người lao động nông nghiệp

phải học tập nâng cao trình độ để đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông

nghiệp hiện đại. Đồng thời đây cũng là kết quả của chính sách giải quyết việc

làm khi xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội.

3.3.2.2. Cầu lao động có xu hướng tăng và đa dạng do chính sách khuyến

khích phát triển kinh tế nhiều thành phần và sự hỗ trợ của Nhà nước tạo việc

làm cho người lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở

Hà Nội

a. Về quy mô cầu lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông

thôn mới ở Hà Nội trong ba năm qua có xu hướng tăng tạo thuận lợi cho việc

giải quyết việc làm cho lao động nông thôn :

- Quy mô cầu lao động Thành phố Hà Nội tăng do chính sách phát triển

kinh tế xã hội, 3 năm qua, trên địa bàn Hà Nội thành lập mới 35.245 doanh

nghiệp, tổng cầu lao độngtăng158.500 người (bình quân năm tăng 53.000

người), trong đó cầu lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng 48.000

người, cầu lao động dịch vụ tăng 84.000 người, cầu lao động nông nghiệp tăng

27.000 người. Đến cuối 2008, Hà Nội có 76.135 doanh nghiệp, trong đó doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.250, doanh nghiệp nhà nước 676, doanh

nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp và doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ

74.029. Quy mô cầu lao động năm 2008 tăng khoảng 49.000 lao động, nhưng

chỉ bằng 75% so với quy mô của cung lao động (Cung lao động tăng 65.000

người).

106

- Cầu lao động ngoài nước: các DN có chức năng đưa lao động đi XKLĐ

tăng lên do địa giới hành chính Thủ đô mở rộng, từ 59 doanh nghiệp lên 85

doanh nghiệp. Nhu cầu tuyển lao động đi XKLĐ của các DN XKLĐ trên địa

bàn năm 2008 là 15.000 người.

- Chính sách hỗ trợ cho vay vốn giải quyết việc làm của Nhà nước và

thành phố bình quân mỗi năm tạo ra khoảng 24.000- 25.000 chỗ làm việc trong

các DN vừa và nhỏ, kinh tế cá thể và hộ gia đình .

Việc xây dựng nông thôn mới cũng góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho

người dân. Ở xã Tây Tựu huyện Từ Liêm, toàn bộ 3,2km đường liên thôn được

mở rộng đã tạo việc làm cho khoảng 200 hộ gia đình kinh doanh dịch vụ, nhiều

hộ gia đình đã đầu tư nhà lạnh để bảo quản hoa nâng cao chất lượng dịch vụ

tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp. Cũng do đường giao thông được mở

rộng, kinh tế ở xã Tây Tựu đã phát triển mạnh, khoảng 800 – 1000 hộ dân đã mở

rộng quy mô sản xuất trồng hoa bằng cách thuê thêm đất và lao động ở các

huyện lân cận, tạo việc làm cho một lượng lao động nông nghiệp không nhỏ cho

các huyện lân cận. Hơn nữa chính các hộ nông dân này là những người chuyển

giao nghề tốt nhất cho lao động nông nghiệp ở tại địa phương mà họ đến thuê

đất (huyện Hoài Đức, huyện Đan Phượng) góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp ở những địa phương đó.

Một loại hình sản xuất quan trọng, điển hình ở Hà Nội, là nguồn cung cấp

việc làm cho rất nhiều lao động nông nghiệp là các làng nghề. Tính đến năm

2013 toàn thành phố Hà Nội có trên 1.300 làng nghề. Các làng nghề này thu hút

một lực lượng lớn lao động nông nghiệp, tuy nhiên phân bố không đều giữa các

địa phương.

107

Đơn vị: Làng nghề

Nguồn: Phân tích số liệu sở Lao động thương binh xã hội

Hình 3.17 . Phân bố làng nghề tại các huyện trên địa bàn Hà Nội

Có thể thấy các làng nghề tập trung chủ yếu ở các huyện thuộc Hà Tây cũ như Thanh Oai, Thường Tín… Do đó ở các địa phương này cần có chính sách riêng biệt về giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng tay nghề cho lao động để duy trì và phát triển làng nghề, đồng thời có chính sách ứng dụng khoa học công nghệ vào làng nghề truyền thống để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống, mở rộng làng nghề giúp thu hút lao động nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm ở làng nghề.

b. Kết quả giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình

xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội.

Bằng nhiều chương trình và biện pháp, trong 3 năm 2006-2008, toàn thành phố đã tạo việc làm cho 356.443 người , trong đó: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tạo việc làm cho 269.929 người chiếm 75,7% tổng số. Chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm tạo việc làm cho 48.371 lao động chiếm 13,6%; xuất khẩu lao động 12.468 người chiếm 3,5% (Phụ lục1).

Kết quả giải quyết việc làm đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp của toàn thành phố xuống còn 5% năm 2012. Trong số lao động có việc làm của thành phố, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (tính từ trung cấp nghề trở lên) chiếm 36,87%, lao động chưa qua đào tạo chiếm 55,76%. Như vậy có thể thấy lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số lao động có việc

108

làm, hầu hết những lao động này làm công việc thời vụ, mức lương thấp và những quyền lợi của người lao động cũng không được quan tâm đầy đủ.

Đối với khu vực nông thôn, tình trạng lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo, thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm phần lớn. Cụ thể là lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo ở khu vực nông thôn chiếm 74,88%, lao động nông nghiệp có trình độ trung cấp trở lên chỉ chiếm 17,49%. Đây là một điểm hạn chế của lao động nông nghiệp khu vực nông thôn, làm giảm sức cạnh tranh cũng như thu nhập của lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Bảng 3.4: Cơ cấu lao động nông nghiệp có việc làm trong tuổi LĐ ở khu vực nông thôn Hà Nội năm 2012 chia theo trình độ CMKT và giới tính

Đơn vị: %

Nông thôn

Toàn thành phố

STT

Trình độ CMKT

Chung Nam Nữ Chung Nam

Nữ

A

B

1

2

3

4

5

6

1

Tổng số

100

100

100

100

100

100

2

Chưa qua đào tạo

55,76

53,88

57,9

74,88

7,.05

78,09

3

CNKT không bằng

4,92

2,65

4,26

5,64

3,86

2,70

4

Đào tạo dưới 3 tháng

0,66

0,44

0,46

0,61

0,56

0,3

5

Sơ cấp nghề

3,64

2,00

2,33

3,09

2,87

1,47

6

Có bằng nghề dài hạn

1,27

0,27

0,58

0,94

0,80

0,18

7

5,26

3,99

3,75

4,61

4,67

2,78

8

3,51

4,79

3,15

2,76

4,11

3,59

9

Trung cấp nghề Trung học chuyên nghiệp Cao đẳng nghề

0,83

0,77

0,78

0,85

0,80

0,70

10 Cao đẳng chuyên nghiệp

2,41

4,05

2,72

1,99

3,18

3,55

11 Đại học

6,80

7,14

21,64

21,68

21,59

6,41

12 Thạc sĩ

0,23

0,25

1,47

1,38

1,43

0,20

13 Tiến sĩ

0,32

0,45

0,03

0,18

0,07

0,05 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2012 [20]

109

3.3.3. Đánh giá tình hình giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

của thành phố Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới

3.3.3.1. Những thành công trong giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội

Từ năm 2006 - 2010, có 457.300 lượt người được đào tạo nghề, bình quân

mỗi năm có 114.325 lượt người được đào tạo nghề (hệ cao đẳng nghề và trung

cấp nghề chiếm 37,5%, sơ cấp nghề chiếm 62,5%). Cơ cấu lao động và nghề đào

tạo đã từng bước chuyển dịch theo nhu cầu thị trường lao động, theo hướng dịch

vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Số lượng các cơ sở dạy nghề tăng hàng năm,

tính đến nay, hệ thống cơ sở dạy nghề trên địa bàn Thành phố có 275 cơ sở,

(trong đó cơ sở dạy nghề công lập là 120 và ngoài công lập là 155), số cơ sở

tăng thêm chủ yếu là các cơ sở dạy nghề ngoài công lập.

Công tác xã hội hoá dạy nghề được quan tâm. Mọi thành phần kinh tế đều

được khuyến khích tham gia công tác đào tạo nghề, góp phần hình thành mạng

lưới cơ sở dạy nghề đa dạng với nhiều hình thức đào tạo.

UBND TP Hà Nội đã ban hành văn bản số 112/KH-UBND ngày

24/8/2012 về kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số

1956/QĐ-TTg trên địa bàn thành phố Hà Nội [65]. Mục tiêu đề ra của kế hoạch

là: Thành phố dự kiến dạy nghề cho 30.500 lao động nông nghiệp, trong đó, đào

tạo trình độ sơ cấp nghề và dưới 3 tháng cho 30.000 lao động nông nghiệp (nghề

nông nghiệp: 11.245 người, nghề phi nông nghiệp 15.755 người). Đào tạo trình

độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề cho 500 lao động nông nghiệp là người dân

tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách

mạng, hộ nghèo và hộ cận nghèo.

Đồng thời, Thành phố cũng sẽ đào tạo bồi dưỡng 2.300 cán bộ, công

chức cấp xã, bao gồm: Bồi dưỡng nghiệp vụ công chức xã: chức danh Địa

chính- Xây dựng cho 500 người; Bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý cho Chủ

tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND trúng cử lần đầu cho

110

1.000 người; Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho công chức xã sau tuyển dụng:

800 người.

Thực hiện Kế hoạch trên, các huyện trên địa bàn thành phố đã căn cứ

quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn và nhu cầu sử dụng lao động

nông nghiệp qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp, nhu cầu học nghề của lao

động nông nghiệp lựa chọn các nghề phù hợp, có khả năng tạo việc làm, tăng

năng suất, thu nhập cho người dân để tổ chức dạy nghề cho lao động nông

nghiệp, trong đó, đặc biệt ưu tiên các xã xây dựng nông thôn mới để sớm hoàn

thành các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới và lao động nông nghiệp thuộc đối

tượng hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, người

dân tộc thiểu số, người thuộc hộ bị thu hồi đất canh tác… Các địa phương song

song với các chương trình đào tạo nghề đã thực hiện tập trung quy hoạch vùng

sản xuất, thâm canh nông nghiệp ổn định, xây dựng chương trình khuyến nông,

khuyến ngư, mô hình kinh tế trang trại, mô hình chăn nuôi thuỷ sản, tạo điều

kiện và mở rộng phát triển các ngành nghề mới trong nông thôn như cơ khí,

chăm sóc cây cảnh,… đây là những ngành nghề hết sức cần thiết và giải quyết

tốt lao động nông nghiệp tại chỗ của mỗi địa phương.

Trong 3 năm 2010 – 2012 tiêu biểu của thành phố Hà Nội là Huyện Đan

Phượng đã đào tạo nghề cho 4.116 lao động nông nghiệp với tổng mức kinh phí

hỗ trợ trên 3,1 tỷ đồng. Các ngành nghề đào tạo chủ yếu như: May CN, tin học

văn phòng, chăn nuôi thú y, kỹ thuật nấu ăn, trồng và chăm sóc cây cảnh, trồng

hoa và một số nghề phi nông nghiệp như: Công nghệ sửa chữa ô tô, điện dân

dụng và công nghiệp, sửa chữa điện thoại, sửa chữa và lắp ráp máy vi tính,

hướng dẫn du lịch…

Ngày 12/5/2007, Sàn giao dịch việc làm (GDVL) Hà Nội do Trung tâm

Giới thiệu việc làm Hà Nội tổ chức thực hiện đã khai trương và đi vào hoạt

động.

111

Tỷ lệ kết nối cung – cầu lao động tại phiên GDVL không ổn định và phụ

thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Tại Sàn GDVL

Hà Nội, tỷ lệ kết nối cung – cầu lao động thường đạt từ 18 – 25%. Năm 2007,

2008 là những năm đầu tiên Sàn GDVL Hà Nội đi vào hoạt động, do chưa có

nhiều kinh nghiệm chắp nối việc làm giữa doanh nghiệp và người lao động nên

tỷ lệ kết nối cung - cầu lao động mới đạt 22%. Cuối năm 2008 và năm 2009 các

doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế

giới làm cho tỷ lệ kết nối cung - cầu lao động tại phiên GDVL ảnh hưởng theo,

năm 2009 chỉ đạt 18,72%. Từ năm 2010 trở đi, tình hình sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn Hà

Nội nói riêng tiếp tục gặp khó khăn. Trước tình hình đó, Trung tâm Giới thiệu

việc làm Hà Nội đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng hiệu quả kết nối cung –

cầu lao động tại Sàn GDVL Hà Nội (tăng tần suất tổ chức các Phiên GDVL, đẩy

mạnh công tác thông tin, tuyên truyền tới người lao động và người sử dụng lao

động về hoạt động của Sàn GDVL dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng

như: Xây dựng phóng sự phát trên Đài Truyền hình Trung ương, Hà Nội; Thông

tin trên hệ thống Loa phát thanh của các phường, xã; Tuyên truyền trên kênh

VOV giao thông; Treo băng rôn tại các Trường đại học, cao đẳng và trung cấp

nghề…, mở nhiều lớp tư vấn, đào tạo kỹ năng tham dự phỏng vấn cho người lao

động trước khi tham dự phỏng vấn tại Sàn GDVL. Vì vậy, đã nâng hiệu quả kết

nối cung - cầu lao động tại Sàn GDVL Hà Nội lên 20,54% năm 2010; 24,82%

năm 2011 và năm 2012 là 22,4%.

Kết quả hoạt động của Sàn GDVL từ năm 2007 – 2012 như sau:

- Tổng số phiên GDVL đã được thực hiện trên địa bàn Hà Nội từ năm

2007 đến nay là 278 phiên, trong đó: Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội tổ

chức thực hiện: 175 phiên, chiếm 63%. Riêng năm 2012 đã tổ chức: 112 phiên,

chiếm 40,3% tổng số phiên GDVL đã tổ chức từ năm 2007 đến nay;

112

- Tổng số đơn vị đã tham gia phiên GDVL: 15.436 doanh nghiệp, trong

đó: Số doanh nghiệp tham gia phiên tại Sàn GDVL do Trung tâm GTVL Hà Nội

tổ chức: 11.761 đơn vị, chiếm 76%, điều đó cho thấy quy mô của phiên GDVL

được tổ chức tại Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội lớn hơn rất nhiều so với

tổ chức tại Trung tâm Giới thiệu việc làm số 2 Hà Nội. Riêng năm 2012, có

4.574 đơn vị tham gia, tăng 1.537 doanh nghiệp so với năm 2010; tăng 727

doanh nghiệp so với năm 2011 và gấp 22,5 lần số doanh nghiệp tham gia năm

2007;

- Tổng số lao động đã được các doanh nghiệp tuyển dụng qua hoạt động

của Sàn giao dịch việc làm từ năm 2007 -2012 là: 109.150 người, trong đó, số

lao động được doanh nghiệp tuyển dụng tại Sàn GDVL Hà Nội: 85.182 người,

chiếm 78% tổng số lao động được tuyển dụng qua hoạt động của Sàn GDVL ở

Hà Nội trong 5 năm qua. Riêng năm 2012 tổng số lao động được các doanh

nghiệp tuyển dụng qua hoạt động của Sàn GDVL là 21.273 người.

3.3.3.2. Những điểm chưa thành công trong giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội

* Quan hệ cung- cầu lao động trên thị trường chưa được giải quyết tốt.

Cung lao động tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của cầu lao động nông nghiệp

- Chất lượng cung lao động nông nghiệp còn thấp:Cung lao động nông

nghiệp tuy dồi dào song tỷ trọng lao động nông nghiệp qua đào tạo mới đạt 45%

(trong đó qua đào tạo nghề 23% là thấp), thị trường lao động hiện nay đang cần

nhiều lao động trình độ kỹ thuật cao, cán bộ quản lý và chuyên gia giỏi; mạng

lưới cơ sở đào tạo nghề tuy nhiều nhưng chưa đủ mạnh, cơ sở vật chất ở các cơ

sở đào tạo nghề còn nghèo nàn (trang thiết bị, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên

và nội dung đào tạo chậm đổi mới...) ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, chưa

đáp ứng được yêu cầu sử dụng của thị trường lao động (kể cả cầu lao động trong

và ngoài nước), chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học nghề có chất lượng cao, gây

khó khăn cho doanh nghiệp sử dụng và cho người sau khi học nghề đi tìm việc

làm.

113

- Cầu lao động kỹ thuật một số nhóm ngành và cấp độ đào tạo có xu

hướng chững lại và tăng chậm trong khi cung lao động có chuyên môn kỹ thuật

của nhóm ngành này vẫn tăng lớn (Rõ nhất là nhóm lao động có trình độ đại

học, cao đẳng các ngành kinh tế, luật...) nên có một bộ phận cung lao động có

trình độ cao phải chấp nhận làm những vị trí công việc có yêu cầu trình độ thấp

hơn, gây lãng phí và bất hợp lý trong sử dụng nguồn nhân lực.

- Cầu lao động nông nghiệp phổ thông, lao động trong các làng nghề và

lao động xuất khẩu lao động trên địa bàn khá phong phú, với số lượng lớn, song

tâm lý kén chọn việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp Hà Nội còn rất

nặng nề (phần lớn người lao động không muốn làm các công việc giản đơn,

nặng nhọc, thu nhập thấp) nên kết quả giải quyết việc làm hàng năm cũng chỉ

đáp ứng khoảng 50- 55% cầu lao động của khu vực này trên thị trường lao động.

* Mặc dù công tác tạo việc làm cho lao động nông nghiệp được các cấp

quan tâm và đầu tư nhiều nguồn lực hỗ trợ nhưng tỷ trọng việc làm bền vững

tăng chậm, việc làm không ổn định, tạm thời còn khá cao chiếm khoảng 45%

kết quả giải quyết việc làm hàng năm.

* Quản lý nhà nước đối với thị trường lao động còn khó khăn, bất cập,

việc nắm bắt các thông tin thị trường và các giải pháp điều tiết cung- cầu chưa

linh hoạt... Các thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động, tuyển sinh học nghề...

người lao động nông nghiệp ở các vùng nông thôn, vùng xa khó có cơ hội tiếp

cận nên việc chọn nghề và tìm việc làm gặp khó khăn.

* Đội ngũ cán bộ viên chức và lao động của hệ thống giới thiệu việc làm

còn thiếu, yếu về chuyên môn nên việc tư vấn việc làm, học nghề, giới thiệu

việc làm cho người lao động nông nghiệp và kết nối cung- cầu lao động trên thị

trường lao động nông nghiệp còn hạn chế, kết quả chưa cao.

* Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong nhân dân về

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong dạy nghề, học nghề việc

làm chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của công tác dạy nghề và giải quyết việc

114

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới, vẫn còn

tồn tại tâm lý chỉ muốn lựa chọn cấp học ở trình độ cao (Đại học, Cao đẳng)

nên một bộ phận thanh niên Thủ đô chưa thật sự thiết tha với học nghề, kén

chọn việc làm không muốn làm việc khó khăn, nặng nhọc, thu nhập thấp, không

muốn làm việc ở ngành nông nghiệp (Hiện nay cán bộ trẻ có trình độ chuyên

môn về cơ khí, thủy lợi về phục vụ cho nông nghiệp nông thôn là rất thiếu). Bên

cạnh đó, nhận thức của người lao động các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng

đất còn hạn chế, tiền đền bù và hỗ trợ người dân chủ yếu sử dụng vào mục đích

xây nhà, mua sắm thiết bị sinh hoạt, chưa chú trọng đến tạo việc làm và học

nghề cho bản thân đã tạo ra mâu thuẫn giữa trình độ năng lực của người tìm việc

với yêu cầu sử dụng của các nhà tuyển dụng khiến cung - cầu lao động khó đáp

ứng nhau, hạn chế đến kết quả giải quyết việc làm hàng năm.

Diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, bình quân ruộng đất đầu người

hiện đã rất thấp, phân bố lại manh mún, nhỏ lẻ, làm chia cắt hệ thống công trình

thủy lợi, giảm năng lực phục vụ của hệ thống này đồng thời gây khó khăn cho

việc xây dựng nền sản xuất hàng hóa.

Tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa ở các huyện ngoại thành diễn ra

mạnh mẽ gây áp lực rất lớn cho việc tiêu thoát nước và sử lý môi trường, giải

quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động nông nghiệp mất đất sản xuất

nhưng chưa đủ điều kiện để chuyển sang ngành nghề khác.

Trình độ thâm canh, cũng như ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất

giữa các vùng miền có sự chênh lệch, ảnh hưởng đến việc chuyển giao đưa tiến

bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất trên diện rộng.

Sự hội nhập kinh tế vào kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng tạo sức ép

trong cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày càng lớn, trong khi sản

xuất nông nghiệp vẫn còn nhỏ lẻ, hàng nông sản vẫn còn là sản phẩm thô sơ.

Vấn đề thương hiệu hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm, quảng bá sản phẩm

chưa được chú trọng đúng mức.

115

Các công trình thủy lợi, đê điều ngày càng xuống cấp; hạ tầng nông thôn

ở những vùng sâu và xa thành phố còn yếu và thiếu.

Năng lực của cán bộ các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp còn nhiều hạn

chế, công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn,

hiệu quả chưa tương xứng với việc đầu tư ngân sách nhà nước đã chi dùng trong

quá trình thực hiện đề án 1956 của chính phủ.

3.3.3.3. Những vấn đề đặt ra

+ Địa bàn Hà Nội rộng, số đơn vị hành chính cấp xã ở khu vực nông thôn

lớn, với cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn và chưa đồng bộ, đòi hỏi nguồn lực đầu tư

rất lớn.

+ Sự phát triển của các địa phương không đồng đều, trình độ dân trí, thu

nhập, đời sống vật chất và tinh thần của người dân khu vực nông thôn còn chênh

lệch lớn so với khu vực nội thành.

+ Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp ở khu vực nông thôn còn thấp,

lao động nông nghiệp qua đào tạo phân bố theo khu vực còn mất cân đối, lực

lượng lao động kỹ thuật tập trung ở đô thị, còn ở khu vực nông thôn thì lại thiếu.

+ Việc thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế dẫn đến

cơ cấu lao động cũng thay đổi nhưng chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Cơ cấu

lao động trong nông nghiệp giảm, nhưng sự mất cân đối giữa cơ cấu lao động và

cơ cấu kinh tế nên đã gây ra tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động. Tình

hình việc làm và sử dụng quỹ thời gian lao động nông nghiệp tuy đã có những

tiến triển rõ rệt, song giá trị lao động nông nghiệp và thu nhập của lao động

nông nghiệp vẫn còn ở mức thấp.

+ Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa ở nông thôn thường không ổn

định, đầu ra của sản phẩm còn chưa có nơi tiêu thụ, đó là nguyên nhân gây khó

khăn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh tạo thêm việc làm cho người lao

động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô.

+ Chương trình giải quyết việc làm của thành phố có được triển khai thực

hiện nhưng chưa đồng bộ và toàn diện ở các huyện nên kết quả còn chưa cao.

116

+ Lực lượng lao động nông nghiệp ở nông thôn trên địa bàn thành phố có

nguy cơ thất nghiệp không lớn nhưng tình trạng dư thừa lao động nông nghiệp

lại khá cao, vì vậy có ảnh hưởng đến sự ổn định trong đời sống vật chất, tinh

thần của một bộ phận dân cư ở khu vực này. Người lao động nông nghiệp không

có điều kiện học nghề, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật nên gặp khó khăn

trong tìm việc làm, không có việc làm thường xuyên dễ nảy sinh tiêu cực, tệ nạn

xã hội.

+ Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý ở cơ sở nhiều

nơi chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ trách nhiệm không

cao; uy tín thấp, ảnh hưởng đến công tác vận động nhân dân thực hiện xây dựng

nông thôn mới.

117

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO

LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG

ĐẾN NĂM 2030

4.1. Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội

4.1.1. Dự báo quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội tác động đến

việc làm cho lao động nông nghiệp

Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược

trong sự nghiệp xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, hiện đại. Vì vậy xây dựng

nông thôn mới luôn nhận được sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực

hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp bảo đảm hoàn thành

các mục tiêu của đề án xây dựng nông thôn mới.

Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội phải tuân thủ theo quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Thủ đô, quy hoạch chung Thủ đô đến

năm 2030, tầm nhìn 2050 và các quy hoạch ngành, quy hoạch kinh tế xã hội các

huyện, thị xã.

Xây dựng nông thôn mới vừa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, vừa bảo tồn phát huy giá trị văn hoá truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc,

góp phần xây dựng Thủ đô phát triển bền vững có môi trường xanh, sạch, đẹp .

Xây dựng nông thôn mới trên tinh thần phát huy nội lực của cộng đồng,

ý chí tự chủ, tự lực, tự cường của nhân dân là chính, kết hợp với sự hỗ trợ của

nhà nước và phù hợp với điều kiện từng cơ sở.

Xây dựng nông thôn mới cần triển khai đồng bộ, toàn diện trên toàn

Thành phố có sự tập trung ưu tiên cho điểm. Đồng thời triển khai xây dựng cơ

sở hạ tầng thiết yếu và phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản

118

các xã trong Thành phố đạt các tiêu chí về xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, văn

hóa và xã hội.

Xây dựng nông thôn mới Thủ đô Hà Nội có kinh tế phát triển toàn diện,

bền vững cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Phát triển nông nghiệp thủ đô

theo hướng gắn với phát triển đô thị sinh thái và du lịch, dịch vụ, sản xuất hàng

hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, hài hòa

và bền vững với môi trường.

Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nông

dân, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo,

tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai

trò làm chủ nông thôn mới.

Xây dựng nông thôn thủ đô có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ

hiện đại, phát triển theo quỵ hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công

nghiệp, dịch vụ và đô thị; nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi

trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao,

đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.

- Dự báo giai đoạn 2010-2015: dự báo đến năm 2015, có trên 40% số xã

trên địa bàn Thành phố đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ đường giao thông nông

thôn được bê tông hóa đạt 87%, trạm y tế được kiên cố hóa đạt 100%, xã đạt

chuẩn quốc gia về y tế 70%. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia từ 50% - 55%.

Tỷ lệ dân số nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt 100%, trong đó, tỷ lệ

được dùng nước sạch đạt 60%. Tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư đạt tiêu chuẩn làng

văn hóa 68%; tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư có nhà văn hóa - thể thao đạt 92%.

Có 100% số cơ sở giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và hoàn

thành các chi tiêu về an ninh, quốc phòng.

Thu nhập của nông dân đạt 29 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ lao động nông

nghiệp còn dưới 20% lao động xã hội; lao động nông nghiệp qua đào tạo phấn

119

đấu đạt 55%, trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho 70.000-75.000 lao

động nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1,5-1,8%/năm.

- Dự báo giai đoạn 2016-2020: dự báo có thêm từ 120 - 140 số xã (bằng

30% - 35% số xã) đạt chuẩn nông thôn mới, để đến hết năm 2020 toàn Thành

phố có 70% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.

- Định hướng đến 2030: Hoàn thành việc xây dựng nông thôn mới ở 401

xã trên địa bàn Thành phố (đạt 100%).

Theo số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01 tháng 4 năm

2009, trong giai đoạn 2000-2009 tốc độ tăng dân số bình quân của thành phố

Hà Nội đạt 2,0%/năm, tuy nhiên giai đoạn 2006-2008 tăng khá cao là

2,42%/năm. Dự kiến tốc độ tăng dân số chung của thành phố sẽ giảm dần, đạt

khoảng 2,0%/năm giai đoạn 2011-2015, khoảng 1,8%/năm giai đoạn 2016-

2020 và khoảng 1,74%/năm giai đoạn 2021-2030. Tốc độ tăng dân số cơ học

cũng giảm dần từ 0,85%/năm giai đoạn 2011-2015 xuống còn khoảng

0,7%/năm giai đoạn 2016-2020 và khoảng 0,4%/năm giai đoạn 2021-2030,

bình quân mỗi năm tăng khoảng 51-65 nghìn người. Với dự báo như trên quy

mô dân số Hà Nội đến năm 2015 đạt 7,2-7,3 triệu người, năm 2020 khoảng

7,9-8,0 triệu người và năm 2030 khoảng 9,41 -9,52 triệu người.

Bảng 4.1: Dự kiến tốc độ tăng trưởng dân số

Đơn vị: %

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Chỉ tiêu

2001-2005

2006-2008

2011-2015

2016-2020

2021-2030

1,91

2,42

2,00

1,80

1,74

1. Tổng dân số

1,17

1,26

1,15

1,10

1,00

- Tăng tự nhiên

0,74

1,16

0,85

0,70

0,74

- Tăng cơ học

5,60

3,32

4,30

4,16

4,00

2. Dân số đô thị

3. DS Nông thôn

-0,14

1,82

0,25

- 0,35

-1,42

120

Bảng 4.2: Dự báo dân số Thủ đô Hà Nội có tác động tới việc làm

Đơn vị: Nghìn người

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Chỉ tiêu

2009

2010

2015

2020

2030

6.448

6.591

7.277

7.956

9.416

1. Dân số thành phố Hà Nội

2.632

2.722

3.359

4.294

6.355

2. Dân số đô thị

40,8

41,3

46,2

58,05

67,5

Tỷ lệ đô thị hóa (%)

3.816

3.869

3.917

3.662

3.061

3. Dân số nông thôn

Dự kiến đến năm 2020, dân số đô thị của thành phố Hà Nội khoảng 4,3

triệu người, trong đó tại đô thị trung tâm khoảng 3,5 triệu người, bố trí tại các đô

thị vệ tinh khoảng 550-600 nghìn người và các đô thị huyện lỵ khoảng 200-250

nghìn người, dân số ở khu vực nông thôn khoảng 3,7 triệu người. Số lao động

nông nghiệp nông thôn đòi hỏi phải có nhu cầu làm việc là rất lớn. Đến năm

2030, dân số đô thị của thành phố Hà Nội khoảng 6,4 triệu người, trong đó tại

đô thị trung tâm khoảng 4,8 triệu người, tại các đô thị vệ tinh khoảng 1,1-1,5

triệu người, các đô thị huyện lỵ khoảng 450-500 nghìn người; dân số nông thôn

giảm xuống còn 3 triệu người. Đây là một nguồn lực lao động lớn bổ sung cho

lực lượng lao động của Hà Nội, song cũng gây nên sức ép về việc làm và đào tạo

nghề cho lao động nông nghiệp để chuyển dịch sang các nghề kinh doanh dịch

vụ, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề với hàng hóa chất lượng cao, sản phẩn sạch

đòi hỏi phải có nguồn lao động chất lượng cao ứng dụng được các tiến bộ khoa

học kỹ thuật, công nghệ vào công tác quản lý điều hành và trực tiếp sản xuất

kinh doanh dịch vụ trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thành phố trong

giai đoạn tới.

Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới đến năm 2015 lao

động nông nghiệp còn khoảng 21%, đến năm 2020 lao động còn khoảng 15% .

121

Bảng 4.3: Dự báo cơ cấu sử dụng lao động nông nghiệp trong quá trình xây

dựng nông thôn mới

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020

100,0 100,0 100,0 Tổng số

21,9 26,0 30,0 1.Công nghiệp - Xây dựng

49,5 53,0 55,0 2. Dịch vụ

28,6 21,0 15,0 3. Nông nghiệp

- Phấn đấu trung bình mỗi năm giải quyết việc làm mới cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô là 135-140 nghìn người

trong giai đoạn 2011-2015 và 155-160 nghìn người trong giai đoạn 2016-2020.

- Phấn đấu số lao động nông nghiệp được đào tạo nghề trong quá trình

xây dựng nông thôn mới trung bình mỗi năm đạt 150 nghìn lượt người.

Bảng 4.4: Kế hoạch đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020

Đơn vị tính

Số TT

2010

Năm 2015

2020

11

4.535.900

4.777.900

4.976.000

Người

22

3.779.200

4.440.600

4.571.600

Người

55,00

65,00

75,00

33

%

32,00

45,00

55,00

Chỉ tiêu Dân số trong độ tuổi lao động Dân số tham gia hoạt động kinh tế Chất lượng lao động nông nghiệp - Tỷ lệ lao động qua đào tạo - Tỷ lệ lao động qua ĐT nghề

44

Người

Số lượng lao động nông nghiệp được ĐT nghề

Từ 2011- 2015 bình quân mỗi năm 158.000

Từ 2016- 2020 bình quân mỗi năm 103.000

Từ 2009- 2010 bình quân mỗi năm 158.000 69,00

97,00

135,00

55 Kinh phí đầu tư

Tỷ đồng /năm

66

90 %

Trên 90%

%

80%

Tỷ lệ lao động nông nghiệp có việc làm sau đào tạo

122

Dự báo tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô đến năm 2015 đạt tỷ lệ trên 55% và đến năm 2020

đạt tỷ lệ từ 70-75%.

4.1.2. Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội cần gắn với dự báo về tốc độ tăng trưởng dân số trên địa bàn Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030.

Từ những dự báo và các chỉ tiêu phân đấu trên, phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở

Hà Nội là:

Một là, giải quyết việc làm cho lao động trong quá trình xây dựng nông

thôn mới phải đạt mục tiêu giảm dần sự bất hợp lý và lãng phí trong sử dụng nguồn lao động, sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động nông nghiệp trong

quá trình xây dựng nông thôn mới.

Hai là, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây

dựng nông thôn mới phải tạo những cơ hội việc làm cho người lao động nông thôn, tạo nguồn lực lao động nông nghiệp, có thể chuyển dịch lao động sang các

ngành dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, làm việc cho các doanh nghiệp, chủ lực là

các hộ kinh doanh dịch vụ trong quá trình xây dựng nông thôn mới, trong quá trình đô thị hóa và phát triển nền nông nghiệp đô thị sinh thái của Thủ đô. Nâng

cao chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, lao động nông thôn; tập trung đào

tạo cho các lao động trẻ, lao động ở các huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh, các

vùng quy hoạch sản xuất hàng hóa chất lượng cao để có thể đáp ứng nguồn cán bộ lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao với các xã đã cơ bản đạt tiêu chí xây

dựng nông thôn mới nhằm đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Dịch vụ - Công nghiệp – Nông nghiệp. Số lao

động này được đào tạo bài bản, có địa chỉ sử dụng rõ ràng, gắn đào tạo theo đơn đặt hàng.

123

Ba là, tăng cường giáo dục nhận thức và thu hút các nguồn lực trong toàn dân, đẩy mạnh xã hội hóa trong giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho lao động

nông thôn, phát huy vai trò của các cơ sở đào tạo của các trường trung cấp nghề,

trung tâm dạy nghề, các tổ chức đào tạo nghề không chuyên, các chuyên gia, các

lao động giỏi trong các ngành nghề; thực hiện có hiệu quả các mô hình khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công, khuyến thương; nâng cao chất lượng và hiệu

quả công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, lao

động trong các làng nghề truyền thống, các trang trại, các doanh nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

Bốn là, đổi mới cơ chế chính sách và nội dung giải quyết việc làm và đào

tạo nghề cho lao động nông nghiệp cho phù hợp với đối tượng đào tạo, phương

thức đào tạo, với yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình xây dựng nông thôn mới, quá trình đô thị hóa phù hợp với thực tiễn mỗi huyện của thủ đô.

Năm là, nắm vững các chỉ tiêu giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015.

Bảng 4.5: Kế hoạch giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá

trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015

TT

Tổng số

Chỉ tiêu

2014

2015

Tổng số

2011 137.000 132.800

2012 139.000 134.600

Năm 2013 141.000 136.400

143.000 145.000 138.200 140.000

705.000 682.000

Đơn vị Người Người

1 1.1 Giải quyết việc làm trong nước

4.600

4.400

4.800

5.000

23.000

Người 4.200

2

57.000

58.500

63.000

65.000

304.000

Người

44,36 22.000

43,46 20.000

42,92 18.000

45,59 23.500

46,43 25.000

44,57 108.500

% Người

16,13 53.900

14,86 56.100

13,55 57.800

17,00 51.700

17,86 50.000

15,91 269.500

% Người

39,51

41,68

43,53

%

37,41

35,71

39,52

1.2 Đi xuất khẩu lao động Chia theo nhóm ngành kinh tế về giải quyết việc làm 60.500 Công nghiệp, xây dựng Cơ cấu Thương mại, dịch vụ Cơ cấu Nông, lâm nghiệp Cơ cấu

124

* Các hình thức tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá

trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô

Thực hiện quyết định 1956/QĐ-TTG ngày 27/11/2009 của Thủ tướng

chính phủ , thành phố Hà Nội đã xây dựng chương trình giải quyết việc làm giai

đoạn 2011 – 2015 [62], trong đó đã xác định các hình thức tạo việc làm cho

người lao động như sau:

- Tổ chức thi, xét tuyển công chức, viên chức hàng năm vào các cơ quan

hành chính, sự nghiệp ở các huyện, xã theo chỉ thị của UBND thành phố Hà

Nội;

- Tuyển lao động nông nghiệp làm việc tại các doanh nghiệp dịch vụ, xây

dựng, công nghiệp nông nghiệp;

- Tạo việc làm trong nông lâm nghiệp, thủy sản.

- Tạo việc làm thông qua các dự án vay vốn từ quỹ giải quyết việc làm

Thành phố và các địa phương.

- Tạo việc làm thông qua hình thức xuất khẩu lao động.

- Tạo việc làm thông qua phát triển làng nghề, dịch vụ.

- Lao động tự tạo việc làm.

- Các hình thức tự tạo việc làm khác

4.2. Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội

4.2.1. Nhóm giải pháp chung về xây dựng nông thôn mới có tác động

toàn diện tới việc nâng cao đời sống của nông dân và giải quyết việc làm cho

lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới

4.2.1.1. Phát triển nông nghiệp hợp lý để giải quyết việc làm cho lao động

nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội

a. Tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch chuyên ngành

Căn cứ vào các quy hoạch chuyên ngành đã được UBND Thành phố phê

duyệt, các huyện, thị xã cụ thể hóa kế hoạch thực hiện, bố trí nguồn lực triển

125

khai, trong đó tập trung thực hiện Quy hoạch về phát triển nông nghiệp, Quy

hoạch nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Quy hoạch giết mổ gia súc,

gia cầm, Quy hoạch phát triển làng nghề. Đồng thời triển khai thực hiện tốt công

tác quản lý quy hoạch theo quy định hiện hành. Các cơ quan chức năng của

Thành phố tăng cường phối hợp với các địa phương kiểm tra, xử lý các vi phạm

theo quy định.

b. Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách

UBND Thành phố tiếp tục rà soát các cơ chế chính sách đã ban hành và

nghiên cứu đề xuất, trình HĐND Thành phố sửa đổi, bổ sung, ban hành cơ chế

chính sách mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, xây

dựng hạ tầng nông thôn theo mục tiêu đề ra. Tổ chức, triển khai thực hiện có

hiệu quả các chính sách đã được ban hành và các Chính sách vừa được HĐND

Thành phố Hà Nội Khóa XIV Kỳ họp thứ 8 thông qua “Chính sách khuyến

khích phát triển Vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung thành phố Hà

Nội giai đoạn 2014-2020; Chính sách khuyến khích phát triển làng nghề thành

phố Hà Nội; Chính sách hỗ trợ đầu tư công trình cấp nước sạch nông thôn thành

phố Hà Nội” nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất giống cây trồng, vật

nuôi, thủy sản; xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản nông sản; xây dựng

cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung; thực hiện cơ giới hoá trong sản xuất

nông nghiệp; hỗ trợ đào tạo, tập huấn kỹ thuật; xây dựng thương hiệu, xúc tiến

thương mại; hỗ trợ vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh, tập trung; hỗ trợ

sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; khuyến khích phát triển làng

nghề và hỗ trợ kiên cố hoá đường giao thông thôn, xóm đạt chuẩn nông thôn

mới; khuyến khích đầu tư xây dựng và cấp nước sinh hoạt nông thôn.

c. Tổ chức triển khai thực hiệu hiệu quả các chương trình, đề án

Tăng cường chỉ đạo thực hiện các chương trình, đề án, dự án phát triển

nông nghiệp đã được UBND Thành phố phê duyệt, trọng tâm là sản xuất lúa

hàng hóa chất lượng cao, sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn quả giá trị cao, nuôi

126

trồng thủy sản thâm canh, chăn nuôi trang trại, nuôi bò sữa... Tổ chức thực hiện

tốt đề án xây dựng nông thôn mới, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc

trong quá trình thực hiện, tổ chức sơ kết hàng năm nhằm đánh giá hiệu quả từng

chương trình, đề án, dự án để rút kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện.

d. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước các cấp, hiệu quả hoạt động của

các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển mới các hợp tác xã ngành nghề, dịch vụ

ở nông thôn

Quan tâm và đầu tư hơn nữa công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên

môn cho cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật ngành nông nghiệp và cơ sở. Đầu tư

cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị tiên tiến để nâng cao khả năng chẩn đoán và

phòng chống dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi, kiểm tra vệ sinh an toàn thực

phẩm, kiểm soát chất lượng các loại vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc

thú y, thuốc bảo vệ thực vật.

Tiến hành rà soát, đánh giá thực chất hiệu quả hoạt động của các HTX

nông nghiệp để củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động HTX nông nghiệp; xây

dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển và thành lập mới các HTX

chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, thương mại, vận tải, tiểu thủ công

nghiệp.. theo Luật HTX.

e. Tăng cường đầu tư xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, xây dựng

hạ tầng sản xuất nông nghiệp

Tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng

hợp tác sản xuất và chế biến nông sản với các tỉnh, thành phố trong nước và

nước ngoài. Hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân tổ chức và tham gia các hội chợ,

triển lãm hàng nông sản và làng nghề; xây dựng nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa,

nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản và sản phẩm làng nghề của Thủ đô.

Tiếp tục đầu tư, nâng cấp hệ thống chợ đầu mối nông, lâm sản ở các vùng

trọng điểm sản xuất nông nghiệp và vùng phụ cận đô thị. Hỗ trợ, nâng cấp các

chợ nông thôn, các cơ sở chế biến nông, lâm sản, thực phẩm. Đầu tư xây dựng

127

các công trình đê điều, thủy lợi, phòng chống lụt, bão, hạ tầng của vùng sản xuất

chuyên canh tập trung, các cơ sở giống thủy sản chất lượng cao, trung tâm đào

tạo, nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho lao động nông

nghiệp.

4.2.1.2.Tích cực thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với

giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

a. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và

nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm xây dựng nông

thôn mới

Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường chỉ đạo và tổ chức

quán triệt, tuyên truyền sâu rộng tới cán bộ, đảng viên, nhân dân về mục đích, ý

nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng nông thôn mới. Ban Tuyên giáo, Ban

Dân vận Thành ủy, các cơ quan truyền thông, báo chí, mặt trận tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội Thành phố phối hợp chặt chẽ với sở Nông nghiệp và

phát triển nông thôn xây dựng kế hoạch, nội dung công tác tuyên truyền, tổ chức

tuyên truyền, nhằm tạo sự đồng thuận và nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần

tự giác hăng hái tham gia xây dựng nông thôn mới cho cán bộ, đảng viên và các

tầng lớp nhân dân.

Tiếp tục nâng cao nhận thức về Chương trình xây dựng nông thôn mới

cho mọi chủ thể trong xã hội để tạo ra một sức bật mới phát triển kinh tế trong

xây dựng nông thôn mới.

Tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành từ Trung ương đến

địa phương, các chủ thể sản xuất - kinh doanh ở khu vực nông nghiệp, nông

thôn về Chương trình xây dựng nông thôn mới. Chỉ có hoàn thành tốt các nội

dung, tiêu chí xây dựng nông thôn mới, mới có thể tạo được việc làm, giải quyết

tốt tình trạng thất nghiệp của lao động nông nghiệp, phát triển kinh tế bền vững.

Đặc biệt, nâng cao nhận thức cho nông dân, bồi dưỡng cho họ hiểu rõ,

chủ thể xây dựng nông thôn mới chính là nông dân và nông dân cũng là người

128

hưởng thụ những thành quả của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Một khi

đã nâng cao được nhận thức của nông dân, biến nhận thức thành hành động thì

mọi khó khăn, trở ngại trong xây dựng nông thôn mới sẽ từng bước được tháo

gỡ và thực hiện hiệu quả.

Nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, các chủ thể sản xuất kinh

doanh phải sử dụng nhiều hình thức, nhiều phương pháp, trong đó, vai trò lớn

nhất thuộc về các cấp ủy Đảng, từ trung ương đến địa phương; thực hiện tốt quy

chế dân chủ cơ sở. Bên cạnh đó, sự trợ giúp của các phương tiện truyền thông là

vô cùng quan trọng.

Các cơ quan thông tin, báo chí của Thành phố tăng thêm thời lượng tuyên

truyền, giới thiệu các điển hình tiên tiến, phương pháp hay, sáng kiến, sáng tạo

trong xây dựng nông thôn mới ở cơ sở, đồng thời phê phán những nơi triển khai

thụ động, kém hiệu quả, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước.

b. Thường xuyên chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực

lãnh đạo, quản lý, điều hành cho đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể ở

cơ sở, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới

Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn kiến thức về quản lý và tổ chức

thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới cho cán bộ cơ sở, từ cấp bí thư chi

bộ, trưởng, phó thôn trở lên. Nội dung, thời lượng của chương trình phải phù

hợp với thực tiễn và trình độ của cán bộ cơ sở. Phấn đấu đến hết năm 2015, cơ

bản hoàn thành chương trình đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức về xây dựng

nông thôn mới cho cán bộ chủ chốt cấp xã. Chú trọng bổ sung cán bộ trẻ có trình

độ, năng lực và trách nhiệm cao cho các cơ sở còn yếu kém.

c. Tập trung huy động các nguồn lực xây dựng nông thôn mới

Ngân sách nhà nước các cấp hàng năm dành tối thiểu 35% đầu tư cho lĩnh

vực nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số

03/2010/NQ-HĐND, ngày 21/4/2010 của HĐND Thành phố về xây dựng nông

thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, định hướng 2030 [31]. Trong

129

đó đầu tư trực tiếp cho các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp từ 6-8%

(không kể vốn đầu tư xử lý khẩn cấp cho thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt

bão). Trọng tâm là đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu về kinh tế - xã hội

nông thôn như: đường giao thông, hệ thống thủy lợi, các công trình y tế, giáo

dục, văn hóa, nước sạch nông thôn, xử lý môi trường các làng nghề chế biến

nông, lâm sản bị ô nhiễm nặng; xây dựng các cơ sở thu gom, xử lý rác thải; hạ

tầng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa, thực hiện các chương trình phát triển

nông nghiệp, đào tạo nghề cho nông dân. Tăng cường phân cấp để tạo nguồn thu

và khuyến khích các huyện, thị xã tập trung ngân sách và dành nguồn thu từ đất

đầu tư trở lại cho nông nghiệp, nông thôn.

Vận động, hướng dẫn các hộ nông dân huy động nguồn lực đầu tư phát

triển sản xuất, chỉnh trang nhà cửa, xây dựng đường thôn, xóm và các công trình

văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh và giữ gìn cảnh quan môi trường sạch

đẹp. Đa dạng hóa các hình thức đóng góp bằng tiền, bằng ngày công lao động,

bằng vật tư, tài sản của nhân dân. Tích cực vận động nhân dân hiến đất để mở

rộng đường giao thông, chỉnh trang các cơ sở văn hóa, y tế, giáo dục...

d. Nâng cao vai trò, trách nhiệm hệ thống chính trị trong xây dựng nông

thôn mới, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội

Nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, trách nhiệm quản lý, điều

hành của chính quyền, chất lượng hoạt động và năng lực vận động quần chúng

của MTTQ, đoàn thể các cấp để triển khai thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ cơ sở xã tháo gỡ khó

khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Các đơn vị quân đội, công an Thành phố tăng cường công tác giáo dục

chính trị tư tưởng để nâng cao trình độ, năng lực và sức chiến đấu của lực lượng

vũ trang Thành phố, tham mưu chính quyền các cấp xử lý, giải quyết kịp thời

các vụ việc phức tạp phát sinh, giữ vững an ninh chính trị ở nông thôn. Thực

hiện tốt các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh để đảm bảo giữ vững ổn định an

130

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của Thành phố.

e.Cụ thể hóa hơn nữa nội dung và tiêu chí phát triển kinh tế trong xây

dựng nông thôn mới cho phù hợp với từng huyện

Cần phải cụ thể hóa hơn nội dung phát triển kinh tế, với các ngành, các

lĩnh vực cụ thể (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) trong xây dựng nông thôn

mới.

Quán triệt tốt nguyên tắc là các nội dung, tiêu chí phát triển kinh tế trong

xây dựng nông thôn mới được cụ thể hóa. Bảo tồn và phát huy những giá trị

truyền thống, điểm độc đáo và khác biệt trong mỗi làng, mỗi huyện ở Hà Nội.

4.2.1.3. Nâng cao đời sống nông thôn, tăng thu nhập cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao vào sản

xuất nông nghiệp

Phát huy thế mạnh của Thủ đô, tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác của các cơ

quan nghiên cứu khoa học đầu ngành quốc gia, có chính sách khuyến khích

doanh nghiệp và nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nhất là ứng dụng công

nghệ cao trong sản xuất, nhằm tăng nhanh năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu

quả đầu tư. UBND Thành phố tăng cường mức hỗ trợ để khuyến khích nông dân

tham gia các lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật sản xuất chuyên canh và ứng dụng

công nghệ cao. Bố trí tăng vốn cho Quỹ Khuyến nông Thành phố để cho nông

dân vay phát triển trang trại, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, ứng dụng công

nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.

4.2.1.4. Phát triển cụm công nghiệp và làng nghề để giải quyết việc làm

cho nông dân, thúc đẩy chuyển dịch lao động nông nghiệp chất lượng cao

Thành phố tiếp tục quan tâm phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề

để giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Đến năm

2015, hoàn thành xây dựng mới 21 cụm công nghiệp với diện tích 726 ha. Phát

triển làng nghề đạt 1.500 làng, trong đó có 525 làng nghề truyền thống được

131

công nhận để thu hút tối thiểu 50% lao động trong nông thôn vào làm việc. Việc

phát triển các làng nghề, cụm công nghiệp phải đi đôi với việc bảo vệ môi

trường và khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản

phẩm làng nghề.

Quan tâm đầu tư, nâng cấp chợ nông thôn, hỗ trợ xây dựng các trung tâm

thương mại cấp huyện, cấp xã, để thu hút nguồn hàng phục vụ nhu cầu nhân dân

nông thôn. Các cơ quan chuyên môn hướng dẫn, vận động, tuyên truyền và hỗ

trợ thành lập, phát triển các hợp tác xã dịch vụ vận tải, xây dựng, tín dụng... để

vừa đảm bảo phục vụ nhu cầu của nhân dân nông thôn vừa tăng dần tỷ trọng

dịch vụ trong cơ cấu kinh tế và thu hút chuyển dịch lực lượng lao động. Tạo

điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng và các cơ sở dịch

vụ về thông tin, văn hóa, y tế, giáo dục; tăng trưởng dịch vụ khu vực nông thôn

hàng năm đạt 10% trở lên.

4.2.1.5. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đối với lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới

Thường xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của lao động

nông nghiệp, nhất là các hộ nghèo, các hộ cận nghèo và các gia đình chính sách.

Tăng đầu tư cho công tác dạy nghề cho nông dân gắn với phát triển sản xuất

hàng hóa để tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân. Phấn đấu tốc độ

tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn bình quân từ 7-8%/năm. Ngành Y tế triển

khai mở rộng mô hình bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân đạt 70-80% trở

lên; ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với cơ quan bảo hiểm

thực hiện tốt việc thí điểm bảo hiểm sản xuất nông nghiệp để hạn chế thiệt hại

và rủi ro cho nông dân.

Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng thông

tin, giải trí, thư viện để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần cho nông

dân. Đặc biệt chú ý đầu tư các công trình vui chơi lành mạnh cho trẻ em, các

khu tập luyện, thể dục thể thao cho nông dân, nhất là người cao tuổi. Đẩy mạnh

132

và nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa, xây dựng làng, khu phố, cơ quan văn hóa. Thực hiện tốt nếp sống văn minh

trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,

tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống, các di sản vật thể và phi vật thể.

4.2.2 Nhóm giải pháp cụ thể, trực tiếp đến giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới của thủ đô Hà

Nội.

4.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước của các cấp chính quyền, nâng cao nhận thức của các cấp,

các ngành và đến từng người dân về chủ chương chính sách của Đảng và Nhà

nước, quy định của pháp luật trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, giải

quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây

dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội

+ Tổ chức học tập quán triệt các chủ trương, chính sách, các

nghị quyết của Đảng, quyết định của nhà nước, của thành ủy, UBND Thành phố

về việc làm, giải quyết việc làm và ý nghĩa của nó cho đội ngũ cán bộ, Đảng

viên nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chi bộ cơ sở

thôn, xóm phải luôn quan tâm tới việc làm và giải quyết việc làm cho mỗi gia

đình trong đó có các hộ gia đình nông nghiệp, quan tâm tới các hộ gia đình bị

mất đất giải phóng mặt bằng dùng cho các công trình phúc lợi công cộng, phát

triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt

nâng cao nhận thức cho mỗi thành viên trong gia đình đến tuổi lao động có ý

thức lao động, tự tìm kiếm việc làm, cùng với gia đình, tổ chức doanh nghiệp

tạo việc làm và nâng cao thu nhập, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức lối

sống, nâng cao tay nghề và kỹ năng làm việc, yêu lao động, làm chủ bản thân,

làm chủ thể của quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội.

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả công tác quản lý

nhà nước của các cấp chính quyền trong công tác quy hoạch kinh tế xã hội, quy

133

hoạch sử dụng đất, và kế hoạch đầu tư phát triển luôn gắn với tạo việc làm cho

lao động nông thôn trong đó có giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có

trình độ hạn chế không thể làm việc ở các doanh nghiệp bằng việc tạo ra các

hoạt động dịch vụ như chợ truyền thống, ki ốt bán hàng tại các trục đường quy

hoạch… để số lao động này tiếp tục được phát huy khi họ bị thu hồi hết diện

tích sản xuất nông nghiệp.

Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và việc tổ chức thực hiện các chương

trình, đề án, dự án trọng điểm đang triển khai trên địa bàn thành phố có ảnh

hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng nông thôn mới và giải quyết việc làm

cho lao động nông nghiệp ở thủ đô.

- Chương trình số 02-CTr/TU ngày 31/10/2008 của thành ủy Hà Nội,

Thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng

lần thứ 7 (khóa X) về nông nghiệp nông dân, nông thôn [22]; Với mục tiêu đến

năm 2020 hoàn thành xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn và

hàng năm ngân sách thành phố sẽ dành khoảng 30% tổng đầu tư cho lĩnh vực

nông nghiệp nông dân nông thôn.

- Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thành phố Hà Nội giai đoạn

2009- 2015, định hướng đến năm 2020; với mục tiêu đến năm 2020 nâng diện

tích mặt nước nuôi trồng thủy sản nên 24.000 ha; năng suất 5,5 tấn/ha. Sản

lượng 132.000 tấn; tổng kinh phí dành cho chương trình là 851 tỷ đồng.

- Chương trình cung cấp nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn Hà Nội

giai đoạn 2009-2020 mục tiêu đến năm 2020 có 100% dân số nông thôn được sử

dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 80% sử dụng nước sạch. Tổng

kinh phí dành cho chương trình khoảng 3.250 tỷ đồng.

- Chương trình phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn thành

phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020; tổng kinh phí 970 tỷ đồng.

- Chương trình phát triển lúa hàng hóa chất lượng cao thành phố Hà Nội

giai đoạn 2012- 2016 tổng kinh phí 132 tỷ đồng.

134

- Đề án xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010- 2020,

định hướng đến năm 2030; tổng kinh phí đề án khoảng 32.000 tỷ đồng.

- Đề án sản xuất và tiêu thụ rau an toàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 -

2015. Mục tiêu đến năm 2015 mở rộng diện tích sản xuất rau an toàn nên 5.500

ha. Đáp ứng 35% nhu cầu người tiêu dùng thủ đô. Tổng vốn đầu tư cho đề án

khoảng 9.000 tỷ đồng.

- Đề án phát triển một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao của thành

phố Hà Nội, giai đoạn 2012- 2016; tổng kinh phí dành cho đề án khoảng 211 tỷ

đồng.

- Đề án sản xuất hoa, cây cảnh thành phố Hà Nội, giai đoạn 2012 -2016;

tổng kinh phí khoảng 281 tỷ đồng.

- Các dự án trọng điểm về thủy lợi:

+Dự án tiếp nước

+Dự án cải thiện hệ thống tiêu nước khu vực phía tây thành phố Hà Nội

+ Dự án xây dựng cụm công trình đầu mối Liên Mạc

+ Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống trạm bơm tiêu Đông Mỹ, huyện Thanh

Trì…

Các chương trình, đề án, dự án của thành phố được thực hiện song hành

cùng với chương trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi một nguồn lực rất to lớn,

song trong thực tế, 3 năm qua nguồn vốn để thực hiện ở mức rất khiêm tốn nếu

không có giải pháp đột phá về việc huy động nguồn lực để thực hiện các nội

dung của chương trình đề án trên thì hiệu quả kinh tế xã hội sẽ là rất thấp. Chính

vì vậy Luận án kiến nghị với Thành ủy, Ủy ban thành phố và các sở, ban, ngành

thành phố Hà Nội có sự đổi mới trong việc huy động các nguồn lực, phân bổ

nguồn lực đặc biệt là việc đánh giá kết quả thực hiện của các chương trình, đề

án, dự án từ đó tìm ra các nguyên nhân hạn chế để kịp thời khắc phục.

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác kiểm tra giám sát việc

thực hiện chính sách giải quyết việc làm ở cơ sở trong đó có hoạt động cho vay

vốn ưu đãi của các Hội, Đoàn thể đảm bảo đúng mục đích, đối tượng, nâng cao

135

hiệu quả chính sách an sinh xã hội đối với chương trình xóa đói giảm nghèo và

giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô.

+ Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay ủy thác thông qua

các đoàn thể chính trị xã hội ở cơ sở, theo lộ trình gắn việc tạo việc làm và giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình thu hồi đất; trong việc

thực hiện các dự án cho vay vốn để phát triển kinh tế cũng như các dự án đầu tư

có sử dụng vốn ngân sách nhà nước

4.2.2.2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp để tạo nhiều chỗ làm việc và giải quyết được việc làm cho lao động nông

nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô, tập trung một số nội

dung sau:

Một là, thực hiện quy hoạch sử dụng đất trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất kinh doanh dịch vụ phát triển, tăng

thu nhập cho các hộ gia đình, tạo nhiều chỗ làm mới cũng như giữ ổn định việc

làm đã có cho lao động nông nghiệp. Đẩy mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp trên địa bàn thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp làm thay đổi đối

tượng trong ngành nông nghiệp, trong các ngành kinh tế của mỗi địa phương.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng là thay đổi các cây trồng vật nuôi,

thay đổi tỷ trọng giữa trồng trọt và chăn nuôi. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp có rất nhiều biện pháp nhưng trước tiên phải thực hiện đó là công

tác dồn điền đổi thửa. Bởi vì có dồn điền đổi thửa mới khắc phục được tình

trạng ruộng đất manh mún, phân tán hiện nay. Từ đó mới có điều kiện thực hiện

quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, tạo thuận lợi cho việc áp dụng

các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa nhằm giảm chi phí sản xuất nâng cao

thu nhập cho người nông dân góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng,

vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu lao động trong doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho

các doanh nghiệp đầu tư và lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; góp phần đẩy

nhanh tiến độ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở thủ đô. Mặt khác

136

nó cũng tạo nguồn nội lực thực hiện xây dựng nông thôn mới xây dựng các công

trình phúc lợi của địa phương. Để có hiệu quả trong công tác dồn điền đổi thửa,

đảm bảo các yêu cầu, nguyên tắc dồn điền đổi thửa, quy trình dồn điền đổi thửa,

và áp dụng chính sách khuyến khích thực hiện dồn điền đổi thửa của thành phố

Hà Nội.

Sau khi thực hiện xong công tác dồn điền đổi thửa, tiếp tục thực hiện và

bổ sung các chính sách hỗ trợ của thành phố để thực hiện các bước tiếp theo của

chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn thành phố Hà Nội theo hướng công

nghệ cao, đô thị, sinh thái, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng hiệu quả, đảm bảo

an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu, hài hòa và bên vững môi

trường; góp phần đảm bảo an ninh lương thực, hướng tới xuất khẩu, nâng cao

thu nhập cho nông dân, tạo thêm nhiều việc làm và giải quyết được việc làm ổn

định có thu nhập ngày càng cao của lao động nông nghiệp, nông thôn. Một số

nội dung cần phải tập trung trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng là:

- Lựa chọn bố trí cơ cấu giống cây trồng và công thực luân canh cho phù

hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

- Mở rộng các loại giống cây trồng có hiệu quả kinh tế cao đã được thực

tế sản xuất khẳng định trên địa bàn thủ đô và các tỉnh bạn. Tiếp tục khảo

nghiệm, thử nghiệm các giống cây trồng mới để lựa chọn các giống phù hợp với

từng loại đất ở từng vùng và từng địa phương bổ sung cho phong phú chủng loại

cây trồng trên địa bàn thủ đô.

- Thực hiện tốt thời vụ đối với từng loại cây trồng, đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ sinh học, hệ thông canh tác tiên tiến trong sản xuất như SRI, IPM trên

các loại cây trồng, thuốc bảo vệ sinh học thảo mộc.

- Làm tốt công tác thu hoạch, quy hoạch đồng ruộng, làm cơ sở cho việc

xây dựng và tổ chức sản xuất, tăng cường đào tạo nâng cao nhận thức cán bộ,

nhận thức của nông dân, của lao động nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ mới.

Tiếp tục tuyên truyền tập huấn nâng cao kiến thức ứng dụng tiến bộ kỹ thuật,

137

thông tin thị trường. Tăng cường đầu tư tổ chức sản xuất kết hợp với đầu tư cơ

sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất như đường giao thông nội đồng, thủy lợi,

điện nước, các dịch vụ cung ứng vật tư phục vụ cho tưới tiêu và phát triển cây

trồng. Để có hiệu quả kinh tế cao các địa phương, các tổ chức, hợp tác xã, hộ gia

đình trong quá trình xây dựng nông thôn mới cần căn cứ các điều kiện cụ thể để

chọn ra các công thức luân canh cho phù hợp với đồng đất của địa phương mình

như luân canh trong các loại đất khác nhau: đất chuyên trồng hoa màu, đất một

lúa- rau màu; đất hai lúa- rau màu vụ đông; đất thấp trũng cấy một vụ lúa bấp

bênh. Cùng với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng tiếp tục phát triển chăn nuôi ở

những địa bàn có lợi thế đã có quy hoạch phát triển chăn nuôi trang trại, công

nghiệp quy mô phù hợp, xa khu dân cư để kiểm soát được dịch bệnh, hạ giá

thành sản phẩm, cải thiện môi trường sinh thái. Bên canh đó cũng tập trung sản

xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: bảo tồn và phát triển các làng nghề

truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển làng nghề

nông thôn theo thế mạnh của địa phương gắn với du lịch làng nghề.

- Tiến hành lựa chọn làng nghề để xây dựng dự án phát triển làng nghề

theo ba loại hình:

+ Làng chưa có nghề phi nông nghiệp (lập dự án cấy nghề, chọn nghề,

dịch vụ, làm gia công)

+ Làng đã có nghề nhưng chưa phát triển (lập dự án chọn và phát triển

nghề có tiềm năng)

+ Làng đã có nghề truyền thống nhưng nay đã bị mai một (lập dự án khôi

phục và phát triển nghề truyền thống)

- Phát triển nghề truyền thống (mây, tre đan, thêu dệt thổ cẩm…), xây

dựng dân dụng (như sản xuất gạch ngói vật liệu xây dựng…); cơ khí sửa chữa-

nông cụ cầm tay, công nghiệp chế biến nông lâm sản, đồ mộc gia dụng, thủ công

mỹ nghệ…

138

- Phát triển dịch vụ thương mại và du lịch: Dịch vụ thương mại lưu thông

hàng hóa, chợ đầu mối, chợ nông thôn, dịch vụ sản xuất tiêu dùng khác liên kết

làng du lịch sinh thái, làng nghề ở nông thôn.

Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cần tiếp tục thực

hiện liên kết sản xuất giữa các hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại, các hợp

tác xã nông nghiệp kiểu mới và tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần

kinh tế khác cùng tham gia và thực hiện. Từ đó mới phát huy được mọi nguồn

lực để phát triển sản xuất nông nghiệp tạo việc làm tăng thu nhập cho lao động

nông nghiệp và cư dân ở nông thôn tạo sự phát triển bên vững, lâu dài cho mỗi

địa phương trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới. Đó cũng là một

nội dung chủ yếu mà thành phố Hà Nội cùng với các cấp ủy Đảng, chính quyền

địa phương và cả hệ thống chính trị của huyện và xã phải quan tâm chỉ đạo và tổ

chức thực hiện. Hiện tại thành phố Hà Nội có 1.124 trang trại trong đó có 917

trang trại chăn nuôi, 156 trang trại nuôi trồng thủy sản, 36 trang trại sản xuất

kinh doanh tổng hơp, 13 trang trại trồng cây lâu năm, 2 trang trại trồng cây hàng

năm. Nơi đây đã thu hút và giải quyết được khá lớn lượng lao động nông

nghiệp thường xuyên và lao động thời vụ. Thành phố tiếp tục chỉ đạo các sở,

ban, ngành nghiên cứu rà soát cơ chế chính sách, phát triển kinh tế trang trại để

phát huy hơn nữa hiệu quả đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội, giải quyết

việc làm của loại hình kinh tế này bởi vì các chính sách tại Nghị quyết số

03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của chính phủ về phát triển kinh tế trang trại

(KTTT) đến nay có một số bất cập hơn nữa cần phải điều chỉnh bổ sung để phù

hợp với luật đất đai có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014.

4.2.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong việc đào tạo, đào tạo lại,

dạy nghề, tạo việc làm, tư vấn học nghề cho lao động nông nghiệp trong quá

trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô

- Đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ

của cả hệ thống chính trị ở địa phương [13]. Nhận thức đúng về đào tạo nghề

139

cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động; góp phần

nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Hà Nội trên thị trường trong

nước quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan

tâm của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích

cực của các tổ chức chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân

và lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.

- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn dân nhất

là các hộ gia đình đang sử dụng đất nông nghiệp nắm vẫng những chủ trương

chính sách của Đảng; nhà nước, của thành phố, của huyện về đào tạo nghề, giải

quyết việc làm, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chính sách và các điều kiện để

vay vốn ưu đãi, vay vốn thực hiện các dự án, vốn khuyến công, khuyến nông…

- Lựa chọn các ngành nghề phù hợp với từng xã, từng huyện để tổ chức

tuyên truyền, tập huấn và đào tạo nghề ngày từ khi lập kế hoạch để cấp nguồn

ngân sách hoặc huy động nguồn lực. Đào tạo nghề cho nông dân và lao động

nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thực sự của các cơ sở sản

xuất, kinh doanh- dịch vụ trên địa bàn; từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp của người

dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất thời. Vì vậy, công

tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm chắc các nhu

cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở

từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp.

- Lựa chọn đội ngũ giáo viên và các thầy dạy nghề có chuyên môn tốt để

tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác, tư vấn, hướng dẫn, đăng ký và dậy nghề

để tuyên truyền.

- Hình thức tuyên truyền đa dạng phong phú: Đài phát thanh, phóng sự,

bản tin, nhưng hiệu quả cao và thiết thực là tổ chức tham quan, học tập trao đổi

kinh nghiệm ở những đơn vị tổ chức cá nhân đã thực hiện có hiệu quả về việc

140

đào tạo dạy nghề, tạo việc làm tư vấn học nghề…Nội dung của các chuyên mục,

chuyên trang tập trung vào tư vấn, giới thiệu học nghề và việc làm, cung cấp

thông tin về hướng nghiệp, dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho lao

động nông thôn, thông tin về thị trường lao động trong và ngoài địa phương, tổ

chức các diễn đàn trao đổi về học nghề, việc làm và tự tạo việc làm, các điển

hình tốt trong triển khai thực hiện; thông tin, tuyên truyền kịp thời và toàn diện

về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa

bàn thành phố góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực

hiện đề án, đồng thời tạo sự chuyển biến về nhận thức của toàn xã hội về vai trò

của đào tạo nghề gắn với việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực khu vực nông thôn, nhằm đáp ứng quá trình chuyền dịch cơ cấu kinh

tế, phân công lại lực lượng lao động, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và

đất nước [67].

- Viết tin bài, xây dựng phóng sự, chuyên đề tuyên truyền trên hệ thống

đài phát thanh của huyện và xã.

- Viết tin bài tuyên truyền đăng trong phòng thông tin của bản tin nội bộ

của huyện. Thông tin cho các chi bộ Đảng cơ sở thôn, xóm, xã, huyện, thành

phố chỉ đạo.

- In ấn, cấp phát tờ rơi tuyên truyền tới các hộ gia đình và tới người lao

động.

- Tập huấn đội ngũ báo cáo viên, tổ dân vận về chủ trương, chính sách của

Đảng, nhà nước về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn

đến năm 2020, làm nòng cốt trong công tác tuyên truyền vận động ở các thôn

xóm trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

- Tổ chức tuyên truyền, tư vấn hướng nghiệp, dậy nghề và tạo việc làm tới

hội viên: Hội nông dân, hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh tại các

xã, các trường học và các trung tâm giáo dục thường xuyên.

- Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức tuyên truyền, tư vấn trực tiếp

cho người lao động tại các phiên giao dịch việc làm của các huyện.

141

- Đối tượng tuyên truyền bao gồm các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, bí

thư chi bộ, trưởng, phó thôn, trưởng ban và các thành viên đang công tác mặt

trận ở thôn, tổ dân phố…; tuyên truyền đến các hội viên: hội nông dân, hội phụ

nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh… Tuyên truyền cho học sinh khối

trường học phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Tuyên truyền tới hộ

gia đình và lao đông nông thôn, lao động nông nghiệp, lao động đang mất việc

làm…

- Do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao

động nông nghiệp (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói

quen canh tác…), nên việc tổ chức tuyên truyền, đào tạo phải rất linh hoạt về

chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp

truyền đạt… Chương trình tuyên truyền, đào tạo phải gắn với học liệu sinh

động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.

- Phát hiện kịp thời để biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể

của huyện, xã đã đóng góp tích cực cho công tác tuyên truyền vận động người

lao động tham gia học nghề, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm. Nêu gương

những điển hình tiên tiến về việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật,

công nghệ vào quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm cho

nhiều người lao động trong đó có lao động nông nghiệp, tăng thu nhập cho

người dân nông thôn.

- Có đánh giá, lựa chọn những địa phương đã triển khai có hiệu quả nhiệm

vụ này để tổ chức thăm quan học tập trao đổi kinh nghiệm trực tiếp bằng người

thực việc thực. Tránh bệnh thành tích phô trương tổng kết và báo cáo trên giấy,

gây lãng phí khi sử dụng ngân sách nhà nước.

- Trong công tác tuyên truyền , cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính

quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính

quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối

hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào tạo nghề đạt được kết quả rất

tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân

142

được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề cho nông dân và

lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia về

xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ (theo Quyết định

số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010).

4.2.2.4. Thực hiện đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết

việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình giải quyết việc làm của thành

phố Hà Nội trong đó có việc đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm và tiếp tục thực

hiện Đề án ”Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” của các huyện

ngoại thành Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Đổi mới và đẩy

mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn trong quá trình

xây dựng nông thôn mới ở thủ đô ở những năm tiếp theo. Trong đó cần phải xây

dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với việc

phát triển kinh tế xã hội và phát triển nền nông nghiệp đô thị sinh thái của thủ

đô, đặc biệt phải bám sát quy hoạch nông nghiệp Hà Nội đến năm 2020 định

hướng 2030 được UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số

17/2012/QĐ-UBND.

Theo đó, quan điểm phát triển là Quy hoạch tổng thể nông nghiệp TP Hà

Nội phải bảo đảm phù hợp với Quy hoạch phát triển nông nghiệp Quốc gia và

vùng Đồng bằng sông Hồng; phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế

– xã hội TP Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Phát triển nông

nghiệp hiện đại trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và phương

thức sản xuất tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực

cạnh tranh gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

Phát triển nông nghiệp gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông

nghiệp, quá trình đô thị hóa và xây dựng NTM văn minh, tăng hiệu suất sử dụng

đất và tăng năng suất lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập và đời sống của

nông dân.

143

Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng năng suất và chất lượng cao,

đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập

trung lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Ưu tiên phát triển những

cây, con có lợi thế; giảm dần diện tích sản xuất cây lương thực đi đôi với việc

phát triển lúa chất lượng cao; tăng sản xuất rau an toàn, hoa cây cảnh, cây ăn

quả nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng nâng cao

hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng đất, nguồn nước, lao động và vốn đầu tư.

Chuyển mạnh phát triển chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, tập trung

ngoài khu dân cư; theo định hướng ổn định tổng đàn lợn và gia cầm tăng nhanh

đàn bò sữa, phát triển đàn bò thịt. Phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm

canh, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững.

Do vậy, cần khảo sát và tham khảo định hướng phát triển nông nghiệp của

từng huyện, xã để tiến hành xây dựng chương trình đào tạo, giải quyết việc làm

phù hợp. Phải đào tạo nghề có khả năng được ứng dụng cao, phù hợp với mô

hình phát triển kinh tế, nông nghiệp tại địa phương.

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu

lao động và xóa đói giảm nghèo trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ

đô là nhiệm vụ chủ yếu và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể

nhân dân. Do số lượng lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao trong lao động

nông thôn, hơn nữa số lượng lao động đã qua đào tạo ở Hà Nội vẫn ở mức thấp,

chính vì vậy, tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phải có sự kết hợp

giữa các cấp độ công nghệ, để không ngừng tăng năng suất và tăng giá trị sản

xuất trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp, liên tục đổi mới và nâng cao chất lượng

sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và

giải quyết được nhiều việc làm, đảm bảo thu nhập và từng bước cải thiện đời

sống cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô

Hà Nội. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp thủ đô ở mức hợp lý gắn

với chuyển dịch cơ cấu hoạt động các ngành kinh tế mới bao gồm các bộ phận

144

gắn kết chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau như là: lao động với trình độ công nghệ kỹ

thuật và năng suất cao, làm ra những sản phẩm có hàm lượng khoa học và công

nghệ mới, giá cả cạnh tranh có thể tham gia xuất khẩu; lao động với trình độ

công nghệ trung bình, chủ yếu là sản xuất ra các mặt hàng phục vụ nhu cầu

trong nước với giá cả phù hợp với sức mua của đại đa số nhân dân lao động, có

sức cạnh tranh với hàng hóa ngoại nhập, tiến tới có thể tham gia sản xuất hàng

xuất khẩu. Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có chính sách ưu tiên những lao

động và những người có trình độ tham gia vào quá trình sản xuất xây dựng lực

lượng nòng cốt phát triển lao động công nghệ cao. Lao động phổ thông chủ yếu

là lao động thuần nông nghiệp sản xuất phục vụ cho nhu cầu tại chỗ và đảm bảo

thu nhập cho chính họ, đây là nhóm đối tượng cần được quan tâm khi thực hiện

các chương trình an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, cho vay vốn sản xuất…,tổ

chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đối với lao động nông nghiệp

trong quá trình nông thôn mới là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng yêu cầu sự

lãnh đạo sâu sát và chỉ đạo cụ thể của chính quyền cấp cơ sở cùng với sự tham

gia của các hội đoàn thể, ban công tác mặt trận, tổ dân vận, các thôn xóm đến

từng gia đình, đối tượng được thụ hưởng các chính sách xã hội đảm bảo đúng,

đủ, kịp thời. Phát huy khả năng đóng góp cho các hoạt động cộng đồng của mọi

thành phần kinh tế trên địa bàn của mỗi địa phương để không ngừng chăm lo

cho đối tượng này.

Tăng cường đầu tư, nâng cấp các công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng

thông tin, giải trí thư viện để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần cho lao

động nông nghiệp và nông dân. Đặc biệt chú ý đầu tư các công trình vui chơi

lành mạnh cho trẻ em, các khu tập luyện thể dục thể thao cho lao động nông

nghiệp nhất là những người cao tuổi. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng

phong trào toàn dân đoàn kết, xây dựng làng, khu phố, cơ quan văn hóa, gia

đình văn hóa ở nông thôn. Đồng thời tổ chức thường xuyên tuyên truyền vận

động nhân dân thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội văn minh, tiết kiệm. Tiếp

145

tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn và tôn vinh các giá trị

văn hóa truyền thống, các di vật thể và phi vật thể ở nông thôn trong quá trình

xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô.

Đây là giải pháp có tính tiền đề của nhóm giải pháp trong việc dạy nghề,

đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động nông thôn nói

chung trong đó có lao động nông nghiệp bởi vì chỉ có chiến lược hành động

đúng cho việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dạy nghề cho lao

động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới thì mới mang lại hiệu

quả kinh tế đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đô thị hóa của

thủ đô Hà Nội đi trước một bước so với các thành phố và các tỉnh trong cả nước.

Trên cơ sở thực trạng nguồn chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn

hiện có của thủ đô cần phải có sự đánh giá rà soát lại chất lượng lao động ở từng

lĩnh vực, từng địa phương từ đó xây dựng một chiến lược nâng cao chất lượng

nguồn lao động hiện có và nguồn lao động nông nghiệp trong tương lai của thủ

đô Hà Nội. Đánh giá chất lượng lao động cũng cần tập trung vào khả năng làm

việc thực tế, tránh việc đánh giá hoàn toàn dựa vào bằng cấp, chứng chỉ vì có

một bộ phận không nhỏ người lao động đã được đào tạo nghề nhưng không phù

hợp với lĩnh vực sản xuất thực tế của mình. Quan tâm các vấn đề của đào tạo

nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn ở những vùng quy hoạch chuyên

canh, hàng hóa, các vùng thực hiện các chương trình đề án khác nhau từ đó có lộ

trình và nội dung ngành nghề đào tạo phù hợp đảm bảo đào tạo nghề cho lao

động nông nghiệp nông thôn thực sự đi vào cuộc sống.

4.2.2.5. Đào tạo lao động nông nghiệp chất lượng cao ở những khu vực

thuần nông trong quá trình xây dựng nông thôn mới

Lao động nông nghiệp ở những khu vực thuần nông thường có chất lượng

thấp, đa số chưa qua đào tạo. Lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là rất

thiếu do vậy để đáp ứng với yêu cầu của mục tiêu chương trình xây dựng nông

thôn mới và mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa của thủ đô, phải về đích

146

trước cả nước khoảng 5 năm thì đòi hỏi thành phố phải có một chiến lược đào

tạo cùng với chính sách ưu đãi và huy động nguồn lực để tạo ra bước nhảy vọt

tăng tốc cả về quy mô đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật ở tất cả các ngành

nghề và các cấp trình độ khác nhau. Đặc biệt quan tâm thực hiện các lớp huấn

luyện kỹ thuật tay nghề ngắn hạn cho đông đảo lao động nông nghiệp nhanh

chóng nâng cao được chất lượng và đảm bảo thực hành thành thạo việc ứng

dụng các tiến bộ mới theo từng giai đoạn thời kỳ phù hợp với yêu cầu của quá

trình phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái.

Do đặc điểm của khu vực thuần nông quá trình xây dựng nông thôn mới

diễn ra với tốc độ chậm hơn, cơ cấu kinh tế có tỷ trọng nông nghiệp vẫn ở mức

cao do vậy lực lượng lao động nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn theo đó là

lao động chưa qua đào tạo là đa số vì vậy phải lựa chọn các ngành nghề chuyên

môn kỹ thuật như trồng rau cao cấp, rau chất lượng cao; trồng hoa, đặc biệt là

hoa mới, trồng cây cảnh, cây thế, cây ăn quả đặc sản; Chăn nuôi theo phương

pháp và quy mô công nghiệp bò sữa, lợn nạc, gia cầm siêu thịt, siêu trứng; Nuôi

trồng thủy sản, đặc sản quy mô công nghiệp; Công nghệ sinh học và sản xuất

cung ứng giống cây trồng, vật nuôi… có giá trị kinh tế cao; Chế biến nông sản,

lâm sản, thủy sản, trong đó đặc biệt là chế biến thịt, rau quả để thúc đẩy sản xuất

hàng hóa, nâng cao giá trị nông sản; Thú y, bảo vệ thực vật, thủy nông, khuyến

nông; dịch vụ điện năng, nước, chất đốt; cung ứng và tiêu thụ nông sản, vật tư,

dịch vụ vốn, thương mại, vận chuyển; kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại;

Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống; Đào tạo nhân lực nông

nghiệp để chuyển mạnh sang sản xuất nông nghiệp bằng công nghệ cao, sản

xuất hàng hóa nông nghiệp có giá trị gia tăng lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng

của thành phố và xuất khẩu là vấn đề có tính chiến lược của phát triển nông thôn

trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô.

Đồng thời với việc tăng nhanh đào tạo cho lao động nông nghiệp ở các

ngành nghề nói trên thì phải đồng thời phải quan tâm đến đào tạo lao động nông

147

nghiệp và lao động nông thôn để có nguồn lực chuyển sang các ngành nghề phi

nông nghiệp, có thể làm việc ở các khu công nghiệp tập trung ,khu chế xuất, khu

công nghệ cao cũng như các doanh nghiệp tổ chức về đầu tư khai thác sử dụng

đất trên địa bàn mỗi địa phương trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Tập

trung đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực lao động nông nghiệp, nông thôn để phát

triển các khu du lịch sinh thái, nghỉ ngơi, du lịch cộng đồng, du lịch xanh… Tập

trung đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển thương mại dịch vụ, hệ thống chợ nông

thôn vừa phục vụ trao đổi hàng hóa của đại đa số nhân dân lao động và giải

quyết việc làm cho số lao động tuổi cao không có điều kiện để nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ.

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các trường,

trung tâm dạy nghề. Tổ chức hoạt động các nội dung bồi dưỡng giáo viên, xây

dựng chương trình, đặt hàng đào tạo nghề theo nhu cầu lao động kỹ thuật của

doanh nghiệp. Tiếp tục phát huy tổ chức tốt các phong trào thi giáo viên dạy

nghề giỏi, thi tay nghề trẻ, thi thiết bị dạy nghề tự làm ngày càng sâu rộng. Tổ

chức các hoạt động phối hợp nhà trường và doanh nghiệp để xây dựng, cập nhật

chương trình và hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề.

Nâng cao năng lực, chất lượng tư vấn của các đơn vị hoạt động trong lĩnh

vực đào tạo nghề cho người lao động. Đổi mới nội dung giáo trình và phương

pháp giảng dạy, khuyến khích dạy nghề theo phương pháp chủ động, gắn lý

thuyết với thực tiễn và phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực.

Trong giai đoạn 2015 – 2020, ưu tiên tập trung đào tạo nghề cho những xã đã

hoàn thành nông thôn mới nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho kinh tế nông

thôn ở Hà Nội.

Đào tạo lao động nông nghiệp gắn với giải quyết việc làm đối với các hộ

gia đình thuần nông sử dụng nhiều diện tích đất nông nghiệp thì quan tâm đầu tư

chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thông qua các mô hình khuyến nông

bằng hình thức cầm tay chỉ việc thì hiệu quả rất cao. Mặt khác đối với những lao

148

động nông nghiệp này rất cần sự hỗ trợ của nhà nước thông qua việc cho vay

vốn ưu đãi của chương trình giải quyết việc làm, chương trình xóa đói giảm

nghèo, có sự hỗ trợ giúp đỡ thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn ở cơ sở do các

tổ chức chính trị, xã hội thành lập, được chính quyền cấp xã chấp thuận. Hoạt

động của tổ theo nguyên tắc tự nguyện, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và

đời sống, cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả lãi đúng hạn. Tổ tiết kiệm

và vay vốn còn được giao nhiệm vụ tổ chức bình xét công khai, dân chủ những

người có đủ điều kiện vay vốn tín dụng ưu đãi, có sự quản lý, hướng dẫn và

giám sát của các tổ chức chính trị xã hội, trưởng thôn và được Ủy ban nhân dân

cấp xã phê duyệt hoạt động của các tổ vay vốn gồm những hộ nghèo và các đối

tượng chính sách có nhu cầu vay vốn cùng sống chung trong cùng một địa bàn

dân cư do vậy đã có hiệu quả cao trong quá trình hoạt động vừa giải quyết lao

động việc làm cho lao động nông thôn nhưng vừa có ý nghĩa rất lớn về mặt

chính trị xã hội.

4.2.2.6. Đưa tiến bộ công nghệ mới cho lao động nông nghiệp nhằm tăng

thu nhập, nâng cao đời sống của người dân, tạo điều kiện để các hộ gia đình mở

rộng quy mô theo hướng công nghiệp hóa và tạo thêm nhiều việc làm cho lao

động nông nghiệp.

Hoàn chỉnh và công khai thực hiện quy hoạch phát triển ngành nông

nghiệp Hà Nội, các quy hoạch chuyên ngành của lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,

thủy sản… gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô đến năm

2020 định hướng đến 2030. Để huy động được các nguồn lực của toàn xã hội

cùng với sự tập trung đầu tư của ngân sách nhà nước phù hợp với từng chương

trình, đề án, dự án đã được UBND thành phố Hà Nội phê duyệt và phù hợp với

lộ trình xây dựng nông thôn mới của Thủ đô. Đây là điều kiện để đẩy mạnh ứng

dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để tăng nhanh năng suất, hiệu quả của sản xuất

nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho lao động nông nghiệp.

* Đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ, cải tiến các công nghệ sẵn có

trong sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội, trong đó tập trung:

149

- Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo bảo đảm an ninh lương thực và chất

lượng gạo.

- Phát triển sản xuất các loại nông sản nhiệt đới, dược liệu có lợi thế so

sánh cao theo hướng nông nghiệp an toàn.

- Ứng dụng thiết bị và công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học vào các

khâu sản xuất, chế biến, bảo quản trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư,

diêm nghiệp và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ để có giá thành hạ, chất

lượng cao.

- Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để sản xuất các loại nông

sản quý, các loại đặc sản, rau, hoa, nấm ở quy mô công nghiệp.

- Phát triển nuôi thủy sản gắn với chế biến hiện đại, các hình thức nuôi

công nghiệp, nuôi sinh thái gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi.

- Phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, quy mô trang trại phù hợp,

khép kín từ sản xuất đến chế biến và thị trường tiêu thụ.

- Phát triển ngành nghề nông thôn sử dụng máy công cụ cải tiến, cơ khí

hóa các khâu sản xuất, nâng cao chất lượng lao động.

- Phát triển công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy

điện nhỏ, năng lượng khí sinh học (biogas) phục vụ sản xuất và đời sống ở nông

thôn.

- Sử dụng tổng hợp tài nguyên nước để cấp nước cho sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt và cải thiện môi trường, phòng chống, giảm

nhẹ thiên tai; các công nghệ tiên tiến về tưới tiêu, tiết kiệm nước cho vùng gò

đồi, vùng khô hạn.

- Xử lý môi trường nông thôn.

- Công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao

dân trí nông nghiệp, nông thôn.

150

*Áp dụng khoa học công nghệ để phát triển và mở rộng các khu, cụm

công nghiệp và làng nghề để giải quyết việc làm cho nông dân, thúc đẩy chuyển

dịch lao động nông thôn.

- Nông thôn Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng, trong đó

có các nghề đặc sắc, lâu đời, có truyền thống văn hóa đối với đời sống dân cư và

sản xuất sản phẩm truyền thống có giá trị cao như làng gốm Bát Tràng, may Cổ

Nhuế, lụa Vạn Phúc, tượng gỗ Sơn Đồng… Lao động trong các làng nghề

truyền thống được đào tạo chủ yếu thông qua kèm cặp trong quá trình sản xuất

của các chủ cơ sở truyền thống và sự truyền nghề của những lao động đã có tay

nghề do kinh nghiệm đem lại chính vì vậy giải pháp để đào tạo và tạo việc làm

cho lao động ở lĩnh vực này là chính quyền thành phố huyện, xã có những chính

sách khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi, giữ gìn trật tự an ninh, tạo điều

kiện cơ sở vật chất, mặt bằng và cải tiến các thủ tục hành chính không gây phiền

hà để các chủ doanh nghiệp phấn khởi mở lớp truyền nghề cũng như họ tích cực

mở rộng quy mô phát triển để thu hút lao động tạo thu nhập cho chính gia đình

họ và thu nhập của lao động ở địa phương. Trong quá trình xây dựng nông thôn

mới cần quan tâm đầu tư hạ tầng giao thông thuận lợi điện nước phục vụ và phát

triển dịch vụ cùng khu vực ngành nghề để tạo sức hút các nhà đầu tư và phát

triển dịch vụ du lịch.

- Thành phố tiếp tục đầu tư xây dựng mới và mở rộng các khu, cụm công

nghiệp, các làng nghề để giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho lao động

nông nghiệp. Đến năm 2015, hoàn thành xây dựng mới 21 cụm công nghiệp với

diện tích 726 ha. Phát triển làng nghề đạt 1.500 làng trong đó có 525 làng nghề

truyền thông được công nhận để thu hút tổi thiểu 50% lao động nông nghiệp vào

làm việc. Việc phát triển các làng nghề, cụm công nghiệp phải dựa vào việc ứng

dụng công nghệ cao nhằm tăng hiệu quả trong sản xuất. Việc phát triển làng

nghề và cụm công nghiệp phải đi đôi với bảo vệ môi trường và khuyến khích

đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm làng nghề.

151

* Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin

trong phát triển hệ thống dịch vụ để từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng

nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng lao

động công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp nhưng thu

nhập của lao động nông nghiệp và cư dân nông thôn không ngừng được nâng

cao. Đưa công nghệ cao vào sản xuất sẽ tăng thu nhập, nâng cao đời sống của

người dân, tạo điều kiện để các hộ gia đình mở rộng quy mô theo hướng công

nghiệp hóa và tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp.

4.2.2.7. Tích cực tìm việc làm cho người lao động ở khu vực có tốc độ đô

thị hóa nhanh trong quá trình xây dựng nông thôn mới

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội thì ở một số địa

phương có tốc độ đô thị hóa nhanh, số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi do

vậy lao động nông nghiệp bị mất việc làm do giải phóng mặt bằng để xây dựng

các công trình hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ cho chương trình xây dựng nông

thôn mới đồng thời hình thành các khu đô thị theo đó lại có lao động cơ học

được thu hút về cùng với dân cư di chuyển từ nơi khác đến càng đem lại áp lực

cho chính quyền địa phương về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp

vừa phải ứng phó với sự quá tải hệ thống hạ tầng xã hội hiện có chưa thể đáp

ứng ngay được với nhu cầu của số dân cơ học chuyên đến như y tế, hạ tầng giao

thông, điện nước, tiêu thoát nước… Chính vì vậy để giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp và sớm khắc phục các vấn đề trên thì chính quyền thành phố

cần phải có chính sách đầu tư tập trung đồng bộ tránh dàn trải các công trình đầu

tư liên quan đến hạ tầng kinh tế xã hội trong quá trình xây dựng nông thôn mới

gắn với việc thực hiện đầu tư các khu đô thị cho hài hòa, đồng thời cũng có giải

pháp đào tạo nhân lực dịch vụ cho khu đô thị hóa đòi hỏi tập trung vào tăng quy

mô và chất lượng đào tạo với những ngành nghề hợp lý như những nhân lực

phục vụ trong các trung tập thương mại, siêu thị nhà hàng, dịch vụ sửa chữa, bảo

152

dưỡng máy móc thiết bị điện nước, dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ tài chính

ngân hàng, bưu chính viễn thông…Theo đó việc đào tạo nghề cho lao động nông

nghiệp cũng như định hướng nghề cho học sinh cũng phải theo chiến lược trên

ngay từ khi còn là học sinh phổ thông.

Cần đảm bảo để quá trình đô thị hóa được quản lý một cách thích hợp

nhằm thúc đẩy sự phát triển tiếp tục về kinh tế-xã hội và con người của Hà Nội.

Hơn nữa, cần có các chính sách thích hợp cho sự phát triển đô thị cân đối hơn

trong tất cả các vùng.

Xây dựng các trung tâm đô thị cần lưu ý đến việc tạo ra các cơ hội việc

làm và đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, phát triển sản xuất và

hạ tầng giao thông và khu công nghiệp một cách thích hợp. Điều đó giúp bảo

đảm rằng, tất cả người dân, dù sống ở khu vực đô thị hay nông thôn, đều được

hưởng lợi ích như nhau từ quá trình phát triển. Cần quan tâm đặc biệt đến sự

phát triển con người và kinh tế-xã hội tại những khu vực thuần nông còn bị cách

biệt nhiều so với các khu vực khác nhằm tạo thêm các cơ hội học vấn và việc

làm.

Cần đặc biệt quan tâm tới nhóm dân số dễ bị tổn thương ở cả khu vực đô

thị hóa cao hoặc ở vùng nông thôn, đó là những lao động trẻ bị thất nghiệp.

Một lượng không nhỏ lao động thất nghiệp ở các khu vực có tốc độ đô thị

hóa nhanh là do di cư từ những vùng tốc độ đô thị hóa kém tới với mong muốn

nâng cao thu nhập, nhưng do trình độ thấp nên không kiếm được việc làm. Để

giảm lượng lao động thất ngiệp này cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát

triển mạnh các khu kinh tế vệ tinh và các làng nghề nhằm thu hút lao động nông

thôn tại chỗ, tạo sự liên kết kinh tế giữa các khu công nghiệp với nông thôn,

giữa sản xuất công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là cần khai thác

mối liên kết kinh tế giữa các huyện đô thị hóa mạnh với các khu vực phụ cận,

phát triển nông thôn là các vùng đệm cho thành thị (về mặt dịch vụ, các khu sản

xuất là đặt ở nông thôn,...) nhằm giảm thiểu di cư. Phát triển mạnh doanh nghiệp

153

vừa và nhỏ, trong đó có làng nghề và kinh tế trang trại nhằm, nơi tạo ra thu nhập

cao và ổn định hơn. Kinh tế trang trại có khả năng làm tăng giá trị sản phẩm

theo hướng xuất khẩu và hình thành các thị trường nông sản ngay tại địa

phương, đồng thời cũng tạo ra thu nhập và việc làm ổn định hơn trong quá trình

đô thị hóa.

Phát triển các loại hình kinh tế, tăng việc làm cho lao động nông nghiệp

trong quá trình đô thị hóa cần thực hiện tốt và liên tục rà soát sửa đổi bổ sung

một số chính sách có liên quan như: chính sách phát triển các hợp tác xã mới,

chính sách phát triển kinh tế trang trại, chính sách khuyến khích tiêu thụ nông

sản thông qua hợp đồng, chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp

nông thôn, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông

thôn, chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản thủy

sản; chỉ thị 31/CT-TU ngày 21/7/2002 của Thành ủy và kế hoạch của UBND TP

về tăng cường lãnh đạo thực hiện nghị quyết hội nghị TW5 khóa IX về tiếp tục

đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố

Hà Nội; quyết định số 16/2012/QĐ-UBND ngày 06/07/2012 của UBND thành

phố Hà Nội ban hành Quy định thí điểm một số chính sách khuyến khích phát

triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai

đoạn 2012-2016. Trong đó, tiếp tục đánh giá để hoàn chỉnh và bổ sung quyết

định số 16/2012/QĐ-UBND ngày 06/07/2012 của UBND thành phố Hà Nội ban

hành Quy định thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất

nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-

2016 cho phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo tính khả thi cao trong giai

đoạn tới ( ví dụ: như chính sách khuyến khích đầu tư thực hiện cơ giới hóa trong

sản xuất nông nghiệp của quyết định này thực hiện 3 năm qua trong quá trình

xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô hiệu quả rất hạn chế).

154

4.2.2.8. Phát triển thông tin thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống giao

dịch chính thức trên thị trường lao động cho lao động nông nghiệp cần chuyển

đổi trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô

- Nâng cao chất lượng hoạt động của Sàn Giao dịch việc làm thành phố.

Phát triển website “vieclamhanoi.net” cung cấp rộng rãi, miễn phí các thông tin

tuyển dụng, tuyển sinh cho người lao động trên mạng. Tăng cường các hoạt

động tư vấn giới thiệu việc làm, học nghề cho lao động nông nghiệp, ngoại

thành tìm việc làm tại Sàn giao dịch việc làm thành phố.

- Đầu tư hiện đại hoá Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội và đặt thêm 5

sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận huyện: Sơn Tây, Thanh Trì, Long

Biên, Sóc Sơn, Ứng Hoà trong thời gian tới để người lao động tại các khu vực

nông nghiệp, ngoại thành có thể tiếp cận với các Sàn giao dịch việc làm dễ dàng

hơn.Tổ chức tuyên truyền, tư vấn chuyển nghề, học nghề và giới thiệu việc làm

đối với những lao động lao động nông nghiệp, ngoại thành mất việc, có nhu cầu

tìm việc hoặc chuyển đổi nghề nghiệp tham gia chương trình xuất khẩu lao

động.

- Đổi mới việc thu thập thông tin thị trường lao động và hoàn thiện hệ

thống giao dịch việc làm chính thức trên thị trường lao động trong quá trình xây

dựng nông thôn mới:

Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa sở Lao động Thương binh xã hội với

UBND các huyện, phòng Lao động Thương binh xã hội, cán bộ theo dõi về việc

làm và lao động ở các huyện với UBND các xã để đảm bảo thu thập thông tin về

lao động việc làm, nhu cầu đào tạo nghề đến từng hộ gia đình trong đó có lao

động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới hàng năm, để làm

căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động của các sàn giao dịch, phiên giao dịch cùng

với sự phối hợp với các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng. Từ đó, tổ chức

thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: tuyên truyền trong các cuộc

họp, hội nghị ở thôn, xóm, tuyên truyền qua đài phát thanh, cổng giao tiếp điện

155

tử của huyện và các xã. Thông tin về nhu cầu tuyển dụng phải đến được tất cả

người dân, người lao động trong đó có lao động nông nghiệp để họ biết và tham

gia, có vậy việc tổ chức sàn giao dịch mới có hiệu quả. Các phiên giao dịch

được tổ chức ở những địa điểm phù hợp, tổ chức tiết kiệm, thiết thực, tránh phô

trương, hình thức, lấy thành tích.

- Rà soát quy hoạch, củng cố sắp xếp hệ thống giới thiệu việc làm, mạng

lưới Trung tâm giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật.

- Thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động thống nhất từ

Thành phố đến quận, huyện, xã phường.

- Tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá, lưu trữ thông tin về số lượng, chất

lượng nguồn lao động nông thôn, lao động thất nghiệp. Tổ chức cập nhật các

thông tin về cung, cầu lao động, thực hiện tốt các quy định về chế độ báo cáo

thống kê, báo cáo thông tin về quản lý nguồn lao động nông nghiệp từ cơ sở đến

quận huyện, thành phố.

- Kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để khai thác chỗ việc làm trống,

tìm hiểu kế hoạch và nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Tổ chức thường

xuyên các phiên giao dịch việc làm cùng các hình thức đào tạo mới để tăng

cường cơ hội cho người lao động gặp gỡ, kết nối cung - cầu.

- Thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thị trường lao động. Hình thành

ngày càng nhiều các Trung tâm giới thiệu việc làm trọng điểm vùng. Ngoài ra,

trong phương hướng hoạt động giới thiệu việc làm, cần đầu tư nâng cao năng

lực cho các Trung tâm giới thiệu việc làm một cách tập trung, tránh dàn trải,

bình quân. Đầu tư chính vào các hoạt động thông tin thị trường lao động, kết nối

việc làm, xây dựng sàn giao dịch việc làm, đào tạo kỹ năng tư vấn, giới thiệu

việc làm cho các bộ làm công tác giới thiệu việc làm. Xây dựng cơ chế đầu tư

gắn với nhiệm vụ được giao và kết quả hoạt động của Trung tâm. Nâng cao trình

độ của đội ngũ tư vấn viên, tăng khả năng giao dịch việc làm thành công.

156

- Kiểm tra, phân tích, đánh giá các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp sản

xuất và doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động có đủ điều kiện, năng

lực và phù hợp với nhu cầu của người lao động trên địa bàn để đảm bảo quyền

lợi cho người lao động trong quá trình lao động.

- Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo xu hướng việc

làm, nhu cầu của người sử dụng lao động, chi phí đào tạo, tỷ lệ hoàn trả của đào

tạo,… Đồng thời cung cấp đầy đủ các thông tin về dự báo kinh tế, triển vọng

đầu tư, các dự án phát triển, trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ dự kiến phát triển

kinh tế, nhu cầu nguồn nhân lực và chủ động xây dựng các kế hoạch nhân lực

của mình. Đặc biệt cần đầu tư công tác thống kê, phân tích dữ liệu thông tin thị

trường lao động.

4.2.2.9.Tăng cường quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn

mới ở Hà Nội

- Để tăng cường vai trò quản lý nhà nước với thị trường lao động, giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô, cần thực hiện tốt một số nội

dung sau đây:

Một là, phải có sự đổi mới tu duy, sự nhận thức mới của các cấp ủy đảng,

chính quyền và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở trong quá trình xây

dựng nông thôn mới về phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu

mới của phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng hiện đại trên cở sở ứng dụng

tiến bộ khoa học, công nghệ và phương thức sản xuất tiên tiến để nâng cao năng

suất, chất lượng, hiệu quả năng lực cạnh tranh gắn với chế biến, tiêu thụ sản

phẩm. Phát triển nông nghiệp gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông

nghiệp, quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới văn minh, tăng hiệu

suất sử dụng đất và tăng năng suất lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập và

đời sống của nhân dân. Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị

sinh thái, góp phần tạo cảnh quan môi trường, thúc đẩy phát triển du lịch sinh

157

thái, hài hòa và bền vững với môi trường, từng bước thích ứng với biến đổi khí

hậu toàn cầu. Phát triển nông nghiệp theo hướng hình thành các vùng sản xuất

hàng hóa tập trung, chuyên canh, các vành đai xanh, sinh thái và các khu nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Phát triển nông nghiệp gắn với nhu cầu thị

trường, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tiến tới an ninh dinh

dưỡng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong đó, tập trung phát triển nông

nghiệp theo hướng năng suất và chất lượng cao đảm bảo an toàn vệ sinh thực

phẩm. Tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu

dùng và xuất khẩu, ưu tiên phát triển những cây, con có lợi thế; giảm dần diện

tích sản xuất cây lương thực đi đôi với việc phát triển lúa chất lượng cao; tăng

sản xuất rau ăn toàn, hoa cây cảnh, cây ăn quả nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ

cấu ngành trồng trọt theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng

đất, nguồn nước, lao động và vốn đầu tư. Chuyển mạnh phát triển chăn nuôi

theo hình thức công nghiệp, tập trung ngoài khu dân cư; theo hướng ổn định

tổng đàn lợn và gia cầm, tăng nhanh đàn bò sữa, phát triển đàn bò thịt. Phát triển

thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, tăng năng suất, phát triển bền vững.

Hai là, xác định rõ nội dung đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp Thủ đô theo hướng toàn diện, tổng hợp và hệ thống để có thể

đáp ứng hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, tổ chức và thực hiện có hiệu quả

các chương trình, đề án, dự án trọng điểm của ngành nông nghiệp Thủ đô trong

hiện tại và tương lai.

Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề và

giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông

thôn mới. Theo đó, tiếp tục đổi mới các hình thức đào tạo nghề, thời gian mở

lớp nghề, chương trình giảng dạy gắn lý thuyết với thực hành. Trong đề án 1956,

chính sách được áp dụng cho các xã, các huyện là như nhau, điều này làm giảm

hiệu quả của công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm ở các xã, các huyện có

tốc độ đô thị hóa cao, quá trình xây dựng nông thôn mới diễn ra mạnh mẽ khác

158

với các khu vực có tốc độ đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới chậm ở những

vùng còn sản xuất nông nghiệp thuần nông.

Bốn là, tiếp tục nâng cao trách nhiệm và vai trò quản lý của nhà nước với

việc quản lý, tổ chức thu thập cung cấp thông tin thị trường lao động và giải

quyết việc làm cho người lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

Đồng thời cũng đẩy mạnh việc xã hội hóa thu hút mọi nguồn lực trong xã hội để

thực hiện giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp phù hợp với điều kiện ở

mỗi huyện, mỗi xã trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Ứng dụng công

nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước ở tất cả các cấp chính quyền đối

với công tác quản lý thị trường lao động và giải quyết việc làm. Phân cấp rõ

công tác quản lý nhà nước về việc làm và giải quyết việc làm, thông tin thị

trường lao động giữa thành phố, huyện, xã trong quá trình xây dựng nông thôn

mới và phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.

- Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật lao

động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh

nghiệp theo Chỉ thị 22/CT/TW ngày 05/6/2008 của Ban Bí thư Trung ương

ương.

- Tăng cường quản lý nhà nước, củng cố chất lượng hoạt động các đơn vị

xuất khẩu lao động trên địa bàn nông thôn, xây dựng cơ chế hỗ trợ các đối tượng

chính sách (người có công với cách mạng, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ, người

nghèo) đi xuất khẩu lao động. Quản lý hoạt động của các tổ chức cung ứng nhân

lực, giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động, tập huấn triển khai

các chế độ chính sách lao động phù hợp đến các chủ doanh nghiệp và người lao

động nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành các quy định của pháp luật nói

chung và pháp luật lao động nói riêng, nhất là về chính sách chế độ liên quan

trực tiếp đến người lao động như: chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, điều kiện an toàn vệ

159

sinh lao động, vấn đề đình công đúng trình tự quy định của pháp luật lao động.

Nâng cao nhận thức của chủ doanh nghiệp chấp hành nghiêm túc việc xây dựng

và đăng ký với cơ quan lao động của Thành phố, huyện theo phân cấp về: khai

trình sử dụng lao động, xây dựng và đăng ký nội quy lao động, thoả ước lao

động tập thể, hệ thống thang lương bảng lương, quy chế trả lương, thành lập tổ

chức công đoàn, Hội đồng hoà giải lao động cơ sở ... trong doanh nghiệp.

- Tư vấn tìm việc, học nghề cho người lao động khi tham gia thị trường

lao động về pháp luật chính sách lao động.

- Tổ chức tập huấn cán bộ lao động thương binh xã hội cấp xã, cán bộ lao

động cấp huyện, các Trung tâm giới thiệu việc làm.

- Triển khai tuyên truyền sâu rộng về Bảo hiểm thất nghiệp và tập huấn

cho các doanh nghiệp, các quận, huyện về Bảo hiểm thất nghiệp để các doanh

nghiệp và người lao động thực hiện đóng Bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 7/2009

và người lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp từ 01/01/2010. In ấn, phát

tờ rơi cho người lao động khi mất việc làm tìm được địa chỉ cần thiết, hưởng chế

độ thất nghiệp và tìm việc làm theo quy định.

- Quản lý nhà nước về lao động phải phù hợp với sự phát triển của thị

trường lao động ở hiện tại và tương lai, nhất là công tác thông tin, quy hoạch

phát triển thị trường lao động. Thời gian qua, công tác hệ thống dự báo và thông

tin thị trường lao động chưa được quan tâm thích đáng đã dẫn đến công tác

hướng dẫn, định hướng hoạt động thị trường lao động còn bị động, hiệu quả

thấp; đào tạo chưa gắn với nhu cầu; người lao động và người thất nghiệp thiếu

thông tin về việc làm; người sử dụng lao động thiếu thông tin về cung cầu trên

thị trường lao động, ảnh hưởng đến đầu tư, phát triển sản xuất; cơ quan quản lý

nhà nước thiếu thông tin để phân tích, đánh giá và xây dựng chính sách thị

trường lao động phù hợp với nhu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế.

- Phải giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề

xã hội, nhất là việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Ngăn chặn được tình

160

trạng người sử dụng lao động cố tính ký các hợp đồng lao động dưới ba tháng

nhằm trốn tránh đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; môi trường làm việc

không bảo đảm; số lượng thanh tra viên lao động thấp mới.

- Nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc định

hướng, điều tiết thị trường lao động ở Hà Nội hiện nay. Xây dựng cơ chế ba bên

giữa cơ quan quản lý nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động giúp

giải quyết hài hòa nhất các mâu thuẫn của thị trường lao động.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức công đoàn cơ sở tham gia có hiệu

quả vào quản lý lao động, làm tốt vai trò là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người lao động.

161

KẾT LUẬN

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận án về việc làm và giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà

Nội, tác giả rút ra một số kết luận sau:

1. Luận án đã trình bày các căn cứ lý luận và thực tiễn về vấn đề giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn

mới nói chung và ở Thủ đô Hà Nội nói riêng. Với các điều kiện đặc trưng như

kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nguồn vốn huy động tập

trung đầu tư, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, thu nhập bình quân của

người lao động, sức ép về việc làm cho lao động nông nghiệp là rất khác nhau

giữa các huyện của thủ đô Hà Nội, trong khi đó các chính sách phát triển kinh tế

- xã hội, giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới đều được

áp dụng chung cho cả nước trong đó có thành phố Hà Nội. Luận án cho rằng,

điều đó không thể phù hợp với thực tiễn của mỗi địa phương, đòi hỏi phải có

một nghiên cứu riêng mới có thể giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm và giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Đây là những điểm mà các công trình

nghiên cứu trước đó về việc làm chưa đề cập đến.

2. Luận án đã phân tích mối quan hệ của việc làm cho lao động nông

nghiệp với quá trình xây dựng nông thôn mới. Làm rõ và phân tích đặc điểm của

lao động nông nghiệp nói chung và lao động nông nghiệp trong quá trình xây

dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Kết quả cho thấy quá trình xây đựng nông

thôn mới và việc làm cho lao động nông nghiệp có tác động qua lại lẫn nhau.

Nhu cầu việc làm thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới diễn ra và quá

trình nông thôn mới có tác động ngược lại tới việc làm cho lao động nông

nghiệp. Những tác động của quá trình xây dựng nông thôn mới tới việc làm cho

lao động là tích cực nếu quá trình xây dựng nông thôn mới được diễn ra đồng

bộ, đúng hướng và có hiệu quả, và chưa tích cực nếu quá trình xây dựng nông

162

thôn mới diễn ra chậm, thiếu những định hướng, chính sách và sự chỉ đạo sâu

sát từ các cấp lãnh đạo.

3. Luận án đã phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao

động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội gắn với thời kỳ xây dựng nông thôn mới.

Đưa ra một cái nhìn tổng thể nhất về thực trạng việc làm và giải quyết việc làm

cho lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô

giai đoạn 2008 – 2013. Theo đó quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội đã

kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu về kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng tăng

dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.

Một lượng không nhỏ người lao động nông nghiệp có nhu cầu được đào tạo và

chuyển sang lao động tại các ngành nghề mới. Hà Nội đã thực hiện chính sách

giải quyết việc làm, xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp.

Các chính sách này đã bước đầu đem lại một số kết quả tích cực nhưng chưa

thực sự đem lại hiệu quả cao. Những hạn chế này có nguyên nhân từ nhiều mặt:

cung lao động tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của cầu lao động nông nghiệp,

tỷ trọng việc làm bền vững tăng chậm, quản lý nhà nước đối với thị trường lao

động còn khó khăn, bất cập, trình độ năng lực của các cán bộ quản lý và của

người lao động nông nghiệp còn kém, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ

cao trong sản xuất thấp. Sự chênh lệch về tốc độ xây dựng nông thôn mới giữa

các địa phương trên địa bàn Hà Nội là nguyên nhân chính gây ra sự chưa phù

hợp của chính sách giải quyết việc làm ở Thủ đô với từng địa phương , đòi hỏi

phải có định hướng, chính sách phù hợp với từng địa phương để giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp thực sự hiệu quả.

4. Để đánh giá sự tương tác giữa việc làm cho lao động nông nghiệp và

quá trình xây dựng nông thôn mới, luận án dựa vào điều kiện tự nhiên kinh tế xã

hội và kết quả xây dựng nông thôn mới của các huyện trên địa bàn thành phố Hà

Nội để chọn huyện điều tra. Trong đó chọn lựa mẫu điều tra tại huyện Từ Liêm,

163

huyện Phúc Thọ, Ba Vì. Luận án tiến hành phân tích so sánh các tiêu chí của các

huyện trên về cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo trình độ văn hoá và

trình độ chuyên môn, cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo ngành nghề,

cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo độ tuổi, giới tính, phân bố lao động

nông nghiệp phân loại theo vùng, tỷ lệ lao động nông nghiệp có việc làm và lao

động nông nghiệp thiếu việc làm. Qua quá trình phân tích, so sánh rút ra được: ở

toàn bộ các tiêu chí, huyện Từ Liêm đều có những thay đổi tích cực hơn hai

huyện Ba Vì và Phúc Thọ trong giai đoạn 2008 – 2013. Qua điều tra tại huyện

Từ Liêm Luận án cho rằng lao động nông thôn chuyển dịch từ lao động nông

nghiệp sang lao động dịch vụ và công nghiệp tăng gấp nhiều lần so với số lao

động nông nghiệp bị mất việc làm do thu hồi hết diện tích đất sản xuất nông

nghiệp. Hơn nữa thu nhập của số lao động này ngày càng ổn định, nâng cao và

người lao động nông nghiệp ở huyện Từ Liêm có trình độ tay nghề, vốn đầu tư

đã mở rộng sản xuất, thuê đất canh tác ở các địa phương khác trồng các loại

nông sản, hoa màu có giá trị kinh tế cao, tạo nhiều việc làm tại chỗ và việc làm

cho lao động ở các địa phương này. Trong khi đó ở huyện Ba Vì và Phúc Thọ vì

quá trình xây dựng nông thôn mới chưa được đồng bộ nên tỷ lệ lao động nông

nghiệp mất việc làm do thu hồi đất cao, trình độ lao động thấp và quá trình đào

tạo nghề chưa thực sự hiệu quả khiến cho một lượng lớn lao động nông nghiệp

thiếu việc làm, thu nhập của người lao động nông nghiệp cũng thấp hơn do chưa

áp dụng có hiệu quả khoa học công nghệ trong sản xuất.

5. Từ những kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đưa ra hai

nhóm giải pháp chính giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá

trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030:

* Nhóm giải pháp chung (năm giải pháp) về xây dựng nông thôn mới có

tác động toàn diện tới việc nâng cao đời sống của nông dân và giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

164

* Nhóm giải pháp cụ thể (chín giải pháp), trực tiếp đến giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới của thủ

đô Hà Nội:

Với những căn cứ lý luận và thực tiễn về vấn đề giải quyết việc làm cho

lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô cùng với

kết quả nghiên cứu mối quan hệ tác động của kết quả thực hiện các tiêu chí xây

dựng nông thôn mới tới việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông

nghiệp ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội, ở các huyện của thủ đô.

Luận án đã đề xuất năm giải pháp chung và chín giải pháp cụ thể, tạo thành một

hệ thống giải pháp đồng bộ, khoa học và có tính khả thi cao trong việc giải quyết

việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở

Thủ đô Hà Nội.

165

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Arnab K. Basu (2011), Impact of Rural Employment Guarantee Schemes on

Seasonal Labor Markets: Optimum Compensation and Workers' Welfare,

Vol. 5, Viện Nghiên cứu lao động Đức.

2. Bùi Anh Tuấn (2011), Tạo việc làm cho người lao động qua trục đầu tư trực

tiếp nước ngoài ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

3. Bùi Quang Dũng (2009-2010), Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn

năm 2009 (Lao động và việc làm nông thôn), Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học

xã hội Việt Nam.

4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 23, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Tư bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Jennifer Cheung (2012), "China's Inland Growth Gives Rural Laborers More

Opportunities Near Home", Forbes(8).

7. Chi Cục Thống kê huyện Ba Vì (2011), Niên giám thống kê Ba Vì 2011.

8. Chi Cục Thống kê huyện Ba Vì (2013), Niên giám thống kê Ba Vì 2013

9. Chi Cục Thống kê huyện Từ Liêm (2011), Niên giám thống kê Từ Liêm

2011.

10. Chi Cục Thống kê huyện Từ Liêm (2012), Niên giám thống kê Từ Liêm

2012.

11. Chi Cục Thống kê huyện Từ Liêm (2013), Niên giám thống kê Từ Liêm

2013.

12. Chính phủ (2008), Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị

quyết Hội nghị lần thứ 7 Của Ban chấp hành Trung ương Khóa X về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn.

13. Chính phủ (2009), Quyết định phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động

nông thôn đến năm 2020.

166

14. Chu Văn Cấp, chủ biên (2007), Lịch sử các học thuyết kinh tế (tập bài

giảng), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2008), Niên giám thống kê Hà Nội 2008.

16. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2010), Niên giám thống kê Hà Nội 2010.

17. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2011), Niên giám thống kê Hà Nội 2011.

18. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2012), Niên giám thống kê Hà Nội 2012.

19. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2013), Báo phát triển kinh tế - xã hội

thành phố Hà Nội năm 2013, Hà Nội.

20. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2013), Báo phát triển kinh tế - xã hội

thành phố Hà Nội năm 2013.

21. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, Nghị quyết Hội nghị lần thứ

5 Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá IX).

22. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008

của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá X), về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn.

23. Đinh Đặng Định, chủ biên (2004), Một số vấn đề lao động, việc làm và đời

sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, NXB Lao động, Hà Nội.

24. Đỗ Thế Tùng, chủ biên (2000), Giáo trình kinh tế chính trị (chương trình

cao cấp), Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đỗ Tiến Sâm, chủ biên (2007), Vấn Đề Tam Nông Ở Trung Quốc: Thực

Trạng Và Giải Pháp, NXB Từ Điển Bách Khoa.

26. Jonna Estudillo và các cộng sự. (2013), "Labor markets, occupational

choice, and rural poverty in four Asian countries", Tạp chí Kinh tế

Philippines(6).

27. Francesco Caselli (1996), "Thị trường lao động và tín dụng nông thôn", Tạp

chí Phát triển kinh tế, Mỹ (4).

167

28. Tuan Francis, Somwaru Agapi và Diao Xinshen (2000), Lao động nông thôn

di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa trên điều tra nông

nghiệp Trung Quốc, The International Food Policy Research Institute

(IFPRI).

29. Nolwen Heraff và Jean Yves Martin (2001), Lao động, việc làm và nguồn

nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới, NXB Thế giới mới, Hà Nội.

30. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Kinh tế học

phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội (2010), Về xây dựng nông thôn mới

thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020, định hướng 2030, Nghị quyết

03/2010/NQ-HĐND, ngày 21/4/2010.

32. John Maynard Keynes (1994), Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

33. Li Luping (2009), Biến đổi thu nhập hộ gia đình ở nông thôn Trung Quốc,

Hội thảo quốc tế về kinh tế nông nghiệp, Bắc Kinh, Trung Quốc.

34. Ren Mu và Dominique van de Walle (2006), Left Behind to Farm? -

Women’s Labor Re-Allocation in Rural China, World Bank.

35. Nguyễn Hữu Dũng (1994-1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính

sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyến sang nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần, Đề tài KX.04, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

36. Nguyễn Hữu Dũng (2008), "Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động

việc làm", Tạp chí Cộng sản. 5(149).

37. Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc

làm ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Hữu Quỳnh, chủ biên (1998), Đại Từ điển kinh tế thị trường, Viện

nghiên cứu và phát triển kiến thức Bách Khoa, Hà Nội.

39. Nguyễn Khắc Thanh (2007), "Một số vấn đề trong tư duy, nhận thức về phát

triển thị trường sức lao động", Tạp chí Cộng sản. 23(143).

168

40. Nguyễn Lương Trào (1993), Mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc đưa

lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Luận án PTS khoa

học Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

41. Nguyễn Sinh Cúc (2013), "Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau

25 năm thực hiện Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khóa VI)", Tạp chí Kinh

tế và Quản lý (6).

42. Nguyễn Thị Lan Hương, chủ biên (2002), Thị trường lao động Việt Nam

định hướng và phát triển, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.

43. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình

đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, NXB Lao động - Xã hội

44. Nguyễn Tiệp (2008), "Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển

đổi mục đích sử dụng đất", Tạp chí Cộng sản. 7(151).

45. Nguyễn Trần Dương (2006), Hiện trạng cung - cầu nguồn lao động kỹ thuật

thành phố Hồ Chí Minh và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai

đoạn tới 2010, Đề tài cấp Bộ, Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ

Chí Minh.

46. Nguyễn Xuân Khoát (2007), Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã

hội nông thôn Việt Nam, NXB Đại học Huế.

47. Phạm Đức Chính (2010), Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực

sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý Hành chính

công, Học viện Hành chính, Hà Nội.

48. Quốc hội (1994), Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/06/1994.

49. David Slandes (2001), Sự giàu nghèo của các dân tộc, NXB Thống kê, Hà

Nội.

50. Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến

năm 2030.

169

51. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2012), Báo cáo Kết quả thực

hiện thu thập thông tin cung, cầu lao động trên địa bàn thành phố năm

2012.

52. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2012), Báo cáo Lao động,

việc làm thành phố Hà Nội.

53. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo

Tổng kết 5 năm hoạt động Sàn giao dịch việc làm trên địa bàn Hà Nội (

2007 - 2012 ) và phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2013 – 2015, Hà Nội.

54. Thành ủy Hà Nội (2011), Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới,

từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011 - 2015, Chương trình

số 02-Ctr/TU, ngày 29/08/2011.

55. Thành ủy Hà Nội (2011), Về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn

mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011-2015 Chương

trình số 02-CTr/TU, ngày 29/8/2011.

56. Trần Đình Hoan (1996), "Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước

ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản (1).

57. Trần Thị Bích Hạnh (2004), Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các tình

vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

58. UBND thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương

trình 02-CTr/TU của Thành ủy, tổng kết xây dựng mô hình nông thôn mới

tại các xã làm điểm và công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn thành phố

Hà Nội, Hà Nội.

59. UBND thành phố Hà Nội (2013), Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và

kế hoạch sử dụng đất 5 năm chu kỳ đầu (2011 - 2015) của thành phố Hà

Nội, Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 09/01/2013.

60. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Dự án HAIDEP, Hà Nội.

170

61. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Đề án tiếp tục phát triển thị

trường lao động thành phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm

2020, Hà Nội.

62. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Phê duyệt chương trình giải

quyết việc làm thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015, Quyết định số

3510/QĐ-UBND ngày 16/7/2010.

63. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2011), Về phát triển văn hóa - xã hội

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch,

văn minh giai đoạn 2011- 2015, Kế hoạch số 157/KH-UBND, ngày

30/12/2011 của UBND Thành phố về chương trình 04/CTr-TU, ngày

18/10/2011 của Thành ủy Hà Nội.

64. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Đào tạo nghề cho lao động nông

thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg trên địa bàn thành phố Hà Nội, Kế

hoạch số 112/KH-UBND ngày 24/08/2012.

65. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Đào tạo nghề cho lao động nông

thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-Ttg trên địa bàn thành phố Hà Nội, Kế

hoạch số 112/KH-UBND ngày 24/8/2012, Hà Nội.

66. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo Tình hình thực hiện

Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội.

67. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Đề án tổ chức, nâng cao hiệu

quả hoạt động sàn giao dịch việc làm thành phố Hà Nội giai đoạn 2013-

2015 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

171

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Lao động Nông, Lâm Nghiệp và Thủy sản phân theo nhóm tuổi chia theo đơn vị hành chính

Đơn vị tính:Người

Chia ra

Tổng

Dưới 20

Từ 20 - 30

Từ 30 - 40

Từ 40 - 50

Từ 50 - 55

Từ 55 - 60 tuổi

số

tuổi

tuổi

tuổi

tuổi

tuổi

(Riêng đối với lao động nam )

666.429

20.090

128.564

152.107

206.048

122.732

36.888

Tổng số

5.468

6.080

8.237

4.781

26.790

702

1.522

Khu vực quận

1.226

5

113

252

543

245

68

- Tây Hồ

- Long Biên

2.338

20

253

362

892

617

194

- Hoàng Mai

1.852

39

303

347

598

427

138

21.374

638

4.799

5.119

6.204

3492

1.122

- Hà Đông

639.639

19.388

35.366

123.096

146.027

197.811

117.951

Khu vực huyện, thị xã

53.058

1.599

9.780

12.446

16.842

9.615

2.776

- Sóc Sơn

39.251

508

4.432

8.701

14.097

9.152

2.361

- Đông Anh

- Gia Lâm

26.732

459

3.110

5.742

9.349

6.239

1.833

12.987

260

2.513

3.051

3.811

2.622

730

- Từ Liêm

- Thanh Trì

13.374

334

2.000

4.438

3.002

866

172

123.096

146.027

197.811

117.951

35.366

639.639

19.388

Khu vực huyện, thị xã

53.058

1.599

12.446

9.780

16.842

9.615

2.776

- Sóc Sơn

8.701

4.432

14.097

9.152

39.251

508

2.361

- Đông Anh

5.742

3.110

9.349

6.239

26.732

459

1.833

- Gia Lâm

3.051

2.513

3.811

2.622

12.987

260

730

- Từ Liêm

2.734

2.000

4.438

3.002

13.374

334

866

- Thanh Trì

11.439

9.035

14.816

7.690

46.099

887

2.232

- Mê Linh

4.148

3.016

4.915

3.012

16.520

515

914

- Sơn Tây

20.966

24.293

13.275

3.352

20.071

85.637

3.680

- Ba Vì

6.584

4.691

9.124

6.071

29.011

727

1.814

- Phúc Thọ

3.618

3.022

5.432

3.997

17.728

407

1.252

- Đan Phượng

6.312

6.060

7.940

4.973

28.003

1.011

1.707

- Hoài Đức

7.901

7.625

9.731

5.861

34.024

1.225

1.681

- Quốc Oai

9.567

8.368

11.145

6.062

37.927

1.116

1.669

- Thạch Thất

12.792

12.828

16.137

9.338

55.981

1.884

3.002

- Chương Mỹ

4.518

4.102

6.691

4.331

22.023

714

1.667

- Thanh Oai

3.075

2.561

5.265

3.727

16.397

475

1.294

- Thường Tín

5.245

3.632

8.949

5.401

25.739

764

1.748

- Phú Xuyên

7.389

5.564

11.242

6.318

33.636

1.049

2.074

- Ứng Hòa

9.799

10.686

13.594

7.265

45.512

2.102

2.066

- Mỹ Đức

173

Phụ lục 2: Cơ Cấu lao động Nông, Lâm Nghiệp và Thủy sản

phân theo nhóm tuổi chia theo đơn vị hành chính

Đơn vị tính:Người

Chia ra

Tổng

Từ 55 - 60 tuổi

số

Dưới 20

Từ 30 - 40

Từ 20 - 30 tuổi

Từ 40 - 50 tuổi Từ 50 - 55 tuổi

(Riêng đối với lao

tuổi

tuổi

động nam )

666.429

20.090

128.564

152.107

206.048

122.732

36.888

Tổng số

26.790

702

6.080

5.468

8.237

4.781

1.522

Khu vực quận

1.226

5

252

113

543

245

68

- Tây Hồ

2.338

20

362

253

- Long Biên

892

617

194

1.852

39

347

303

- Hoàng Mai

598

427

138

21.374

638

5.119

4.799

6.204

3.492

1.122

- Hà Đông

146.027 12.446 8.701 5.742 3.051

639.639 53.058 39.251 26.732 12.987 13.374

19.388 1.599 508 459 260 334

123.096 9.780 4.432 3.110 2.513 2.000

Khu vực huyện, thị xã - Sóc Sơn Đông Anh - Gia Lâm - Từ Liêm - Thanh Trì -

197.811 16.842 14.097 9.349 3.811 4.438

117.951 9.615 9.152 6.239 2.622 3.002

35.366 2.776 2.361 1.833 730 866

174

Chia ra

Tổng

Từ 55 - 60 tuổi

số

Dưới 20

Từ 20 - 30

Từ 30 - 40

Từ 40 - 50

Từ 50 - 55

(Riêng đối với

tuổi

tuổi

tuổi

tuổi

tuổi

lao động nam )

35.366 2.776 2.361 1.833

730

866 2.232

914

639.639 53.058 39.251 26.732 12.987 13.374 46.099 16.520 85.637 29.011 17.728 28.003 34.024 37.927 55.981 22.023 16.397 25.739 33.636 45.512

19.388 1.599 508 459 260 334 887 515 3.352 727 407 1.011 1.225 1.116 1.884 714 475 764 1.049 2.102

123.096 9.780 4.432 3.110 2.513 2.000 9.035 3.016 20.071 4.691 3.022 6.060 7.625 8.368 12.828 4.102 2.561 3.632 5.564 10.686

146.027 12.446 8.701 5.742 3.051 2.734 11.439 4.148 20.966 6.584 3.618 6.312 7.901 9.567 12.792 4.518 3.075 5.245 7.389 9.799

197.811 16.842 14.097 9.349 3.811 4.438 14.816 4.915 24.293 9.124 5.432 7.940 9.731 11.145 16.137 6.691 5.265 8.949 11.242 13.594

3.680 1.814 1.252 1.707 1.681 1.669 3.002 1.667 1.294 1.748 2.074 2.066

117.951 9.615 9.152 6.239 2.622 3.002 7.690 3.012 13.275 6.071 3.997 4.973 5.861 6.062 9.338 4.331 3.727 5.401 6.318 7.265

Khu vực huyện, thị xã - Sóc Sơn - Đông Anh Gia Lâm - Từ Liêm - Thanh Trì - Mê Linh - - Sơn Tây Ba Vì - Phúc Thọ - Đan Phượng - Hoài Đức - Quốc Oai - Thạch Thất - - Chương Mỹ Thanh Oai - Thường Tín - Phú Xuyên - Ứng Hòa - Mỹ Đức -

175

NHỮNG ĐIỀU GHI TRÊN

BAN CHỈ ĐẠO TỔNG ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 2011

PHIẾU ĐƯỢC BẢO MẬT

PHỤ LỤC 3: Mẫu phiếu điều tra tình hình lao động nông nghiệp ở các huyện

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN VỀ TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA HỘ

THEO LUẬT THỐNG KÊ

Hộ số:

Phiếu số 01/TĐTNN-HO

ĐÂY LÀ TỜ PHIẾU SỐ

TRONG TỜ PHIẾU CỦA HỘ

Mẫu các chữ số

Tỉnh/thành phố trực thuộc TW: ..........................................................................

Huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh: ..........................................................

Xã/phường/thị trấn: .............................................................................................

Thôn/ấp/bản: ........................................................................................................

Tên địa bàn điều tra: ............................................................................................

Địa bàn điều tra số:

Họ và tên chủ hộ: ................................................................................................

Dân tộc.............................

Nếu là hộ độc thân sống tập thể làm việc ở khu công nghiệp, khu chế xuất khu vực nông thôn thì đánh dấu x vào ô

PHẦN I. HỘ, NHÂN KHẨU, BẢO HIỂM Y TẾ

(CÂU 1 VÀ CÂU 2 DO TỔ TRƯỞNG ĐIỀU TRA GHI – TỔ TRƯỞNG CĂN CỨ VÀO DANH SÁCH HỘ NGHÈO VÀ HỘ CẬN NGHÈO CỦA XÃ ĐỂ XÁC ĐỊNH)

CÓ >> CÂU 3

1

176

1. HỘ CÓ THUỘC DIỆN HỘ NGHÈO NĂM 2010 THEO CHUẨN NGHÈO MỚI CỦA QUỐC GIA KHÔNG?

(ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)

KHÔNG

2

1

2. HỘ CÓ THUỘC DIỆN HỘ CẬN NGHÈO NĂM 2010 THEO CHUẨN NGHÈO MỚI CỦA QUỐC GIA KHÔNG?

(ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)

KHÔNG

2

3. Số nhân khẩu của hộ? (NHỮNG NGƯỜI THỰC TẾ THƯỜNG TRÚ TẠI HỘ)

4. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của hộ?

NAM TỪ 15 ĐẾN DƯỚI 60 TUỔI (SINH TỪ 1952 ĐẾN 1996)

NỮ TỪ 15 ĐẾN DƯỚI 55 TUỔI (SINH TỪ 1957 ĐẾN 1996)

5. Số người tham gia bảo hiểm y tế của hộ?

(BAO GỒM TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ, KỂ CẢ HỌC SINH, SINH VIÊN VÀ TRẺ EM DƯỚI 6 TUỔI)

PHẦN II. LAO ĐỘNG, NGUỒN THU VÀ NGÀNH SẢN XUẤT CHÍNH CỦA HỘ

I. NHỮNG NGƯỜI TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG CÓ KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG (TRỪ HỌC SINH, SINH VIÊN CÒN ĐANG ĐI HỌC) VÀ NHỮNG NGƯỜI TRÊN TUỔI LAO ĐỘNG

THỰC TẾ ĐANG LAO ĐỘNG SỐ THỨ TỰ

NGƯỜI THỨ 1

NGƯỜI THỨ 2

NGƯỜI THỨ 3

NGƯỜI THỨ 4

NGƯỜI THỨ 5

NGƯỜI THỨ 6

CÂU HỎI

(CHỦ HỘ)

6. Tên

......................................................................................................................................................

..............................

7. Tuổi (TÍNH THEO DƯƠNG LỊCH = 2011 - NĂM SINH)

8. Giới tính (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)

NAM

1

1

NAM

1

NAM

1

NAM

1

NAM

1

NAM

NỮ

2

2

NỮ

2

NỮ

2

NỮ

2

NỮ

2

NỮ

9. Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất của [TÊN]?

(GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô)

CHƯA QUA ĐÀO TẠO

1=

ĐÃ QUA ĐÀO TẠO NHƯNG KHÔNG CÓ CHỨNG CHỈ

2=

SƠ CẤP NGHỀ

3=

TRUNG CẤP NGHỀ, TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP

4=

CAO ĐẲNG NGHỀ

5=

CAO ĐẲNG

6=

ĐẠI HỌC TRỞ LÊN

7=

177

10. Việc làm chiếm thời gian nhiều nhất trong 12 tháng qua

của [TÊN] là gì? (GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô)

01=

NÔNG NGHIỆP

XÂY DỰNG 06=

02=

LÂM NGHIỆP

THƯƠNG NGHIỆP 07=

03=

THỦY SẢN

VẬN TẢI 08=

04=

DIÊM NGHIỆP

DỊCH VỤ KHÁC 09=

05=

CÔNG NGHIỆP (KHÔNG

10=

KHÔNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ >> HỎI

BAO GỒM DIÊM NGHIỆP)

NGƯỜI TIẾP THEO

11. Hình thức của công việc chiếm thời gian nhiều nhất

trong 12 tháng qua của [TÊN] là gì? (GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP

VÀO Ô)

TỰ LÀM CHO GIA ĐÌNH

1=

LÀM NHẬN TIỀN CÔNG, TIỀN LƯƠNG

2=

12. Việc làm chiếm thời gian nhiều thứ hai trong 12 tháng

qua của [TÊN] là gì?

(XEM CÁCH ĐÁNH MÃ Ở CÂU 10 ĐỂ GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô)

13. Ai trong số những người trên là người quyết định hoạt động kinh tế của hộ?

(NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH, QUYẾT ĐỊNH CÁC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CỦA HỘ)

(ĐTV GHI MÃ THEO SỐ THỨ TỰ Ở TRƯỚC CÂU 6)

Mẫu các chữ số

Hộ số

II. Nguồn thu, ngành sản xuất chính của hộ (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)

NÔNG, LÂM, THỦY SẢN VÀ DIÊM NGHIỆP

NÔNG NGHIỆP

XÂY DỰNG

1

6

1

178

14. Nguồn thu nhập (ĐÃ TRỪ CHI PHÍ)

16. Ngành sản xuất chính

lớn nhất của hộ trong 12 tháng

của hộ trong 12 tháng

CÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG (>>CÂU 16)

LÂM NGHIỆP

THƯƠNG NGHIỆP

2

7

2

qua?

qua?

THƯƠNG NGHIỆP, VẬN TẢI, DỊCH VỤ KHÁC (>>CÂU

THỦY SẢN

VẬN TẢI

8

3

3

16)

4

9

DIÊM NGHIỆP

DỊCH VỤ KHÁC

4

NGUỒN KHÁC (KHÔNG TỪ SẢN XUẤT KINH DOANH) (>>CÂU

5

CÔNG NGHIỆP (KHÔNG BAO

10

HỘ KHÁC

16)

GỒM DIÊM NGHIỆP)

NÔNG NGHIỆP

THUỶ SẢN

3

1

15. Nguồn thu nhập lớn nhất của

hộ từ nông, lâm, thủy sản và diêm

LÂM NGHIỆP

DIÊM NGHIỆP

4

2

nghiệp trong 12 tháng qua?

PHẦN III. DIỆN TÍCH ĐẤT SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẤT LÂM NGHIỆP, DIỆN TÍCH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN, ĐẤT LÀM MUỐI

(TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)

17. Đất hộ sử dụng (GỒM CẢ ĐẤT ĐI THUÊ, ĐI MƯỢN, ĐẤU THẦU; KHÔNG TÍNH ĐẤT CHO THUÊ, CHO MƯỢN)

Trong đó

c. Tổng diện tích (m2)

a. Loại đất

b. Số thửa/mảnh

c1. Đất của hộ (m2)

c2. Đất hộ đi thuê, mượn, đấu thầu (m2)

1. Đất trồng cây hàng năm

1a. Trong đó: Đất lúa

2. Đất trồng cây lâu năm

3. Đất lâm nghiệp

3a. Trong đó: Đất có rừng trồng

tập trung đạt tiêu chuẩn rừng

4. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản

5. Diện tích đất làm muối

179

18. Diện tích đất hộ cho thuê, cho mượn (m2)

PHẦN IV. DIỆN TÍCH GIEO TRỒNG, CHĂN NUÔI VÀ THỦY SẢN

CÓ 2

KHÔNG >> CÂU 21

19. Trong 12 tháng qua hộ [Ông/bà] có trồng các loại cây nông nghiệp không? (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP) 1

20. Diện tích gieo trồng một số cây chủ yếu

I. Cây hàng năm (MỖI VỤ TRONG NĂM TÍNH 1 LẦN DIỆN TÍCH)

II. Cây lâu năm (CÓ ĐẾN 01/7/2011)

c. Số cây lâu năm

a. Loại cây

b. Tổng diện tích trồng (m2)

a. Loại cây

b. Tổng diện tích trồng (m2)

trồng phân tán

b1. Trong đó: Diện tích cho sản phẩm (m2)

cho sản phẩm

1. Lúa hè thu 2010

1. Xoài

(cây)

2. Lúa thu đông/vụ 3 -

2. Sầu riêng

2010 3. Lúa mùa 2010

3. Măng cụt

4. Lúa đông xuân 2011

4. Mít

5. Ngô/bắp

5. Cam, quýt

6. Khoai lang

6. Bòng, bưởi

7. Sắn/mỳ

7. Nhãn

8. Mía

8. Vải, chôm chôm

9. Đậu tương

9. Dừa

10. Lạc/đậu phộng

10. Điều/Đào lộn hột

11. Rau các loại

11. Hồ tiêu

12. ……..

12. Cao su

13. ..........

13. Cà phê

14. ..........

14. Chè búp

15. ..........

15. ...................

16. ..........

16. ..................

180

Mẫu các chữ số

Hộ số

1

CÓ 2

KHÔNG >> CÂU 23

181

21. Tại thời điểm 01/7/2011 hộ [Ông/bà] có chăn nuôi không? (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)

22. Chăn nuôi (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)

a. Loại vật nuôi

b. Số lượng (con)

a. Loại vật nuôi

b. Số lượng (con)

1. Trâu

6. Gà

6a. Trong đó: Gà công nghiệp

2. Bò

2.1. Bò sữa

6.1. Gà mái đẻ

2.1a. Trong đó: Bò cái sữa

6.1a. Trong đó: Gà công nghiệp

3. Dê

7. Vịt

7a. Trong đó: Vịt đẻ

4. Cừu

5. Lợn/heo (KHÔNG KỂ LỢN SỮA)

8. Ngan/vịt xiêm, ngỗng

5.1. Lợn/heo nái

9. Ong (ĐÀN)

Chia ra

5.2. Lợn/heo đực giống

10. …………………......

5.3. Lợn/heo thịt

11. ………………………

CÓ 2

KHÔNG >> CÂU 26

23. Trong 12 tháng qua hộ [Ông/bà] có nuôi trồng thủy sản (kể cả nuôi thuỷ sản lồng, bè) không? (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP) 1

24. Nuôi trồng thủy sản trong 12 tháng qua (không bao gồm nuôi thủy sản lồng, bè)

d. Diện tích nuôi

e. Thể tích

a. Diện tích nuôi cá (m2)

b. Diện tích nuôi tôm (m2)

c. Diện tích nuôi thuỷ sản khác (m2)

giống thuỷ sản (m2)

bể, bồn nuôi giống (m3)

182

Tổng số (=1+2+3)

1. Nuôi nước ngọt

Chia ra

2. Nuôi nước lợ

3. Nuôi nước mặn

4. Nuôi trong ruộng lúa

xxxx

xxxx

xxxx

xxxx

Trong tổng số 5. Nuôi thâm canh, bán thâm canh

25. Nuôi thuỷ sản lồng, bè (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)

a1. Trong đó:

a. Tổng số lồng, bè nuôi (cái)

b. Thể tích lồng, bè nuôi (m3)

Số lồng bè nuớc ngọt (cái)

b1. Trong đó: Thể tích lồng, bè nước ngọt (m3)

1. Cá

2. Tôm

3. Thuỷ sản khác

PHẦN V. MÔI TRƯỜNG SỐNG VÀ ĐỒ DÙNG CHỦ YẾU CỦA HỘ (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)

CỦI

1

1

26. Hộ có sử dụng điện không?

31. Hộ sử dụng loại chất đốt chủ yếu

nào để đun nấu?

KHÔNG >> CÂU 28

THAN

2

2

GAS CÔNG NGHIỆP

3

ĐIỆN LƯỚI QUỐC GIA

1

27. Hộ sử dụng nguồn điện nào là chính?

BIOGA

4

NGUỒN ĐIỆN KHÁC

2

ĐIỆN

5

NƯỚC MÁY RIÊNG

1

28. Hộ sử dụng nguồn nước chính nào

dùng cho ăn, uống?

NGUỒN KHÁC

6

NƯỚC MÁY CÔNG CỘNG

NHÀ TẮM XÂY

1

2

183

32. Hộ đang sử dụng loại nhà tắm nào

là chính?

NHÀ TẮM KHÁC

NƯỚC MUA (XI TÉC, BÌNH...)

2

3

KHÔNG CÓ NHÀ TẮM

NƯỚC GIẾNG KHOAN

3

4

NƯỚC GIẾNG ĐÀO/GIẾNG KHƠI

5

HỐ XÍ TỰ HOẠI/BÁN TỰ HOẠI TRONG NHÀ

1

33. Hộ đang sử dụng loại hố xí nào là

chính?

NƯỚC KHE, NƯỚC SUỐI

6

HỐ XÍ TỰ HOẠI/BÁN TỰ HOẠI NGOÀI NHÀ

2

HỐ XÍ THẤM DỘI NƯỚC (SUILABH)

3

NƯỚC SÔNG, HỒ, AO CÓ

29. Hộ có dùng hệ thống lọc hoặc hoá

HỐ XÍ KHÁC

4

chất để xử lý nước ăn, uống không?

NƯỚC MƯA KHÔNG

NƯỚC KHÁC (GHI RÕ____________________)

7 1 8 2 9

KHÔNG CÓ HỐ XÍ

5

NƯỚC MÁY RIÊNG

CÓ NGƯỜI ĐẾN THU GOM

1

1

30. Hộ sử dụng nguồn nước chính nào

34. Hộ xử lý rác thải sinh hoạt bằng

dùng cho sinh hoạt?

hình thức chủ yếu nào?

MANG ĐẾN HỐ RÁC TẬP TRUNG

NƯỚC MÁY CÔNG CỘNG

2

2

CHÔN, ĐỐT

NƯỚC MUA (XI TÉC, BÌNH...)

3

3

VỨT BẤT KỂ CHỖ NÀO

NƯỚC GIẾNG KHOAN

4

4

KHÁC (GHI RÕ________________________)

NƯỚC GIẾNG ĐÀO/GIẾNG KHƠI

5

5

NƯỚC KHE, NƯỚC SUỐI

6

RÃNH THOÁT CÓ NẮP ĐẬY

1

35. Hệ thống thoát nước thải chủ yếu

của hộ thuộc loại gì?

NƯỚC SÔNG, HỒ, AO

7

RÃNH THOÁT HỞ

2

NƯỚC MƯA

8

HÌNH THỨC KHÁC

3

NƯỚC KHÁC (GHI RÕ____________________)

9

KHÔNG CÓ HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC THẢI

4

Mẫu các chữ số

Hộ số

184

36. Một số đồ dùng chủ yếu của hộ (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)

Loại

Số lượng (cái)

Loại

Số lượng (cái)

Loại

Số lượng (cái)

6. Điện thoại cố định*

11. Quạt điện các loại

1. Xe máy

7. Điện thoại di động

12. Bình tắm nóng lạnh

2. Ti vi màu

8. Máy điều hòa

13. Lò vi sóng, lò nướng

3. Đầu video/VCD/DVD

9. Máy giặt

14. Máy vi tính

4. Radio, cassettes

14a. Trong đó: - Số máy tính kết nối

10. Tủ lạnh, tủ đá

5. Dàn nghe nhạc

Internet GỒM CẢ ĐIỆN THOẠI CỐ ĐỊNH KHÔNG DÂY; MỘT THUÊ BAO ĐIỆN THOẠI CỐ ĐỊNH NẾU CÓ LẮP THÊM NHIỀU MÁY CŨNG CHỈ TÍNH LÀ MỘT ĐIỆN THOẠI

GHI CHÚ: *

PHẦN VI. MÁY MÓC, THIẾT BỊ CHỦ YẾU (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)

I. Máy kéo (MÁY CÀY, BỪA, XỚI...)

II. Tàu, thuyền, xuồng vận tải có động cơ

Công suất (CV)

Loại tàu, thuyền, xuồng

Số lượng (chiếc)

Tổng công suất (CV)

41. Tàu, thuyền, xuồng vận tải hàng

37. Máy kéo thứ nhất

hóa

42. Tàu, thuyền, xuồng vận tải hành

38. Máy kéo thứ hai

khách

43. Tàu, thuyền, xuồng dịch vụ thuỷ

39. Máy kéo thứ ba

sản

……………………….

40. Máy kéo thứ tư

185

III. Máy móc, thiết bị khác

Số lượng

Loại máy, thiết bị

Số lượng (chiếc)

Loại máy, thiết bị

(chiếc)

44. Ô tô (TỔNG SỐ)

49. Máy gặt đập liên hợp

44a. Trong đó: Ô tô vận tải hàng hoá

50. Máy gặt khác (MÁY GẶT XẾP HÀNG, MÁY GẶT CẦM TAY…)

45. Máy phát lực chạy bằng động cơ điện

51. Máy cắt, xén (MÁY CẮT CỎ, CẮT CÀNH, XÉN CÂY...)

46. Máy phát lực chạy bằng động cơ xăng, dầu diezen

52. Máy tuốt lúa có động cơ

47. Máy phát điện

53. Lò, máy sấy sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản

54. Máy chế biến lương thực (XAY XÁT, ĐÁNH BÓNG, PHÂN

48. Máy/giàn gieo sạ

LOẠI)

Số lượng

Loại máy, thiết bị

Số lượng (chiếc)

Loại máy, thiết bị

(chiếc)

55. Máy chế biến thức ăn gia súc (NGHIỀN, TRỘN …)

59. Bình phun thuốc trừ sâu có động cơ

56. Máy chế biến thức ăn thuỷ sản (NGHIỀN, TRỘN, ÉP ĐÙN…)

60. Thuyền, xuồng đánh bắt thuỷ sản không động cơ

57. Máy sục khí, đảo nước dùng trong nuôi thủy sản

61. Máy chế biến gỗ (CƯA, XẺ, PHAY, BÀO...)

62. Máy khác (GHI

58. Máy bơm nước dùng cho sản xuất nông, lâm, thủy sản

RÕ....................................................................................)

186

63. Tầu, thuyền, xuồng khai thác thuỷ sản có động cơ

c. Nghề khai thác chính

f. Phạm vi khai thác chủ yếu

(GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô )

a. Công suất

b. Chiều dài

d. Số ngày khai

(GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô )

01= KÉO ĐƠN

06= VÂY ÁNH SÁNG

e. Số chuyến

1= TRONG ĐẤT LIỀN

máy chính

thân tàu

thác bình

02= KÉO ĐÔI

07= CÂU MỰC

2= VÙNG BIỂN VEN BỜ

khai thác/năm

03= RÊ TẦNG MẶT

08 = CÂU VÀNG CÁ NGỪ

(CV)

(m)

quân/chuyến

3= VÙNG LỘNG

04= RÊ TẦNG ĐÁY

09= CÂU KHÁC

4= VÙNG KHƠI, BIỂN CẢ

05= VÂY NGÀY

10= NGHỀ KHÁC

Tàu, thuyền, xuồng 1

Tàu, thuyền, xuồng 2

Tàu, thuyền, xuồng 3

Tàu, thuyền, xuồng 4

Tàu, thuyền, xuồng 5

Tàu, thuyền, xuồng 6

Ngày điều tra: ….. tháng 7 năm 2011

KÝ XÁC NHẬN

TỔ TRƯỞNG ĐIỀU TRA

NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

ĐIỀU TRA VIÊN

CHỮ KÝ

187

PHỤ LỤC 4: CÁC SỐ LIỆU ĐIỀU TRA VÀ ĐƯỢC TỔNG HỢP SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

4.1. So sánh cơ cấu kinh tế giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm năm 2011

Ba Vì Từ Liêm

1,20% Nông nghiệp 43,70%

17% 55% Công nghiệp

40% 43,40% Dịch vụ

4.2. So sánh cơ cấu lao động giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm

Ba Vì Từ Liêm

2,90% Nông nghiệp 87,00%

7% 57% Công nghiệp

6% 40,10% Dịch vụ

4.3. So sánh thu nhập của lao động nông nghiệp giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì (Triệu đồng/ người/ năm)

Ba Vì Từ Liêm

17,5 39,4

188

4.4. Số cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ huyện Từ Liêm từ năm 2010 đến năm 2013 (người)

Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013

12.870 14.053 14.432 16.931

4.5. Số lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện Từ Liêm các năm 2010 đến 2013 (người)

Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013

22.379 43.584 46.314 54.700

4.6. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất ở Huyện Từ Liêm

Năm 2010 Năm 2013

28.731.463 26.727.370 Đất nông nghiệp(ha)

46.392.395 48.408.280 Đất phi nông nghiệp(ha)

4.7. Số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ở huyện Phúc Thọ qua các năm (người)

Năm 2010Năm 2013

10.035

11.567

189

4.8. So sánh trình độ lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm, Sóc Sơn, Phúc Thọ

Từ Liêm Sóc Sơn Phú Thọ

Chưa qua 82,64% 96,18% 96,04% đào tạo

Đã qua đào 17,36% 3,82% 3,96% tạo

4.9. Phân bổ lao động nông nghiệp ở các huyện trên địa bàn Hà Nội (người)

Khu

Phú

Đan

Thạc

Sóc

Gia

Than

Phúc

Hoài

Than

vực

Đông

Từ

Sơn

Quốc

Chươn

Thườn

Ứng

Mỹ

h

Xuyê

Ba Vì

Phượn

Anh

Lâm

Liêm

h Trì

Linh

Tây

Oai

h Oai

g Tín

Hòa

huyện,

Sơn

Thọ

Đức

g Mỹ

Đức

g

n

Thất

thị xã

3

4

1

8

2

1

2

3

3

5

2

1

2

53.058

2 12.987

13.374

3 45.512

639.639

9.251

6.732

6.099

6.520

5.637

9.011

7.728

8.003

4.024

7.927

5.981

2.023

6.397

5.739

3.636

190

4.10. Phân bổ lao động nông nghiệp trẻ ở các huyện trên địa bàn Hà Nội (người)

Sóc

Gia

Thanh

Phúc

Hoài

Thanh

Phú

Đông

Từ

Sơn

Đan

Quốc

Thạch

Chương

Thường

Ứng

Mỹ

Ba Vì

Anh

Lâm

Liêm

Trì

Linh

Tây

Oai

Oai

Tín

Xuyên

Hòa

Sơn

Thọ

Phượng

Đức

Thất

Mỹ

Đức

23825

13641

9311

5824

5068

21361

7679

44389

12002

7047

13383

16751

19051

27504

9334

6111

9641

14002

22587

4.11 . Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội 2009

44,44% Trồng trọt

42,50% Chăn nuôi

3,71% Lâm nghiệp

Dịch vụ nông nghiệp 4,06%

5,29% Khác

4.12. So sánh chất lượng lao động giữa huyện Phúc Thọ và huyện Từ Liêm

Phúc Thọ Từ Liêm

2009 2013 2009 2013

72% 86,40% 57% 46,50% Chưa qua đào tạo

28% 13,60% 43% 53,50% Đã qua đào tạo

191

4.13. So sánh cơ cấu lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì và Hoài Đức (%)

Ba Vì

Hoài Đức

61,0

37,8

Trồng trọt

39,0

62,2

Chăn nuôi

4.14. Phân bố làng nghề tại các huyện trên địa bàn Hà Nội ( đơn vị: làng nghề)

Gia

Hoài

Phú

Phúc

Sóc

Thanh

Thanh

Chương

Đan

Đông

Mỹ

Quốc

Thạch

Thường

Từ

Ứng

Sơn

Ba Vì

Anh

Lâm

Linh

Xuyên

Oai

Oai

Trì

Tín

Liêm

Hòa

Tây

Mỹ

Phượng

Đức

Đức

Thọ

Sơn

Thất

8

33

70

28

0

51

3

7

98

32

32

31

50

105

63

126

8

112

0

192

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Huệ (2010), “Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động

trên địa bàn huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội”, Tạp chí giáo dục lý luận, Học

viện Chính trị - Hành chính Khu vực I, Số 8+9/2010, tr. 169 – 171.

2. Nguyễn Thị Huệ (2010), “Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Từ Liêm

- Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, Học

viện Chính trị - Hành chính Khu vực I, Số 10/2010, tr. 76+81-84.

3. Nguyễn Minh Quang (chủ nhiệm), Nguyễn Thị Huệ (2010), đề tài Lý luận của

Các Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay, Giấy chứng

nhận của Cục Trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia số

7946/GCN-TTKHCN ngày 01/6/2010, tr. 1-19.

4. Nguyễn Thị Huệ (2012), “Kinh tế tập thể ở huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội

trong quá trình xây dựng Nông thôn mới”, Tạp chí kinh tế và Quản lý, Viện

Kinh tế Học, Học Viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, số 3

tháng 9/2012, tr. 49-52.

5. Nguyễn Thị Huệ (2014), “Đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nông thôn mới:

Thực tiễn của Thành phố Hà Nội”, Tạp chí Tài Chính, Bộ Tài Chính, số tháng

3/2014, tr. 69 – 71.