1
Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................... 5
Chương 1 ............................................................................................................. 12
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 12
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án..................... 12
1.2. Khái quát những kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài và
những vấn đề đặt ra.................................................................................... 31
Chương 2 ............................................................................................................. 34
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI.... 34
2.1. Cơ sở lý luận việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp......................................................................................................... 34
2.2. Mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp với quá trình
xây dựng nông thôn mới ............................................................................ 58
Chương 3 ............................................................................................................. 69
TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NỘI ............. 69
3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của Hà Nội có ảnh hướng
đến giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây
dựng nông thôn mới ................................................................................... 69
3.2. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội tới việc
làm cho lao động nông nghiệp................................................................... 75
3.3. Thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội ....................... 93
Chương 4 ........................................................................................................... 117
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
........................................................................................................................... 117
4.1. Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội................................ 117
4.2. Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội................................ 124
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 161
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 171
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Các nước Đông Nam Á
NN-ND-NT Nông nghiệp – Nông dân- Nông Thôn
CNH Công nghiệp hóa
NTM Nông thôn mới
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Thu nhập quốc dân
Hiện đại hóa HĐH
ILO Tổ chức lao động quốc tế
KH&CN Khoa học và công nghệ
Lực lượng lao động LLLĐ
UBND Ủy ban nhân dân
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng của các ngành ...... 72
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2011-2013 và đóng
góp của các ngành vào mức tăng trưởng chung.................................................. 73
Bảng 3.3: Dân số từ 15 tuổi trở lên và dân số trong độ tuổi lao động có việc làm
chia theo huyện ở khu vực nông thôn (năm 2012).............................................. 97
Bảng 3.4: Cơ cấu lao động nông nghiệp có việc làm trong tuổi LĐ ở khu vực
nông thôn Hà Nội năm 2012 chia theo trình độ CMKT và giới tính................ 108
Bảng 4.1: Dự kiến tốc độ tăng trưởng dân số .................................................. 119
Bảng 4.2: Dự báo dân số Thủ đô Hà Nội có tác động tới việc làm .................. 120
Bảng 4.3: Dự báo cơ cấu sử dụng lao động nông nghiệp trong quá trình xây
dựng nông thôn mới .......................................................................................... 121
Bảng 4.4: Kế hoạch đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 ............ 121
Bảng 4.5: Kế hoạch giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015......................................... 123
4
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Số cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ huyện Từ Liêm
từ năm 2010 đến năm 2013 ................................................................................. 84
Hình 3.2. Số lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện Từ Liêm các
năm 2010 đến 2013 ............................................................................................. 84
Hình 3.3. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất ở Huyện Từ Liêm .................... 85
Hình 3.4. Số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ở huyện Phúc Thọ
qua các năm ......................................................................................................... 86
Hình 3.5. So sánh cơ cấu kinh tế giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm năm 2011 ... 87
Hình 3.6. So sánh cơ cấu lao động giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm......... 88
Hình 3.7. So sánh về trình độ lao động giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì năm 2011 ..... 88
Hình 3.8. So sánh thu nhập của lao động nông nghiệp giữa huyện Từ Liêm và
Ba Vì.................................................................................................................... 89
Hình 3.9. Cơ cấu lao động nông nghiệp phân theo mức độ tham gia................. 98
Hình 3.10. Phân bổ lao động nông nghiệp ở các huyện trên địa bàn Hà Nội..... 99
Hình 3.11. Phân bổ lao động nông nghiệp trẻ ở các huyện trên địa bàn Hà Nội ....... 99
Hình 3.12. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội 2009.................................... 100
Hình 3.13. So sánh cơ cấu lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì và Hoài Đức101
Hình 3.14. So sánh chất lượng lao động giữa huyện Phúc Thọ và huyện Từ Liêm.. 103
Hình 3.15. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội phân theo trình độ chuyên môn .. 104
Hình 3.16. So sánh trình độ lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm, Sóc Sơn,
Phúc Thọ............................................................................................................ 104
Hình 3.17 . Phân bố làng nghề tại các huyện trên địa bàn Hà Nội ................... 107
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, giải quyết việc làm đã trở thành chương trình mục tiêu quốc
gia ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhà nước đã dành ngân
sách lập Quỹ Quốc gia hỗ trợ và giải quyết việc làm, cho vay trực tiếp với các
dự án có mục tiêu để thu hút lao động, tạo việc làm cho người lao động. Tuy
nhiên, vấn đề việc làm đang đứng trước các mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa nhu cầu
việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết việc làm còn hạn chế; giữa nhu
cầu giải quyết việc làm với trình độ tổ chức, quản lý, trình độ, kỹ năng của
người lao động chưa theo kịp yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, sự nghiệp xây dựng nông thôn mới trong cả nước.
Trong gần 30 năm đổi mới, Hà Nội đã giành được nhiều thành tựu to lớn
trong phát triển kinh tế ngoại thành trong đó có việc giải quyết việc làm cho
người lao động theo chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là từ sau mở rộng
địa giới hành chính Hà Nội thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI về xây
dựng nông thôn mới (NTM) với quan điểm chỉ đạo là: “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, gìn giữ ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc
phòng, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển; xây dựng nông
thôn mới là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là khâu then
chốt” [22]; Chương trình số 02-CTr/TU ngày 29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội
về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời
sống nông dân” giai đoạn 2011-2015 [55] với mục tiêu: “Xây dựng nông thôn
mới Thủ đô Hà Nội có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được
6
xây dựng đồng bộ, hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày
càng được nâng cao. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nông thôn được
bảo đảm, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại”; Thực
hiện Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND ngày 21/4/2010 của Hội đồng nhân dân
Thành phố về xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020,
định hướng 2030 [31]. Kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội
những năm qua đã làm chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động nông
nghiệp theo hướng tích cực, hiện đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế
nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông
nghiệp. Xây dựng nông thôn mới tạo thêm nhiều việc làm trong khu vực phi
chính thức phù hợp với lao động nông thôn.
Xây dựng nông thôn mới thúc đẩy mở rộng không gian đô thị, cải tạo, xây
dựng phát triển hệ thống cơ sở kết cấu hạ tầng, tạo ra nhiều việc làm cho lao
động ở nông thôn và cơ hội cho lao động nông nghiệp chuyển dịch sang các
ngành nghề khác.
Xây dựng nông thôn mới làm thay đổi cơ cấu việc làm thúc đẩy nâng cao
chất lượng lao động, chất lượng việc làm và năng suất lao động.
Sự thay đổi cơ cấu việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới làm
cho thị trường lao động nông nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tiến trình xây
dựng nông thôn mới ngày càng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm ngày càng
lớn. Sự gia tăng cung – cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng động là
những điều kiện thuận lợi cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt động tư vấn,
giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin thị trường lao
động,... Vì vậy, lao động nông nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ
việc làm hiện đại, thực hiện các giao dịch trên thị trường lao động.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới cũng có sức ép lớn đối với
vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp Hà Nội: Quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn làm một bộ phận lao động nông
7
nghiệp không đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp và phát triển kinh tế
nông thôn mới theo yêu cầu hiện đại về trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động.
Bộ phận lao động nông nghiệp này phần lớn đã lớn tuổi hoặc trình độ học vấn
thấp không còn cơ hội đào tạo nâng cao trình độ và không còn phù hợp với yêu
cầu đổi mới của doanh nghiệp, của nền kinh tế, khả năng chuyển đổi nghề
nghiệp của họ rất hạn chế. Đây là vấn đề kinh tế - xã hội khá phổ biến trong quá
trình xây dựng nông thôn mới, tạo sức ép về việc làm đối với lao động nông
nghiệp, nông thôn dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Xây dựng nông
thôn mới làm tăng lượng lao động nhập cư ngày càng cao gây sức ép lớn về việc
làm và sự quá tải về kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục,... ở các khu đô thị.
Quá trình xây dựng nông thôn mới đang tạo ra những cơ hội và thách thức
về lao động và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Hà Nội. Do đó
việc phân tích và chỉ ra mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp với
quá trình xây dựng nông thôn mới, việc đánh giá thực trạng việc làm cho lao
động nông nghiệp và đề xuất các giải pháp để giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn năm 2015 –
2020, định hướng đến năm 2030 là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, đề tài “Việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô
Hà Nội” được lựa chọn để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận thức cơ sở khoa học về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới
- Đánh giá, phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội
giai đoạn 2008 -2013.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp để gắn giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội giai
đoạn 2015 - 2020 định hướng 2030.
8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi đề tài: Luận án tập trung nghiên cứu việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở một số huyện của Thủ
đô Hà Nội theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2013.
4. Phương pháp tiếp cận và nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận
Đề tài sử dụng phương pháp tiếp cận theo vùng: Mỗi vùng có những điều
kiện tự nhiên kinh tế xã hội khác nhau, xuất phát điểm xây dựng nông thôn mới
khác nhau. Theo đó, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp cũng
không giống nhau ở mỗi địa phương về quy mô, số lượng, chất lượng, cơ cấu.
Do đó tiếp cận vùng sẽ cho phép nghiên cứu những yếu tố riêng biệt của mỗi
vùng từ đó có những giải pháp cụ thể phù hợp với mỗi vùng.
Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá tình hình lao động, việc làm và giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
thủ đô Hà Nội được sử dụng trong đề tài:
- Cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo trình độ văn hoá và trình
độ chuyên môn.
- Cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo ngành nghề.
- Cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo độ tuổi, giới tính.
- Phân bố lao động nông nghiệp phân loại theo vùng.
- Tỷ lệ lao động nông nghiệp có việc làm và lao động nông nghiệp thiếu
việc làm.
9
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
4.2.1.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
Thu thập số liệu thứ cấp được lấy từ các tài liệu chuyên ngành, từ sách
tham khảo, các nghị quyết, chương trình của trung ương, chính phủ, thành ủy,
hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; các đề án, kế hoạch, báo
cáo, tổng kết của thành phố Hà Nội. Trong đó số liệu thứ cấp chủ yếu được thu
thập và phân tích đánh giá từ đề án xây dựng nông thôn mới của thành phố Hà
Nội; đề án xây dựng nông thôn mới của 19 huyện thị xã và 401 xã trên địa bàn
thành phố Hà Nội; thu thập số liệu theo kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông
thôn và thủy sản thành phố Hà Nội tại thời điểm ngày 01/7/2011; thu thập số
liệu về báo cáo kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013; thu thập số liệu từ báo
cáo kết quả thực hiện đề án 1956 của thành phố Hà Nội về đào tạo vào giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn từ năm 2011 đến năm 2013.
4.2.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Số liệu qua chọn mẫu điều tra được thu thập thông qua chọn mẫu điều tra
phi ngẫu nhiên. Cụ thể là kết hợp giữa phương pháp điều tra phân cấp và
phương pháp điều tra theo tiêu thức kết hợp. Luận án đã có khảo sát một số
huyện trong địa bàn thành phố Hà Nội và đã điều tra theo mẫu phiếu số
01/TĐTNN-HO của Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản
trung ương trong đó tác giả luận án là trưởng ban chỉ đạo điều tra của toàn bộ
các hộ thường trú ở khu vực nông thôn tại huyện Từ Liêm. Số liệu được thu thập
và tổng hợp bằng công nghệ quét (scanning): phiếu mẫu số 01/TĐTNN-HO của
Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản trung ương được ghi
chép, bảo quản, vận chuyển cẩn thận theo đúng quy trình tránh bị quăn, rách,
ẩm… và được bảo quản theo đúng quy trình trách nhiệm từ điều tra viên, tổ
trưởng đến ban chỉ đạo các xã và huyện.
10
4.2.2. Phương pháp xử lý số liệu
4.2.2.1. Với số liệu thứ cấp
Với số liệu thứ cấp được sử dụng phân nhóm theo nội dung của đề tài
nhằm chứng minh làm rõ những nội dung mà đề tài yêu cầu. Các số liệu thứ cấp
này đều được trích dẫn nguồn gốc cụ thể
4.2.2.2. Với số liệu sơ cấp
Với số liệu sơ cấp luận án đã phân nhóm theo các tiêu thức phân tổ và tính
các chỉ tiêu phân tích trên bảng tính excel.
4.2.3. Phương pháp khác
Đề tài sử dụng và tuân theo cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải phân tích các vấn đề. Cụ thể:
Trong đó luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu: trừu tượng hóa khoa
học; phương pháp nghiên cứu hệ thống tổng hợp phân tích thống kê so sánh,
phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc; phương pháp định tính và định
lượng… đồng thời sử dụng phương pháp tổng kết tình hình thực tiễn để tìm ra
những đặc trưng của vấn đề nghiên cứu và tính quy luật của đối tượng nghiên cứu
Chương 1: Luận án đã tổng hợp và hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về
các phạm trù lao động và lực lượng lao động, việc làm, thất nghiệp, trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của các học giả ngoài nước và trong nước. Đề tài cũng
đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu từ đó phân tích đánh giá tìm ra các vấn đề có
tính kế thừa bổ sung và hoàn thiện, đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề còn chưa
đầy đủ trong nghiên cứu về việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô.
Chương 2: Luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để rút
ra những khái niệm cơ bản và luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về giải
quyết việc làm, lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới, đồng thời đề tài cũng sử
dụng phương pháp nghiên cứu đánh giá thực tiễn các vấn đề lao động giải quyết
việc làm kinh nghiệm của một số nước và một số địa phương trong nước để từ
đó rút ra bài học cho Hà Nội.
11
Chương 3: Luận án sử dụng các phương pháp phân tích định tính và định
lượng; phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc; phương pháp thống kê;
phương pháp so sánh, tổng hợp theo logic kết hợp và sử dụng một số sơ đồ, biểu
đồ, đồ thị nhằm đánh giá thực trạng việc làm cho lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội. Các số liệu được tác giả thu
thập từ các nguồn tài liệu và dữ liệu điều tra được xử lý bằng phần mềm
Microsoft Excel để đưa ra cái nhìn trực quan hơn về tình hình việc làm và giải
quyết việc làm của lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ xây
dựng nông thôn mới.
Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp khái quát hóa nhưng
vấn đề đã nghiên cứu ở chương 2 và chương 3 để rút ra phương hướng và giải
pháp có tính khả thi giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới đến năm 2020, định hướng 2030.
5. Đóng góp của luận án
- Về lý luận: luận án hệ thống lại lý luận về vấn đề việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
- Về thực tiễn: luận án đã phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội gắn với thời kỳ xây dựng nông
thôn mới. Đưa ra một cái nhìn tổng thể nhất về thực trạng việc làm và giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Thủ đô giai đoạn 2008 – 2013. Luận án chỉ ra những tác động qua lại giữa quá
trình thực hiện xây dựng nông thôn mới tới việc làm cho lao động nông nghiệp
trong điều kiện đặc thù của Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới và dự
báo tình hình phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030,
luận án đã đưa ra các phương hướng, giải pháp để giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội.
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
Việc làm cho người lao động là một vấn đề luôn được quan tâm. Bởi lẽ,
đây không chỉ là vấn đề có liên quan đến cuộc sống của người lao động, mà còn
liên quan đến tất cả các quá trình phát triển xã hội. Đây là một vấn đề có liên hệ,
liên kết giữa các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu. Quá trình đó diễn ra
trong mỗi quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người trong
đó có liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp. Đây là vấn đề chủ yếu của
toàn bộ đời sống xã hội. Nhưng vào mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, giải quyết
việc làm cho người lao động cũng có những đặc điểm khác nhau.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về việc làm cho người lao động được nhiều
nhà khoa học, nhà quản lý cả trong và ngoài nước quan tâm. Trong phạm vi của
luận án, chương tổng quan tình hình nghiên cứu chỉ tập trung giới thiệu một số
công trình tiêu biểu liên quan đến việc làm cho người lao động, trong đó có lao
động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội.
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1 Tài liệu chuyên khảo và tham khảo nước ngoài
1.1.1.1 Sách tham khảo và bài báo khoa học
* Các Mác (1818-1883) - nhà kinh tế học và triết học người Đức có công
trình vĩ đại “Tư bản” được phát hành vào năm 1867 [5]. Sự xuất hiện của công
trình này đã đưa ông trở thành nhà khoa học kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ XIX.
Trong tác phẩm nổi tiếng này, Ông đã đưa ra lý thuyết giá trị thặng dư và
phân tích bản chất và những thành tố đặc biệt của hàng hoá sức lao động - một
loại hàng hoá đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình nghiên cứu,
Các Mác đã phát hiện ra rằng, cái giá trị tăng thêm mà các ông chủ tư bản có
được sau khi bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh chính là do lao động không
13
công của người công nhân làm thuê tạo ra. Song để có những giá trị thặng dư ấy,
nhà tư bản phải tạo ra một chỗ làm việc cụ thể trong chuỗi kế hoạch sản xuất
kinh doanh của họ bằng cách đầu tư tư bản vào sản xuất, kinh doanh. Và hơn
nữa, người lao động nếu không thể kết hợp sức lao động sống của mình với chỗ
làm việc cụ thể do nhà tư bản tạo ra, thì bản thân họ cũng không thể chuyển sức
lao động thành việc làm, và do đó cũng không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Vấn đề việc làm được ông nghiên cứu chi tiết ở chương XXIII, tập 23
C.Mác - Ăngghen toàn tập về “Quy luật phổ biến của tích luỹ tư bản chủ nghĩa”
[4], trong đó ông phân tích sự tăng thêm của tư bản đến vị trí của giai cấp công
nhân và việc làm. Luận cứ quan trọng nhất của công trình này là sự biến đổi cấu
tạo hữu cơ của tư bản trong quá trình tích luỹ. C.Mác cho rằng, cùng với những
điều kiện khác không thay đổi, kết cấu của tư bản cũng vẫn không thay đổi -
nghĩa là để vận dụng một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất
định, bao giờ cũng cần một khối lượng sức lao động như trước. Rõ ràng là lượng
cầu về sức lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỷ lệ
với tư bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng
tăng lên nhanh bấy nhiêu. Theo ông, đầu tư tăng (tăng tư bản) sẽ làm gia tăng
cầu sức lao động, do đó, khả năng có việc làm của người lao động sẽ được gia
tăng. Tuy nhiên, với mục đích có được càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, việc gia
tăng tư bản của nhà tư bản luôn được tính toán làm sao tốc độ gia tăng tư bản bất
biến nhanh hơn tốc độ gia tăng tư bản khả biến. Đầu tư cải tiến kỹ thuật công nghệ
là biện pháp tốt nhất để tăng năng suất lao động, gia tăng sản xuất giá trị thặng dư.
Do đó, sự gia tăng việc làm trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa không tăng
cùng tỷ lệ với sự gia tăng đầu tư tư bản, mà có xu hướng giảm tương đối.
Như vậy, xét trên tổng thể, tư bản khả biến và cầu sức lao động giảm
tương đối, số lượng việc làm tăng chậm hơn toàn bộ vốn của nền sản xuất xã
hội. Từ đó Mác đưa ra nhận định về nạn nhân khẩu thừa tương đối trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định, sự tăng lên của bộ phận tư bản
khả biến bao giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ của việc sản xuất
14
ra số nhân khẩu thừa tạm thời. Và cùng với sự tích luỹ tư bản do bản thân nó đẻ
ra, nhân khẩu công nhân cũng sản xuất ra với một quy mô ngày càng lớn những
phương tiện làm cho họ trở thành nhân khẩu thừa tương đối. Dân cư dôi dư này
có ý nghĩa rất quan trọng để phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa, đảm bảo lao
động thường xuyên cần thiết cho xã hội và cũng là đòn bẩy quan trọng cho việc
đẩy mạnh sản xuất giá trị thặng dư [dẫn theo 24].
Những nghiên cứu của C.Mác về hàng hoá sức lao động, về sự sản xuất ra
giá trị thặng dư, về ngày lao động, sự phân công lao động, sự thay đổi trong đại
lượng giá cả sức lao động và của giá trị thặng dư, sự chuyển hoá giá trị sức lao
động hay giá cả sức lao động thành tiền công, quá trình tích luỹ tư bản, nhất là
lý luận của ông về tích luỹ tư bản... được chuyển tải trong tập 23 đã cung cấp
những cơ sở khoa học cơ bản, trong đó có quan niệm về lao động, việc làm cho
các nhà kinh tế Mác-xít, các nhà nghiên cứu về các nền kinh tế trên thế giới
cũng như các vấn đề phát sinh trong xây dựng và phát triển kinh tế của các quốc
gia [14]. Đồng thời, đây cũng là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta xây dựng
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới cũng như
giải quyết việc làm cho người lao động trong đó có lao động nông nghiệp.
* John Maynard Keynes trong cuốn Lý luận chung về việc làm, lãi suất và
tiền tệ [32] đã xem việc làm trong mối quan hệ chặt chẽ với sản lượng - thu nhập
- tiêu dùng - đầu tư - tiết kiệm. Vị trí trung tâm trong lý thuyết của ông là việc
làm. J.M.Keynes cho rằng, tình trạng việc làm được xác định trong mối quan hệ
giữa tác động các yếu tố thị trường lao động, sự vận động của thất nghiệp, tình
trạng sản xuất, khối lượng sản phẩm, quy mô thu nhập, ông khẳng định: khi việc
làm tăng lên thì tổng thu nhập tăng lên. Cùng với sự tăng lên của thu nhập, ông
cho rằng, khi thu nhập tăng thì tiêu dùng cũng tăng lên, nhưng do tâm lý của
quần chúng, tốc độ tăng tiêu dùng luôn thấp hơn tốc độ tăng thu nhập, làm cho
cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu nhập, dẫn đến một bộ phận hàng
hoá không bán được. Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh hưởng đến
15
sản xuất chu kỳ sau, do đó làm giảm việc làm, gia tăng thất nghiệp. Muốn khắc
phục tình trạng đó, cần phải có một khối lượng đầu tư nhằm kích thích quần
chúng tiêu dùng phần tiết kiệm của họ. Do vậy, theo ông, để tăng việc làm, giảm
thất nghiệp phải tăng tổng cầu nền kinh tế, gồm cả cầu tiêu dùng và cầu đầu tư.
Ông chỉ ra rằng, việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi
hỏi phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư và
giảm tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và thất
nghiệp. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng để tăng tổng cầu thông qua các
khoản chi tiêu chính phủ, hoặc thông qua các chính sách đầu tư.
Ông phê phán lý thuyết thất nghiệp của A.Pigou và cho rằng, trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không tồn tại cơ chế nào có thể đảm bảo
được việc làm đầy đủ, nguyên nhân của thất nghiệp và lạm phát không phải du
nhập từ bên ngoài, mà chính ở trong hệ thống kinh tế đó, chứ không thể và cũng
không phải là một hệ thống tự điều tiết.
Như vậy, theo J.M.Keynes, để tạo việc làm, hạn chế thất nghiệp, cần gia
tăng cầu tiêu dùng và đầu tư. Tăng cầu tiêu dùng và đầu tư nhằm kích thích
lượng tiền cất trữ đưa vào lưu thông, từ đó sẽ giúp mở rộng quy mô nền kinh tế,
làm tăng thu nhập. Và đến lượt nó, thu nhập tăng sẽ làm gia tăng đầu tư, tăng
việc làm và tăng tiêu dùng [30].
* Nolwen Heraff - Jean Yves Martin trong cuốn Lao động, việc làm và
nguồn nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới [29] đã nghiên cứu khái quát về
tình hình lao động, việc làm và nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 1986-2000.
Theo đó cho thấy, bắt đầu sự nghiệp đổi mới, Việt Nam có một ưu thế lớn là có
nguồn nhân lực dồi dào, khả năng mở rộng việc làm trong quá trình đổi mới,
phát triển nền kinh tế thị trường rất lớn, song do chất lượng nguồn nhân lực
thấp, đa số là lao động chưa qua đào tạo nghề nên khả năng đáp ứng yêu cầu
phát triển rất hạn chế.
Điểm đáng chú ý nhất ở tác phẩm này là đã chỉ ra những hạn chế của
nguồn nhân lực và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề
giải quyết việc làm ở nước ta giai đoạn 1986-2000. Những kết quả nghiên cứu
16
của công trình này, cũng như nghiên cứu của Slandes [49] đã cung cấp cho
người đọc có một cái nhìn tương đối khách quan, khoa học về lao động, việc
làm và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi
từ mô hình kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là những tư liệu giúp cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về lao động, việc
làm và nguồn nhân lực Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
* Tuan Francis, Somwaru Agapi, Diao Xinshen trong cuốn Lao động
nông thôn di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa trên điều tra
nông nghiệp Trung Quốc [28] cho rằng quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh
mẽ ở Trung Quốc và sự gia tăng năng suất trong nông nghiệp hàm ý rằng những
lao động nông thôn sẽ được thu hút vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp.
Kết quả là họ sẽ có nhiều cơ hội để tăng thu nhập phi nông nghiệp. Công trình
này tập trung nghiên cứu cấu trúc lực lượng lao động nông thôn và những đặc
điểm của lao động nông thôn để đánh giá tiềm năng di cư lao động nông thôn
vào các lĩnh vực phi nông nghiệp. Công trình phân tích thị trường lao động nông
thôn Trung Quốc dựa trên điều tra dân số nông nghiệp Trung Quốc lần thứ nhất,
với những đặc điểm nhân khẩu học của lực lượng lao động nông thôn, tính liên
kết giữa các loại công việc, nơi làm việc và di cư lao động của lao động nông
thôn. Dựa trên sự phân bổ nhân khẩu học của lực lượng lao động nông thôn, các
tác giả đã tìm ra được mối liên hệ giữa lao động nông thôn với việc phân bổ các
nguồn lực khác, đặc biệt là quỹ đất đai ngày càng hạn chế, từ đó áp dụng kỹ
thuật logit polytomous tổng quát để phân tích các mô hình sử dụng lao động
nông thôn và dự báo quá trình di cư lao động nông thôn.Tác phẩm này cung cấp
cho các nhà nghiên cứu cơ cấu của lao động nông thôn có khả năng chuyển đổi
theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và cơ cấu lao động và việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
* Ren Mu, Dominique van de Walle trong cuốn Left Behind to Farm? -
Women’s Labor Re-Allocation in Rural China [34] chứng minh rằng sự chuyển
đổi công việc và di cư lao động trong quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng
17
của Trung Quốc diễn ra rất mạnh mẽ, song có vấn đề tồn tại là sự phân bổ lại lao
động nông nghiệp truyền thống đối với những người phụ nữ nông thôn. Báo cáo
nghiên cứu phương thức làm việc và phân bổ thời gian của những người phụ nữ
không di cư nhưng chịu ảnh hưởng bởi sự di cư của những người thân trong gia
đình. Thực tế cho thấy, những người phụ nữ bị bỏ lại ở nông thôn đang phải làm
nhiều công việc đồng áng hơn trước, và điều này diễn ra trong thời gian dài chứ
không chỉ là tạm thời đảm nhiệm. Trong khi đó, đối với những người đàn ông bị
bỏ lại ở nông thôn thì không gặp phải trường hợp này. Các chuyên gia kinh tế đã
đặt câu hỏi về mô hình thu nhập tổng hợp của hộ gia đình dựa trên những bằng
chứng thực nghiệm, những khả năng phát sinh có thể đi kèm với các hiệu ứng
phân phối trong các hộ gia đình trong quá trình phát triển kinh tế tổng thể.
Đối tượng nghiên cứu của công trình này là những phụ nữ nông thôn
không di cư, phương cách làm việc, phân bổ thời gian lao động và sức khỏe của
họ bị ảnh hưởng khi sống trong những gia đình có người di cư. Những vấn đề về
bình đẳng giới thường chỉ chú ý đến việc trao quyền cho người phụ nữ mà bỏ
quên các khía cạnh khác của họ về phúc lợi, như các loại công việc và thời gian
để giải trí. Phụ nữ có thể được trao quyền nhiều hơn nhưng họ phải làm việc
nhiều hơn, ít có thời gian giải trí và ít chăm sóc sức khỏe bản thân hơn. Thu
nhập hộ gia đình có thể gia tăng cùng với lượng kiều hối của người di cư, nhưng
hạnh phúc của người phụ nữ có thể không tăng lên.
Tìm hiểu lợi ích của những người phụ nữ bị bỏ lại ở nông thôn có ý nghĩa
quan trọng đối với tăng trưởng chung và các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội. Những cải thiện hay hỗ trợ người phụ nữ trong việc cung cấp các dịch vụ
công cho trẻ em và chăm sóc người cao tuổi có thể giúp làm giảm bớt gánh nặng
của công việc đồng áng đối với những người phụ nữ này. Dịch vụ khuyến nông
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ có học vấn và kiến thức về nông
nghiệp thấp trong các gia đình có người di cư. Ngoài ra những chính sách xóa
đói giảm nghèo thông qua các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tín dụng, việc làm phi
18
nông nghiệp và mạng lưới an sinh xã hội an toàn cũng sẽ giúp những phụ nữ này
có cuộc sống tốt hơn. Từ đó, nghiên cứu đã đề nghị những chính sách nhằm tạo
việc làm, nâng cao thu nhập và chăm sóc toàn diện đối với người phụ nữ bị bỏ
lại ở nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc trong quá trình di cư lao động từ nông
thôn ra thành thị. Nội dung nghiên cứu của công trình sẽ giúp cho chúng ta có
cái nhìn thực tế, quan tâm nhiều hơn đến lao động nông nghiệp trong quá trình
xây dựng nông thôn mới trong đó có lao động nữ tại nông thôn Việt Nam.
* Li Luping trong báo cáo Biến đổi thu nhập hộ gia đình ở nông thôn
Trung Quốc [33] đã nghiên cứu những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp và
hệ thống sinh kế của bốn khu vực nông thôn Trung Quốc trên cơ sở hai đợt khảo
sát các hộ gia đình trong giai đoạn 1999-2009. Kết quả cho thấy, trong các yếu
tố quan trọng giải thích cho sự thay đổi thu nhập của hộ gia đình thì giáo dục là
yếu tố chính ảnh hưởng đến tăng trưởng thu nhập của các hộ gia đình. Thời gian
đi học của người dân càng tăng lên thì thu nhập bình quân đầu người của họ
càng tăng lên nhiều hơn. Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hóa đã tạo ra nhiều
việc làm phi nông nghiệp hơn cho các hộ gia đình ở nông thôn, đồng thời quá
trình đô thị hóa lại hấp thụ một lượng lớn lao động nông thôn trong lĩnh vực
dịch vụ. Kết quả của phân tích những biến động thu nhập của hộ gia đình nông
thôn Trung Quốc cho thấy nông dân nghèo là những người có thu nhập bình
quân đầu người tăng nhiều nhất trong một thập kỷ qua. Như vậy có thể thấy
công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn đã và đang cung cấp nhiều hơn những
cơ hội cho người nghèo thoát nghèo và tăng thu nhập bình quân đầu người cho
họ. Vấn đề còn lại là ở chính những người nông dân đó, tự họ có đủ năng động
để tranh thủ những cơ hội thoát nghèo đó hay không. Những nội dung này cũng
được đề cập trong cuốn Vấn đề tam nông ở Trung Quốc: Thực trạng và giải
pháp” [25].
19
1.1.1.2. Tạp chí khoa học nước ngoài
* Jennifer Cheung trong bài viết China's Inland Growth Gives Rural
Laborers More Opportunities Near Home [6] khẳng định rằng các khu vực kinh
tế nội địa Trung Quốc đang trên đà phát triển trong khi các vùng duyên hải có
xu hướng bão hòa khiến cho lao động di cư của Trung Quốc có xu hướng tính
đến những cơ hội việc làm ở gần nhà hơn.
Tứ Xuyên, một tỉnh của Trung Quốc vốn được mệnh danh là nơi xuất
khẩu lao động nông thôn đã có tình trạng người lao động nông thôn làm việc ở
nhà ngày càng nhiều hơn. Sáu tháng đầu năm 2012, đã có 10,9 triệu lao động
nông thôn Tứ Xuyên làm việc ở trong tỉnh, tăng 23,7% so với năm trước và 10,1
triệu lao động nông thôn di cư khỏi tỉnh, giảm 4,1% so với cùng kỳ. Điều này đã
trở thành một xu hướng mới của người lao động, “ly nông bất ly hương”.
Bài báo phân tích quan điểm của những người lao động nông thôn đã trở
về nhà sau nhiều năm di cư cho rằng hiện nay, với sự phát triển kinh tế của
những khu vực nội địa Trung Quốc đã làm giảm đáng kể khoảng cách thu nhập
của lao động di cư với lao động làm việc gần nhà. Thêm nữa, với việc làm gần
nhà, các lao động nông thôn có nhiều thời gian để chăm sóc gia đình của mình.
Sự trở về của các lao động di cư cũng khiến cho những người lao động ở lại các
khu vực thành thị và các khu công nghiệp có nhiều lợi thế hơn khi thương lượng
về mức lương với những ông chủ sử dụng lao động. Trong nửa đầu năm 2012,
tiền lương công nhân nhập cư đã tăng 15%, nhanh hơn so với lao động thành thị.
Không chỉ lao động di cư bị thu hút bởi cơ hội việc làm gần nhà, mà ngay
chính họ - những người lao động đã từng di cư cũng có thể thành lập các doanh
nghiệp mới trên địa bàn tỉnh với các kỹ năng và kinh nghiệm thu được từ nhiều
năm làm việc tại các tỉnh ven biển. Đây là triển vọng cho các chính sách giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn nhưng không làm gia tăng sức ép lên các
đô thị lớn ở Trung Quốc.
20
* Arnab K. Basu trong Impact of Rural Employment Guarantee Schemes
on Seasonal Labor Markets: Optimum Compensation and Workers' Welfare [1]
cho rằng việc ban hành Đạo luật quốc gia về Bảo lãnh việc làm nông thôn ở Ấn
Độ được ca ngợi như một chính sách cung cấp một mạng lưới an sinh xã hội cho
người nghèo nông thôn để tăng thu nhập, ổn định sản xuất nông nghiệp và làm
giảm tốc độ di cư từ nông thôn ra đô thị. Bài báo phân tích tác động của Chương
trình đảm bảo việc làm trong bối cảnh của một nền kinh tế nông nghiệp đặc
trưng bởi lao động thất nghiệp theo mùa vụ như một hệ quả của hợp đồng ràng
buộc lao động. Dựa trên những kết quả kiểm tra lao động và sản lượng đáp ứng
thị trường để có thể thực hiện đề án “Bảo lãnh việc làm cho lao động nông thôn
và xác định việc bồi thường cho người lao động phù hợp với các mục tiêu”: (i)
hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp và (ii) phúc lợi tối đa hóa của người lao
động. Từ đó, tác giả cung cấp khung lý thuyết cho việc đánh giá những quan sát
và kết quả thực nghiệm về tác động của đề án: bảo lãnh việc làm cho lao động
nông thôn với tiền lương nông nghiệp, việc làm, đầu ra của nông nghiệp và nhấn
mạnh tầm quan trọng của năng suất tương đối của người lao động trong các
chương trình này với đối tác của họ khi tham gia sản xuất nông nghiệp.
* Jonna Estudillo và các cộng sự trong Labor markets, occupational choice,
and rural poverty in four Asian countries [26] đã khám phá những cơ chế cơ bản
trong thị trường lao động nông thôn dẫn đến tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo
ở các vùng nông thôn của Philippines, Việt Nam, Bangladesh và Sri Lanka. Việc
gia tăng thu nhập phi nông nghiệp, trong đó tăng thu nhập từ việc làm chính thức,
được xem là một động lực quan trọng của tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo. Vì
vậy, để giảm đói nghèo ở nông thôn, các chính phủ cần phải có chính sách nhằm
tạo ra nhiều việc làm chính thức, vì vấn đề chất lượng công việc có tác động lớn
trong việc cải thiện mức sống của người lao động nông thôn.
Từ một số công trình nêu trên của các tác giả nước ngoài, có thể thấy, vấn
đề việc làm cho lao động nông thôn, lao động nông nghiệp có mối quan hệ hữu
21
cơ với các yếu tố khối lượng đầu tư, khối lượng sản phẩm được tạo ra và chất
lượng của nguồn nhân lực [27]. Các nhân tố có những quan hệ luôn luôn biến
động, và sự điều chỉnh của nó không dễ dàng. Các chính sách điều chỉnh của
nhà nước chỉ có tác dụng khi có sự tác động đến tổng thể các yếu tố của quá
trình kinh tế xã hội.
1.1.2. Tài liệu chuyên khảo, tham khảo trong nước
1.1.2.1. Đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ
* Đề tài KX.04 Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách giải quyết
việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do
Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm [35] đã nghiên cứu các nội dung sau: Xây
dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách giải quyết việc làm của
Việt Nam trong điều kiện chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế và đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế; Khuyến nghị một số chính sách quan trọng nhất trong lĩnh vực
việc làm; Đề xuất mô hình tổng quát và hệ thống biện pháp nhằm đảm bảo thực
hiện chính sách quốc gia xúc tiến việc làm. Kết quả nghiên cứu của đề tài này đã
đóng góp một số luận cứ, cơ sở khoa học cho Đảng và Nhà nước ta trong việc
hình thành các chủ trương, chính sách về giải quyết vấn đề việc làm thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong quá trình xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam
* Đề tài cấp Bộ Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn năm 2009
(Lao động và việc làm nông thôn) do Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm [3] tập
trung nghiên cứu một số vấn đề trong quá trình phát triển xã hội nông thôn năm
2009 như tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, đào tạo nghề cho lao động, tình
trạng di dân đô thị và nghèo đói của người lao động ở nông thôn Việt Nam,...
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn, tình trạng thất nghiệp mùa vụ ở nông thôn là nguyên nhân cơ bản dẫn đến
sự di dân như một chiến lược kinh tế của người nông dân. Đô thị trở thành “cái
túi” chứa lao động nông thôn, với sức ép gia tăng ngày càng lớn về việc làm, y
22
tế, giáo dục, ổn định xã hội,... Người lao động di cư đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn khi mưu sinh ở thành thị dẫn đến hiện tượng dòng di cư “đảo chiều”
về nông thôn, gây nên tình trạng thiếu việc làm cho lao động nông thôn không di
cư. Phân tích các chính sách giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất và tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản ở nông thôn, tác giả cũng chỉ ra những bất cập trong xây dựng và
thực hiện chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, đề tài cấp Bộ Hiện trạng cung - cầu nguồn lao động kỹ thuật
thành phố Hồ Chí Minh và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai đoạn
tới 2010 do Nguyễn Trần Dương làm chủ nhiệm [45] cũng đề cập đến rất nhiều
vấn đề quan trọng liên quan đến chủ đề nghiên cứu này. Đặc biệt, đề tài đã cung
cấp một hệ thống giải pháp đào tạo, sử dụng lao động kỹ thuật cho thành phố Hồ
Chí Minh. Các kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo rất tốt khi tìm
kiếm các giải pháp về lao động, việc làm cho thủ đô Hà Nội.
1.1.2.2. Luận án Tiến sỹ
* Luận án của Trần Thị Bích Hạnh [57] đã nghiên cứu để tìm kiếm các
giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lao động, xem đây là những vấn đề có
tính chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của khu vực. Tuy
vậy, luận án mới chỉ tập trung nghiên cứu, tìm kiếm các biện pháp, các cách
thức dưới góc độ quản lý, gợi mở các phương án có tính kỹ thuật, luận án chưa
đi sâu nghiên cứu về bản chất của tình hình lao động, việc làm để từ đó có thể đề
ra những giải pháp mang tính bền vững, lâu dài, có thể dẫn dắt các biện pháp có
tính tình thế trong việc xử lý các vấn đề lao động, việc làm khi có phát sinh. Bên
cạnh đó, công trình trên chưa phát hiện được những vấn đề có tính quy luật của
sự vận động về việc làm và chất lượng nguồn lao động, nên các giải pháp đưa ra
mang đậm tính kỹ thuật, thiếu một sự khái quát có tính nguyên lý, giúp cho
chúng ta có thể kế thừa nó trong việc nhận diện các hiện tượng nảy sinh về vấn
đề việc làm, lao động trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, tiến trình đẩy mạnh công nghiệp,
hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới nói riêng.
23
* Luận án của Phạm Đức Chính [47] với mục tiêu cải thiện việc sử dụng
nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng làm việc sau khi xuất khẩu
lao động ở nước ngoài trở về, đã nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách về sử
dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động, phân tích thực trạng và đề xuất các
nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách nói trên ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Luận án đã xác định những đặc trưng, đặc điểm nổi bật của nguồn
nhân lực sau xuất khẩu lao động với ưu thế là sự thích ứng cao với nền kinh tế
thị trường, làm rõ vai trò của nhà nước cùng với những nhân tố ảnh hưởng đến xây
dựng và thực thi chính sách, hệ thống các lĩnh vực liên quan đến điều kiện tái hòa
nhập và lập nghiệp, tạo việc làm cho người lao động sau khi trở về nước trên cơ sở
các tiêu chí đánh giá phù hợp trong điều kiện quản lý ở nước ta hiện nay.
Phân tích thực trạng chính sách của nhà nước đối với nguồn nhân lực sau
xuất khẩu lao động trong thời gian qua, luận án đã nghiên cứu, làm rõ những nội
dung của chính sách cần được điều chỉnh như: Các đối tượng thực thi chính sách
cần nắm bắt được kế hoạch nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động về nước
hàng năm, vì nhu cầu sử dụng trong nước là không nhỏ nhằm bảo đảm sự tác
động, tính đáp ứng của chính sách cũng như hiệu lực của chính sách; Khắc phục
tình trạng chỉ có khoảng 20% số lao động trở về được sử dụng. Nhà nước cần bổ
sung những nội dung cụ thể nhất là sự đồng bộ của hệ thống chính sách để tăng
tính hiệu quả và tính phù hợp, thích đáng của chính sách. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá chính sách thời gian qua và định hướng phát triển kinh tế-xã hội giai
đoạn tới trong đó có mục tiêu của hoạt động xuất khẩu lao động, luận án đã đề
xuất 6 nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau
xuất khẩu lao động, nhưng chưa có giải pháp cụ thể để sử dụng nguồn nhân lực
này đưa về nông thôn bổ sung cho lực lượng lao động trong quá trình xây dựng
nông thôn mới. Đây cũng là những vấn đề được tác giả Nguyễn Lương Trào nghiên
cứu khá kỹ trong luận án tiến sỹ của mình nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của
việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài [40].
24
1.1.2.3. Một số sách tham khảo, chuyên khảo liên quan đến đề tài
* Cuốn Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” của Nguyễn Hữu
Dũng và Trần Hữu Trung [37] nghiên cứu về chính sách việc làm ở Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nội dung công
trình có thể khái quát trên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận
chính sách việc làm. Các tác giả cho rằng: “vấn đề cốt lõi, bao trùm nhất là phải
tạo ra điều kiện và cơ hội để người lao động có việc làm, thu nhập đảm bảo cuộc
sống của bản thân và gia đình, đồng thời góp phần cho xã hội. Đó là nội dung cơ
bản của chính sách việc làm”.
Thứ hai, tiếp cận phương pháp nghiên cứu chính sách việc làm. Các tác
giả cho rằng, chính sách việc làm phải được đặt trong hoàn cảnh của quá trình
chuyển đổi nền kinh tế cũng như chủ trương đa phương hoá các quan hệ quốc tế.
Đồng thời, chính sách việc làm cũng phải dựa trên sự sáng tạo của quần chúng
nhân dân, nhằm phát huy tối đa sức sáng tạo của nhân dân, phục vụ hiệu quả
công cuộc đổi mới phát triển đất nước.
Thứ ba, công trình đã hệ thống khái niệm về lao động, việc làm. Các tác
giả đã nghiên cứu và đề cấp đến các nội dung chủ yếu như: quan niệm cơ bản về
lao động và việc làm; hệ thống khái niệm cơ bản về lao động và việc làm được
vận dụng ở nước ta. Ở những nội dung này, trên cơ sở kế thừa các công trình
nghiên cứu có trước, các phạm trù: việc làm, lực lượng lao động, người có việc
làm, người thất nghiệp, những người không thuộc lực lượng lao động được tác
giả giới thiệu một cách khái quát, nhằm phục vụ cho mục tiêu làm rõ những vấn
đề có liên quan đến chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam.
Thứ tư, công trình phân tích làm rõ nguyên nhân và những mâu thuẫn chủ
yếu của vấn đề thị trường lao động và việc làm ở Việt Nam trong những năm
đầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ năm, công trình đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng giải
quyết việc làm phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
25
Và cho rằng: một trong những vấn đề cơ bản nhất của sự thay đổi trong nhận
thức về việc làm là coi trọng yếu tố tự tạo việc làm của người lao động trong các
thành phần kinh tế. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho việc giải phóng tiềm năng lao
động của đất nước một cách hiệu quả nhất. Đây là một trong những thay đổi có
tính căn bản của nhận thức về vấn đề tìm kiếm việc làm của người lao động,
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Với những nội dung chính vừa nêu, công trình này đã đề cập đến rất nhiều
khía cạnh khác nhau liên quan đến vấn đề việc làm-cho người lao động. Song do
được nghiên cứu ở những năm trước 1997, nên các lập luận, kiến giải có những
hạn chế nhất định. Tuy nhiên, công trình đã mang đến người đọc những kiến
thức bổ ích, nhất là phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu về chính sách giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam.
* Cuốn Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hóa
trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Tiệp [43] đã nêu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Những
đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình đô thị hóa tác
động chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, chuyển lao động nông thôn sang
làm các công việc công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, quá trình đô thị hóa và hội
nhập toàn cầu hóa kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công
nghiệp dịch vụ. Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi hỏi nguồn nhân lực
nông thôn phải có sự đổi mới nâng cao chất lượng để thích ứng, đáp ứng nhu
cầu của thị trường lao động. Đô thị hóa và di chuyển lao động nông thôn ra
thành thị trở thành xu thế không thể cưỡng nổi, nó có tác dụng giảm sức ép căng
thẳng về việc làm ở các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao
động ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du
26
lịch. Dòng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm có lao động
nhập cư và sinh sống làm việc tại các thành phố và lao động nông thôn đến
thành phố làm việc mang tính chất thời vụ. Trong quá trình đô thị hóa quy mô
lao động ngành nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp tăng lên và có vai
trò quan trọng trong đảm bảo việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. Các
làng nghề được cơ giới hóa, điện khí hóa, sản xuất hướng vào xuất khẩu nhiều
hơn và có vai trò trong phát triển lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Do đó
đặt ra vấn đề phải phát triển đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn
để đảm bảo cung ứng lao động cho các làng nghề và các cơ sở tiểu thủ công
nghiệp. Trong quá trình đô thị hóa, đa số lao động nông thôn ở nước ta còn ở
mức thu nhập thấp do đó đòi hỏi các hộ gia đình phải có sự đầu tư rất lớn cho
đào tạo phát triển nhân lực để chuyển hướng sang hoạt động phi nông nghiệp.
Các chính sách hỗ trợ hoặc phát triển hệ thống tín dụng ưu đãi cho đào tạo nhân
lực nông nghiệp nông thôn từ nhà nước còn hạn chế, chưa có tác động lớn để
nâng cao chất lượng nông nghiệp nông thôn. Đây thực sự là thách thức lớn đối
với nông nghiệp nông thôn trong quá trình đô thị hóa. Cuốn sách cũng phân tích
những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực nông thôn như động thái dân số,
mức sống của dân cư, giáo dục và đào tạo, tăng trưởng và phát triển kinh tế, việc
làm và thu nhập, sự phát triển hệ thống giao thông và công nghệ thông tin, các
chính sách của chính phủ. Cuốn sách cũng khẳng định phát triển nguồn nhân lực
là nhân tố quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn; Khẳng định vai trò trọng tâm của đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực
và những yêu cầu đối với đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá
trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải đáp ứng được
nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho thúc đẩy quá trình đô thị hóa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; mức độ đáp ứng nhân lực chuyên môn
kỹ thuật nông thôn về số lượng, chất lượng, cơ cấu cấp trình độ, cơ cấu ngành
nghề cho quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông
27
thôn và thể hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Cuốn sách đưa ra các căn cứ
để xác định phương án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn, các chủ
trương chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn
ngoại thành Hà Nội… Đặc biệt cuốn sách đã đưa ra các giải pháp đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành
Hà Nội trong quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nội
dung của cuốn sách là tài liệu quý báu để tác giả nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến luận án.
* Cuốn Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Việt
Nam của Nguyễn Xuân Khoát [46] bàn về nhiều vấn đề cấp thiết của việc sử
dụng nguồn lao động và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt Nam trong
các giai đoạn phát triển. Ở mỗi một công trình được giới thiệu trong cuốn sách,
tác giả đã cố gắng nêu được vai trò, ý nghĩa, thực trạng và phương hướng, biện
pháp giải quyết các vấn đề đặt ra. Đồng thời, cuốn sách đã góp phần làm sáng rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng hợp lý nguồn lao động và phát triển
kinh tế- xã hội ở nông thôn nước ta. Điều đó có ý nghĩa cho việc hoạch định
việc sử dụng nguồn lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn
mới hiện nay.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác như Một số vấn đề lao
động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay [23] hay Thị
trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển [42] cũng cung cấp rất
nhiều bàn luận có giá trị cho đề tài nghiên cứu của luận án.
1.1.2.4. Các bài viết, nghiên cứu chuyên đề
Các bài báo khoa học nghiên cứu về vấn đề việc làm ở trong nước thời gian
qua cũng được rất nhiều người quan tâm, trong đó nổi bật là những bài viết sau:
- Bài viết Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay
của tác giả Trần Đình Hoan [56] đã nêu lên những quan điểm và phương hướng
cơ bản của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề việc làm trong giai đoạn công
28
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Bài Một số vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa của tác giả Võ Hồng Phúc đã khẳng
định vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển và hưng thịnh đất nước: Nguồn
nhân lực là mục tiêu của phát triển, được thụ hưởng những thành quả của sự
phát triển. Và chính sự thụ hưởng đó tiếp tục tạo ra sự kích thích, động lực cho
sự phát triển của chính bản thân nguồn lực và sự phát triển chung. Nguồn nhân
lực có vị trí, vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân
lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt, nhất là
nhân lực có trình độ cao đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định
sáng suốt, đúng đắn đối với đường lối, chủ trương, chính sách và phương thức
thực hiện các quyết sách về phát triển và hưng thịnh quốc gia. Đồng thời góp
phần quyết định đến sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tạo điều kiện thuận
lợi cho sự thành công của việc xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Nguồn nhân lực có trình độ cao là nền tảng vững chắc đảm bảo
cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành công quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
và hợp tác quốc tế, đồng thời là cơ sở quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ giữ trật
tự an ninh xã hội, củng cố sức mạnh quốc phòng và bảo vệ vững chắc sự toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước. Bài viết đưa ra một số nội dung cơ bản của chiến lược phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trước hết quy mô nguồn nhân lực tiếp tục tăng nhanh đồng thời với yêu
cầu chuyển hướng mạnh sang đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng của sự phát
triển đang tạo áp lực lớn về đầu tư cả về chiều rộng và theo chiều sâu cho phát
triển nhân lực.
Thứ hai, yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, bền vững và chuyển
dịch mạnh cơ cấu theo hướng tiến bộ, năng suất, hiệu quả và nâng cao sức cạnh
29
tranh của nền kinh tế đòi hỏi nguồn nhân lực phải có sự phát triển mạnh mẽ,
thay đổi toàn diện về chất lượng.
Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng với sự hình thành nền
kinh tế trí thức và hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản
phẩm, nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú và dễ dàng tiếp cận đến tất cả mọi
người, tác động toàn diện đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nguồn nhân
lực phải năng động, nhanh chóng nắm bắt những tri thức và tiến bộ khoa học –
công nghệ mới, thích nghi với những bối cảnh mới đang liên tục thay đổi.
Thứ tư, quá trình hội nhập, hợp tác và toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh
chóng đòi hỏi nguồn nhân lực nước ta phải phát triển đến trình độ ngang tầm
quốc tế nhằm vừa đáp ứng yêu cầu mới thường xuyên thay đổi của hệ thống luật
pháp quốc tế, đồng thời phải giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ năm, sự phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vừa
đòi hỏi sự đổi mới không chỉ về một số nội dung của phát triển nguồn nhân lực,
mà còn về phương thức phát triển nguồn nhân lực.
Thứ sáu, công cuộc cải cách hành chính nhà nước, đổi mới quản lý kinh tế
và xã hội diễn ra một cách sâu, rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu mới đối
với sự phát triển nguồn nhân lực không chỉ riêng đối với những người làm công
tác quản lý, mà cả trong nhận thức về hành vi, trách nhiệm và cách ứng xử của
mọi người dân. Bài viết cũng xác định những quan điểm cơ bản về phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam đó là: phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng
đầu và là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn
hiện nay. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào việc xây dựng
đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao với cơ
cấu hợp lý về trình độ, ngành nghề và theo lãnh thổ. Coi trọng việc phát hiện,
bồi dưỡng, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Phát triển nguồn nhân lực là trách
nhiệm của nhà nước và toàn xã hội. Đảm bảo công bằng xã hội trong phát triển
30
nguồn nhân lực, quan tâm nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân lực đến các vùng
kém phát triển và các bộ phận dân cư hiện còn đang gặp nhiều khó khăn, thực
hiện mục tiêu đoàn kết, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Bài viết cũng đưa
ra các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể về phát triển nguồn nhân lực cho 10
năm đầu của thế kỷ 21 ở nước ta. Ngoài chức năng sản xuất và dịch vụ, bộ phận
này có nhiệm vụ chuẩn bị lao động kỹ thuật cao hơn cho giai đoạn sau. Lao
động phổ thông, chủ yếu ở nông thôn và khu vực phi kết cấu với chức năng
chính là tạo việc làm, phục vụ nhu cầu tại chỗ và đảm bảo thu nhập, đời sống
cho người lao động. Những nội dung xóa đói, giảm nghèo nhằm phát triển
nguồn nhân lực sẽ thay đổi, hướng vào việc nâng cao chất lượng của các mục
tiêu giảm nghèo và cải thiện đời sống, sử dụng mức chuẩn nghèo quốc tế và
lồng ghép với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã được 149 nguyên thủ quốc gia
và những người đứng đầu chính phủ của 180 nước( trong đó có Việt Nam) thông
qua tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ tháng 9-2000. Những biến đổi tiến
bộ trong cơ cấu lao động, cùng với quá trình giảm nghèo sẽ góp phần tích cực
vào việc hình thành và phát triển ở nước ta một tầng lớp trung lưu chiếm đa số
trong xã hội và có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển tiếp theo của nguồn
nhân lực trong những năm tới. Đây cũng là những nội dung được tác giả Nguyễn
Hữu Dũng đề cập trong bài viết của mình [36].
- Bài Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau 25 năm thực hiện
Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khóa VI) của tác giả Nguyễn Sinh Cúc [41] đã
đánh giá những thành tựu và hạn chế về sản xuất nông nghiệp và đời sống ở
nông thôn sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 10. Đây là những tư liệu quan trọng
để luận án đánh giá hiện trạng về phát triển nông nghiệp nông thôn trước khi có
chương trình xây dựng nông thôn mới.
Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả khác cũng cung cấp rất nhiều
thông tin có giá trị tham khảo cho đề tài luận án về thực trạng, các vấn đề đặt ra
cũng như các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề đó [39, 44].
31
Các bài viết nói trên mới chỉ đề cập đến từng mặt, từng góc cạnh của vấn
đề việc làm cho người lao động như cung cầu sức lao động, số lượng, chất lượng
sức lao động, chính sách sử dụng lao động, các biện pháp, cách thức giải quyết
việc làm cho người lao động ở Việt Nam. Nhìn chung, dưới các góc độ nghiên
cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu của các tác giả đã tiếp cận và làm rõ
được nhiều khía cạnh của tình hình việc làm, tình hình nguồn lao động, thị
trường lao động và việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, giải
quyết việc làm cho người lao động. Đây là những căn cứ khoa học quan trọng để
kế thừa và phát triển cho quá trình nghiên cứu thực hiện của luận án.
1.2. Khái quát những kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến đề
tài và những vấn đề đặt ra
1.2.1. Những kết quả được khẳng định về mặt khoa học, thực tiễn và
một số vấn đề chưa được đề cập đến
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài đã nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của tình trạng việc làm, thất nghiệp và các chính sách giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn ở các quốc gia có đặc điểm về phát triển kinh tế
- xã hội tương đồng với Việt Nam, từ đó cung cấp những tiền đề khoa học quan
trọng làm cơ sở để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm cho lao
động nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Ở các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề lao động, việc làm
được các tác giả nêu tương đối đầy đủ từ những quan niệm cơ bản, đến định
hướng phát triển việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những quan
niệm, định hướng đó đã giúp cho tác giả luận án có nhiều cơ sở khoa học, lý
luận cũng như thực tiễn khi triển khai nghiên cứu vấn đề việc làm cho người lao
động nông nghiệp ở Hà Nội được thuận lợi hơn.
Về mặt lý luận, những nghiên cứu trên đã đưa ra quan niệm về giải quyết
việc làm cho lao động trong nền kinh tế thị trường với các chính sách về giáo
32
dục đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ của người lao động; các chính sách về
tín dụng nông thôn nhằm hỗ trợ cho người lao động nông thôn tự tạo việc làm,
ổn định thu nhập; chính sách đối với phụ nữ nông thôn không di cư ra đô thị để
đảm bảo nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của họ. Các công trình
khoa học, chuyên đề nghiên cứu, bài viết đều khẳng định vai trò quan trọng của
chính sách nhà nước trong việc nâng cao tính năng động, tự chủ của người lao
động nhằm tự giải quyết việc làm cho bản thân và gia đình trong đó, có tác động
rất lớn đến đời sống của người dân, đảm bảo thu nhập ổn định và ngày càng
tăng. Tác động của quá trình công nghiệp hóa gắn với đô thị hóa nông thôn là
một nguyên nhân thúc đẩy người lao động nông thôn tìm kiếm việc làm trong
các ngành nghề phi nông nghiệp, tạo ra thu nhập và cơ hội việc làm tốt hơn cho
lao động nông thôn. Từ đó, luận giải sự cần thiết khách quan, bản chất, hình
thức và một số đặc điểm quan trọng của lao động nông nghiệp, nông thôn đối
với phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn.
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu
Từ những phân tích số liệu về thị trường lao động nông nghiệp và các
chính sách tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn tại các
quốc gia và tại Việt Nam, các tác giả đã đưa ra những khuyến nghị chính sách
trong việc hình thành một thị trường tín dụng cho lao động nông nghiệp của Việt
Nam; phát triển kinh tế - xã hội cho các khu vực nông thôn để giải quyết việc
làm cho lao động tại chỗ; thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
nông thôn như là những động lực quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống người dân khu vực nông
nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, có thể thấy chưa có một công trình khoa học nào tập trung
nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông
thôn mới, đặc biệt là trong điều kiện khu vực nghiên cứu là Thủ đô, nơi có nhiều
đặc điểm đặc thù so với các địa phương khác. Các lý luận đều mang tính tổng
33
quát và chưa đề cập đến vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp gắn với
những vấn đề mới nảy sinh do yêu cầu của quá trình xây dựng nông thôn mới ở
thủ đô Hà Nội. Với các điều kiện đặc trưng như tốc độ xây dựng nông thôn mới
nhanh, nguồn vốn thuận lợi, sức ép về việc làm lao động nông nghiệp lớn, đòi
hỏi phải có một nghiên cứu riêng mới có thể giải quyết có hiệu quả vấn đề việc
làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Do vậy, tác giả sẽ tập
trung nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới và những đặc trưng riêng biệt của
Thủ đô nhằm bổ sung lý luận về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
trong hoàn cảnh mới.
- Về lý luận: xây dựng khung lý luận chung về việc làm và giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp tác động qua lại với quá trình xây dựng nông
thôn mới ở Thủ đô Hà Nội. Làm rõ và phân tích đặc điểm của lao động nông
nghiệp nói chung và lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn
mới ở thủ đô Hà Nội. Đánh giá những tác động của việc thực hiện các tiêu chí
xây dựng nông thôn mới ở thủ đô tới việc làm cho lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới ở các huyện của thủ đô Hà Nội.
- Về thực tiễn: Đánh giá tình hình thực trạng việc làm cho lao động nông
nghiệp ở thủ đô Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2008
– 2013. Phân tích kết quả thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới tác động
tới việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
thủ đô Hà Nội. Qua đó, đề xuất phương hướng và giải pháp để giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô
Hà Nội giai đoạn 2015 - 2020 định hướng 2030.
34
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1. Cơ sở lý luận việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp
2.1.1. Khái niệm về việc làm
*Quan niệm về vấn đề việc làm của một số nước trên thế giới
- Các nhà kinh tế học Anh cho rằng: “việc làm, theo nghĩa rộng, là toàn
bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến
cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn
hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế”. Theo quan điểm này thì tất
cả những hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật
cho phép hay bị ngăn cấm, đều được gọi là việc làm. Quan điểm này chỉ đặt
nặng vấn đề kinh tế của việc làm, trong khi đó, tính pháp lý là một trong những
nguyên tắc cơ bản để xác định là việc làm thì chưa được đề cập đến.
- Các nhà kinh tế học của Liên Xô lại cho rằng: “Việc làm là khả năng
tham gia của người lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã
hội hoá sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của
các nông trang viên”. Quan điểm này đã coi cả các công việc như đang đi học,
đang tham gia các lực lượng vũ trang, làm các công việc nội trợ đều được coi là
việc làm. Cũng như quan điểm của các nhà kinh tế học Anh, quan điểm này chủ
yếu tập trung tính hữu ích của việc làm nói chung, coi các hoạt động hữu ích của
con người là việc làm, song tính pháp lý của việc làm lại không đề cập đến.
- Bộ luật “Việc làm của cư dân Liên bang Nga” xác định một hoạt động
được xem là việc làm như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả
mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không
bị luật pháp Liên bang Nga nghiêm cấm”. Quan điểm này cho thấy, đối với Nhà
35
nước Nga hiện nay, quan niệm về vấn đề việc làm được rộng mở trên tất cả các
hoạt động của con người, song nó phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản sau:
+ Hoạt động đó nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem
đến cho họ thu nhập.
+ Không bị luật pháp Liên bang Nga nghiêm cấm.
Do đó, những hoạt động trái với những quy định trên đều không được Nhà
nước Nga công nhận là việc làm. Với quan niệm như vậy, tất cả các hoạt động
nhằm mang lại lợi ích cho xã hội và cá nhân được nhà nước khuyến khích, bảo
vệ đều được xem là việc làm. Theo quan niệm này, việc làm bao gồm cả công
việc có mang lại thu nhập hoặc không mang lại thu nhập, miễn là hoạt động đó
không bị luật pháp ngăn cấm. Đây là một quan niệm rất phù hợp với điều kiện
phát triển của thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam.
- Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) quan niệm việc làm là một phạm trù
kinh tế, nó xác định hệ thống quan hệ giữa con người về việc đảm bảo cho họ
những chỗ làm việc và tham gia vào hoạt động sản xuất. Vì vậy, việc làm có thể
được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện
vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực
sản xuất. Khái niệm này đã được chính thức thông qua tại Hội nghị quốc tế của
ILO lần thứ 13 (1993) và đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên,
nếu xem tất cả các công việc được trả công (được nhận thù lao) là việc làm thì
sẽ dẫn đến sự thừa nhận các hoạt động bất hợp pháp (như các hoạt động tội
phạm buôn bán ma tuý, khủng bố...), các hoạt động vi phạm đạo đức xã hội (mại
dâm), truyền thống các dân tộc... cũng xem là việc làm. Hơn nữa, mỗi một quốc
gia có quan niệm khác nhau về việc làm phù hợp với điều kiện của quốc gia
mình. Có những hoạt động được quốc gia này xem là việc làm nhưng lại vi
phạm đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia khác, thì sẽ bị xem là phạm pháp, và
không coi đó là việc làm. Do vậy, khái niệm trên là một khái niệm có tính chung
36
nhất, nhằm tạo cơ sở để các quốc gia có thể vận dụng những thành tố phù hợp
cho từng điều kiện cụ thể đất nước mình.
* Quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam
- Theo quan niệm trong Đại từ điển kinh tế thị trường, “Việc làm là hành
vi của nhân viên, có năng lực lao động, thông qua hình thức nhất định kết hợp
với tư liệu sản xuất, để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh” [38, tr. 1073].
Với quan niệm này, việc làm được coi là quá trình hoạt động sản xuất của cải
vật chất, tinh thần cho xã hội. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay, để phát huy tốt các nguồn lực
xã hội, nhất là nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, với quan niệm trên, có rất nhiều hoạt động lao động của
người lao động sẽ không được xem là việc làm. Ví dụ như những hoạt động: bảo
đảm sự ổn định phát triển của xã hội, hỗ trợ cho những người thân tham gia trực
tiếp sản xuất, kinh doanh... để có thu nhập ổn định không được tính đến. Chính
những hoạt động đó đã tạo nên sự ổn định về các điều kiện cần thiết cho các
hoạt động sản xuất trực tiếp diễn ra suôn sẻ.
- Theo các tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung, “việc làm là
hoạt động lao động được thể hiện ở một trong 3 dạng sau: Làm các công việc để
nhận tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc bằng hiện vật cho công việc đó; Làm
các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân; Làm các công việc cho gia đình”
[37, tr. 52]. Với quan điểm này, vấn đề việc làm được quan niệm một cách rộng
rãi hơn. Ở đây ngoài những hoạt động mang lại thu nhập (như tiền công, tiền
lương, lợi nhuận), các công việc gia đình tuy không trực tiếp mang lại thu nhập
cũng được xem là việc làm. Song, quan điểm này vẫn còn chưa đề cập đến một
sổ hoạt động khác như hoạt động của các lực lượng vũ trang, của những thanh
niên tham gia nghĩa vụ quân sự. Theo chúng tôi, những công việc đó cũng phải
được xem là việc làm, vì, mặc dù không mang lại thu nhập nhưng đảm bảo an
ninh xã hội và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng môi trường hoà bình, ổn định cho đất
37
nước, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những hoạt động
mang lại lợi ích to lớn cho xã hội như vậy cần phải được xem là việc làm. Hơn
nữa, quan điểm này cũng không đề cập đến tính pháp lý của việc làm, tức hoạt
động mang lại thu nhập nhưng phải được luật pháp cho phép.
- Tác giả Bùi Anh Tuấn thì cho rằng, "Việc làm có thể được hiểu là phạm
trù để chỉ trạng thải phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất hoặc những
phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội" [2, tr. 8].
Cũng như các quan điểm vừa nêu, quan niệm này xem việc làm là một chỗ làm
việc cụ thể nào đó của quá trình lao động được diễn ra, nhằm phân biệt với tình
trạng thất nghiệp hoặc không làm việc. Quan niệm này đã nêu lên các đặc trưng
về việc làm như:
+ Là sự biểu hiện quan hệ của hai yếu tố là sức lao động kết hợp với tư
liệu sản xuất. Là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc
những phương tiện mà họ sử dụng để làm việc.
+ Lấy các lợi ích (vật chất và tinh thần) mà các hoạt động đem lại để xem
xét hoạt động đó có được coi là việc làm hay không.
- Quan điểm về việc làm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đối với nước ta, quan niệm về việc làm đã được điều 13, Chương 2, Phần
Việc làm của Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội Khoá IX Nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 1994 nêu rõ như sau: "Mọi hoạt động
lao động tạo ra thu nhập, không bị luật pháp cấm đoán đều được thừa nhận là
việc làm" [48]. Hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm: làm
những công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật, những công
việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình
nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc đó. Vai trò
của nhà nước đối với vấn đề việc làm cũng được Điều 14 của Bộ Luật chỉ rõ:
“- Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay
38
vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người
có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho
nhiều người lao động.
- Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử
dụng lao động là người dân tộc thiểu số.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm
cho người lao động.”
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, việc làm không chỉ tạo ra trong khu vực
nhà nước mà trong tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy người
lao động linh hoạt, chủ động trong tìm kiếm việc làm, không ỷ lại hoặc trông
chờ vào Nhà nước. Người có việc làm hiện nay bao gồm tất cả những người làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân, trong hệ thống các cơ quan Đảng, đoàn
thể, các tổ chức có hưởng thù lao dưới các hình thức thể hiện qua mức thu nhập
bằng tiền hoặc hiện vật, nhằm phục vụ nhu cầu cho bản thân và gia đình người
lao động. Quan điểm này cũng xác định những người làm việc trong các lực
lượng vũ trang chuyên nghiệp, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước cũng
được thừa nhận là có việc làm. Bên cạnh đó, theo quan niệm này, việc làm còn
bao hàm cả những người làm việc trong gia đình, tức là tự làm để thu lợi cho
bản thân và gia đình nhưng không được trả công cho các công việc đó.
2.1.2. Một số lý thuyết tạo việc làm
* Lý thuyết tạo việc làm và thất nghiệp của các nhà khoa học trước Mác
- Adam Smith (1723-1790) là một trong những người đặt nền móng và
sáng lập ra khoa kinh tế chính trị và tạo dựng những cơ sở lý thuyết về giá trị lao
động, đặt lao động vào trung tâm kinh tế và những nghiên cứu của mình.
39
Trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các
dân tộc”, ông khẳng định rằng, hoạt động của con người, những khát vọng của
họ được xác định bởi quyền lợi riêng, lợi ích cá nhân của chính họ. Một trong
những nội dung trong học thuyết của ông là, soạn thảo lý thuyết giá trị lao động
và việc vận dụng nó vào phân tích kinh tế thị trường, mà trong đó ông chứng
minh rằng, nguồn gốc của mọi sự giàu có là lao động, và lao động tạo ra giá trị,
xác định không chỉ lương, mà cả lợi nhuận và lợi tức. Ông đã đặt nền móng cho
việc nghiên cứu về nguồn gốc của lợi nhuận và lợi tức của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Ồng cho rằng, giá trị mà người công nhân cộng thêm vào giá
trị vật chất, được tách ra trong trường hợp này gồm 2 phần, một phần từ đó chi
trả cho lương người công nhân, phần kia tính vào lợi nhuận của doanh nghiệp,
tính vào toàn bộ số vốn mà nhà doanh nghiệp đã tạm ứng dưới dạng vật chất và
lương. Giới chủ sẽ không thuê những công nhân này, nếu họ tính toán thấy
không nhận được từ việc bán những sản phẩm do công nhân đó làm ra cao hơn
tổng số vốn mà họ bỏ ra. Lao động xác định không chỉ một phần vào lương, mà
cả trong một phần được tính vào lợi nhuận và lợi tức.
- Alfred Marshall (1842-1924) được cho là sáng lập trường phái tân cổ
điển. Trong tác phẩm nổi tiếng “Những nguyên tắc cơ bản của khoa kinh tế”
được công bố năm 1890, ông cho rằng, để đảm bảo việc làm thì vấn đề điều tiết
cung và cầu có ý nghĩa rất quan trọng, và điều tiết cuối cùng là cầu tiêu thụ, và
sự điều tiết này thị trường thực hiện tự động hoàn toàn.
Ông cũng cho rằng, cân bằng, đặc biệt trong lĩnh vực lao động không
thường xuyên có chỗ, và cùng với dòng thời gian, cung lao động ở trong bất kỳ
trường hợp nào ít nhiều thích nghi với cầu lao động, hơn nữa, tương thích giữa
cung và cầu thường bị rối loạn đột ngột. Ông cho rằng, tăng số lượng công nhân
sẽ dẫn đến giảm năng suất lao động tốỉ đa, và cũng chính là dẫn đến giảm lương.
Cách lập luận này chỉ đúng trong giới hạn một cá thể sản xuất với những điều
kiện khác không đổi, tức là chỉ đúng khi tất cả các thành tố của quá trình sản
xuất đều cố định, chỉ có đại lượng số lượng công nhân là thay đổi.
40
- Arthur Pigou (1877-1959) trong “Lý thuyết thất nghiệp” xuất bản 1933
cho rằng, nguyên nhân của thất nghiệp là mức lương cao, còn giảm lương sẽ
tăng được việc làm, bởi vì sẽ giảm được chi phí sản xuất và sẽ mở ra được khả
năng thuê mướn thêm lao động. Theo A.Pigou, giảm chi phí sản xuất sẽ dẫn đến
giảm chung được giá cả hàng hoá và tăng được sức mua, kích thích đầu tư phát
triển sản xuất, và tăng việc làm. Tác dụng từ cầu về lao động thực tế sẽ là yếu tố
xác định khối lượng việc làm. Từ đó ông kết luận rằng, trong môi trường cạnh
tranh hoàn toàn tự do giữa những người làm thuê và lao động hoàn toàn cơ
động, thì tính chất mối liên hệ giữa biểu giá lương thực tế mà người lao động đòi
hỏi và tác dụng của cầu về lao động sẽ rất đơn giản. Khuynh hướng cứng rắn tới
việc xác lập hệ số như thế giữa biểu giá lương và cầu để mọi người đều có việc
làm sẽ thường xuyên hoạt động
* Lý thuyết tạo việc làm và thất nghiệp của Chủ nghĩa Mác- Lênin
Vấn đề việc làm được C.Mác nghiên cứu ở tập 1, chương 23 trong tác
phẩm “Tư bản”. Ông cho rằng, cầu về lao động tăng lên cùng với sự gia tăng
đầu tư của tư bản, tăng đầu tư tư bản sẽ làm tăng năng suất lao động và sẽ dẫn
đến tăng lương. Song do tác động của quy luật giá trị thặng dư và cấu tạo hữu cơ
tư bản sự gia tăng đó bị chế định. Để thu được nhiều giá trị thặng dư, việc gia
tăng tư bản sẽ tập trung vào tư bản bất biến (c) nhiều hơn là tư bản khả biến (v).
Bởi vì nhà tư bản tăng đầu tư là nhằm gia tăng sản xuất nhiều giá trị thặng dư,
do đó, để tăng sản xuất giá trị thặng dư, phải cảỉ tiến kỹ đầu tư kỹ thuật- công
nghệ mới, làm cho đầu tư tư bản cố định tăng. Kết quả dẫn đến là, vốn lưu động
và cầu sức lao động giảm tương đối, số lượng việc làm tăng chậm hơn so với
toàn bộ tư bản của nền sản xuất xã hội. Ông cho rằng:
Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định,
mà do quy mô của bộ phận khả biến của tư bản quyết định, cho nên cùng
với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần
giảm bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỷ lệ với sự tăng thêm của tổng
41
tư bản, như chúng ta giả định trước đây. Lượng cầu về lao động giảm
xuống một cách tương đối so với đại lượng của tổng tư bản và giảm
xuống theo một cấp số ngày càng nhanh cùng với sự tăng lên của đại
lượng ấy. Thật ra, cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì phần khả biến
của nó, hay sức lao động kết hợp vào nó, cũng tăng lên, nhưng lại tăng lên
theo một tỷ lệ không ngừng giảm sút [4, tr. 886-887].
Nghiên cứu số nhân khẩu thừa trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, ông đưa ra nhận định về dân số cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Ông cho rằng, trong khi giai cấp làm thuê tạo ra tích luỹ tư bản, và theo
chừng mực mà nó thành công trong công việc đó, thì giai cấp làm thuê chính
mình cũng tạo ra những công cụ để sa thải mình hay biến mình thành nhân khẩu
thừa tương đối, có nghĩa là những người thất nghiệp. Ông viết, “cùng với sự tích
luỹ tư bản do bản thân nó đẻ ra, nhân khẩu công nhân cũng sản xuất ra với một
quy mô ngày càng lớn những phương tiện làm cho họ trở thành nhân khẩu thừa
tương đối”. Dân cư dôi dư này có ý nghĩa rất quan trọng để phát triển sản xuất tư
bản chủ nghĩa, đảm bảo lao động thường xuyên cần thiết cho xã hội và cũng là
đòn bẩy quan trọng cho việc đẩy mạnh bóc lột, cùng tồn tại và không thể tránh
khỏi của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông viết:
Nhưng nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ,
hay của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại,
nhân khẩu thừa này lại trở thành một đòn bẩy của tích luỹ tư bản chủ
nghĩa và thậm chí còn là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa nữa. Số nhân khẩu thừa đó tạo thành một đội quân công nghiệp
trù bị có sẵn, cũng hoàn toàn thuộc về tư bản một cách tuyệt đối, tựa hồ
như thể tư bản đã bỏ công của ra nuôi dưỡng nên đội quân công nghiệp
trù bị ấy. Đội quân công nghiệp trù bị này cung cấp cho những nhu cầu
hay thay đổi của việc làm tăng giá trị của tư bản một nguồn sức người bao
42
giờ cũng sẵn sàng có thể bóc lột được, và không phụ thuộc vào giới hạn
của số tăng nhân khẩu thực tế. [4, tr. 891]
Gắn với hình thức thừa nhân khẩu tương đối, ông cho rằng nhân khẩu
tương đối (thất nghiệp) luôn có 3 hình thức: lưu động, ngấm ngầm và ứ đọng.
Hình thức thứ nhất gồm những công nhân khi thì bị xô đẩy ra khỏi chỗ việc làm,
khi thì bị lôi kéo với số lượng tương đối lớn vào công việc trong cả khi số lượng
việc làm tăng lên. Hình thức thứ hai gồm những nhân khẩu thừa trong nông
nghiệp, nơi mà người lao động giống như người đang làm việc nhưng việc làm
không đầy đủ, khi có cơ hội họ chuyển vào các khu vực đô thị, hoặc tìm kiếm
các công việc khác. Hình thức thứ ba gồm những người làm việc không thường
xuyên, tức là thường không có việc làm trong một thời gian dài. Hình thức thất
nghiệp ứ đọng này tạo ra một tầng lớp vô sản lưu manh, những kẻ lang thang,
tội phạm, từ đó làm bất ổn xã hội.
* Lý thuyết tạo việc làm và thất nghiệp của một số nhà kinh tế học hiện đại
- Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của Keynes:
J.M.Keynes là người sáng lập ra lý thuyết việc làm và kinh tế tư bản có
sự điều tiết của Nhà nước, ông được đánh giá là là nhà kinh tế lỗi lạc nhất của
nhân loại thế kỷ XX.
Công trình “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" của ông xuất
bản năm 1936 [32] nghiên cứu đề cập đến vấn đề việc làm và xác định mức độ
việc làm được quy định bởi những nhân tố nào. Cơ sở lý thuyết việc làm của
J.M.Keynes được tổng hợp từ phân tích có phê phán và so sánh với lý thuyết
việc làm của trường phái tân cổ điển về cân bằng cung cầu. Ồng cho rằng, cầu
có hiệu quả kết hợp với việc làm đầy đủ là một trường hợp đặc biệt chỉ được
thực hiện nếu không ngừng tăng tiêu dùng và mong muốn đầu tư trong một tỷ lệ
nhất định.
Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa thu nhập, tiết kiệm, tiêu dùng đầu tư và
việc làm, ông cho rằng, quy mô tiết kiệm và đầu tư không tương thích với nhau,
43
không tạo ra được cân bằng, bởi vì chúng có dao động đáng kể của khối lượng
sản xuất chung và việc làm. Ông không đồng ý với quan điểm giảm lương để
tăng việc làm, theo ông, giảm lương sẽ dẫn đến giảm thu nhập, giảm sức mua và
thu hẹp thị trường tiêu thụ, từ đó không thúc đẩy phát triển sản xuất và việc làm
sẽ không tăng, ông nêu ra nguyên nhân của khủng hoảng và thất nghiệp là do
thiếu hụt hiệu quả của tập hợp cầu, ông khẳng định, cần thiết phải tăng quy mô
chung của tập hợp cầu. Thiếu hụt hiệu quả của tập hợp cầu sẽ dẫn đến sản xuất
sụt giảm, xuất hiện khủng hoảng và thất nghiệp.
Ông cũng chỉ ra rằng, việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng
thu nhập đòi hỏi phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế nhằm khuyến
khích đầu tư và giảm tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng
khủng hoảng và thất nghiệp. Mở rộng lượng cầu, nhà nước sẽ góp phần làm
giảm thất nghiệp. Đây là lần đầu tiên trong khoa học kinh tế ông đã chứng minh
và xác định được những phương hướng cơ bản của nền kinh tế thị trường, mà ý
nghĩa về sự can thiệp của nhà nước vào sự vận hành của nó đang được nhiều
nước áp dụng.
Nghiên cứu về tác động của lãi suất, J.M.Keynes khẳng định, lãi suất có
liên quan mật thiết đến đầu tư và việc làm. Ông lý giải, khi khối lượng tiền tệ
đưa vào lưu thông càng tăng thì lãi suất càng giảm, vì vậy, để kích thích đầu tư,
cần tìm biện pháp giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất có tác dụng kích thích đầu tư
và do đó sẽ mở rộng quy mô việc làm, hạn chế thất nghiệp. Ông khẳng định, lãi
suất cao là một trong những nguồn gốc quan trọng nhất dẫn đến thất nghiệp.
Nghiên cứu về thất nghiệp, ông nói đến 3 hình thức, bên cạnh 2 hình thức
thất nghiệp cấu trúc và thất nghiệp tự nguyện (tức là thất nghiệp do di chuyển từ
doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác và do khước từ mức lương không
hợp lý) được lý thuyết cổ điển đưa ra, ông cho rằng có hình thức thứ 3 tức là thất
nghiệp bắt buộc. Hình thức thất nghiệp bắt buộc này do tập hợp cung lao động
44
của những người lao động sẵn sàng chấp nhận mức lương hiện hành nhưng do
thu hẹp sản xuất nên không thể có được việc làm.
J.M.Keynes đặc biệt chú trọng xác lập mối quan hệ khối lượng đầu tư,
tiêu thụ và thu nhập quốc dân. Ông đã sử dụng khái niệm số nhân đầu tư để
chứng minh và xác định, tăng hoặc giảm đầu tư có thể đem lại tăng hoặc giảm
nhiều lần GDP. Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia
tăng thu nhập. Nó cho chúng ta biết rằng khi có thêm một lượng về đầu tư tổng
hợp, thì thu nhập sẽ tăng thêm một lượng bằng K lần mức gia tăng đầu tư.
Sự thay đổi giá trị đầu tư sẽ sinh ra phản ứng dây chuyền, làm tăng việc
làm ở các ngành được đầu tư, đồng thời tác động đến gia tăng đầu tư và gia tăng
việc làm ở các ngành khác. Theo Keynes, mỗi sự gia tăng đầu tư đều kéo theo sự
gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản xuất, do vậy, làm tăng
cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm
cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng
đầu tư mới. Như vậy, số nhân đầu tư có tác động dây chuyền, nó khuếch đại thu
nhập quốc dân lên. Quá trình đó là quá trình tăng đầu tư làm tăng thu nhập; tăng
thu nhập làm tăng đầu tư mới; tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới. Quá trình
số nhân làm phóng đại thu nhập lên.
Để tạo điều kiện tăng đầu tư và việc làm, J.M.Keynes đưa ra các biện
pháp sau:
- Thứ nhất, giảm lãi suất. Giảm lãi suất sẽ cho phép gia tăng tín dụng vào
sản xuất, làm tăng tuyệt đối khoản đầu tư.
- Thứ hai, xã hội hoá đầu tư, đầu tư đúng địa chỉ và cung cấp tín dụng
cho doanh nghiệp từ quỹ quốc gia, và nhà nước sẽ mua lại hàng hoá và dịch vụ
từ nó.
- Thứ ba, kích cầu tiêu dùng. Tìm kiếm biện pháp không ngừng tăng tiêu
dùng, tiêu dùng phải vượt trội so với mức đầu tư.
45
Từ những nghiên cứu trên cho thấy, theo J.M.Keynes, để tạo việc làm,
hạn chế thất nghiệp, cần gia tăng cầu tiêu dùng và đầu tư. Tăng cầu tiêu dùng và
đầu tư nhằm kích thích lượng tiền cất trữ đưa vào lưu thông, từ đó sẽ giúp mở
rộng quy mô nền kinh tế, làm tăng thu nhập. Và đến lượt nó, thu nhập tăng sẽ
làm gia tăng đầu tư, tăng việc làm và tăng tiêu dùng.
Tuy nhiên, mô hình J.M.Keynes có những vấn đề đáng quan tâm sau:
- Nó chỉ có khả năng đúng đối với các nước có nền kinh tế phát triển, cơ
cấu kinh tế hợp lý. Còn đối với các nước chậm phát triển, khó khăn cơ bản trong
việc tăng sản lượng và tạo công ăn, việc làm không phải là mức tổng cầu không
đủ cao, mà là do những hạn chế về mặt cơ cấu và thể chế đối với khâu cung ứng
vốn đầu tư. Hơn nữa do quy mô nhỏ bé của nền kinh tế ở các nước đang phát
triển, việc kích cầu tiêu dùng sẽ rất khó. Ngân sách quốc gia nghèo nàn, tiềm lực
kinh tế nhỏ bé, việc thực hiện vốn vay để phát triển rất khó khăn, trong khi đó
nếu nhà nước tăng cường in tiền để tiêu dùng sẽ làm cho giá cả và lạm phát gia
tăng triền miên.
- Trong kích cầu, nếu quá chú ý kích cầu khu vực thành thị sẽ làm gia tăng
dòng di chuyển nhân khẩu từ vùng nông thôn bỏ ra đô thị để kiếm sống, điều đó sẽ
gia tăng áp lực tìm kiếm việc làm cho khu vực thành thị. Như vậy, kích cầu để gia
tăng việc làm và giảm thất nghiệp ở thành thị không đạt mục tiêu đề ra.
- Lý thuyết đường cong Philip của Philip:
Vào những năm 1970, nền kinh tế thế giới xuất hiện lạm phát cao, và trở
thành nhân tố thường xuyên trong nền kinh tế các nước đang phát triển. Nghiên
cứu sự phụ thuộc giữa lạm phát và thất nghiệp, giáo sư Philip (người Anh) đã
đưa ra phát hiện về mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa tốc độ lạm phát và mức độ
thất nghiệp. Ông giới thiệu sự phụ thuộc này dưới dạng gọi là “vòng cung đơn
giản” và sau này nó được điều chỉnh và đặt tên là “đường cong Philip”.
Lý thuyết đường cong Philip cho rằng, mức độ lạm phát càng cao thì mức
độ thất nghiệp càng thấp và ngược lại, việc làm đầy đủ không thể có nếu thiếu
thất nghiệp. Song thực tế phát triển kinh tế thời gian quan nhất là trong cuộc đại
46
khủng hoảng đang diễn ra từ 2008 đến nay cho thấy lạm phát sẽ kéo theo tăng
chi phí sản xuất, tăng chi phí sẽ dẫn đến tăng giá thành, giảm khối lượng thực tế
GDP và tăng thất nghiệp.
Khi nghiên cứu về mối quan tương quan giữa thất nghiệp và lạm phát theo
lý thuyết đường cong Philip trong nền kinh tế nước Nga thời kỳ chuyển đổi
những năm sau 1991, các nhà kinh tế Nga phát hiện ra rằng nó không phải như
vậy. Ở Nga thất nghiệp tăng lên cùng với gia tăng của lạm phát, kìm chế lạm
phát đã giúp cho nền kinh tế Nga kìm chế được nạn thất nghiệp. Một vấn đề
quan tâm là, trong lý thuyết đường cong Philip, ông không đánh giá giữa lạm
phát và thất nghiệp cái nào đáng lo hơn? Nhiều nhà khoa học cho rằng, thất
nghiệp là vấn đề đáng lo ngại hơn cả. Chấp nhận lạm phát mà giảm được thất
nghiệp sẽ tốt hơn cho nền kinh tế. Và nhiều nhà khoa học cũng cho rằng, mối
quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp chỉ có thể đúng trong thời kỳ
ngắn hạn, và rất ít xảy ra trong thời gian dài.
- Lý thuyết nhị nguyên của W.Arthur Lewis:
W.Arthur Lewis, nhà kinh tế được giải thưởng Nobel 1979, đã đưa ra mô
hình kinh tế nhị nguyên. Sau đó được các nhà kinh tế học John Fei và Gustar
Ranis áp dụng phân tích quá trình tăng trưởng ở các nước đang phát triển. Tư
tưởng cơ bản của mô hình này là chuyển số lao động dư thừa từ các ngành
truyền thống sang các ngành hiện đại do hệ thống tư bản nước ngoài đầu tư vào
các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho các nước lạc hậu phát triển
kinh tế nước mình. Bởi vì trong nền kinh tế truyền thống đất đai vốn chật hẹp,
lao động dư thừa, số lao động dôi dư này không có công ăn việc làm. Nói cách
khác, họ không có tiền lương và thu nhập. Vì vậy khi có một mức lương cao hơn
trong khu vực này thì các nhà đầu tư sẽ có ngay nguồn lao động vô hạn từ nông
nghiệp chuyển sang. Do chỉ trả lương theo năng suất cận biên nên phần còn lại
sẽ thuộc về các nhà đầu tư, từ đó các nhà đầu tư sẽ thu hồi vốn nhanh, có lợi
nhuận và tiếp tục tái sản xuất mở rộng.
47
Theo họ, việc chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp có hai
tác dụng:
+ Một là, chuyển bớt lao động ra khỏi nông nghiệp, chỉ để lại một số lao
động đủ tạo ra sản lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo đầu người
đồng thời tạo việc làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp.
+ Hai là, việc di chuyển này sẽ tạo điều kiện làm tăng lợi nhuận trong
lĩnh vực công nghiệp, đẩy mạnh sức tăng trưởng kinh tế nói chung.
Như vậy, theo lý thuyết này, các nước đang phát triển có thể đạt sự tăng
trưởng khi tập trung vào phát triển khu vực kinh tế hiện đại, kinh tế công nghiệp
mà không cần quan tâm đến khu vực kinh tế truyền thống.Và nhịp độ tăng
trưởng của khu vực hiện đại cũng quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
nói chung.
Lý thuyết nhị nguyên của Lewis được nhiều nhà kinh tế nổi tiếng khác
(như G.Ranis, J.Fei, Harris) tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận cứ của họ
xuất phát từ khả năng phát triển và tiếp nhận lao động của khu vực công nghiệp
hiện đại. Khu vực này có nhiều khả năng lựa chọn công nghệ sản xuất, trong đó
có công nghệ sử dụng nhiều lao động nên về nguyên tắc, có thể thu hút hết
lượng lao động dư thừa của khu vực nông nghiệp. Nhưng việc di chuyển lao
động được giả định là do chênh lệch về thu nhập giữa lao động của hai khu vực
kinh tế trên quyết định (các tác giả giả định rằng thu nhập của lao động công
nghiệp tối thiểu cao hơn 30% so với lao động trong khu vực nông nghiệp). Như
vậy, khu vực công nghiệp chỉ có thể thu hút lao động nông nghiệp khi có sự dư
thừa lao động nông nghiệp và chênh lệch tiền công giữa hai khu vực đủ lớn.
Nhưng khi nguồn lao động nông nghiệp dư thừa ngày càng cạn dần thì khả năng
duy trì sự chênh lệch về tiền lương này sẽ ngày một khó khăn. Đến khi đó, việc
tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản
lượng nông nghiệp và làm cho giá cả nông sản tăng lên, và kéo theo đó là mức
tăng tiền công tương ứng trong khu vực công nghiệp. Sự tăng lương của khu vực
48
công nghiệp này đặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm đối với lao động của khu
vực này. Như thế, về mặt kỹ thuật, mặc dù khu vực công nghiệp có thể thu hút
không hạn chế lượng lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang
nhưng xét về mặt thu nhập và độ co giãn cung cầu, thì khả năng tiếp nhận lao
động từ khu vực nông nghiệp của khu vực công nghiệp là có hạn.
- Lý thuyết di chuyển lao động của Todaro:
Một hướng phân tích khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên của w. Arthur
Lewis là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn (khu vực nông
nghiệp) ra thành thị (khu vực công nghiệp) mà Todaro là một điển hình. Quá
trình dịch chuyển lao động chỉ diễn ra suôn sẻ khi tổng cung về lao động từ
nông nghiệp phù hợp với tổng cầu ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển lao
động này không những phụ thuộc vào chênh lệch thu nhập mà còn dựa vào xác
suất tìm được việc làm đối với lao động nông nghiệp.
Lý thuyết của Todaro nghiên cứu sự di chuyển lao động trên cơ sở thực
hiện điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Theo
ông, những người lao động ở khu vực nông thôn có thu nhập trung bình thấp.
Họ lựa chọn quyết định di chuyển lao động từ vùng có thu nhập thấp sang khu
vực thành thị có thu nhập cao hơn. Như vậy, quá trình di chuyển lao động mang
tính tự phát, phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân. Điều này
làm cho cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn định, gây khó khăn cho
chính phủ trong việc quản lý lao động và nhân khẩu.
Mô hình này cho thấy ở các nước nông nghiệp muốn đẩy mạnh tăng
trưởng cần phải tập trung vào việc phát triển, trước hết là ngành nông nghiệp và
kinh tế nông thôn, để tạo ra thị trường cho công nghiệp và dịch vụ phát triển.
Điều này càng có ý nghĩa trong thời kỳ hiện nay khi cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đang làm cho tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chậm lại, nhiều ngành
kinh tế hầu như không phát triển. Do đó, một trong các biện pháp thoát ra khủng
49
hoảng kinh tế ở các nước này là quan tâm hơn nữa cho việc phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn của mình.
- Lý thuyết tạo việc làm trong sản xuất nông nghiệp của Harry Toshima:
Khi áp dụng mô hình tăng trưởng vào khu vực các nước Châu Á gió mùa
thì Toshima cho rằng mô hình cùa Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình hình
dư thừa lao động trong nông nghiệp Châu Á gió mùa, bởi vì nền nông nghiệp
lúa nước vẫn thiếu lao động trong mùa vụ và thừa lao động trong lúc nông nhàn.
Từ đó ông đưa ra mô hình tăng trưởng mới. Vì vậy, ông cho rằng cần giữ lại lao
động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn rỗi bằng
cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi... Đồng thời, sử dụng lao động
nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều lao
động. Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm đầy đủ cho mọi thành viên gia
đình nông dân trong những tháng nhàn rồi sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm
của họ và sẽ mở rộng được thị trường trong nước cho các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết.
Từ đó ông cho rằng, sự phát triển phải bắt đầu từ nông nghiệp. Phải tạo ra
công ăn việc làm cho nông dân trong lúc nông nhàn bằng cách phát triển các
ngành nghề trong kinh tế nông thôn. Có như vậy mới nâng cao được thu nhập
của nông dân và mở rộng được thị trường nội địa cho các ngành công nghiệp,
dịch vụ phát triển. Nhờ đó lao động dư thừa trong nông nghiệp mới được sử
dụng hết.
Khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản xuất vật
chất quan trọng nhất của nền kinh tế các nước đang phát triển, các lý thuyết nhị
nguyên đã đi từ việc cho rằng chỉ cần tập trung vào phát triển công nghiệp mà
không quan tâm đến sự phát triển của khu vực nông nghiệp đến việc chỉ ra
những giới hạn của việc này và như vậy, khu vực nông nghiệp cũng cần được
quan tâm thích đáng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tóm lại, vấn đề việc làm, thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường là một
trong những vấn đề luôn được nhiều người quan tâm. Những trường phái lý
50
thuyết, những quan điểm khác nhau của các nhà khoa học trong những thời kỳ
lịch sử nhất định đều có những giá trị khoa học và chuẩn mực riêng. Và đến nay,
vấn đề việc làm, thất nghiệp tiếp tục là vấn đề được các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
2.1.3. Việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng
nông thôn mới
* Lý luận về việc làm, việc làm cho lao động nông nghiệp
Việc làm, trước tiên là hoạt động lao động của con người, đó là sự kết hợp
giữa sức lao động với tư liệu sản xuất theo những điều kiện phù hợp nhất định,
nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích con người. Hoạt
động lao động đó không bị luật pháp ngăn cấm
Việc làm liên quan đến những điểm cơ bản như sau:
- Thứ nhất, là hoạt động lao động của con người. Đây là hoạt động có
mục đích của con người, con người dùng sức lực cơ bắp và thần kinh tác động
vào đối tượng lao động, cải biến nó phù hợp với nhu cầu của chính mình.
- Thứ hai, để có việc làm đòi hỏi phải có tư liệu sản xuất và sức lao động.
Với ý nghĩa này, để người lao động có việc làm đòi hỏi phải đầu tư phát
triển sản xuất, phải tạo ra một số lượng tư liệu sản xuất có khả năng đáp ứng yêu
cầu của người lao động. Đồng thời, phải thường xuyên chăm lo nâng cao chất
lượng, số lượng sức lao động, để có thể sử dụng hiệu quả tư liệu sản xuất có
được.
- Thứ ba, trình độ của tư liệu sản xuất phải phù hợp với trình độ và năng
lực lao động của người lao động. Hay nói cách khác, để sức lao động có thể kết
hợp được với tư liệu sản xuất, thì người lao động phải có một trình độ chuyên
môn kỹ thuật phù hợp để sử dụng tư liệu sản xuất đó.
- Thứ tư, sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất phải tạo ra một
loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhất định nào đó. Sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
đó phù hợp với lợi ích của con người.
51
- Thứ năm, sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động đó không bị
luật pháp ngăn cấm. Ở đây xác định rõ tính pháp lý của việc làm. Tính hợp pháp
đó cho phép người lao động được tự do lựa chọn việc làm cho mình trong khuôn
khổ pháp luật quy định. Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh,
liên kết, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ pháp luật và sự hướng dẫn
của Nhà nước để có thể tự tạo việc làm cho mình. Tại khoản 1 Điều 16 Bộ luật
Lao động cũng nêu rõ:
“Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động
nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. Người cần tìm việc làm có
quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc làm
để tìm việc tuỳ theo nguyện vọng, khả năng trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ
của mình”.
Là lao động tạo ra thu nhập và không bị Nhà nước ngăn cấm, được thể
hiện ở một trong các dạng cụ thể như sau:
+ Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
hiện vật cho công việc đó;
+Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất
nông nghiệp trên đất do mình là chủ sử dụng, hoạt động kinh tế ngoài nông
nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần;
+ Làm các công việc cho gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình
thức tiền công, tiền lương cho công việc đó. Tức là các hoạt động mang lại lợi
nhà, ích nước.
+ Làm những công việc không được trả công (hoặc lương) nhưng mang
lại sự ổn định chính trị, xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và phát
triển đất nước diễn ra thuận lợi hơn.
Các điều kiện trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên các
điều kiện xác định là việc làm. Nếu một hoạt động nào đó, tuy có mang lại thu
nhập, mang lại lợi ích cho một người nào đó mà bị luật pháp ngăn cấm thì không
thể xác định là việc làm.
52
* Lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới
Người lao động
Điều 6, Bộ Luật Lao động của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam (đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5, thông qua ngày 23 tháng 6 năm
1994), quy định: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao
động và có giao kết hợp đồng lao động”. Như vậy, người lao động là những
người phải đủ 15 tuổi trở lên, là những người có sức khoẻ, có khả năng dùng sức
lao động của mình để tham gia các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần cho
xã hội. Với mức xác định biên độ tuổi như trên cho thấy, dân số trong độ tuổi
lao động kể cả những người nghỉ hưu nhưng còn khả năng lao động cũng được
xác định là người lao động. Điều này cho phép chúng ta có thể tận dụng và phát
huy tối đa nguồn nhân lực phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên luật cũng không quy định rõ những người có khả năng lao động
nhưng bị phạt tù có phải là người lao động hay không. Theo tác giả Luận án,
những người tuy có khả năng lao động, nhưng bị phạt tù thì không thể xác định
là người lao động. Bởi vì để có thể tự do tìm kiếm việc làm trên thị trường lao
động hoặc tự tạo việc làm cho bản thân và gia đình, người đó phải là người tự do
về thân thể, để có thể tự quyết định và chịu trách nhiệm của mình trước những
công việc mà mình đảm nhận. Bên cạnh đó, luật cũng cho rằng, người lao động
là người có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Với quan niệm
này thì những người làm việc cho riêng mình, những công việc gia đình, không
có giao kết hợp đồng lao động không được Bộ luật xem xét đến có phải là người
lao động hay không. Theo tác giả Luận án, quan điểm như vậy là chưa xem xét
đến một lực lượng rất lớn những người làm việc cho riêng mình, như làm việc ở
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn, làm những công việc do mình làm
chủ, không cần phải giao kèo hợp đồng với người khác. Trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, loại hình kinh tế
cá thể, tiểu chủ (tư nhân) chiếm một vị trí rất quan trọng. Với tính chất cơ động,
nhạy bén, không cần đòi hỏi nguồn vốn lớn, loại hình kinh tế này đã cho thấy là
53
một bộ phận đóng góp hiệu quả cho việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm,
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhiều người.
Từ những phân tích trên, tác giả Luận án cho rằng: người lao động là
người đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và được tự do về thân thể. Với
quan niệm này, tác giả Luận án xác định người lao động là những người có
những điều kiện sau:
- Đủ 15 tuổi trở lên.
- Có khả năng lao động để có thể làm việc ở bất cứ lĩnh vực nào của xã
hội khi cần đến, kể cả làm việc cho chính bản thân và gia đình mình.
- Phải là người tự do, không bị luật pháp phạt tù hoặc truy nã.
Việc làm cho người lao động
Việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động có một ý nghĩa vô
cùng to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế, bởi vì sự phát triển kinh tế
phụ thuộc vào vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nhân lực và nguồn vốn, trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trò quan
trọng và quyết định sự phát triển đó.
Luận án cho rằng, việc làm cho người lao động là tạo ra những chỗ làm
việc, tạo ra những tiền đề, điều kiện để người lao động có thể sử dụng sức
lao động cơ bắp và trí tuệ của mình tác động vào đối tượng lao động, nhằm
tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân, gia đình và phát triển xã hội. Đó là
tạo ra tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện cần
thiết để kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, kết hợp sức lao động với các
công việc người lao động sẽ thực hiện, đó cũng chính là tạo các điều kiện để
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó quan trọng nhất là
nguồn lực con người. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo việc
làm cho người lao động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: nhà nước và xã
hội, tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì
người lao động không thể tạo ra thu nhập, dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ,
không cống hiến được sức lực của mình, cản trở sự phát triển của kinh tế.
54
Người có việc làm và thất nghiệp
Người có việc làm.
Quan niệm người có việc làm được Nhà nước ta xác định tại các cuộc
điều tra về lao động- việc làm ở Việt Nam hàng năm, là những người trong lực
lượng lao động mà trong tuần lễ trước điều tra biểu hiện ở các tình trạng sau:
“- Đang làm công việc nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng
tiền hay hiện vật.
- Đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi
nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình.
- Đã có công việc trước đó, song trong tuần lễ trước điều tra tạm thời
không làm việc và sẽ trở lại làm việc ngay sau thời gian tạm nghỉ việc”.
Thất nghiệp và các phạm trù liên quan.
- Thất nghiệp.
Thất nghiệp là một biểu hiện kinh tế xã hội khi mà con người có khả năng
làm việc, muốn làm việc mà không thể tìm được việc làm. Đó là hiện tượng tồn
tại khi một số người trong độ tuổi lao động mong muốn và có khả năng làm
việc, rất tích cực tìm kiếm nhưng không tìm được việc làm vì lý do không có
chỗ làm việc hoặc trình độ chuyên môn không phù hợp.
Tổ chức Lao động quôc tế (ILO) cho rằng, thất nghiệp là tình trạng tồn tại
khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm
được việc làm ở mức tiền công thịnh hành. Và để xác định số những người thất
nghiệp, tổ chức này đưa ra những tiêu chí cụ thể, họ cho rằng, xét trong một
khoảng thời gian nhất định, những người thất nghiệp là những người đang ở
trong các tình trạng sau: 1) không có việc làm; 2) có khả năng làm việc; 3) tích
cực tìm việc làm.
Theo các quan niệm này thì thất nghiệp là tình trạng người lao động có
nguyện vọng tìm việc làm nhưng không có vị trí việc làm. Phần lớn các nước
trên thế giới sử dụng quan niệm của Tổ chức lao động quốc tể (ILO) để xác định
người thất nghiệp, nhưng mỗi nước xác định khoảng thời gian thất nghiệp có
55
khác nhau. Ở Thái Lan quy định, trong các cuộc điều tra xác định người thất
nghiệp là những người không có việc làm 7 ngày trước lúc điều tra; ở Úc cho
rằng, người thất nghiệp là những người không có việc làm trong tuần lễ điều tra
và đã chủ động tìm việc làm cả ngày hoặc nửa ngày tại bất kỳ thời điểm nào
trong 4 tuần, bao gồm cả tuần điều tra và sẵn sàng làm việc khi có việc làm...
Việc phân loại thất nghiệp là một yếu tố rất quan trọng để xác định tính
chất thất nghiệp, nhằm làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách chống thất
nghiệp. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đã phân thất nghiệp thành 3 loại:
1) Thất nghiệp do mức cầu lao động không đủ; 2) Thất nghiệp do thiếu thiết bị
hoặc thiếu những nguồn lực bổ sung; 3) Thất nghiệp do cung và cầu lao động
không ăn khớp với nhau. Sự phân loại này đến nay cho thấy, xét trên nhiều khía
cạnh, mặc dù đúng nhưng không chính xác hoàn toàn, nhất là đối với những
quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế như nước ta.
- Người thất nghiệp.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng:
“Người thất nghiệp đó là những người, có thể và muốn làm việc, chủ
động và tích cực đi tìm kiếm việc làm, nhưng không thể tổ chức được lao động
vì không có chỗ làm việc trống hoặc là vì nghề nghiệp không phù hợp”
Ở Mỹ, người thất nghiệp là người lao động có khả năng làm việc, mong
muốn tìm được việc làm trong vòng 4 tuần đã qua, có đăng ký tìm việc làm ở
các trung tâm dịch vụ việc làm hoặc liên hệ trực tiếp với người lao động nhưng
không có việc làm trong tuần thực hiện điều tra tình trạng thất nghiệp. Ở Liên
bang Đức thì cho rằng, người thất nghiệp là người lao động tạm thời không có
quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện những công việc ngắn hạn. Ở Thái Lan,
người thất nghiệp là người lao động muốn làm việc, có khả năng làm việc nhưng
không có việc làm. Nhật Bản thì cho rằng, người thất nghiệp là người không có
việc làm trong tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm kiếm
việc làm hoặc chờ kết quả xin việc làm.
56
Nhìn chung, trên cơ sở quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO),
mỗi nước có một quan niệm khác nhau về người thất nghiệp phù hợp với điều
kiện của quốc gia mình.
Song, để quan niệm người thất nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế ở
Việt Nam hiện nay, theo luận án, người thất nghiệp là những người lao động
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang ở trong tình trạng
không có việc làm và đang đi tìm việc làm, đồng thời sẵn sàng đi làm ngay
nếu được chấp nhận. Với quan niệm này, người thất nghiệp có thể là những
công nhân trong các doanh nghiệp, học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường
chuyên nghiệp, bộ đội xuất ngũ nhưng chưa có việc làm. Những người trong độ
tuổi lao động, hoặc ngoài độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không
có nhu cầu tìm việc làm thì không được coi là người thất nghiệp. Ví dụ như:
những người ốm đau, nghỉ tạm thời vì tai nạn, nghỉ phép, nhưng học sinh, sinh
viên đang học ở các trường học, những người nội trợ... không phải là những
người thất nghiệp. Tóm lại, những người lao động có khả năng lao động, mặc dù
trong tình trạng không có việc làm nhưng không có nhu cầu tìm việc làm thì
không phải là người thất nghiệp.
- Các hình thức thất nghiệp. Có rất nhiều hình thức thất nghiệp, song đáng
quan tâm là một số hình thức sau:
+ Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp gắn với sự thay đổi cơ cấu sản xuất,
nó xuất hiện do nhu cầu biến đổi thường xuyên của các loại hàng hoá dịch vụ
khác nhau. Thất nghiệp cơ cấu là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế, nó
xuất hiện trong ngắn hạn do thường xuyên có sự thay đổi kỹ thuật, công nghệ
theo hướng hiện đại trong sản xuất.
+ Thất nghiệp tạm thời: là tình trạng người lao động không làm việc do
mình từ chối công việc ở một doanh nghiệp này để tìm một công việc ở doanh
nghiệp khác hấp dẫn hơn, hoặc do sắp xếp lại hoạt động, tinh giản biên chế
57
trong một bộ máy, hoặc bị sa thải. Đây là dạng thất nghiệp gồm vừa mang tính
tự nguyện, vừa mang tính bắt buộc.
Thất nghiệp tạm thời khác với thất nghiệp cơ cấu ở chỗ, việc tìm kiếm
việc làm của thất nghiệp tạm thời về cơ bản diễn ra theo chuyên môn, kỹ năng,
kỹ xảo sẵn có, còn thất nghiệp cơ cấu thường đòi hỏi phải đào tạo lại và như vậy
phải cần một khoảng thời gian nhất định. Thất nghiệp tạm thời chỉ diễn ra trong
thời gian ngắn, thời gian chờ đợi để đến chỗ làm việc mới.
+ Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn với sự sút giảm trong chu kỳ tái
sản xuất, tức là gắn với giai đoạn khủng hoảng, dẫn đến giảm cầu về chỗ làm
việc, làm cho số lượng chỗ làm việc sẵn có ít hơn số người mong muốn làm
việc.
+ Thất nghiệp tồn đọng: là tình trạng người có việc làm không thường
xuyên, hoặc không có việc làm trong một thời gian dài, phải tồn đọng kéo dài
dồn từ năm này sang năm khác.
- Người thiếu việc làm. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người
thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức
quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
Ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu
việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 ngày công) trong tuần lễ tham khảo hoặc
trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần
trước đó làm việc dưới 160 giờ (20 ngày công) và có nhu cầu làm thêm.
- Người đủ việc làm, Là những người có việc làm với thời gian làm việc
không ít hơn mức giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham
khảo. Mức chuẩn: làm việc 40 giờ trở lên trong tuần lễ tham khảo.
Sự xác định tiêu thức thất nghiệp và thiếu việc làm chi có tính tương đối,
vì đối với khu vực nông thôn, việc làm hiện nay buộc phải dàn trải ra cho nhiều
người nên hiệu quả việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thời gian lao động được
sử dụng rất thấp. Xác định người có việc làm và người thất nghiệp là cơ sở để
58
xác định các chính sách chống thất nghiệp và tạo việc làm. Nếu như không xác
định được một cách tương đối chính xác những chỉ số này trong quá trình điều
tra sẽ là thiếu sót trong việc xây dựng những luận cứ của các chính sách phát
triển kinh tế- xã hội, làm cho các chính sách đó thiếu tính thực tiễn, khả năng
thành công và hiệu quả thấp.
Lực lượng lao động
Lực lượng lao động là toàn bộ những năng lực từ sức khoẻ cơ bắp đến
kiến thức, năng lực trí tuệ của tổng thể các thành viên xã hội có khả năng và có
mong muốn lao động. Nó bao gồm những người trong độ tuổi lao động và ngoài
độ tuổi lao động có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm
việc.
Theo Từ điển ngữ pháp tiếng Việt, lực lượng lao động là số lượng và chất
lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả
năng lao động có thể được sử dụng. Trên thực tế tuổi của lực lượng lao động ở
các nước cũng có những quy định khác nhau, độ tuổi giới hạn này do luật pháp
của mỗi quốc gia quy định dựa trên những điều kiện kinh tế- xã hội, trình độ
phát triển của quốc gia đó. Ví dụ như: ở Anh, Mỹ, Nga độ tuổi tối thiểu của lực
lượng lao động là 16, còn ở Pháp, Nhật, Canađa quy định độ tuổi tối thiểu là 15;
độ tuổi tối đa của của lực lượng lao động ở Ba Lan là 74, hoặc như ở Ma-lai-xi-
a, Mê-xi-cô thì tuổi tối đa là 65... Nhưng nhìn chung phổ biến nhất về độ tuổi
lao động trên thế giới là đủ 15 đến 60 tuổi, trong đó có Việt Nam.
2.2. Mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp với quá
trình xây dựng nông thôn mới
2.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng nguồn lao động nông
nghiệp
- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố có ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, thông
qua đó nó tác động đến nguồn lao động và ổn định việc làm cho người lao động.
59
Thực tế cho thấy, ở đâu có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi, có
đời sống vật chất, tinh thần khá giả thì ở đó các ngành sản xuất vật chất phát
triển, dân số, lao động tập trung nhiều hơn. Vì vậy điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng nguồn lao động nông
nghiệp, nông thôn.
- Tình hình phân bố dân cư và mật độ dân số.
Ở nước nào cũng vậy, sự phân bố dân cư và mật độ dân số của từng vùng
từng địa phương ảnh hưởng rất lớn đến số lượng cũng như chất lượng nguồn lao
động. Ở nơi có mật độ dân số quá thấp sẽ hạn chế sự phân công lao động xã hội,
giảm khả năng chuyên môn hoá và hiên đại hoá trong tổ chức sản xuất xã hội.
Thiếu lao động, mọi quá trình phát triển sẽ mất đi cả động lực và mục đích của
nó. Ở nơi mật độ dân số quá cao, số lượng dân số gia tăng lớn, điều đó dẫn đến
sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất, gây ra những trở ngại cho việc
sử dụng hợp lý các nguồn lực của đất nước; vì vậy, mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển đều cần phải có sự điều chỉnh, phân bố lại mật độ dân số, nhằm tạo ra
một sự phù hợp giữa số lượng lao động với tư liệu sản xuất ở từng vùng, trong
từng thời kỳ nhất định.
- Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch
vụ, nhưng phần lớn lao động ở nông thôn là làm nông nghiệp. Trong nông
nghiệp có hai tiểu ngành là trồng trọt và chăn nuôi.
Mỗi một ngành, tiểu ngành đều có những đặc thù nhất định, đòi hỏi những
điều kiện khác nhau về nguồn lao động. Ở nước ta cơ cấu kinh tế theo từng vùng
được phân bố rõ rệt; ở những vùng có cơ cấu kinh tế phát triển như vùng Đông
Nam Bộ, vùng trọng điểm kinh tế phía Nam có khả năng thu hút nhiều lao động.
Ở các vùng khác như: Duyên hải miền Trung, Tây nguyên, đồng bằng Sông
Hồng...mỗi vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau, phù hợp với từng loại cây,
con khác nhau nên lực lượng lao động được thu hút và sản xuất trong các ngành
cũng khác nhau.
60
Thực tế đó cho thấy, nơi nào có khả năng phát triển mạnh, có cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng tích cực từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp-công nghiệp-
dịch vụ chuyển dần thành cơ cấu kinh tế công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp tiến
tới cơ cấu kinh tế dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp, thì nơi đó có lực lượng lao
động tập trung nhiều.
- Bên cạnh những nhân tố đó, quá trình du canh, du cư, di dân phát triển
vùng kinh tế mới cũng như việc quy hoạch xây dựng đô thị, thị trấn, thị tứ, xây
dựng nông thôn mới cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn lao động nông
nghiệp, nông thôn.
2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động nông
nghiệp
- Sức khoẻ và đời sống: Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông
thôn phụ thuộc trước hết vào chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống được
đảm bảo thì yếu tố sức khoẻ và yếu tố văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ của
người lao động có điều kiện phát triển; sự nhận thức của người lao động về công
ăn việc làm, tinh thần, ý thức trách nhiệm cũng được được nâng lên. Điều này sẽ
tạo tiền đề cho người lao động có việc làm và làm việc có năng suất cao, chất
lượng, hiệu quả hơn [63].
- Trang bị tư liệu lao động và điều kiện sản xuất. Trong mọi nền sản xuất
xã hội, trang bị tư liệu lao động và điều kiện sản xuất luôn ảnh hưởng sâu sắc
đến chất lượng lao động. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển không
chỉ làm thay đổi các bộ phận của tư liệu lao động theo hướng tinh vi, hiện đại
mà còn đặt ra những yêu cầu mới đối với sức lao động, đòi hỏi người lao động
phải nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, chuyên môn nghiệp vụ của mình một
cách tương xứng.
Đối với nước ta, điều kiện sản xuất còn ở trình độ thấp, công cụ lao động
phần lớn là thủ công, lạc hậu, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn
chậm... Nên vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nói chung và trong
61
nông nghiệp, nông thôn nói riêng càng trở nên cấp thiết, đòi hỏi phải được
nghiên cứu và xem xét một cách toàn diện.
- Đào tạo và tập huấn tay nghề. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh
tranh luôn diễn ra gay gắt. Để chiến thắng trong cạnh tranh, buộc chúng ta phải
thường xuyên đổi mới máy móc, thiết bị, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật tiên tiến, đổi mới thiết kế sản phẩm....Điều này đã đặt ra những yêu cầu
mới đối với việc đào tạo và tập huấn tay nghề cho người lao động.
Đào tạo ở đây không chỉ là đào tạo mới mà còn bao gồm cả đào tạo lại, bổ
sung kiến thức và nâng cao tay nghề. Đào tạo không chỉ nhằm vào đội ngũ trí
thức mà còn phải đào tạo những người lao động bình thường nhất.
Đó chính là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng người lao
động trong đó có lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới
ở nước ta hiện nay.
2.2.3. Mối quan hệ giữa việc làm cho lao động nông nghiệp và quá
trình xây dựng nông thôn mới
Việc làm cho lao động nông nghiệp và quá trình xây dựng nông thôn mới
có mối tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển.
Nhu cầu tạo việc làm cho lao động nông nghiệp là một trong những
nguyên nhân quá trình xây dựng nông thôn mới diễn ra. Quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế ở những nước đang phát triển tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển kinh
tế nhưng cũng gây ra những thách thức lớn cho nền nông nghiệp. Nhiều sản
phẩm nông nghiệp bị cạnh tranh gay gắt khi hàng của nước ngoài tràn vào và do
mất ưu thế bảo hộ trước đây. Tuy nhiên, sẽ có một số sản phẩm được hưởng lợi
và phát triển nhờ giá nông sản được đẩy lên, người lao động có điều kiện lựa
chọn cây, con giống cho chất lượng và năng suất tốt hơn, làm gia tăng giá trị
trên cùng một sản phẩm. Sự chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận lao động
nông nghiệp thúc đẩy nhu cầu tìm thêm việc làm, tăng thu nhập.
Để tìm kiếm thêm việc làm, di cư là xu thế chung của các nước đang phát
triển. Hậu quả là sức ép lên đô thị ngày càng lớn, phần lớn những người lao
62
động nông nghiệp không có được công việc ổn định do trình độ còn thấp, làm
tăng tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị.
Để giải quyết các mâu thuẫn trên và cũng tạo cơ sở xây dựng một nền
nông nghiệp phát triển bền vững, theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái thì
công cuộc xây dựng nông thôn mới là tất yếu. Xây dựng nông thôn mới giúp
giảm chênh lệch giàu nghèo, nâng cao chất lượng đời sống, tạo điều kiện cho
nền nông nghiệp phát triển có quy hoạch tập trung, sản xuất hàng hóa, ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển bền vững.Việc đầu tư xây dựng nông
thôn mới sẽ hoàn chỉnh các hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội tạo điều
kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đó sẽ chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng tích cực.
Quá trình xây dựng nông thôn mới cũng có tác động tới việc làm cho lao
động nông nghiệp ở nhiều mặt.
Xây dựng nông thôn mới trước hết là tiến hành quy hoạch kinh tế xã hội,
quy hoạch nông nghiệp, quy hoạch khu dân cư theo hướng hiện đại, tập trung
hơn. Tất cả các công trình phụ trợ, các khu dân cư đều được bố trí phù hợp, phục
vụ hoạt động sinh hoạt, sản xuất của người dân và đảm bảo vệ sinh môi trường.
Điều này giúp cho việc sản xuất của lao động nông nghiệp thuận lợi hơn, các
khu sản xuất được bố trí tập trung, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất , thu
hút và tạo thêm việc làm cho nhiều lao động khác.
Việc quy hoạch xây dựng các khu vui chơi, giải trí, các khu chợ, dịch vụ
theo tiêu chí cũng khiến cho nhu cầu tiêu dùng của người dân nông thôn nói
chung và lao động nông nghiệp nói riêng tăng lên [59]. Điều đó thúc đẩy lao
động nông nghiệp tìm cách nâng cao thu nhập của mình qua việc cải tiến sản
xuất, nâng cao sản lượng, tay nghề hoặc tìm thêm việc làm. Và một bộ phận
không nhỏ lao động nông nghiệp sẽ chuyển đổi sang thành lao động dịch vụ
hoạt động ở các khu vui chơi giải trí, khu chợ và dịch vụ mới được hình thành.
Một trong những giải pháp quan trọng của quy hoạch xây dựng nông thôn
mới đó là dồn điền đổi thửa, đây là biện pháp nhằm làm giảm đi diện tích đất
63
hoang hóa và tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Việc đồn diền đổi thửa
cũng chuyển đổi một bộ phận đất nông nghiệp thành đất công nghiệp, khiến cho
một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thiếu việc làm
nếu như không có những định hướng và những biện pháp từ các cấp lãnh đạo.
Lợi ích lớn nhất của việc dồn điền đổi thửa là tạo được các cánh đồng mẫu lớn,
dễ dàng áp dụng việc cơ giới hóa và các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao
động, tạo sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp và việc làm ổn định, bền
vững cho lao động nông nghiệp [12].
Cũng nhờ xây dựng nông thôn mới tỷ lệ đường trục xã, đường liên thôn
được nhựa hóa và bê tông hóa đều tăng. Đây là điều kiện thúc đẩy giao thương
buôn bán giữa các địa phương và trong mỗi địa phương. Là cơ sở cho phát triển
kinh tế nông nghiệp và mở rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp, chế biến,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ở nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho lao
động nông nghiệp và lao động dịch vụ.
Tỷ lệ trường học và các công trình văn hóa, thể thao cũng tăng cao giúp
nâng cao đời sống tinh thần của người dân, nâng cao dân trí. Tỷ lệ internet đến
thôn tăng cũng giúp cho việc tìm hiểu kiến thức và tiếp thị, thương mại điện tử
của lao động nông nghiệp dễ dàng hơn, tăng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập.
Xây dựng hạ tầng kinh tế kỹ thuật là điều kiện để tiến hành đô thị hóa
nông thôn. Đô thị hoá nông thôn là quá trình hình thành các điểm dân cư đô thị
ở vùng nông thôn, cùng với nó là sự chuyển dịch lao động từ hoạt động nông
nghiệp, sang hoạt động phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn.
Quá trình đô thị hoá nông thôn là quá trình có tính qui luật, đó là quá trình
phát triển nông thôn và du nhập lối sống thành thị vào các vùng nông thôn, sẽ
làm cho dân số và diện tích đô thị không ngừng tăng; các hoạt động của kinh tế
phi nông nghiệp và các hoạt động kinh tế của đô thị không ngừng được mở rộng.
64
Lực lượng lao động nông nghiệp dần bị thu hẹp, một bộ phận lực lượng lao
động nông nghiệp chuyển sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Quá trình đô thị hoá nông thôn sẽ thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội nông thôn, thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, sức
mua của các đô thị tăng nhanh, làm cho sức mua hàng nông - lâm - thuỷ sản
tăng, đồng thời cũng đòi hỏi các mặt hàng này phải có chất lượng ngày cao đáp
ứng được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng đô thị. Sức mua của người
dân ở các đô thị tăng, kéo theo đó hàng hoá nông sản tiêu thụ nhiều, sẽ tác động
đến việc sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp cung cấp đô thị, góp phần
chuyển đổi tập quán sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông
nghiệp theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, nâng cao chất lượng hàng
nông sản trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất
nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp chế biến và phát triển các ngành dịch vụ,
do đó, tác động mạnh đến việc làm biến đổi cơ cấu lực lượng lao động trong
nông nghiệp [21].
Ở một địa phương được coi là nông thôn mới, thu nhập bình quân đầu
người của lao động nông nghiệp tăng theo từng năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm và tỷ
lệ lao động có việc làm thường xuyên cao. Để đạt được mục tiêu đó, quá trình
xây dựng nông thôn mới ở các địa phương gắn chặt với sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp
chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa
thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá
trên thị trường.
65
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cho phép sử dụng rộng rãi
máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ tiên tiến vào các hoạt động sản xuất nông
nghiệp từ khâu làm đất, gieo cấy, vận chuyển được cơ giới hoá đến sử dụng
công nghệ sinh học từ khâu làm giống, đến sản xuất, bảo quản, chế biến và giới
thiệu sản phẩm rộng rãi trên thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản
phẩm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho năng suất và hiệu quả kinh tế của
sản xuất nông nghiệp được nâng cao và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình
chuyển nền nông nghiệp truyền thống tự cung, tự cấp, với sử dụng công cụ thủ
công, sức lao động là chính sang phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiện đại
hoá các công cụ sản xuất, các biện pháp sản xuất và phương thức quản lý sản
xuất trong nông nghiệp, làm cho năng suất lao động tăng cao, sản phẩm nông
nghiệp tăng nhanh, đa dạng và phong phú đồng thời chất lượng sản phẩm cũng
tăng nhanh và đáp ứng yêu cầu thị trường...
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp tất yếu đưa đến hai
tác động ngược chiều nhau: một mặt, nó làm cho trình độ cơ giới hoá, tự động
hoá được nâng lên, làm cho một bộ phận lao động nông nghiệp dôi thừa thêm;
mặt khác, nó lại tạo ra nhiều ngành nghề mới, chỗ làm mới, thu hút thêm lao
động. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp tạo điều kiện rút phần lớn lao
động nông nghiệp ra khỏi ngành nông nghiệp và chuyển sang hoạt động ở các
ngành công nghiệp và dịch vụ, là những ngành có hiệu quả kinh tế cao hơn. Do
đó nó tác động lớn tới sự biến đổi cơ cấu lực lượng lao động ở nông thôn theo
hướng tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhưng chất lượng nguồn lao động
nông nghiệp đòi hỏi phải không ngừng được nâng cao.
Quá trình xây dựng nông thôn mới cũng đề cao vai trò hoạt động của các
hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân có hiệu quả hơn, giúp đào tạo việc
66
làm và hỗ trợ cho lao động nông nghiệp sản xuất tốt hơn, tránh xa các tệ nạn xã
hội.
Môi trường giảm thiểu ô nhiễm, chất thải được xử lý, lao động nông
nghiệp yên tâm an cư lập nghiệp, tập trung vào sản xuất, đảm bảo sức khỏe cho
lao động. Việc tuyên truyền bảo vệ môi trường cũng làm tăng ý thức của người
dân, hướng người dân tự chuyển đổi đến một nền nông nghiệp sinh thái, thân
thiện với môi trường.
Một yếu tố quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới là hoàn
thiện bộ máy chính trị, xây dựng hệ thống chính trị đạt chuẩn, cán bộ, lãnh đạo
quản lý có trình độ là điều kiện đảm bảo để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý
của nhà nước, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi
để thu hút đầu tư, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tổ chức lại sản
xuất ở nông thôn theo hướng hàng hóa, nông nghiệp đô thị sinh thái, nâng cao
thu nhập cho đời sống của người nông dân trong đó có lao động nông nghiệp.
Hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh sẽ phát huy được tinh thần làm chủ,
sức mạnh đoàn kết và sáng tạo của nhân dân lao động cả trong phát triển kinh tế
và xây dựng làng xã văn hóa. Người dân nói chung và lao động nông nghiệp nói
riêng yên tâm tham gia sản xuất phát triển kinh tế dưới sự ủng hộ và hướng dẫn
đường lối của bộ máy lãnh đạo. Nhờ đó việc làm của lao động nông nghiệp ổn
định hơn, người lao động có cơ hội tập trung vào mở rộng sản xuất, tăng cao thu
nhập và tạo thêm nhiều việc làm.
2.2.4. Một số vấn đề đặt ra về giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội
- Về chính sách ruộng đất, Hà Nội tiếp tục giải pháp đẩy nhanh việc dồn
điền đổi thửa tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển sản xuất và hình
thành các trang trại sản xuất hàng hoá có hiệu quả. Thực tế cho thấy, ở Hà Nội
công việc này diễn ra với tốc độ chưa đều giữa các địa phương. Các hộ có nhiều
thửa ruộng nhỏ ở nhiều cánh đồng khác nhau điều đó cản trở sự phát triển nông
67
nghiệp theo hướng hàng hoá. Thực hiện xây dựng nông thôn mới, công tác dồn
điền đổi thửa ở các huyện của Hà Nội là một nhiệm vụ trọng tâm cấp bách của
cả hệ thống chính trị.
Hà Nội có tiềm năng phát triển kinh tế trang trại tổng hợp, thành phố
nghiên cứu bổ sung chính sách hiện có để phát triển trang trại nhằm giải quyết
việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông nghiệp và chất lượng lao động
nguồn nhân lực, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, nâng cao hiệu quả của kinh tế
trang trại, thu hút tạo nhiều việc làm cho người lao động [61].
- Về chính sách tín dụng: việc thực hiện chính sách tín dụng như lãi suất
cho vay, thời gian vay, số lượng tiền cho vay mỗi lần lên nghiên cứu điều chỉnh
phù hợp với dự án, phong tục tập quán và trình độ dân trí của mỗi vùng. Trước
hết nên đơn giản hoá các thủ tục vay vốn để nông dân dễ tiếp cận với ngồn vốn
tín dụng.
- Đối với các hộ nông dân trung bình và nghèo, việc cho vay cần tuân theo
những nguyên tắc sau:
Một là cần sự sâu sát của cán bộ khuyến nông để nông dân biết đầu tư vào
cái gì và làm như thế nào.
Hai là cho vay ít nhưng làm nhiều lần để đảm bảo hiệu quả của vốn vay
và nông dân có khả năng từng bước mở rộng quy mô và hiệu quả sản xuất của
họ.
Ba là tuỳ theo điều kiện cụ thể mà cho vay bằng hiện vật rồi xoay vòng
theo nhóm. Điều này sẽ hạn chế việc sử dụng vốn sai mục đích của nông dân.
- Đa dạng hóa sản phẩm, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá. Ở Hà Nội tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra chưa đều ở
các địa phương. Có rất nhiều làng nghề trên địa bàn thủ đô tuy nhiên việc phát
huy hiệu quả làng nghề, tập trung sản xuất và mở rộng sản xuất chưa thực sự
mãnh mẽ [60]. Điều quan tâm đối với Hà Nội trong quá trình xây dựng nông
thôn mới có tác động trực tiếp tới lao động nông nghiệp đó là việc sử dụng có
68
hiệu quả diện tích đất nông nghiệp hiện có ở mỗi xã, mỗi huyện là rất khác xa
nhau (giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp chênh lệch khoảng 10 lần giữa
vùng sản xuất hoa với vùng sản xuất lúa).
69
Chương 3
TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NỘI
3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của Hà Nội có ảnh
hướng đến giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
xây dựng nông thôn mới
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của Hà Nội ảnh hưởng trực tiếp
tới giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
* Vị trí địa lý, địa hình
Nhìn chung, địa hình Hà Nội khá đa dạng với núi thấp, đồi và đồng bằng.
Hà Nội có nhiều hồ, đầm thuận lợi cho phát triển thủy sản và du lịch, nhưng do
thấp trũng nên khó khăn trong việc tiêu thoát nước nhanh, gây úng ngập cục bộ
thường xuyên vào mùa mưa. Vùng đồi núi thấp và trung bình ở phía Bắc Hà Nội
thuận lợi cho xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp và tổ chức nhiều loại
hình du lịch. Những vùng trung du và miền núi (đặc biệt là miền núi) có địa hình
hiểm trở bị chia cắt do đó rất khó khăn trong việc phát triển giao thông và thuỷ
lợi. Việc áp dụng máy móc kỹ thuật cũng rất hạn chế do đất đai bị chia cắt manh
mún. Vì vậy, năng suất lao động thấp, hạn chế trong khả năng giao lưu kinh tế
và tiếp cận với thị trường, với các thông tin về văn hoá, khoa học kỹ thuật do
vậy cũng hạn chế quá trình sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến thu nhập.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị- hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở
của các cơ quan trung ương của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội,
cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo
dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Tuy nhiên
sau khi mở rộng địa giới hành chính thì có sự khác nhau giữa các vùng nông
thôn của Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn đặc biệt là thu nhập của lao động nông
70
nghiệp. Đây là vấn đề rất quan trọng đòi hỏi phải có sự tập trung giải quyết của
cả hệ thống chính trị và chung sức của toàn dân, tạo sự đột phá trong lĩnh vực
nông nghiệp nông thôn của Thủ đô.
* Khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu cận
nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và
có mưa phùn về nửa cuối mùa.
Nhìn chung, những điều kiện khí hậu thời tiết ở Hà Nội là rất thuận lợi
cho phát triển sản xuất nông nghiệp, kết hợp với địa hình đa dạng, Hà Nội có
những điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp sinh thái, đa dạng hóa sản
phẩm nông nghiệp và đặc biệt có khả năng đi vào sản xuất các loại cây trồng vật
nuôi mang tính đặc sản có giá trị cao.
* Tài nguyên đất
Theo số liệu Tổng kiểm kê đất đai năm 2010, tổng diện tích đất tự nhiên
của Thành phố là 332.889 ha, bao gồm: đất nông nghiệp 188.365 ha, chiếm
56,6% diện tích tự nhiên, đất phi nông nghiệp 135.193 ha, chiếm 40,6% diện
tích tự nhiên, đất chưa sử dụng còn 9.331 ha, chiếm 2,8% diện tích tự nhiên.
Thực hiện mở rộng địa giới hành chính đã tạo cho Hà Nội rất nhiều lợi thế
để phát triển nông nghiệp toàn diện, đa dạng cây trồng, vật nuôi và hình thành
các vùng sản xuất nông sản hàng hóa chất lượng cao. Tuy nhiên, nông nghiệp
Hà Nội phải đối diện nhiều khó khăn khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng
thu hẹp, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chuyển dịch còn chậm, thiếu vững
chắc, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất chưa đáp ứng để phát triển nông nghiệp
Hà Nội theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Mặt khác giá trị sản xuất nông
nghiệp trên 1 ha đất nông nghiệp của các địa phương đạt được trong 3 năm qua
có sự chênh lệch lớn. Vấn đề đặt ra là phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp hiện có, vừa tạo thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông
71
nghiệp là nhiệm vụ quan trọng gắn với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới của
Thủ đô.
* Văn hóa
Với bề dày hàng ngàn năm lịch sử, Hà Nội có nhiều danh thắng, di tích
lịch sử, công trình văn hoá - nghệ thuật, khảo cổ, kiến trúc cùng các di tích phi
vật thể khác, các lễ hội, làng nghề và văn hoá dân gian; nơi tập trung những bảo
tàng lớn và quan trọng của cả nước. Những đặc trưng văn hoá Việt là nguồn lực
và lợi thế cho phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đem lại
những giá trị gia tăng cao trong xuất khẩu các sản phẩm này cũng như phục vụ
cho du lịch và các dịch vụ văn hoá khác.
Hà Nội cũng là nơi tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng, trong đó có các
nghề đặc sắc như: làm tranh dân gian (tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ); gốm
sứ Bát Tràng, nghề làm giấy lụa, dệt tơ lụa Bưởi, Vạn Phúc, nghề thêu ở Yên
Thái, nghề đúc đồng Ngũ Xá, nghề chạm khảm trang trí đồ gỗ Vân Hà; nghề sản
xuất đồ da ở Kiêu Kỵ, nón Chuông, quạt Vác, khảm trai Chương Mỹ, hàng mây
tre Phú Vinh, đồ mộc Tràng Sơn, tượng gỗ Sơn Đồng... với các điều kiện trên
tạo thuận lợi cho người lao động nông thôn, lao động nông nghiệp tìm kiếm việc
làm và chuyển dịch việc làm từ lao động nông nghiệp thuần sang lao động phi
nông nghiệp có hoạt động phụ trong nông nghiệp. Tạo cơ hội thuận lợi cho việc
phát triển dịch vụ du lịch từ đó càng đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực trong đó
có lao động nông nghiệp, phải tự đào tạo nâng cao tay nghề và học các nghề
mới. Đây là nơi có thể giải quyết được việc làm cho nhiều lao động nông nghiệp
trong quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển đô thị của thủ đô.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội
* Đặc điểm kinh tế
Tổng quy mô GDP của Hà Nội năm 2008 đạt trên 178,5 nghìn tỷ đổng
(giá thực tế), tương đương với 10,77 tỷ USD, chiếm hơn một nửa tổng GDP
vùng Đồng bằng sông Hồng và 12,1% cả nước [15]. Nếu xét theo thứ tự về quy
72
mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Thủ đô Hà Nội đứng vị trí thứ hai và bằng
61,5% tổng GDP của địa phương, đứng đầu là Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng của các ngành
Đơn vị tính: %
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Chỉ tiêu
2001- 2005
2006
2008
2010
2006-2010
2005
11,0
12,2
10,6
7,5
9,8
1. Tốc độ tăng trưởng
10,7
10,3
10,9
8,5
9,8
- Dịch vụ
13,4
17,2
11,9
7,5
11,3
- Công nghiệp - xây dựng
4,1
1,3
1,6
2,0
1,4
- Nông, lâm, thuỷ sản
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
2. Cơ cấu ngành
50,7
43,8
52,1
58,3
51,8
- Dịch vụ
45,2
55,3
46,7
40,9
47,1
- Cồng nghiệp - xây dựng
4,1
0,9
1,1
0,8
1,1
- Nông, lâm, thuỷ sản
Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê Hà Nội [16]
Biểu 3.1 cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngành nông nghiệp tại
Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010 ngày càng có xu hướng giảm đi và rất thấp so
với công nghiệp và dịch vụ. Nguyên nhân là do diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi chuyển đổi sang các hoạt động nông nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên điều này
cũng một phần cho thấy hiệu quả của sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội chưa cao.
Giai đoạn 2010 - 2013, kinh tế Hà Nội tiếp tục phải đối mặt với khá nhiều
khó khăn như giá cả nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào tăng; lạm phát, lãi suất ngân
hàng ở mức cao; sản xuất kinh doanh đình trệ; tình hình thời tiết có nhiều bất lợi
đối với sản xuất nông nghiệp; kinh tế thế giới có nhiều biến động… song Hà Nội
vẫn giữ mức tăng trưởng tương đối cao, gấp 1,5 lần so với mức tăng chung của
cả nước.
73
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2011-2013 và
đóng góp của các ngành vào mức tăng trưởng chung
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
10,1
8,1
8,2
1. Tốc độ tăng trưởng chung
10,8
9,3
9,4
- Dịch vụ
10,2
7,7
7,5
- Công nghiệp - xây dựng
4,4
0,4
2,4
- Nông, lâm, thuỷ sản
2. Đóng góp cho tăng trưởng
5,5
4,08
4,1
- Dịch vụ
4,3
4,0
4,0
- Công nghiệp - xây dựng
0,3
0,02
0,15
- Nông, lâm, thuỷ sản
Nguồn: Cục Thống kê Hà Nội [20]
Như vậy, theo biểu 3.3 ở giai đoạn 2011 – 2013 tốc độ tăng trưởng của
ngành nông nghiệp đã có những dấu hiệu tích cực hơn giai đoạn 2006 -2010, tuy
nhiên đóng góp vào mức tăng trưởng chung của kinh tế Hà Nội của ngành nông
nghiệp vẫn ở mức thấp (0,15% năm 2013).
Tính đến hết tháng 12 năm 2013, giá trị tổng sản phẩm nội địa của Hà Nội
là 94.723 tỷ đồng, trong đó giá trị của ngành dịch vụ là 49.496 tỷ đồng, ngành
công nghiệp - xây dựng là 40.347 tỷ đồng, ngành nông, lâm, thủy sản là 4880 tỷ
đồng.
Cơ cấu kinh tế theo ngành của Hà Nội có sự dịch chuyển khá nhanh theo
hướng tích cực khi tỷ trọng ngành nông nghiệp chỉ còn 6,5% năm 2008. Khu
vực dịch vụ có tỷ trọng là 52,4% trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố
năm 2008 và là ngành có tỷ trọng cao nhất. Hà Nội là một trong số ít địa phương
có tỷ trọng dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp.
74
* Đặc điểm xã hội
Tính đến năm 2012, quy mô dân số Hà Nội là 6844,1 triệu người, với mật
độ dân số là 2059 người/km2, đứng thứ hai cả nước, chỉ sau thành phố Hồ Chí
Minh với mật độ dân số là 3666 người/km2.
Theo Báo cáo kết quả thực hiện thu thập thông tin cung, cầu lao động trên
địa bàn thành phố năm 2012, tổng số dân từ đủ 10 tuổi trở lên là 4.148.706
người. Trong đó: thành thị có 3.388.209 người chiếm tỷ lệ 81,67%, nông thôn có
760.497 người chiếm tỷ lệ 18,33%.
Dân số trong độ tuổi làm việc: 3.316.360 người, chiếm tỷ lệ 79,94% tổng
dân số từ đủ 10 tuổi trở lên. Trong đó: nam có 1.643.512 người, chiếm 49,56%;
nữ có 1.672.848 người, chiếm 50,44%; thành thị có 2.698.252 người, chiếm
81,36%; nông thôn có 618.108 người, chiếm 18,64%.
Lao động Hà Nội tuy dồi dào song tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010
mới đạt 35%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 25,4%, chất lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phân bố không đều, tập trung ở vùng đô
thị, các quận nội thành. Lao động Hà Nội còn có tâm lý kén chọn việc làm và
thu nhập rất nặng nề. Tỷ trọng việc làm bền vững tăng chậm, việc làm không ổn
định, việc làm tạm thời còn khá cao, chiếm khoảng 45% kết quả giải quyết việc
làm hàng năm.
Tính đến năm 2012, lực lượng lao động: 2.693.330 người, chiếm tỷ lệ
69,39% lao động từ đủ 15 tuổi trở lên, trong đó: nam có 1.463.902 người, chiếm
54,35%; nữ có 1.229.428 người, chiếm 45,65%; thành thị có 2.189.065 người,
chiếm 81,28%; nông thôn có 504.265 người, chiếm 18,72% trong tổng số
504.265 người lao động nông thôn thì phần chủ yếu chính là lao động nông
nghiệp. [51]
* Hà Nội trong tổng thể cả nước, so sánh với các đô thị lớn, các thủ đô
Hà Nội chỉ chiếm 7,4% về dân số và 1% diện tích nhưng đóng góp
khoảng 12,1% GDP cả nước, 12,6% GTSX công nghiệp, 11,1% kim ngạch xuất
75
khẩu, 16,9% thu ngân sách quốc gia, thu hút 16,2% vốn đầu tư xã hội so với cả
nước (năm 2008).
So với Thành phố Hồ Chí Minh - đô thị lớn nhất cả nước, Hà Nội có diện
tích lớn hơn (bằng 159,8%), dân số chênh lệch không nhiều (bằng 93,2%) tuy
nhiên quy mô GDP của Hà Nội chỉ bằng 61,5% Thành phố Hồ Chí Minh. GDP
bình quân đầu người bằng 65,9%, thu ngân sách bằng 55,9%, kim ngạch xuất
khẩu bằng 31,1%, giá trị sản xuất công nghiệp bằng 48,3%, thu hút vốn đầu tư
bằng 81,9% (năm 2008).
3.2. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội tới
việc làm cho lao động nông nghiệp
3.2.1. Đặc điểm của quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội có tác
động tới việc làm cho lao động nông nghiệp
Hà Nội có một số đặc điểm riêng biệt trong xây dựng nông thôn mới so
với những tỉnh khác. Những đặc điểm này có những ảnh hưởng tiêu cực và tích
cực đến quá trình xây dựng nông thôn mới cũng như tạo việc làm cho lao động
nông nghiệp của Hà Nội. Do sự khác biệt này mà trong bộ tiêu chí nông thôn
mới, Hà Nội có rất nhiều chỉ tiêu được yêu cầu ở mức cao hơn so với những tiêu
chí chung của cả nước trong đó có tiêu chí giải quyết việc làm và đào tạo nghề
cho lao động nông thôn (chủ yếu là lao động nông nghiệp)
* Mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Đây là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết là hệ thống giao
thông, thuỷ lợi, hệ thống thông tin và năng lượng; hệ thống giao thông thuận lợi
sẽ giảm chi phí vận tải, thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hoá với các vùng
khác từ đó hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá và phát triển các
ngành nghề phi nông nghiệp. Hệ thống điện, thông tin giúp cho người dân có
khả năng trang bị máy móc kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
thuận lợi trong việc tiếp thu những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật, trình độ
dân trí được nâng cao. Hệ thống trường học, bệnh viện có vai trò quan trọng
76
trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và đào tạo nhân lực. Vì vậy, hệ
thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tác động một cách tổng hợp tới quá trình phát
triển kinh tế xã hội và mức sống của người dân nông thôn trong đó có lao động
nông nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn Hà Nội phát triển hơn
nhiều địa phương khác trên cả nước. Năm 2007, Hà Nội đã có 63,5% đường
giao thông nông thôn được kiên cố hoá, trong đó nhiều xã đã thực hiện kiên cố
hoá 100% đường làng, ngõ xóm. Năm 2009 đã có trên 80% số trường, lớp học
được xây dựng kiên cố hóa; trong đó có 19% đạt chuẩn quốc gia. Có 90% trạm y
tế được xây dựng kiên cố trong đó có 76% đạt chuẩn quốc gia. Hệ thống thuỷ
lợi, đê điều được quan tâm đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ tưới tiêu và
phòng chống lụt bão. Công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm dân cư,
xử lý rác thải, vệ sinh môi trường có nhiều tiến bộ đã từng bước tạo dựng lên bộ
mặt nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại.
Để tăng nguồn kinh phí đầu tư cho giao thông nông thôn, thành phố Hà
Nội đã cho các quận, huyện thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất và được giữ lại
tỷ lệ thích đáng để tái đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật và phát triển kinh tế trong
đó đã giành tỷ lệ lớn cho giao thông nông thôn đến nay tỷ lệ đường giao thông
nông thôn được cứng hóa đạt khoảng 80%. Đây là điều kiện rất thuận lợi để cho
lao động nông nghiệp chuyển dịch sang lao động kinh doanh dịch vụ và tiểu thủ
công nghiệp
Hệ thống thủy lợi được đầu tư, tính đến năm 2009 đã cứng hóa được
100% kênh mương loại 1; 65% kênh loại 2 và 40% kênh loại 3, đảm bảo việc
tiêu thoát nước phục vụ cho nông nghiệp của Hà Nội từng bước phát triển.
Thành phố đã ban hành quyết định số 2863/QĐ-UBND phê duyệt Chương
trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2009-2020, theo đó nguồn kinh phí dự kiến đầu tư cho Chương trình là
4.949 tỷ đồng. Hiện nay các huyện đang khẩn trương triển khai các dự án trong
chương trình phấn đấu đến năm 2020 đảm bảo 100% số hộ nông thôn được sử
77
dụng nước hợp vệ sinh và 80% số hộ dân được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn
quy định của bộ y tế.
Hệ thống điện nông thôn đã được cải tạo, nâng cấp theo đề án điện nông
thôn, 100% số thôn, xã và toàn bộ các hộ có điện sử dụng đáp ứng nhu cầu sản
xuất và sinh hoạt, triển khai bàn giao cho ngành điện quản lý và bán trực tiếp
cho hộ nông dân.
Hệ thống chợ, các trung tâm thương mại được đầu tư nâng cấp theo
hướng văn minh, hiện đại tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa phát triển. Hiện
nay có 100% số xã có chợ và chợ xây dựng kiên cố đây là những đầu mối phục
vụ nhu cầu buôn bán và lưu chuyển hàng hóa nông sản. Việc phát triển hệ thống
chợ nông thôn đã giải quyết được số lao động nông nghiệp dôi dư với trình độ
thấp không có khả năng học tập để chuyển đổi nghề nghiệp vào làm việc tại các
doanh nghiệp và khu công nghiệp. [58]
* Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của người lao động.
Con người với tư cách là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi hoạt động lao
động, vì vậy, chất lượng của nguồn lao động quyết định hiệu quả của hoạt động
lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay, con người
được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực cho phát triển. Do đó, trình độ văn
hoá, trình độ khoa học kỹ thuật của người lao động có ảnh hưởng quyết định đến
phát triển kinh tế. Điều đó đòi hỏi không ngừng đào tạo, tập huấn cho nông dân,
phát triển mạnh giáo dục ở các vùng nông thôn để hình thành một lực lượng lao
động có chất lượng ngày càng cao.
Hà Nội là địa phương có trình độ dân trí tương đối chênh lệch giữa các
huyện trên địa bàn. Những vùng gần trung tâm như huyện Từ Liêm, Thanh Trì
tỷ lệ lao động học hết cấp 3 cao hơn nhiều so với những vùng xa trung tâm như
Phúc Thọ, Ba Vì… Điều này đòi hỏi phải có những chính sách, cách tiếp cận
riêng biệt với từng vùng.
78
* Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quan trọng để tạo việc làm và
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn
mới.
Để phát triển kinh tế phải có nguồn vốn đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất
và làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Với trình độ
phát triển kinh tế ở nông thôn hiện nay, hầu hết các hộ nông dân đều thiếu vốn
sản xuất. Với các hộ gia đình trẻ mới tách hộ thì tình trạng thiếu vốn càng trầm
trọng. Do vậy, để tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp thì
cần phải giúp đỡ người nông dân có khả năng huy động mọi nguồn vốn vào sản
xuất, đồng thời mở lớp tập huấn cho người nông dân nâng cao khả năng quản lý
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nhà
nước cũng cần cung cấp vốn cho lao động nông nghiệp qua nhiều hình thức để
mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng thu nhập.
Hà Nội là Thủ đô của cả nước, việc xây dựng nông thôn mới là trọng tâm
của thành phố do đó việc đầu tư rất được chú trọng:
Tổng vốn đầu tư năm 2011 của thành phố Hà Nội cho chương trình xây
dựng nông thôn mới: 2.775,996 tỷ đồng. Trong đó:
- Vốn ngân sách và có nguồn gốc ngân sách 1.865,479 tỷ đồng, (chiếm
67,20%).
- Vốn doanh nghiệp 216,108 tỷ đồng, (chiếm 7,78%).
- Vốn nhân dân đóng góp 227,166 tỷ đồng, (chiếm 8,18%).
- Vốn xã hội hóa 41,249 tỷ đồng, (chiếm 1,49%).
- Các nguồn khác 425,995 tỷ đồng, (chiếm 15,35%).
* Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của từng địa phương, từng
dân tộc tác động tới kết quả của quá trình xây dựng nông thôn mới, tới việc giải
quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp.
Mỗi địa phương có những phong tục tập quán riêng, có truyền thống văn
hoá riêng. Mỗi dân tộc cũng có những truyền thống, những phong tục tập quán
79
riêng. Có những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp có ảnh hưởng tích cực
đến sự phát triển kinh tế xã hội và ngược lại cũng có những phong tục tập quán,
lạc hậu trở thành vật cản cho sự tiến bộ xã hội. Truyền thống giúp đỡ nhau trong
đời sống hàng ngày, trong làm ăn kinh tế, trong khuyến học... là những truyền
thống tốt đẹp. Có những làng xã người dân xây dựng thành các nhóm, hội kinh
doanh rất hiệu quả, có làng khuyến khích người dân làm kinh tế và báo cáo kết
quả trong ngày hội làng... đã có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển và thu nhập
của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, những hủ tục như ma chay
cưới xin linh đình, các tệ nạn mê tín dị đoan, thói quen sống và làm việc mang
tính tự nhiên không tính toán... là lực cản lớn cho sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, các
giải pháp giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn cần
xem xét kỹ đến các yếu tố về phong tục tập quán của mỗi vùng, mỗi địa phương,
mỗi dân tộc, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
Hà Nội sau khi mở rộng bao gồm rất nhiều làng nghề, làng cổ với nền văn
hóa phong phú và nhiều tập tục khác nhau. Vì vậy, yêu cầu quan trọng là phải
nắm rõ được những phong tục tập quán trong việc xây dựng phương hướng phát
triển của từng địa phương.
* Tiến bộ khoa học kỹ thuật
Hà Nội là địa phương có sự đầu tư lớn cho nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ. Từ năm 2008 – 2013 các chương trình khoa học và công
nghệ cấp Thành phố đã triển khai 540 đề tài, dự án nghiên cứu. Trong đó, các đề
tài dự án trực tiếp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn là 89
đề tài. Tỷ lệ ứng dụng kết quả vào thực tiễn của các đề tài khoảng 70% và dự án
là 100%. Kết quả các đề tài, dự án này đã được áp dụng trực tiếp vào thực tiễn
của đơn vị nghiên cứu với các mức độ và quy mô khác nhau, đem lại hiệu quả
tốt trong các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh. Sản phẩm của các công trình
nghiên cứu khoa học gồm: Sản phẩm mới, các quy trình công nghệ mới và các
thiết bị, máy móc (thiết kế, cải tiến, chế tạo mới), mô hình mới và kỹ thuật mới
trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, kỹ thuật mới trong điều trị ngành y tế, hệ
80
thống các tiêu chuẩn mới, phương pháp mới, giải pháp mới trong các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, đã góp phần thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ và
năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực quản lý
của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Thành phố.
Các đề tài trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân tập trung
chủ yếu vào các hướng ứng dụng công nghệ mới, sản phẩm mới, xây dựng mô
hình quản lý mới góp phần nâng cao năng lực sản suất, tạo ra sản phẩm có năng
suất cao, chất lượng tốt, giá thành hợp lý đáp ứng yêu cầu thực tế. Từ các kết
quả nghiên cứu khoa học đã hình thành các quy trình công nghệ và xây dựng các
giải pháp kỹ thuật mới, một số giống cây ăn quả đặc sản, giống lúa lai năng suất
cao cho vùng ngoại thành. Triển khai thực nghiệm mô hình đồng bộ: sản xuất
rau an toàn; phòng chống dịch bệnh tổng hợp trong chăn nuôi bò thịt, bò sữa
chất lượng, hiệu quả và an toàn dịch bệnh. Nhiều giải pháp về cơ chế chính sách
được đề xuất đưa vào áp dụng trong thực tiễn cùng với các giải pháp kỹ thuật,
các biện pháp kinh tế khác đã cho hiệu quả kinh tế - xã hội cao, giúp các nông
hộ, trang trại, doanh nghiệp phát huy tiềm năng về giống, đất đai và những lợi
thế của các tiểu vùng sinh thái; quản lý và khai thác hợp lý tài nguyên đất và
nước. Cùng với xu thế phát triển của khoa học và công nghệ trong lộ trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phong trào phát huy, cải
tiến sáng kiến kỹ thuật, ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp
phát triển mạnh mẽ. Nhiều giải pháp kỹ thuật hữu ích, nhiều công nghệ mới đã
được chuyển giao, ứng dụng đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn các
quận, huyện trên toàn Thành phố.
Cụ thể như sau:
* Trong lĩnh vực trồng trọt bảo vệ thực vật: Đã triển khai 09 đề tài nghiên
cứu, thực hiện 04 dự án sản xuất thử nghiệm cấp thành phố về lĩnh vực trồng
trọt - bảo vệ thực vật với tổng số kinh phí sự nghiệp KH&CN là 9,8 tỷ đồng và
từ nguồn khác là 13,5 tỷ đồng. Các đề tài như: nghiên cứu đánh giá mức độ ảnh
hưởng của kim loại nặng trong đất, nước đến sự tích luỹ của chúng trong một số
81
loại rau tại Hà Nội; nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp kỹ thuật, tổ chức sản
xuất và thị trường để phát triển sản xuất rau mầm ở Hà Nội; xác định một số
giống đậu xanh phù hợp trồng gối ngô xuân trên đất bồi ven sông của Hà Nội;
Hoàn thiện quy trình gieo thẳng lúa theo hàng bằng dụng cụ kéo tay trên các
chân đất và mùa vụ khác nhau ở địa bàn Hà Nội;…đều là những đề tài có ý
nghĩa thực tiễn lớn góp phần phát triển và nâng cao hiệu quả, chất lượng trồng
trọt nông sản, hoa màu.
* Trong lĩnh vực chăn nuôi – thú y: đã triển khai 06 đề tài nghiên cứu cấp
thành phố về lĩnh vực chăn nuôi thú y với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là
26 tỷ đồng và từ nguồn khác là 2,3 tỷ đồng.
* Trong lĩnh vực lâm nghiệp: đã triển khai 02 đề tài nghiên cứu cấp thành
phố về lĩnh vực lâm nghiệp với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 1,3 tỷ đồng
và từ nguồn khác là 0,2 tỷ đồng.
* Trong lĩnh vực thủy sản: đã triển khai 03 đề tài nghiên cứu cấp thành
phố về lĩnh vực thủy sản với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 1,2 tỷ đồng.
* Trong lĩnh vực cơ điện, bảo quản chế biến nông sản sau thu hoạch: đã
triển khai 05 đề tài dự án nghiên cứu cấp thành phố về cơ điện chế biến, bảo
quản nông sản sau thu hoạch với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 5,4 tỷ
đồng và từ nguồn khác là 5,1 tỷ đồng.
* Về thủy lợi: đã triển khai 02 đề tài nghiên cứu cấp thành phố về lĩnh vực
thủy sản với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 2,8 tỷ đồng.
* Về bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp nông thôn: đã triển
khai 07 đề tài nghiên cứu cấp thành phố về bảo vệ môi trường trong sản xuất
nông nghiệp và nông thôn với tổng kinh phí sự nghiệp KH&CN là 5,95 tỷ đồng
và từ nguồn khác là 440 triệu đồng.
* Về xây dựng chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn: đã
triển khai 02 đề tài nghiên cứu cấp thành phố với tổng kinh phí sự nghiệp
KH&CN là 0,88 tỷ đồng.
82
* Về các chương trình nghiên cứu về công nghệ sinh học trong lĩnh vực
nông nghiệp: đã triển khai 07 đề tài nghiên cứu cấp thành phố với tổng kinh phí
sự nghiệp KH&CN là 3,9 tỷ đồng và từ nguồn khác là 50 triệu đồng.
* Về xây dựng phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao/ vùng nông
nghiệp công nghệ cao: khu công nghệ cao sinh học Hà Nội (HABIOTECH) đã
được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương. Đề án thành lập đã được gửi lên
Bộ KH&CN được thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
Thành phố đang quy hoạch khu nông nghiệp công nghệ cao tại xã Song Phương,
Vân Côn, An Thịnh thuộc huyện Đan Phượng, nghiên cứu quy hoạch xây dựng
2 trung tâm: Xúc tiến thương mại nông nghiệp và trung tâm Ứng dụng nông
nghiệp công nghệ cao với tổng diện tích khoảng 70ha tại xã Yên Nghĩa quận Hà
Đông.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: được sự quan tâm chỉ đạo của UBND
Thành phố Hà Nội, các kết quả nghiên cứu KH&CN đã tập trung giải quyết các
nhiệm vụ bức thiết sản xuất ứng dụng công nghệ mới trong phát triển nông
nghiệp đô thị sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, hiện đại, giá trị gia tăng lớn,
đạt yêu cầu hiệu quả - chất lượng – sạch, theo hướng phục vụ cho đô thị, du lịch
và khu công nghiệp. Theo đó, trình độ lao động nông nghiệp được nâng cao đặc
biệt là ở các vùng chuyên canh như trồng hoa, nuôi trồng thủy sản…
3.2.2. Tác động của quá trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) xác
định quan điểm chỉ đạo là: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
là cơ sở và lực lượng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững, gìn
giữ ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Nông dân là chủ
thể của quá trình phát triển; xây dựng nông thôn mới là căn bản, phát triển toàn
diện, hiện đại hóa nông nghiệp là khâu then chốt”.
83
Thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của
Chính phủ, Hà Nội đã ban hành Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND ngày 21/4/2010
của Hội đồng nhân dân Thành phố về xây dựng nông thôn mới thành phố Hà
Nội giai đoạn 2010-2020, định hướng 2030 và Chương trình số 02-CTr/TU ngày
29/8/2011 của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn 2011-2015 với mục
tiêu: “Xây dựng nông thôn mới Thủ đô Hà Nội có kinh tế phát triển toàn diện,
bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội nông thôn được bảo đảm, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Thủ đô
văn minh, hiện đại.”
Chương trình xây dựng Nông thôn mới ở Hà Nội tất yếu sẽ làm chuyển
dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động nông nghiệp theo hướng tích cực, hiện
đại; nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế nông nghiệp, góp phần giải quyết
việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp.
Xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội là quá trình gắn liền với việc
thực hiện 5 nhóm tiêu chí trong bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trong 3
năm xây dựng nông thôn mới (2010 – 2013), nông thôn Hà Nội đã có nhiều thay
đổi và những lao động nông nghiệp cũng chịu tác động từ các thay đổi này.
Trong đó, ảnh hưởng lớn nhất là các nhóm tiêu chí về quy hoạch, hạ tầng kinh tế
- xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất.
Do việc thực hiện xây dựng nông thôn mới, nhiều công trình và đường
giao thông được hoàn thành, hiện đại hóa. Các vùng nông thôn Hà Nội diễn ra
quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, kéo theo đó là hàng loạt ngành nghề dịch vụ được
mở rộng phát triển. Quá trình này tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho lao
động nông nghiệp. Điều này có thể thấy rõ ở một địa phương có tốc độ xây dựng
nông thôn mới như huyện Từ Liêm (đã có 12/19 xã được công nhận là xã đạt
chuẩn nông thôn mới) (Hình 3.1):
Đơn vị tính: người
84
Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm 2010 – 2013 [9-11]
Hình 3.1. Số cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ huyện
Từ Liêm từ năm 2010 đến năm 2013
Có thể thấy số lượng các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ huyện
Từ Liêm tăng nhanh khi thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới [10]. Điều
này cũng kéo theo một lượng lao động nông nghiệp không nhỏ chuyển hẳn sang
thành lao động dịch vụ hoặc vừa tham gia sản xuất nông nghiệp vừa tham gia
hoạt động dịch vụ. Số việc làm mới được tạo ra cho người lao động nông thôn
trong quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới được tăng gấp nhiều lần
so với số lao động nông nghiệp bị mất việc làm do bị thu hồi hết đất sản xuất
nông nghiệp (Hình 3.2).
Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm 2010 – 2013 [10, 11]
Đơn vị tính: người
Hình 3.2. Số lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện Từ
Liêm các năm 2010 đến 2013
85
Từ hình 3.2, số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đã tăng
rất nhanh từ 22.379 lao động năm 2010 thành 54.700 lao động năm 2013 (gấp
gần 2,5 lần). Một phần không nhỏ là do số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất
đã chuyển sang hoạt động dịch vụ khi có các cơ sở dịch vụ và đường xá được
mở rộng. Cụ thể ở một huyện có tốc độ xây dựng nông thôn mới nhanh như
huyện Từ Liêm, trong năm 2011 đã có 1888 lao động nông nghiệp bị mất việc
làm do thu hồi đất. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất của huyện Từ Liêm từ
năm 2010 đến 2013 được thể hiện ở biểu đồ ở hình 3.3
Đơn vị: ha
Nguồn: Tổng hợp Niêm giám thống kê huyện Từ Liêm 2010, 2013 [9, 11]
Hình 3.3. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất ở Huyện Từ Liêm
Như đã nói, sự thay đổi trên là do những tác động quá trình xây dựng
nông thôn mới. Vì vậy, trên địa bàn Hà Nội, những thay đổi là rất khác nhau
giữa các địa phương do quá trình xây dựng nông thôn mới là không đều. Để làm
rõ vấn đề này, tác giả lựa chọn huyện Phúc Thọ và Ba Vì để so sánh. Tính đến
hết năm 2013, Phúc Thọ và Ba Vì chưa có một xã nào được công nhận đạt
chuẩn nông thôn mới. Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Phúc Thọ diễn ra
chậm vì vậy không tạo ra nhiều chuyển biến cho quá trình giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp. Các công trình hạ tầng được triển khai xây dựng
86
chậm vì vậy không tạo điều kiện cho người lao động tham gia vào hoạt động sản
xuất dịch vụ (hình 3.4). Điều này thể hiện qua số lượng lao động hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ tăng không đáng kể từ năm 2010 đến năm 2013 ở huyện
Phúc Thọ. Nguyên nhân của sự khác nhau này bắt nguồn từ xuất phát điểm xây
dựng nông thôn mới. Trong khi Phúc Thọ là một huyện thuần nông với kinh tế
chậm phát triển thì năm 2008 khi bắt đầu xây dựng nông thôn mới Từ Liêm đã
là một huyện phát triển rất mạnh về nhiều mặt, cùng với những thuận lợi về vị
trí địa lý đã làm cho kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới là
rất khác nhau.
Sự khác nhau này là đặc điểm cần xét đến khi đề ra những phương án giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Đòi hỏi mỗi địa phương cần có những
biện pháp và cách áp dụng riêng biệt phù hợp với tình hình của mỗi địa phương.
Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê huyện Phúc Thọ 2010 – 2013 [19]
Đơn vị tính: người
Hình 3.4. Số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ở huyện
Phúc Thọ qua các năm
Tổng quát hơn, chênh lệch về kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng
nông thôn mới là nguyên nhân tạo ra những khác biệt về cơ cấu kinh tế giữa các
huyện trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Sự khác nhau
87
về cơ cấu kinh tế có thể được thấy rõ khi so sánh giữa Huyện Từ Liêm và Ba Vì
(Hình 3.5)
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm và Ba Vì, 2011 [19]
Hình 3.5. So sánh cơ cấu kinh tế giữa huyện Ba Vì và huyện
Từ Liêm năm 2011
Qua đó có thể thấy ở huyện xây dựng nông thôn mới nhanh như Từ Liêm,
tỷ trọng nông nghiệp rất thấp (1,2%) trong khi tỷ lệ này ở Ba Vì là 43,7%. Việc
cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ
đòi hỏi người lao động có trình độ, được đào tạo nhiều hơn. Sự khác nhau về cơ
cấu kinh tế cũng dẫn đến sự khác nhau tương ứng về cơ cấu lao động ở các
huyện, trong khi ở những huyện công nghiệp hóa ít như Ba Vì phần lớn lực
lượng lao động là lao động nông nghiệp (87%) thì ở huyện Từ Liêm lao động
chủ yếu lại là công nghiệp (57%) và dịch vụ (40,1%) (Hình 3.6).
88
Đơn vị tính: %
Nguồn: Sở lao động thương binh và xã hội thành phố Hà Nội [51]
Hình 3.6. So sánh cơ cấu lao động giữa huyện Ba Vì
và huyện Từ Liêm
Hình 3.6 không chỉ cho thấy sự khác nhau giữa số lượng lao động giữa
các ngành ở hai huyện mà còn cho thấy một phần sự khác nhau về trình độ lao
động. Trong khi lao động ở huyện Từ Liêm có hoạt động tập trung ở ngành công
nghiệp và dịch vụ đòi hỏi trình độ tay nghề cao, kỷ luật tốt hơn thì lao động ở
huyện Ba Vì tập trung chủ yếu ở lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, trình độ
còn thấp. Trong khi ở huyện Từ Liêm tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là khá cao
(bằng 0,75 lần số lao động chưa qua đào tạo) thì ở Ba Vì số lượng lao động chưa
qua đào tạo gấp gần 6 lần số lao động đã qua đào tạo (Hình 3.7).
Đơn vị tính: người
Nguồn: Phân tích kết quả điều tra tại huyện Ba Vì và Từ Liêm [51]
Hình 3.7. So sánh về trình độ lao động giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì
năm 2011
89
Cũng do chênh lệch về trình độ lao động mà thu nhập bình quân của lao
động nông nghiệp ở các huyện là rất khác nhau. Do được, đào tạo và áp dụng
những công nghệ cao, thu nhập của người lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm
đạt 39,4 triệu đồng/người/năm trong khi đó lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì
chỉ có thu nhập 17,5 triệu đồng/người/năm (hình 3.8). Một phần nguyên nhân
của sự khác nhau này là do ở huyện Từ Liêm đã có sự chuyển đổi giống cây
trồng, chuyển từ trồng lúa sang các cây có giá trị kinh tế cao, tạo ra các vùng
chuyên canh như vùng hoa Tây Tựu, vùng bưởi Diễn. Đó cũng là một trong
những tiêu chí của nông thôn mới được thực hiện hướng tới nền nông nghiệp
hiện đại của thủ đô Hà Nội.
Đơn vị tính: Triệu đồng/ người/ năm
Nguồn: Phân tích kết quả điều tra huyện Ba Vì và Từ Liêm [51]
Hình 3.8. So sánh thu nhập của lao động nông nghiệp giữa huyện Từ
Liêm và Ba Vì
Sự khác nhau này gây ra một vấn đề khó khăn trong giải quyết việc làm ở
thành phố Hà Nội, đó là các chính sách do thành phố đề ra chưa thật sự phù hợp
với tất cả các huyện trên địa bàn, do đó kết quả của các chính sách này không
được như mong đợi.
90
Như vậy, tác động của xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội đến lao động
nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng là rất đa dạng, không chỉ thuần túy
ở số lượng việc làm hay thu nhập mà còn tới trình độ lao động, không chỉ về giải
quyết việc làm trước mắt mà còn là sự phát triển bền vững của ngành nông
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội nói chung.
Có thể tổng kết một số tác động chính của việc xây dựng nông thôn mới
ở Thủ đô Hà Nội tới lao động nông nghiệp như sau:
* Xây dựng nông thôn mới tạo thêm nhiều việc làm trong khu vực phi
chính thức phù hợp với lao động nông thôn.
Thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới sẽ phát triển đồng bộ kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nâng cao thu nhập và các nhu cầu vật chất, tinh thần của dân cư nông nghiệp,
nông thôn, kéo theo sự phát triển đa dạng về việc làm và các loại hình ngành
nghề trong các thành phần kinh tế, hình thành khu vực kinh tế phi chính thức,
những hoạt động kinh tế như các dịch vụ buôn bán nhỏ tại nhà, xây dựng, sửa
chữa và vận chuyển hàng hóa nhỏ lẻ, giúp việc gia đình, lao động tự do. Sự phát
triển của khu vực kinh tế phi chính thức tạo ra việc làm tạm thời, góp phần giải
quyết việc làm cho một lực lượng không nhỏ lao động nông thôn là những lao
động phổ thông, giản đơn, lao động dôi dư trong nông nghiệp, lao động thuộc
diện thu hồi đất,...
* Xây dựng nông thôn mới thúc đẩy mở rộng không gian đô thị, cải tạo,
xây dựng phát triển hệ thống cơ sở kết cấu hạ tầng, tạo ra nhiều việc làm cho lao
động ở nông thôn và cơ hội cho lao động nông nghiệp chuyển dịch sang các
ngành nghề khác.
Một trong những nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới Hà Nội là đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ hiện đại, gắn với
phát triển đô thị như: Đường giao thông nông thôn, hệ thống thủy lợi, mạng lưới
điện nông thôn, hệ thống trường học, cơ sở vật chất văn hóa, hệ thống chợ nông
91
thôn. Theo đó, nhiều việc làm trong lĩnh vực xây dựng và dịch vụ mới được tạo
ra như: xây dựng hệ thống cầu, đường, nhà cửa, trường học, bệnh viện, trạm y
tế, công viên,... đặt ra nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
trong lĩnh vực xây dựng, kiến trúc. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều việc làm tạm
thời mà những lao động nông nghiệp lớn tuổi, trình độ thấp có khả năng đáp
ứng, góp phần đáng kể tạo điều kiện thuận lợi giải quyết việc làm cho lao động
tăng thêm.
* Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp với sự phát triển mạnh mẽ công
nghiệp chế biến cùng các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp và phát triển nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao để phát triển kinh tế nông thôn, có
tác dụng thu hút lao động nông nhàn, lao động nông nghiệp chưa có việc làm
vào làm việc thường xuyên hoặc tăng thêm thời gian làm việc cho lao động
nông nghiệp lúc nông nhàn, giải quyết tình trạng lao động thiếu việc làm, từng
bước nâng cao thu thập cho cư dân nông thôn.
* Xây dựng nông thôn mới làm thay đổi cơ cấu việc làm thúc đẩy nâng
cao chất lượng lao động, chất lượng việc làm và năng suất lao động. Quá trình
xây dựng nông thôn mới dẫn đến một lượng lớn đất đai nông nghiệp chuyển
thành đất công nghiệp, đất đô thị và do sự phát triển của sản xuất công nghiệp,
dịch vụ cùng sự tác động của các lĩnh vực này vào nông nghiệp, nông thôn, thúc
đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu
kinh tế công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn cả về giá trị tổng sản lượng và
lao động. Điều đó dẫn đến cơ cấu việc làm sẽ thay đổi theo xu hướng tăng số
lượng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm chỗ làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp; tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật cao, giảm tỷ lệ lao động phổ thông, giản đơn, lao động chưa qua đào tạo;
tăng tỷ lệ lao động trí tuệ, có năng suất và thu nhập cao, giảm tỷ lệ lao động cơ
bắp có năng suất và thu nhập thấp.
92
* Sự thay đổi cơ cấu việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới
làm cho thị trường lao động nông nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tiến trình xây
dựng nông thôn mới ngày càng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm ngày càng
lớn. Sự gia tăng cung – cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng động là
những điều kiện thuận lợi cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt động tư vấn,
giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin thị trường lao
động. Vì vậy, lao động nông nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ
việc làm hiện đại, thực hiện các giao dịch trên thị trường lao động.
* Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới cũng mang lại sức ép rất
lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp Hà Nội.
- Quá trình dồn điền đổi thửa đòi hỏi chuyển đổi một bộ phận lớn đất
nông nghiệp thành đất công nghiệp, đồng thời đẩy nhanh quá trình đô thị hóa
làm thu hẹp số lượng đất đai nông nghiệp, khiến cho một bộ phận ngày càng lớn
lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.[58]
- Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn làm một bộ
phận lao động nông nghiệp không đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp và
phát triển kinh tế nông thôn mới theo yêu cầu hiện đại về trình độ chuyên môn,
kỹ năng lao động. Bộ phận lao động nông nghiệp này phần lớn đã lớn tuổi hoặc
trình độ học vấn thấp không còn cơ hội đào tạo nâng cao trình độ và không còn
phù hợp với yêu cầu đổi mới của doanh nghiệp, của nền kinh tế, khả năng
chuyển đổi nghề nghiệp của họ rất hạn chế [53]. Đây là vấn đề kinh tế - xã hội
khá phổ biến trong quá trình xây dựng nông thôn mới, tạo sức ép về việc làm đối
với lao động nông nghiệp, nông thôn dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.
- Xây dựng nông thôn mới làm tăng lượng lao động nhập cư ngày càng
cao gây sức ép lớn về việc làm và sự quá tải về kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục,...
ở các khu đô thị.
Quá trình xây dựng nông thôn mới đang tạo ra những cơ hội và thách thức
về lao động và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Hà Nội, nhất là
những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất. Do vậy, cần xây dựng chiến lược,
quy hoạch về an toàn việc làm cho người lao động nông nghiệp dôi dư trước
mắt. Mặt khác Hà Nội cần phải có chính sách vĩ mô mang tầm chiến lược về
93
phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của
quá trình xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố
Hà Nội.
Để giải quyết có hiệu quả việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng cung về sức lao
động, tăng cầu lao động, phát triển thị trường lao động, có sự phối hợp chặt chẽ
giữa Nhà nước với người sử dụng lao động và người sử dụng lao động trong giải
quyết việc làm.
3.3. Thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội
3.3.1. Quá trình xây dựng nông thôn mới ảnh hưởng đến việc làm và
giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp mà trước hết là phát triển sản
xuất nông nghiệp
Trong ba năm qua, mặc dù sản xuất nông nghiệp đã gặp nhiều khó khăn,
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế, giá cả đầu vào sản xuất liên
tục tăng cao, dịch bệnh, nhập lậu gia súc gia cầm diễn biến hết sức phức tạp, đã
ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sản xuất. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao
của Thành ủy, điều hành của UBND Thành phố, sự cố gắng nỗ lực của các cấp,
các ngành và nhân dân, nên sản xuất nông nghiệp năm 2013 vẫn đạt tăng trưởng
khá. Cụ thể, theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triên Nông thôn Hà Nội
về kết quả sản xuất nông nghiệp Hà Nội năm 2013:
Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2013 ước đạt 9.034,5 tỷ đồng (giá
cố định), tăng 8,85% so với năm 2011 (8.300 tỷ đồng) và ước đạt 38.000 tỷ
đồng (giá thực tế), tăng 26% so với năm 2011 (30.800 tỷ đồng). Giá trị sản xuất
nông, lâm, thủy sản (giá thực tế) đạt 212,4 triệu đồng/ha, tăng hơn 22 triệu
đồng/ha so với năm 2011 (188,4 triệu đồng/ha). Cơ cấu giá trị sản xuất ngành
trồng trọt chiếm 42,4% (giảm 1,62% so với năm 2011); ngành chăn nuôi, thủy
94
sản chiếm 54,4% (tăng 1,65% so với năm 2011); ngành dịch vụ 3,2% (giảm 0,03
so với năm 2011).
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn Thành phố năm 2013 đạt
295.916,5 ha, giảm 16.615,5 ha so với năm 2011 (đạt 312.532 ha); Tổng sản
lượng lương thực cây có hạt đạt 1,28 triệu tấn, giảm 0,01 triệu tấn so với năm
2011 (đạt 1,29 triệu tấn).
Tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2013 là 26,06 triệu con, giảm 0,28 triệu
con so với năm 2011 (26,34 triệu con); tuy nhiên, tổng sản lượng thịt hơi các
loại năm 2013 đạt 384.478 tấn, tăng 19.478 tấn so với năm 2011 (365.000 tấn).
Sản lượng trứng gia cầm năm 2013 đạt 1.005 triệu quả, tăng 421 triệu quả so với
năm 2011 (584 triệu quả). Sản lượng sữa tươi đạt 22.808 tấn, tăng 6.508 tấn so
với năm 2011 (16.300 tấn). Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2013 là 20.800
ha, tăng 300 ha so với năm 2011 (20.500 ha); Sản lượng sản xuất 75.000 tấn,
tăng 6.000 tấn so với năm 2011 (61.000 tấn).
Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư nâng cấp; hệ thống đê điều, công
trình thủy lợi được củng cố đảm bảo phục vụ sản xuất, an toàn phòng chống lụt
bão và khắc phục hậu quả thiên tai; đời sống vật chất và tinh thần của nông dân
được nâng cao, bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới; góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tư an toàn xã hội trên địa bàn.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TƯ (Nghị quyết Trung ương 7 -
Khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn [22], Hà Nội đã tổ chức triển khai
các thế mạnh về sản xuất nông nghiệp từ nhiều cách làm sáng tạo khác nhau,
mang lại diện mạo mới cho nông thôn Thủ đô. Tổng giá trị sản xuất nông lâm
thủy sản năm 2012 của Hà Nội đạt hơn 37.000 tỷ đồng, tăng 84,6% so với năm
2008. Các chương trình, đề án, dự án phát triển sản xuất nông nghiệp đã được
triển khai đem lại hiệu quả rõ rệt, hình thành và mở rộng nhiều vùng sản xuất
hàng hóa giá trị cao.
95
Tính đến năm 2013, Hà Nội đã xây dựng được 34 vùng sản xuất lúa hàng
hóa chất lượng cao tại 11 huyện, quy mô 10.670ha, 71.048 hộ được đào tạo kỹ
thuật và bước đầu hình thành mối liên kết của bốn nhà (quản lý, khoa học, doanh
nghiệp và nông dân) trong sản xuất. Cùng với sự phát triển ở lĩnh vực trồng trọt,
các chương trình phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm và chăn nuôi quy
mô lớn ngoài khu dân cư cũng đã được nông dân tích cực hưởng ứng, mang lại
hiệu quả cao [20].
Với tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng và sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
trong nông thôn đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở khu vực
nông thôn, xu hướng hộ sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm và hộ sản xuất
công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng tăng đặc biệt là ở những khu vực
có sự đô thị hóa lớn như Từ Liêm, Hoài Đức… Năm 2011 số hộ thương mại,
vận tải, dịch vụ chiếm 28,67%; hộ nông lâm, thủy sản chiếm 32,4%, hộ công
nghiệp chiếm 28,67%, còn lại 6,34% là hộ khác [50].
Đặc biệt sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, đã có sự phát triển
cả về chất lượng và số lượng của kinh tế trang trại. Tính tới 1/7/2011, toàn thành
phố Hà Nội có 1124 trang trại, trong đó chia theo 4 loại hình bao gồm: 15 trang
trại trồng trọt (1,33%), 917 trang trại chăn nuôi (81,59%), 156 trang trại thủy sản
(13,88%) và 36 trang trại tổng hợp (3,2%) [54]. Theo số liệu trên ta thấy loại
hình sản xuất của trang trại đang có xu hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng
giảm loại hình trang trại trồng trọt, tăng loại hình trang trại chăn nuôi và trang
trại tổng hợp.
Kinh tế trang trại phát triển đã mang lại hiệu quả rất cao, tổng thu từ sản
xuất hàng hóa và dịch vụ bình quân 1 trang trại đạt 2.705,88 triệu đồng/1 trang
trại. Việc hoạt động sản xuất có hiệu quả của loại hình kinh tế trang trại đã giúp
cho đời sống và thu nhập của người dân ngày càng nâng cao và tạo nhiều việc
làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp. Năm 2011 kinh tế trang trại thu hút 5341
lao động thương xuyên và rất nhiều lao động thời vụ [66].
96
Sự phát triển của mô hình kinh tế trang trại ngày càng đòi hỏi trình độ
quản lý và chuyên môn kỹ thuật của người chủ trang trại cũng như của lao động
của trang trại ngày càng cao.
3.3.2. Cung, cầu về việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở thủ đô
3.3.2.1. Cung lao động hiện tăng với số lượng lớn và có bước tiến mới về
chất lượng
a. Về số lượng:
Trong 2 năm 2006- 2007, dân số Hà Nội tăng gần 212.000 người, số
người trong độ tuổi lao động tăng 133.741 người (Bình quân năm tăng 66.870
người), số lao động tham gia hoạt động kinh tế tăng 68.065 người (bình quân
năm tăng 34.000 người)
Tại đề án xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội cho thấy: Từ 1-8-
2008, do thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-QH về mở rộng địa giới hành chính
Thủ đô Hà Nội, trên cơ sở hợp nhất Thủ đô Hà Nội với tỉnh Hà Tây, huyên Mê
Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã (tỉnh Hoà Bình) dân số Hà Nội tăng nhanh từ
3.556.000 người trước 01-01-2008 lên 6,4 triệu người sau hợp nhất, dân số trong
độ tuổi lao động từ 2.256.000 người lên 4,3 triệu, trong đó số lao động tham gia
hoạt động kinh tế 3,2 triệu người, quy mô cung lao động khoảng 170.000 lao
động/năm tương ứng 5,34% số lao động tham gia hoạt động kinh tế toàn Thành
phố.
Tính đến năm 2012, khu vực nông thôn Hà Nội có trên 2,1 triệu lao động
(trong đó chủ yếu là lao động nông nghiệp), chiếm 58,81% tổng dân số toàn
thành phố, cung ứng cho thị trường lao động một số lượng lao động lớn [64].
Tuy nhiên, do trình độ chuyên môn còn thấp và chưa đồng đều nên tỷ lệ lao
động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn cũng chiếm tỷ lệ cao nhất 37,28%
(xem bảng 3.3).
97
Bảng 3.3: Dân số từ 15 tuổi trở lên và dân số trong độ tuổi lao động có việc làm
Đơn vị: Người
chia theo huyện ở khu vực nông thôn (năm 2012)
Dân số trên 15 tuổi
Lao động có việc làm
STT
Huyện
Chung
Nam
Chung
Nam
Nữ
Nữ
2
3
A
B
1
5
6
4
1
2.144.354 1.050.503 1.093.851 1.344.896
711.078
633.818
Tổng số
2
192.484
95.040
97.444
130.890
68.558
62.332
Huyện Sóc Sơn
3
196.606
95.544
101.062
125.840
65.149
60.691
Huyện Đông Anh
4
126.212
61.313
64.899
77.410
40.706
36.704
Huyện Gia Lâm
5
167.988
82.591
85.397
94.842
50.595
44.247
Huyện Từ Liêm
6
117.089
57.528
59.561
70.467
37.790
32.677
Huyện Thanh Trì
7
122.471
60.147
62.324
77.807
40.568
37.239
Huyện Mê Linh
8
121.976
59.254
62.722
76.589
40.145
36.444
Huyện Phúc Thọ
9
102.059
50.008
52.051
60.596
32.282
28.314
Huyện Đan Phượng
137.779
67.089
70.690
84.758
45.144
39.614
10 Huyện Hoài Đức
127.662
62.947
64.715
82.121
44.049
38.072
11 Huyện Thanh Oai
139.199
68.250
70.949
89.525
47.520
42.005
12 Huyện Phú Xuyên
128.589
63.897
64.692
81.693
43.793
37.900
13 Huyện Mỹ Đức
14
40.715
19.358
21.357
26.232
13.484
12.748
Thành phố Sơn Tây
114.203
55.673
58.530
73.667
38.527
35.140
15 Huyện Quốc Oai
160.302
78.705
81.597
102.882
54.810
48.072
16 Huyện Thường Tín
149.020
73.159
75.861
89.577
47.958
41.619
17 Huyện Ứng Hòa
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2012 [18]
Từ bảng 3.9 cho thấy số lượng lao động thiếu việc làm là 799.458 người
chiếm tỷ lệ 37,28% trong đó tỷ lệ lao động nam thất nghiệp là 32,3% và tỷ lệ lao
động nữ thất nghiệp là 42%. Sự chênh lệch về tỷ lệ lao động nam và nữ thất
nghiệp có ảnh hưởng tới công tác hướng nghiệp và định hướng đào tạo nghề để
giải quyết việc làm cho lao động.
98
Năm 2011, tổng số lao động nông nghiệp của thành phố là 1.158.102
người trong đó lao động nông nghiệp chuyên nghiệp chiếm 35,1% (406.544
người), lao động nông nghiệp kiêm các ngành nghề khác chiếm 16,2% (187.852
người), lao động các ngành phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp
chiếm 48,7%( 563.706 người) (Hình 3.9).
Đơn vị tính: %
Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội thành phố Hà Nội [17, 52]
Hình 3.9. Cơ cấu lao động nông nghiệp phân theo mức độ tham gia
Lực lượng lao động nông nghiệp cũng phân bổ không đều giữa các huyện
trong thành phố (hình 3.10). Sự phân bố không đều này tạo ra nhiều khó khăn
khi áp dụng các chính sách giải quyết việc làm giữa các địa phương nhất là trong
công tác xây dựng mạng lưới đào tạo nghề. Dựa vào hình 3.10 có thể thấy lượng
lao động nông nghiệp cao nhất là ở huyện Ba Vì (85.637 người) và thấp nhất
thuộc huyện Từ Liêm (12.987 người) [7, 8]. Nguyên nhân của điều này là do
việc xây dựng nông thôn mới chưa đều ở các huyện dẫn đến sự khác nhau lớn về
cơ cấu kinh tế mà tác giả sẽ trình bày ở phần tiếp theo của luận án.
99
Đơn vị tính: người
Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội [53]
Hình 3.10. Phân bổ lao động nông nghiệp ở các huyện trên địa bàn Hà Nội
Để có thể có được những phương hướng giải quyết việc làm phù hợp cần
kết hợp giữa sự phân bổ lực lượng lao động nông nghiệp làm căn cứ lâu dài và
sự phân bổ nhu cầu đào tạo nghề trước mắt. Do đó tác giả đã thống kê phân bổ
lực lượng lao động trẻ theo các huyện ở Hà Nội (hình 3.11).
Đơn vị tính: người
Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội [51]
Hình 3.11. Phân bổ lao động nông nghiệp trẻ ở các huyện trên
địa bàn Hà Nội
100
Sự khác nhau về lao động nông nghiệp giữa các huyện còn được thể hiện
qua cơ cấu các nhóm ngành trong sản xuất nông nghiệp Hà Nội (hình 3.12).
Theo đó phần lớn lao động nông nghiệp ở Hà Nội tập trung ở lĩnh vực trồng trọt
và chăn nuôi (lần lượt là 44,44% và 42,5%) (tuy nhiên tỷ lệ này là khác nhau
giữa các địa phương, có thể thấy qua ví dụ so sánh giữa huyện Ba Vì và huyện
Hoài Đức) (Hình 3.13).
Đơn vị tính: %
Nguồn: Sở Lao động thương binh xã hội [51]
Hình 3.12. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội 2009
Theo hình 3.13, toàn bộ lao động nông nghiệp huyện Ba Vì và Hoài Đức
đều hoạt động trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, tuy nhiên trong khi phần
lớn lao động nông nghiệp huyện Ba Vì tập trung ở lĩnh vực trồng trọt chiếm
61% thì ở huyện Hoài Đức lực lượng lao động nông nghiệp trong lĩnh vực chăn
nuôi lại là lực lượng chính chiếm 62,2%. Sự khác nhau này là do điều kiện tự
nhiên cũng như tập quán lao động ở các địa phương. Đây là căn cứ quan trọng
để nghiên cứu xây dựng chính sách giải quyết việc làm riêng cho từng địa
phương ở Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
101
Đơn vị tính: %
Nguồn: Phân tích kết quả điều tra huyện Ba Vì và Hoài Đức [51]
Hình 3.13. So sánh cơ cấu lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì và
Hoài Đức
b. Chất lượng cung lao động:
Trong những năm qua, công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được
các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, triển khai với nhiều chương trình, giải
pháp đồng bộ, có hiệu quả, tạo ra sự chuyển biến tích cực. Quy mô và chất
lượng đào tạo nghề từng bước đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực công nhân
kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.
Tính đến tháng 4/2009, thực hiện xã hội hoá công tác dạy nghề, toàn
Thành phố có 279 cơ sở dạy nghề với đa dạng sở hữu và cấp độ đào tạo. Đồng
thời với việc phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, để đào tạo được lực
lượng công nhân kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá Thủ đô, Thành phố đã tập trung đầu tư xây dựng mới Trường đào
tạo công nhân kỹ thuật cao tại Tây Mỗ, Từ Liêm để đào tạo lao động cho khu
vực nông thôn trong 4 nhóm ngành chủ yếu là: Cơ khí, điện, điện tử, Tin học với
quy mô 3.000 học sinh/năm (đi vào hoạt động cuối năm 2010), năm 2009 triển
102
khai dự án đầu tư xây dựng Trường đào tạo công nhân kỹ thuật cao Việt- Hàn
(tại Nguyên Khê, Đông Anh) với quy mô đào tạo 3.000 học sinh/ năm.
Với hệ thống cơ sở dạy nghề ngày càng được tăng cường cả số lượng và
chất lượng, số lao động được dạy nghề cũng ngày một tăng lên, đáp ứng yêu cầu
cung lao động cho sản xuất, từ 68.500 lao động được đào tạo năm 2006, tăng lên
17.000 lao động năm 2008 (HN mới), ngoài đào tạo chính quy, Thành phố đã
chỉ đạo tổ chức dạy nghề, truyền nghề cho 14.000 lao động nông nghiệp, lao
động trong các làng nghề, trong đó 3.500 lao động chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp, 1.803 người nghèo, 1.123 người tàn tật, 6.738 người cai
nghiện ma tuý.
Chất lượng đào tạo ngày một nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên
95%, tỷ lệ học sinh có việc làm sau tốt nghiệp đạt trên 70%, có nhiều trường dạy
nghề đạt 100% số học sinh ra trường có việc làm. Theo đánh giá của người sử
dụng lao động, kỹ năng nghề của lao động nông nghiệp qua đào tạo nghề trên
30% đạt khá giỏi, gần 59% đạt loại trung bình.
Tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo toàn Thành phố tăng lên đạt 45%,
trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 23% (tốc độ tăng 3,5% năm), tuy nhiên,
chất lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phân bố không đều, tập
trung ở vùng đô thị, các quận nội thành, lao động qua đào tạo nói chung, đào tạo
nghề nói riêng ở khu vực nông thôn còn thấp (Phụ lục 1).
Để thấy rõ tác động của việc xây dựng nông thôn mới tới chất lượng lao
động nông nghiệp có thể so sánh sự khác nhau về tỷ lệ lao động nông nghiệp
được đào tạo ở một huyện có sự xây dựng nông thôn mới mạnh mẽ (Từ Liêm:
có 12 xã đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới và 3 xã còn lại là cơ bản đạt) và
một huyện có tiến trình xây dựng nông thôn mới trung bình (Phúc Thọ: chưa xã
đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới tính đến hết năm 2013). (Hình 3.14)
103
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê huyện Từ Liêm và Phúc Thọ, 2010, 2013 [51]
Hình 3.14. So sánh chất lượng lao động giữa huyện Phúc Thọ và huyện Từ Liêm
Qua biểu đồ có thể thấy rõ sự khác nhau về trình độ lao động giữa hai
huyện. Ở Từ Liêm năm 2009 khi bắt đầu xây dựng nông thôn mới, số lao động
chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ 57%, sau 3 năm xây dựng nông thôn mới tỷ lệ này
đã giảm xuống còn 46,5% trong khi tỷ lệ lao động được đào tạo tăng từ 43% lên
53,5%. Trong khi đó ở một huyện có tốc độ xây dựng nông thôn mới ở mức
trung bình là Phúc Thọ, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo năm 2009 là 72% và sau
4 năm tỷ lệ này đã tăng lên 86,4%, tỷ lệ lao động được đào tạo chỉ ở mức 13,6%.
Như vậy chất lượng lao động là rất khác nhau giữa các vùng của thành phố mà
nguyên nhân là chủ trương đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tổ chức
thực hiện có hiệu quả khác nhau trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Xét riêng về lao động nông nghiệp, năm 2011 ở Hà Nội tỷ lệ lao động
chưa qua đào tạo ở mức cao (93,55%), tỷ lệ có trình độ đại học trở lên chỉ đạt
0,28% (Hình 3.15)
104
Đơn vị tính: %
Nguồn: Phân tích số liệu điều tra 401 xã Hà Nội (phụ lục 4)
Hình 3.15. Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội phân theo trình độ
chuyên môn
Trình độ của lao động nông nghiệp cũng có sự khác biệt giữa những
huyện xây dựng nông thôn mới mạnh mẽ như ở huyện Từ Liêm và những huyện
có tốc độ xây dựng nông thôn mới ở mức trung bình như ở huyện Phúc Thọ,
huyện Sóc Sơn.
Đơn vị tính: %
Nguồn: Phân tích số liệu điều tra ba huyện (phụ lục 4)
Hình 3.16. So sánh trình độ lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm,
Sóc Sơn, Phúc Thọ
105
Hình 3.16 chỉ rõ ảnh hưởng của quá trình xây dựng nông thôn mới tới
trình độ của người lao động. Ở Huyện Từ Liêm tỷ lệ người lao động được đào
tạo đạt 17,36% cao hơn gấp 4 lần ở huyện Sóc Sơn và Phúc Thọ (đều chỉ đạt
gần 4%) , và gấp 2,7 lần so với tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo của
thành phố ( đạt 6,45%). Đây chính là kết quả tích cực của quá trình xây dựng
nông thôn mới ở Từ Liêm. Quá trình xây dựng nông thôn mới kéo theo sự phát
triển của kinh tế và chất lượng cuộc sống, đòi hỏi người lao động nông nghiệp
phải học tập nâng cao trình độ để đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông
nghiệp hiện đại. Đồng thời đây cũng là kết quả của chính sách giải quyết việc
làm khi xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội.
3.3.2.2. Cầu lao động có xu hướng tăng và đa dạng do chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế nhiều thành phần và sự hỗ trợ của Nhà nước tạo việc
làm cho người lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Hà Nội
a. Về quy mô cầu lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông
thôn mới ở Hà Nội trong ba năm qua có xu hướng tăng tạo thuận lợi cho việc
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn :
- Quy mô cầu lao động Thành phố Hà Nội tăng do chính sách phát triển
kinh tế xã hội, 3 năm qua, trên địa bàn Hà Nội thành lập mới 35.245 doanh
nghiệp, tổng cầu lao độngtăng158.500 người (bình quân năm tăng 53.000
người), trong đó cầu lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng 48.000
người, cầu lao động dịch vụ tăng 84.000 người, cầu lao động nông nghiệp tăng
27.000 người. Đến cuối 2008, Hà Nội có 76.135 doanh nghiệp, trong đó doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.250, doanh nghiệp nhà nước 676, doanh
nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp và doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ
74.029. Quy mô cầu lao động năm 2008 tăng khoảng 49.000 lao động, nhưng
chỉ bằng 75% so với quy mô của cung lao động (Cung lao động tăng 65.000
người).
106
- Cầu lao động ngoài nước: các DN có chức năng đưa lao động đi XKLĐ
tăng lên do địa giới hành chính Thủ đô mở rộng, từ 59 doanh nghiệp lên 85
doanh nghiệp. Nhu cầu tuyển lao động đi XKLĐ của các DN XKLĐ trên địa
bàn năm 2008 là 15.000 người.
- Chính sách hỗ trợ cho vay vốn giải quyết việc làm của Nhà nước và
thành phố bình quân mỗi năm tạo ra khoảng 24.000- 25.000 chỗ làm việc trong
các DN vừa và nhỏ, kinh tế cá thể và hộ gia đình .
Việc xây dựng nông thôn mới cũng góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho
người dân. Ở xã Tây Tựu huyện Từ Liêm, toàn bộ 3,2km đường liên thôn được
mở rộng đã tạo việc làm cho khoảng 200 hộ gia đình kinh doanh dịch vụ, nhiều
hộ gia đình đã đầu tư nhà lạnh để bảo quản hoa nâng cao chất lượng dịch vụ
tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp. Cũng do đường giao thông được mở
rộng, kinh tế ở xã Tây Tựu đã phát triển mạnh, khoảng 800 – 1000 hộ dân đã mở
rộng quy mô sản xuất trồng hoa bằng cách thuê thêm đất và lao động ở các
huyện lân cận, tạo việc làm cho một lượng lao động nông nghiệp không nhỏ cho
các huyện lân cận. Hơn nữa chính các hộ nông dân này là những người chuyển
giao nghề tốt nhất cho lao động nông nghiệp ở tại địa phương mà họ đến thuê
đất (huyện Hoài Đức, huyện Đan Phượng) góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở những địa phương đó.
Một loại hình sản xuất quan trọng, điển hình ở Hà Nội, là nguồn cung cấp
việc làm cho rất nhiều lao động nông nghiệp là các làng nghề. Tính đến năm
2013 toàn thành phố Hà Nội có trên 1.300 làng nghề. Các làng nghề này thu hút
một lực lượng lớn lao động nông nghiệp, tuy nhiên phân bố không đều giữa các
địa phương.
107
Đơn vị: Làng nghề
Nguồn: Phân tích số liệu sở Lao động thương binh xã hội
Hình 3.17 . Phân bố làng nghề tại các huyện trên địa bàn Hà Nội
Có thể thấy các làng nghề tập trung chủ yếu ở các huyện thuộc Hà Tây cũ
như Thanh Oai, Thường Tín… Do đó ở các địa phương này cần có chính sách
riêng biệt về giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng tay nghề cho lao động
để duy trì và phát triển làng nghề, đồng thời có chính sách ứng dụng khoa học
công nghệ vào làng nghề truyền thống để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường,
nâng cao chất lượng cuộc sống, mở rộng làng nghề giúp thu hút lao động nông
nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm ở làng nghề.
b. Kết quả giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội.
Bằng nhiều chương trình và biện pháp, trong 3 năm 2006-2008, toàn
thành phố đã tạo việc làm cho 356.443 người , trong đó: Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội tạo việc làm cho 269.929 người chiếm 75,7% tổng số. Chương
trình cho vay vốn giải quyết việc làm tạo việc làm cho 48.371 lao động chiếm
13,6%; xuất khẩu lao động 12.468 người chiếm 3,5% (Phụ lục1).
Kết quả giải quyết việc làm đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp của toàn
thành phố xuống còn 5% năm 2012. Trong số lao động có việc làm của thành
phố, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (tính từ trung cấp nghề trở lên)
chiếm 36,87%, lao động chưa qua đào tạo chiếm 55,76%. Như vậy có thể thấy
lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số lao động có việc
108
làm, hầu hết những lao động này làm công việc thời vụ, mức lương thấp và
những quyền lợi của người lao động cũng không được quan tâm đầy đủ.
Đối với khu vực nông thôn, tình trạng lao động nông nghiệp chưa qua đào
tạo, thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm phần lớn. Cụ thể là lao động nông
nghiệp chưa qua đào tạo ở khu vực nông thôn chiếm 74,88%, lao động nông
nghiệp có trình độ trung cấp trở lên chỉ chiếm 17,49%. Đây là một điểm hạn chế
của lao động nông nghiệp khu vực nông thôn, làm giảm sức cạnh tranh cũng
như thu nhập của lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Bảng 3.4: Cơ cấu lao động nông nghiệp có việc làm trong tuổi LĐ ở khu vực
nông thôn Hà Nội năm 2012 chia theo trình độ CMKT và giới tính
Đơn vị: %
Nông thôn
Toàn thành phố
STT
Trình độ CMKT
Chung Nam Nữ Chung Nam
Nữ
A
B
1
2
3
4
5
6
1
Tổng số
100
100
100
100
100
100
2
Chưa qua đào tạo
55,76
53,88
57,9
74,88
7,.05
78,09
3
CNKT không bằng
4,92
2,65
4,26
5,64
3,86
2,70
4
Đào tạo dưới 3 tháng
0,66
0,44
0,46
0,61
0,56
0,3
5
Sơ cấp nghề
3,64
2,00
2,33
3,09
2,87
1,47
6
Có bằng nghề dài hạn
1,27
0,27
0,58
0,94
0,80
0,18
7
5,26
3,99
3,75
4,61
4,67
2,78
8
3,51
4,79
3,15
2,76
4,11
3,59
9
Trung cấp nghề
Trung học chuyên
nghiệp
Cao đẳng nghề
0,83
0,77
0,78
0,85
0,80
0,70
10 Cao đẳng chuyên nghiệp
2,41
4,05
2,72
1,99
3,18
3,55
11 Đại học
6,80
7,14
21,64
21,68
21,59
6,41
12 Thạc sĩ
0,23
0,25
1,47
1,38
1,43
0,20
13 Tiến sĩ
0,32
0,45
0,03
0,18
0,07
0,05
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2012 [20]
109
3.3.3. Đánh giá tình hình giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
của thành phố Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới
3.3.3.1. Những thành công trong giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội
Từ năm 2006 - 2010, có 457.300 lượt người được đào tạo nghề, bình quân
mỗi năm có 114.325 lượt người được đào tạo nghề (hệ cao đẳng nghề và trung
cấp nghề chiếm 37,5%, sơ cấp nghề chiếm 62,5%). Cơ cấu lao động và nghề đào
tạo đã từng bước chuyển dịch theo nhu cầu thị trường lao động, theo hướng dịch
vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Số lượng các cơ sở dạy nghề tăng hàng năm,
tính đến nay, hệ thống cơ sở dạy nghề trên địa bàn Thành phố có 275 cơ sở,
(trong đó cơ sở dạy nghề công lập là 120 và ngoài công lập là 155), số cơ sở
tăng thêm chủ yếu là các cơ sở dạy nghề ngoài công lập.
Công tác xã hội hoá dạy nghề được quan tâm. Mọi thành phần kinh tế đều
được khuyến khích tham gia công tác đào tạo nghề, góp phần hình thành mạng
lưới cơ sở dạy nghề đa dạng với nhiều hình thức đào tạo.
UBND TP Hà Nội đã ban hành văn bản số 112/KH-UBND ngày
24/8/2012 về kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số
1956/QĐ-TTg trên địa bàn thành phố Hà Nội [65]. Mục tiêu đề ra của kế hoạch
là: Thành phố dự kiến dạy nghề cho 30.500 lao động nông nghiệp, trong đó, đào
tạo trình độ sơ cấp nghề và dưới 3 tháng cho 30.000 lao động nông nghiệp (nghề
nông nghiệp: 11.245 người, nghề phi nông nghiệp 15.755 người). Đào tạo trình
độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề cho 500 lao động nông nghiệp là người dân
tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách
mạng, hộ nghèo và hộ cận nghèo.
Đồng thời, Thành phố cũng sẽ đào tạo bồi dưỡng 2.300 cán bộ, công
chức cấp xã, bao gồm: Bồi dưỡng nghiệp vụ công chức xã: chức danh Địa
chính- Xây dựng cho 500 người; Bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý cho Chủ
tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND trúng cử lần đầu cho
110
1.000 người; Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho công chức xã sau tuyển dụng:
800 người.
Thực hiện Kế hoạch trên, các huyện trên địa bàn thành phố đã căn cứ
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn và nhu cầu sử dụng lao động
nông nghiệp qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp, nhu cầu học nghề của lao
động nông nghiệp lựa chọn các nghề phù hợp, có khả năng tạo việc làm, tăng
năng suất, thu nhập cho người dân để tổ chức dạy nghề cho lao động nông
nghiệp, trong đó, đặc biệt ưu tiên các xã xây dựng nông thôn mới để sớm hoàn
thành các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới và lao động nông nghiệp thuộc đối
tượng hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, người
dân tộc thiểu số, người thuộc hộ bị thu hồi đất canh tác… Các địa phương song
song với các chương trình đào tạo nghề đã thực hiện tập trung quy hoạch vùng
sản xuất, thâm canh nông nghiệp ổn định, xây dựng chương trình khuyến nông,
khuyến ngư, mô hình kinh tế trang trại, mô hình chăn nuôi thuỷ sản, tạo điều
kiện và mở rộng phát triển các ngành nghề mới trong nông thôn như cơ khí,
chăm sóc cây cảnh,… đây là những ngành nghề hết sức cần thiết và giải quyết
tốt lao động nông nghiệp tại chỗ của mỗi địa phương.
Trong 3 năm 2010 – 2012 tiêu biểu của thành phố Hà Nội là Huyện Đan
Phượng đã đào tạo nghề cho 4.116 lao động nông nghiệp với tổng mức kinh phí
hỗ trợ trên 3,1 tỷ đồng. Các ngành nghề đào tạo chủ yếu như: May CN, tin học
văn phòng, chăn nuôi thú y, kỹ thuật nấu ăn, trồng và chăm sóc cây cảnh, trồng
hoa và một số nghề phi nông nghiệp như: Công nghệ sửa chữa ô tô, điện dân
dụng và công nghiệp, sửa chữa điện thoại, sửa chữa và lắp ráp máy vi tính,
hướng dẫn du lịch…
Ngày 12/5/2007, Sàn giao dịch việc làm (GDVL) Hà Nội do Trung tâm
Giới thiệu việc làm Hà Nội tổ chức thực hiện đã khai trương và đi vào hoạt
động.
111
Tỷ lệ kết nối cung – cầu lao động tại phiên GDVL không ổn định và phụ
thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Tại Sàn GDVL
Hà Nội, tỷ lệ kết nối cung – cầu lao động thường đạt từ 18 – 25%. Năm 2007,
2008 là những năm đầu tiên Sàn GDVL Hà Nội đi vào hoạt động, do chưa có
nhiều kinh nghiệm chắp nối việc làm giữa doanh nghiệp và người lao động nên
tỷ lệ kết nối cung - cầu lao động mới đạt 22%. Cuối năm 2008 và năm 2009 các
doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế
giới làm cho tỷ lệ kết nối cung - cầu lao động tại phiên GDVL ảnh hưởng theo,
năm 2009 chỉ đạt 18,72%. Từ năm 2010 trở đi, tình hình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn Hà
Nội nói riêng tiếp tục gặp khó khăn. Trước tình hình đó, Trung tâm Giới thiệu
việc làm Hà Nội đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng hiệu quả kết nối cung –
cầu lao động tại Sàn GDVL Hà Nội (tăng tần suất tổ chức các Phiên GDVL, đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền tới người lao động và người sử dụng lao
động về hoạt động của Sàn GDVL dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng
như: Xây dựng phóng sự phát trên Đài Truyền hình Trung ương, Hà Nội; Thông
tin trên hệ thống Loa phát thanh của các phường, xã; Tuyên truyền trên kênh
VOV giao thông; Treo băng rôn tại các Trường đại học, cao đẳng và trung cấp
nghề…, mở nhiều lớp tư vấn, đào tạo kỹ năng tham dự phỏng vấn cho người lao
động trước khi tham dự phỏng vấn tại Sàn GDVL. Vì vậy, đã nâng hiệu quả kết
nối cung - cầu lao động tại Sàn GDVL Hà Nội lên 20,54% năm 2010; 24,82%
năm 2011 và năm 2012 là 22,4%.
Kết quả hoạt động của Sàn GDVL từ năm 2007 – 2012 như sau:
- Tổng số phiên GDVL đã được thực hiện trên địa bàn Hà Nội từ năm
2007 đến nay là 278 phiên, trong đó: Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội tổ
chức thực hiện: 175 phiên, chiếm 63%. Riêng năm 2012 đã tổ chức: 112 phiên,
chiếm 40,3% tổng số phiên GDVL đã tổ chức từ năm 2007 đến nay;
112
- Tổng số đơn vị đã tham gia phiên GDVL: 15.436 doanh nghiệp, trong
đó: Số doanh nghiệp tham gia phiên tại Sàn GDVL do Trung tâm GTVL Hà Nội
tổ chức: 11.761 đơn vị, chiếm 76%, điều đó cho thấy quy mô của phiên GDVL
được tổ chức tại Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội lớn hơn rất nhiều so với
tổ chức tại Trung tâm Giới thiệu việc làm số 2 Hà Nội. Riêng năm 2012, có
4.574 đơn vị tham gia, tăng 1.537 doanh nghiệp so với năm 2010; tăng 727
doanh nghiệp so với năm 2011 và gấp 22,5 lần số doanh nghiệp tham gia năm
2007;
- Tổng số lao động đã được các doanh nghiệp tuyển dụng qua hoạt động
của Sàn giao dịch việc làm từ năm 2007 -2012 là: 109.150 người, trong đó, số
lao động được doanh nghiệp tuyển dụng tại Sàn GDVL Hà Nội: 85.182 người,
chiếm 78% tổng số lao động được tuyển dụng qua hoạt động của Sàn GDVL ở
Hà Nội trong 5 năm qua. Riêng năm 2012 tổng số lao động được các doanh
nghiệp tuyển dụng qua hoạt động của Sàn GDVL là 21.273 người.
3.3.3.2. Những điểm chưa thành công trong giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội
* Quan hệ cung- cầu lao động trên thị trường chưa được giải quyết tốt.
Cung lao động tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của cầu lao động nông nghiệp
- Chất lượng cung lao động nông nghiệp còn thấp:Cung lao động nông
nghiệp tuy dồi dào song tỷ trọng lao động nông nghiệp qua đào tạo mới đạt 45%
(trong đó qua đào tạo nghề 23% là thấp), thị trường lao động hiện nay đang cần
nhiều lao động trình độ kỹ thuật cao, cán bộ quản lý và chuyên gia giỏi; mạng
lưới cơ sở đào tạo nghề tuy nhiều nhưng chưa đủ mạnh, cơ sở vật chất ở các cơ
sở đào tạo nghề còn nghèo nàn (trang thiết bị, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên
và nội dung đào tạo chậm đổi mới...) ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, chưa
đáp ứng được yêu cầu sử dụng của thị trường lao động (kể cả cầu lao động trong
và ngoài nước), chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học nghề có chất lượng cao, gây
khó khăn cho doanh nghiệp sử dụng và cho người sau khi học nghề đi tìm việc
làm.
113
- Cầu lao động kỹ thuật một số nhóm ngành và cấp độ đào tạo có xu
hướng chững lại và tăng chậm trong khi cung lao động có chuyên môn kỹ thuật
của nhóm ngành này vẫn tăng lớn (Rõ nhất là nhóm lao động có trình độ đại
học, cao đẳng các ngành kinh tế, luật...) nên có một bộ phận cung lao động có
trình độ cao phải chấp nhận làm những vị trí công việc có yêu cầu trình độ thấp
hơn, gây lãng phí và bất hợp lý trong sử dụng nguồn nhân lực.
- Cầu lao động nông nghiệp phổ thông, lao động trong các làng nghề và
lao động xuất khẩu lao động trên địa bàn khá phong phú, với số lượng lớn, song
tâm lý kén chọn việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp Hà Nội còn rất
nặng nề (phần lớn người lao động không muốn làm các công việc giản đơn,
nặng nhọc, thu nhập thấp) nên kết quả giải quyết việc làm hàng năm cũng chỉ
đáp ứng khoảng 50- 55% cầu lao động của khu vực này trên thị trường lao động.
* Mặc dù công tác tạo việc làm cho lao động nông nghiệp được các cấp
quan tâm và đầu tư nhiều nguồn lực hỗ trợ nhưng tỷ trọng việc làm bền vững
tăng chậm, việc làm không ổn định, tạm thời còn khá cao chiếm khoảng 45%
kết quả giải quyết việc làm hàng năm.
* Quản lý nhà nước đối với thị trường lao động còn khó khăn, bất cập,
việc nắm bắt các thông tin thị trường và các giải pháp điều tiết cung- cầu chưa
linh hoạt... Các thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động, tuyển sinh học nghề...
người lao động nông nghiệp ở các vùng nông thôn, vùng xa khó có cơ hội tiếp
cận nên việc chọn nghề và tìm việc làm gặp khó khăn.
* Đội ngũ cán bộ viên chức và lao động của hệ thống giới thiệu việc làm
còn thiếu, yếu về chuyên môn nên việc tư vấn việc làm, học nghề, giới thiệu
việc làm cho người lao động nông nghiệp và kết nối cung- cầu lao động trên thị
trường lao động nông nghiệp còn hạn chế, kết quả chưa cao.
* Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong nhân dân về
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong dạy nghề, học nghề việc
làm chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của công tác dạy nghề và giải quyết việc
114
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới, vẫn còn
tồn tại tâm lý chỉ muốn lựa chọn cấp học ở trình độ cao (Đại học, Cao đẳng)
nên một bộ phận thanh niên Thủ đô chưa thật sự thiết tha với học nghề, kén
chọn việc làm không muốn làm việc khó khăn, nặng nhọc, thu nhập thấp, không
muốn làm việc ở ngành nông nghiệp (Hiện nay cán bộ trẻ có trình độ chuyên
môn về cơ khí, thủy lợi về phục vụ cho nông nghiệp nông thôn là rất thiếu). Bên
cạnh đó, nhận thức của người lao động các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất còn hạn chế, tiền đền bù và hỗ trợ người dân chủ yếu sử dụng vào mục đích
xây nhà, mua sắm thiết bị sinh hoạt, chưa chú trọng đến tạo việc làm và học
nghề cho bản thân đã tạo ra mâu thuẫn giữa trình độ năng lực của người tìm việc
với yêu cầu sử dụng của các nhà tuyển dụng khiến cung - cầu lao động khó đáp
ứng nhau, hạn chế đến kết quả giải quyết việc làm hàng năm.
Diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, bình quân ruộng đất đầu người
hiện đã rất thấp, phân bố lại manh mún, nhỏ lẻ, làm chia cắt hệ thống công trình
thủy lợi, giảm năng lực phục vụ của hệ thống này đồng thời gây khó khăn cho
việc xây dựng nền sản xuất hàng hóa.
Tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa ở các huyện ngoại thành diễn ra
mạnh mẽ gây áp lực rất lớn cho việc tiêu thoát nước và sử lý môi trường, giải
quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động nông nghiệp mất đất sản xuất
nhưng chưa đủ điều kiện để chuyển sang ngành nghề khác.
Trình độ thâm canh, cũng như ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
giữa các vùng miền có sự chênh lệch, ảnh hưởng đến việc chuyển giao đưa tiến
bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất trên diện rộng.
Sự hội nhập kinh tế vào kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng tạo sức ép
trong cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày càng lớn, trong khi sản
xuất nông nghiệp vẫn còn nhỏ lẻ, hàng nông sản vẫn còn là sản phẩm thô sơ.
Vấn đề thương hiệu hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm, quảng bá sản phẩm
chưa được chú trọng đúng mức.
115
Các công trình thủy lợi, đê điều ngày càng xuống cấp; hạ tầng nông thôn
ở những vùng sâu và xa thành phố còn yếu và thiếu.
Năng lực của cán bộ các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp còn nhiều hạn
chế, công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn,
hiệu quả chưa tương xứng với việc đầu tư ngân sách nhà nước đã chi dùng trong
quá trình thực hiện đề án 1956 của chính phủ.
3.3.3.3. Những vấn đề đặt ra
+ Địa bàn Hà Nội rộng, số đơn vị hành chính cấp xã ở khu vực nông thôn
lớn, với cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn và chưa đồng bộ, đòi hỏi nguồn lực đầu tư
rất lớn.
+ Sự phát triển của các địa phương không đồng đều, trình độ dân trí, thu
nhập, đời sống vật chất và tinh thần của người dân khu vực nông thôn còn chênh
lệch lớn so với khu vực nội thành.
+ Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp ở khu vực nông thôn còn thấp,
lao động nông nghiệp qua đào tạo phân bố theo khu vực còn mất cân đối, lực
lượng lao động kỹ thuật tập trung ở đô thị, còn ở khu vực nông thôn thì lại thiếu.
+ Việc thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế dẫn đến
cơ cấu lao động cũng thay đổi nhưng chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Cơ cấu
lao động trong nông nghiệp giảm, nhưng sự mất cân đối giữa cơ cấu lao động và
cơ cấu kinh tế nên đã gây ra tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động. Tình
hình việc làm và sử dụng quỹ thời gian lao động nông nghiệp tuy đã có những
tiến triển rõ rệt, song giá trị lao động nông nghiệp và thu nhập của lao động
nông nghiệp vẫn còn ở mức thấp.
+ Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa ở nông thôn thường không ổn
định, đầu ra của sản phẩm còn chưa có nơi tiêu thụ, đó là nguyên nhân gây khó
khăn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh tạo thêm việc làm cho người lao
động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô.
+ Chương trình giải quyết việc làm của thành phố có được triển khai thực
hiện nhưng chưa đồng bộ và toàn diện ở các huyện nên kết quả còn chưa cao.
116
+ Lực lượng lao động nông nghiệp ở nông thôn trên địa bàn thành phố có
nguy cơ thất nghiệp không lớn nhưng tình trạng dư thừa lao động nông nghiệp
lại khá cao, vì vậy có ảnh hưởng đến sự ổn định trong đời sống vật chất, tinh
thần của một bộ phận dân cư ở khu vực này. Người lao động nông nghiệp không
có điều kiện học nghề, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật nên gặp khó khăn
trong tìm việc làm, không có việc làm thường xuyên dễ nảy sinh tiêu cực, tệ nạn
xã hội.
+ Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý ở cơ sở nhiều
nơi chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ trách nhiệm không
cao; uy tín thấp, ảnh hưởng đến công tác vận động nhân dân thực hiện xây dựng
nông thôn mới.
117
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG
ĐẾN NĂM 2030
4.1. Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội
4.1.1. Dự báo quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội tác động đến
việc làm cho lao động nông nghiệp
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, hiện đại. Vì vậy xây dựng
nông thôn mới luôn nhận được sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp bảo đảm hoàn thành
các mục tiêu của đề án xây dựng nông thôn mới.
Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội phải tuân thủ theo quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Thủ đô, quy hoạch chung Thủ đô đến
năm 2030, tầm nhìn 2050 và các quy hoạch ngành, quy hoạch kinh tế xã hội các
huyện, thị xã.
Xây dựng nông thôn mới vừa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, vừa bảo tồn phát huy giá trị văn hoá truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc,
góp phần xây dựng Thủ đô phát triển bền vững có môi trường xanh, sạch, đẹp .
Xây dựng nông thôn mới trên tinh thần phát huy nội lực của cộng đồng,
ý chí tự chủ, tự lực, tự cường của nhân dân là chính, kết hợp với sự hỗ trợ của
nhà nước và phù hợp với điều kiện từng cơ sở.
Xây dựng nông thôn mới cần triển khai đồng bộ, toàn diện trên toàn
Thành phố có sự tập trung ưu tiên cho điểm. Đồng thời triển khai xây dựng cơ
sở hạ tầng thiết yếu và phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản
118
các xã trong Thành phố đạt các tiêu chí về xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, văn
hóa và xã hội.
Xây dựng nông thôn mới Thủ đô Hà Nội có kinh tế phát triển toàn diện,
bền vững cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Phát triển nông nghiệp thủ đô
theo hướng gắn với phát triển đô thị sinh thái và du lịch, dịch vụ, sản xuất hàng
hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, hài hòa
và bền vững với môi trường.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nông
dân, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo,
tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai
trò làm chủ nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn thủ đô có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ
hiện đại, phát triển theo quỵ hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công
nghiệp, dịch vụ và đô thị; nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi
trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao,
đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
- Dự báo giai đoạn 2010-2015: dự báo đến năm 2015, có trên 40% số xã
trên địa bàn Thành phố đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ đường giao thông nông
thôn được bê tông hóa đạt 87%, trạm y tế được kiên cố hóa đạt 100%, xã đạt
chuẩn quốc gia về y tế 70%. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia từ 50% - 55%.
Tỷ lệ dân số nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt 100%, trong đó, tỷ lệ
được dùng nước sạch đạt 60%. Tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư đạt tiêu chuẩn làng
văn hóa 68%; tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư có nhà văn hóa - thể thao đạt 92%.
Có 100% số cơ sở giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và hoàn
thành các chi tiêu về an ninh, quốc phòng.
Thu nhập của nông dân đạt 29 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ lao động nông
nghiệp còn dưới 20% lao động xã hội; lao động nông nghiệp qua đào tạo phấn
119
đấu đạt 55%, trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho 70.000-75.000 lao
động nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1,5-1,8%/năm.
- Dự báo giai đoạn 2016-2020: dự báo có thêm từ 120 - 140 số xã (bằng
30% - 35% số xã) đạt chuẩn nông thôn mới, để đến hết năm 2020 toàn Thành
phố có 70% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
- Định hướng đến 2030: Hoàn thành việc xây dựng nông thôn mới ở 401
xã trên địa bàn Thành phố (đạt 100%).
Theo số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01 tháng 4 năm
2009, trong giai đoạn 2000-2009 tốc độ tăng dân số bình quân của thành phố
Hà Nội đạt 2,0%/năm, tuy nhiên giai đoạn 2006-2008 tăng khá cao là
2,42%/năm. Dự kiến tốc độ tăng dân số chung của thành phố sẽ giảm dần, đạt
khoảng 2,0%/năm giai đoạn 2011-2015, khoảng 1,8%/năm giai đoạn 2016-
2020 và khoảng 1,74%/năm giai đoạn 2021-2030. Tốc độ tăng dân số cơ học
cũng giảm dần từ 0,85%/năm giai đoạn 2011-2015 xuống còn khoảng
0,7%/năm giai đoạn 2016-2020 và khoảng 0,4%/năm giai đoạn 2021-2030,
bình quân mỗi năm tăng khoảng 51-65 nghìn người. Với dự báo như trên quy
mô dân số Hà Nội đến năm 2015 đạt 7,2-7,3 triệu người, năm 2020 khoảng
7,9-8,0 triệu người và năm 2030 khoảng 9,41 -9,52 triệu người.
Bảng 4.1: Dự kiến tốc độ tăng trưởng dân số
Đơn vị: %
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Chỉ tiêu
2001-2005
2006-2008
2011-2015
2016-2020
2021-2030
1,91
2,42
2,00
1,80
1,74
1. Tổng dân số
1,17
1,26
1,15
1,10
1,00
- Tăng tự nhiên
0,74
1,16
0,85
0,70
0,74
- Tăng cơ học
5,60
3,32
4,30
4,16
4,00
2. Dân số đô thị
3. DS Nông thôn
-0,14
1,82
0,25
- 0,35
-1,42
120
Bảng 4.2: Dự báo dân số Thủ đô Hà Nội có tác động tới việc làm
Đơn vị: Nghìn người
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Chỉ tiêu
2009
2010
2015
2020
2030
6.448
6.591
7.277
7.956
9.416
1. Dân số thành phố Hà Nội
2.632
2.722
3.359
4.294
6.355
2. Dân số đô thị
40,8
41,3
46,2
58,05
67,5
Tỷ lệ đô thị hóa (%)
3.816
3.869
3.917
3.662
3.061
3. Dân số nông thôn
Dự kiến đến năm 2020, dân số đô thị của thành phố Hà Nội khoảng 4,3
triệu người, trong đó tại đô thị trung tâm khoảng 3,5 triệu người, bố trí tại các đô
thị vệ tinh khoảng 550-600 nghìn người và các đô thị huyện lỵ khoảng 200-250
nghìn người, dân số ở khu vực nông thôn khoảng 3,7 triệu người. Số lao động
nông nghiệp nông thôn đòi hỏi phải có nhu cầu làm việc là rất lớn. Đến năm
2030, dân số đô thị của thành phố Hà Nội khoảng 6,4 triệu người, trong đó tại
đô thị trung tâm khoảng 4,8 triệu người, tại các đô thị vệ tinh khoảng 1,1-1,5
triệu người, các đô thị huyện lỵ khoảng 450-500 nghìn người; dân số nông thôn
giảm xuống còn 3 triệu người. Đây là một nguồn lực lao động lớn bổ sung cho
lực lượng lao động của Hà Nội, song cũng gây nên sức ép về việc làm và đào tạo
nghề cho lao động nông nghiệp để chuyển dịch sang các nghề kinh doanh dịch
vụ, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề với hàng hóa chất lượng cao, sản phẩn sạch
đòi hỏi phải có nguồn lao động chất lượng cao ứng dụng được các tiến bộ khoa
học kỹ thuật, công nghệ vào công tác quản lý điều hành và trực tiếp sản xuất
kinh doanh dịch vụ trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thành phố trong
giai đoạn tới.
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới đến năm 2015 lao
động nông nghiệp còn khoảng 21%, đến năm 2020 lao động còn khoảng 15% .
121
Bảng 4.3: Dự báo cơ cấu sử dụng lao động nông nghiệp trong quá trình xây
dựng nông thôn mới
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020
100,0 100,0 100,0 Tổng số
21,9 26,0 30,0 1.Công nghiệp - Xây dựng
49,5 53,0 55,0 2. Dịch vụ
28,6 21,0 15,0 3. Nông nghiệp
- Phấn đấu trung bình mỗi năm giải quyết việc làm mới cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô là 135-140 nghìn người
trong giai đoạn 2011-2015 và 155-160 nghìn người trong giai đoạn 2016-2020.
- Phấn đấu số lao động nông nghiệp được đào tạo nghề trong quá trình
xây dựng nông thôn mới trung bình mỗi năm đạt 150 nghìn lượt người.
Bảng 4.4: Kế hoạch đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020
Đơn vị tính
Số
TT
2010
Năm
2015
2020
11
4.535.900
4.777.900
4.976.000
Người
22
3.779.200
4.440.600
4.571.600
Người
55,00
65,00
75,00
33
%
32,00
45,00
55,00
Chỉ tiêu
Dân số trong độ tuổi
lao động
Dân số tham gia hoạt
động kinh tế
Chất lượng lao động
nông nghiệp
- Tỷ lệ lao động qua
đào tạo
- Tỷ lệ lao động qua
ĐT nghề
44
Người
Số lượng lao động
nông nghiệp được ĐT
nghề
Từ 2011- 2015
bình quân mỗi
năm 158.000
Từ 2016- 2020
bình quân mỗi
năm 103.000
Từ 2009-
2010
bình quân
mỗi năm
158.000
69,00
97,00
135,00
55 Kinh phí đầu tư
Tỷ đồng /năm
66
90 %
Trên 90%
%
80%
Tỷ lệ lao động nông
nghiệp có việc làm
sau đào tạo
122
Dự báo tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề trong quá trình xây
dựng nông thôn mới ở thủ đô đến năm 2015 đạt tỷ lệ trên 55% và đến năm 2020
đạt tỷ lệ từ 70-75%.
4.1.2. Phương hướng giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội cần gắn với dự báo
về tốc độ tăng trưởng dân số trên địa bàn Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030.
Từ những dự báo và các chỉ tiêu phân đấu trên, phương hướng giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Hà Nội là:
Một là, giải quyết việc làm cho lao động trong quá trình xây dựng nông
thôn mới phải đạt mục tiêu giảm dần sự bất hợp lý và lãng phí trong sử dụng
nguồn lao động, sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới.
Hai là, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây
dựng nông thôn mới phải tạo những cơ hội việc làm cho người lao động nông
thôn, tạo nguồn lực lao động nông nghiệp, có thể chuyển dịch lao động sang các
ngành dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, làm việc cho các doanh nghiệp, chủ lực là
các hộ kinh doanh dịch vụ trong quá trình xây dựng nông thôn mới, trong quá
trình đô thị hóa và phát triển nền nông nghiệp đô thị sinh thái của Thủ đô. Nâng
cao chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, lao động nông thôn; tập trung đào
tạo cho các lao động trẻ, lao động ở các huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh, các
vùng quy hoạch sản xuất hàng hóa chất lượng cao để có thể đáp ứng nguồn cán
bộ lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao với các xã đã cơ bản đạt tiêu chí xây
dựng nông thôn mới nhằm đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Dịch vụ - Công nghiệp – Nông nghiệp. Số lao
động này được đào tạo bài bản, có địa chỉ sử dụng rõ ràng, gắn đào tạo theo đơn
đặt hàng.
123
Ba là, tăng cường giáo dục nhận thức và thu hút các nguồn lực trong toàn
dân, đẩy mạnh xã hội hóa trong giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, phát huy vai trò của các cơ sở đào tạo của các trường trung cấp nghề,
trung tâm dạy nghề, các tổ chức đào tạo nghề không chuyên, các chuyên gia, các
lao động giỏi trong các ngành nghề; thực hiện có hiệu quả các mô hình khuyến
nông, khuyến ngư, khuyến công, khuyến thương; nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, lao
động trong các làng nghề truyền thống, các trang trại, các doanh nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới.
Bốn là, đổi mới cơ chế chính sách và nội dung giải quyết việc làm và đào
tạo nghề cho lao động nông nghiệp cho phù hợp với đối tượng đào tạo, phương
thức đào tạo, với yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình xây dựng
nông thôn mới, quá trình đô thị hóa phù hợp với thực tiễn mỗi huyện của thủ đô.
Năm là, nắm vững các chỉ tiêu giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015.
Bảng 4.5: Kế hoạch giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015
TT
Tổng số
Chỉ tiêu
2014
2015
Tổng số
2011
137.000
132.800
2012
139.000
134.600
Năm
2013
141.000
136.400
143.000 145.000
138.200 140.000
705.000
682.000
Đơn
vị
Người
Người
1
1.1 Giải quyết
việc làm
trong nước
4.600
4.400
4.800
5.000
23.000
Người 4.200
2
57.000
58.500
63.000
65.000
304.000
Người
44,36
22.000
43,46
20.000
42,92
18.000
45,59
23.500
46,43
25.000
44,57
108.500
%
Người
16,13
53.900
14,86
56.100
13,55
57.800
17,00
51.700
17,86
50.000
15,91
269.500
%
Người
39,51
41,68
43,53
%
37,41
35,71
39,52
1.2 Đi xuất khẩu
lao động
Chia theo nhóm ngành kinh tế về giải quyết việc làm
60.500
Công nghiệp,
xây dựng
Cơ cấu
Thương mại,
dịch vụ
Cơ cấu
Nông,
lâm nghiệp
Cơ cấu
124
* Các hình thức tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô
Thực hiện quyết định 1956/QĐ-TTG ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
chính phủ , thành phố Hà Nội đã xây dựng chương trình giải quyết việc làm giai
đoạn 2011 – 2015 [62], trong đó đã xác định các hình thức tạo việc làm cho
người lao động như sau:
- Tổ chức thi, xét tuyển công chức, viên chức hàng năm vào các cơ quan
hành chính, sự nghiệp ở các huyện, xã theo chỉ thị của UBND thành phố Hà
Nội;
- Tuyển lao động nông nghiệp làm việc tại các doanh nghiệp dịch vụ, xây
dựng, công nghiệp nông nghiệp;
- Tạo việc làm trong nông lâm nghiệp, thủy sản.
- Tạo việc làm thông qua các dự án vay vốn từ quỹ giải quyết việc làm
Thành phố và các địa phương.
- Tạo việc làm thông qua hình thức xuất khẩu lao động.
- Tạo việc làm thông qua phát triển làng nghề, dịch vụ.
- Lao động tự tạo việc làm.
- Các hình thức tự tạo việc làm khác
4.2. Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội
4.2.1. Nhóm giải pháp chung về xây dựng nông thôn mới có tác động
toàn diện tới việc nâng cao đời sống của nông dân và giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới
4.2.1.1. Phát triển nông nghiệp hợp lý để giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội
a. Tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch chuyên ngành
Căn cứ vào các quy hoạch chuyên ngành đã được UBND Thành phố phê
duyệt, các huyện, thị xã cụ thể hóa kế hoạch thực hiện, bố trí nguồn lực triển
125
khai, trong đó tập trung thực hiện Quy hoạch về phát triển nông nghiệp, Quy
hoạch nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Quy hoạch giết mổ gia súc,
gia cầm, Quy hoạch phát triển làng nghề. Đồng thời triển khai thực hiện tốt công
tác quản lý quy hoạch theo quy định hiện hành. Các cơ quan chức năng của
Thành phố tăng cường phối hợp với các địa phương kiểm tra, xử lý các vi phạm
theo quy định.
b. Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách
UBND Thành phố tiếp tục rà soát các cơ chế chính sách đã ban hành và
nghiên cứu đề xuất, trình HĐND Thành phố sửa đổi, bổ sung, ban hành cơ chế
chính sách mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, xây
dựng hạ tầng nông thôn theo mục tiêu đề ra. Tổ chức, triển khai thực hiện có
hiệu quả các chính sách đã được ban hành và các Chính sách vừa được HĐND
Thành phố Hà Nội Khóa XIV Kỳ họp thứ 8 thông qua “Chính sách khuyến
khích phát triển Vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung thành phố Hà
Nội giai đoạn 2014-2020; Chính sách khuyến khích phát triển làng nghề thành
phố Hà Nội; Chính sách hỗ trợ đầu tư công trình cấp nước sạch nông thôn thành
phố Hà Nội” nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất giống cây trồng, vật
nuôi, thủy sản; xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản nông sản; xây dựng
cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung; thực hiện cơ giới hoá trong sản xuất
nông nghiệp; hỗ trợ đào tạo, tập huấn kỹ thuật; xây dựng thương hiệu, xúc tiến
thương mại; hỗ trợ vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh, tập trung; hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; khuyến khích phát triển làng
nghề và hỗ trợ kiên cố hoá đường giao thông thôn, xóm đạt chuẩn nông thôn
mới; khuyến khích đầu tư xây dựng và cấp nước sinh hoạt nông thôn.
c. Tổ chức triển khai thực hiệu hiệu quả các chương trình, đề án
Tăng cường chỉ đạo thực hiện các chương trình, đề án, dự án phát triển
nông nghiệp đã được UBND Thành phố phê duyệt, trọng tâm là sản xuất lúa
hàng hóa chất lượng cao, sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn quả giá trị cao, nuôi
126
trồng thủy sản thâm canh, chăn nuôi trang trại, nuôi bò sữa... Tổ chức thực hiện
tốt đề án xây dựng nông thôn mới, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc
trong quá trình thực hiện, tổ chức sơ kết hàng năm nhằm đánh giá hiệu quả từng
chương trình, đề án, dự án để rút kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện.
d. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước các cấp, hiệu quả hoạt động của
các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển mới các hợp tác xã ngành nghề, dịch vụ
ở nông thôn
Quan tâm và đầu tư hơn nữa công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên
môn cho cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật ngành nông nghiệp và cơ sở. Đầu tư
cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị tiên tiến để nâng cao khả năng chẩn đoán và
phòng chống dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi, kiểm tra vệ sinh an toàn thực
phẩm, kiểm soát chất lượng các loại vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật.
Tiến hành rà soát, đánh giá thực chất hiệu quả hoạt động của các HTX
nông nghiệp để củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động HTX nông nghiệp; xây
dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển và thành lập mới các HTX
chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, thương mại, vận tải, tiểu thủ công
nghiệp.. theo Luật HTX.
e. Tăng cường đầu tư xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, xây dựng
hạ tầng sản xuất nông nghiệp
Tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng
hợp tác sản xuất và chế biến nông sản với các tỉnh, thành phố trong nước và
nước ngoài. Hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân tổ chức và tham gia các hội chợ,
triển lãm hàng nông sản và làng nghề; xây dựng nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa,
nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản và sản phẩm làng nghề của Thủ đô.
Tiếp tục đầu tư, nâng cấp hệ thống chợ đầu mối nông, lâm sản ở các vùng
trọng điểm sản xuất nông nghiệp và vùng phụ cận đô thị. Hỗ trợ, nâng cấp các
chợ nông thôn, các cơ sở chế biến nông, lâm sản, thực phẩm. Đầu tư xây dựng
127
các công trình đê điều, thủy lợi, phòng chống lụt, bão, hạ tầng của vùng sản xuất
chuyên canh tập trung, các cơ sở giống thủy sản chất lượng cao, trung tâm đào
tạo, nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho lao động nông
nghiệp.
4.2.1.2.Tích cực thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với
giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
a. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm xây dựng nông
thôn mới
Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường chỉ đạo và tổ chức
quán triệt, tuyên truyền sâu rộng tới cán bộ, đảng viên, nhân dân về mục đích, ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng nông thôn mới. Ban Tuyên giáo, Ban
Dân vận Thành ủy, các cơ quan truyền thông, báo chí, mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội Thành phố phối hợp chặt chẽ với sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn xây dựng kế hoạch, nội dung công tác tuyên truyền, tổ chức
tuyên truyền, nhằm tạo sự đồng thuận và nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần
tự giác hăng hái tham gia xây dựng nông thôn mới cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân.
Tiếp tục nâng cao nhận thức về Chương trình xây dựng nông thôn mới
cho mọi chủ thể trong xã hội để tạo ra một sức bật mới phát triển kinh tế trong
xây dựng nông thôn mới.
Tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành từ Trung ương đến
địa phương, các chủ thể sản xuất - kinh doanh ở khu vực nông nghiệp, nông
thôn về Chương trình xây dựng nông thôn mới. Chỉ có hoàn thành tốt các nội
dung, tiêu chí xây dựng nông thôn mới, mới có thể tạo được việc làm, giải quyết
tốt tình trạng thất nghiệp của lao động nông nghiệp, phát triển kinh tế bền vững.
Đặc biệt, nâng cao nhận thức cho nông dân, bồi dưỡng cho họ hiểu rõ,
chủ thể xây dựng nông thôn mới chính là nông dân và nông dân cũng là người
128
hưởng thụ những thành quả của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Một khi
đã nâng cao được nhận thức của nông dân, biến nhận thức thành hành động thì
mọi khó khăn, trở ngại trong xây dựng nông thôn mới sẽ từng bước được tháo
gỡ và thực hiện hiệu quả.
Nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, các chủ thể sản xuất kinh
doanh phải sử dụng nhiều hình thức, nhiều phương pháp, trong đó, vai trò lớn
nhất thuộc về các cấp ủy Đảng, từ trung ương đến địa phương; thực hiện tốt quy
chế dân chủ cơ sở. Bên cạnh đó, sự trợ giúp của các phương tiện truyền thông là
vô cùng quan trọng.
Các cơ quan thông tin, báo chí của Thành phố tăng thêm thời lượng tuyên
truyền, giới thiệu các điển hình tiên tiến, phương pháp hay, sáng kiến, sáng tạo
trong xây dựng nông thôn mới ở cơ sở, đồng thời phê phán những nơi triển khai
thụ động, kém hiệu quả, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước.
b. Thường xuyên chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, quản lý, điều hành cho đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể ở
cơ sở, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới
Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn kiến thức về quản lý và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới cho cán bộ cơ sở, từ cấp bí thư chi
bộ, trưởng, phó thôn trở lên. Nội dung, thời lượng của chương trình phải phù
hợp với thực tiễn và trình độ của cán bộ cơ sở. Phấn đấu đến hết năm 2015, cơ
bản hoàn thành chương trình đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức về xây dựng
nông thôn mới cho cán bộ chủ chốt cấp xã. Chú trọng bổ sung cán bộ trẻ có trình
độ, năng lực và trách nhiệm cao cho các cơ sở còn yếu kém.
c. Tập trung huy động các nguồn lực xây dựng nông thôn mới
Ngân sách nhà nước các cấp hàng năm dành tối thiểu 35% đầu tư cho lĩnh
vực nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số
03/2010/NQ-HĐND, ngày 21/4/2010 của HĐND Thành phố về xây dựng nông
thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, định hướng 2030 [31]. Trong
129
đó đầu tư trực tiếp cho các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp từ 6-8%
(không kể vốn đầu tư xử lý khẩn cấp cho thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt
bão). Trọng tâm là đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu về kinh tế - xã hội
nông thôn như: đường giao thông, hệ thống thủy lợi, các công trình y tế, giáo
dục, văn hóa, nước sạch nông thôn, xử lý môi trường các làng nghề chế biến
nông, lâm sản bị ô nhiễm nặng; xây dựng các cơ sở thu gom, xử lý rác thải; hạ
tầng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa, thực hiện các chương trình phát triển
nông nghiệp, đào tạo nghề cho nông dân. Tăng cường phân cấp để tạo nguồn thu
và khuyến khích các huyện, thị xã tập trung ngân sách và dành nguồn thu từ đất
đầu tư trở lại cho nông nghiệp, nông thôn.
Vận động, hướng dẫn các hộ nông dân huy động nguồn lực đầu tư phát
triển sản xuất, chỉnh trang nhà cửa, xây dựng đường thôn, xóm và các công trình
văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh và giữ gìn cảnh quan môi trường sạch
đẹp. Đa dạng hóa các hình thức đóng góp bằng tiền, bằng ngày công lao động,
bằng vật tư, tài sản của nhân dân. Tích cực vận động nhân dân hiến đất để mở
rộng đường giao thông, chỉnh trang các cơ sở văn hóa, y tế, giáo dục...
d. Nâng cao vai trò, trách nhiệm hệ thống chính trị trong xây dựng nông
thôn mới, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, trách nhiệm quản lý, điều
hành của chính quyền, chất lượng hoạt động và năng lực vận động quần chúng
của MTTQ, đoàn thể các cấp để triển khai thực hiện mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ cơ sở xã tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Các đơn vị quân đội, công an Thành phố tăng cường công tác giáo dục
chính trị tư tưởng để nâng cao trình độ, năng lực và sức chiến đấu của lực lượng
vũ trang Thành phố, tham mưu chính quyền các cấp xử lý, giải quyết kịp thời
các vụ việc phức tạp phát sinh, giữ vững an ninh chính trị ở nông thôn. Thực
hiện tốt các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh để đảm bảo giữ vững ổn định an
130
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của Thành phố.
e.Cụ thể hóa hơn nữa nội dung và tiêu chí phát triển kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới cho phù hợp với từng huyện
Cần phải cụ thể hóa hơn nội dung phát triển kinh tế, với các ngành, các
lĩnh vực cụ thể (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) trong xây dựng nông thôn
mới.
Quán triệt tốt nguyên tắc là các nội dung, tiêu chí phát triển kinh tế trong
xây dựng nông thôn mới được cụ thể hóa. Bảo tồn và phát huy những giá trị
truyền thống, điểm độc đáo và khác biệt trong mỗi làng, mỗi huyện ở Hà Nội.
4.2.1.3. Nâng cao đời sống nông thôn, tăng thu nhập cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao vào sản
xuất nông nghiệp
Phát huy thế mạnh của Thủ đô, tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác của các cơ
quan nghiên cứu khoa học đầu ngành quốc gia, có chính sách khuyến khích
doanh nghiệp và nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nhất là ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất, nhằm tăng nhanh năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu
quả đầu tư. UBND Thành phố tăng cường mức hỗ trợ để khuyến khích nông dân
tham gia các lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật sản xuất chuyên canh và ứng dụng
công nghệ cao. Bố trí tăng vốn cho Quỹ Khuyến nông Thành phố để cho nông
dân vay phát triển trang trại, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, ứng dụng công
nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.
4.2.1.4. Phát triển cụm công nghiệp và làng nghề để giải quyết việc làm
cho nông dân, thúc đẩy chuyển dịch lao động nông nghiệp chất lượng cao
Thành phố tiếp tục quan tâm phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề
để giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Đến năm
2015, hoàn thành xây dựng mới 21 cụm công nghiệp với diện tích 726 ha. Phát
triển làng nghề đạt 1.500 làng, trong đó có 525 làng nghề truyền thống được
131
công nhận để thu hút tối thiểu 50% lao động trong nông thôn vào làm việc. Việc
phát triển các làng nghề, cụm công nghiệp phải đi đôi với việc bảo vệ môi
trường và khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm làng nghề.
Quan tâm đầu tư, nâng cấp chợ nông thôn, hỗ trợ xây dựng các trung tâm
thương mại cấp huyện, cấp xã, để thu hút nguồn hàng phục vụ nhu cầu nhân dân
nông thôn. Các cơ quan chuyên môn hướng dẫn, vận động, tuyên truyền và hỗ
trợ thành lập, phát triển các hợp tác xã dịch vụ vận tải, xây dựng, tín dụng... để
vừa đảm bảo phục vụ nhu cầu của nhân dân nông thôn vừa tăng dần tỷ trọng
dịch vụ trong cơ cấu kinh tế và thu hút chuyển dịch lực lượng lao động. Tạo
điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng và các cơ sở dịch
vụ về thông tin, văn hóa, y tế, giáo dục; tăng trưởng dịch vụ khu vực nông thôn
hàng năm đạt 10% trở lên.
4.2.1.5. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đối với lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Thường xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của lao động
nông nghiệp, nhất là các hộ nghèo, các hộ cận nghèo và các gia đình chính sách.
Tăng đầu tư cho công tác dạy nghề cho nông dân gắn với phát triển sản xuất
hàng hóa để tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân. Phấn đấu tốc độ
tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn bình quân từ 7-8%/năm. Ngành Y tế triển
khai mở rộng mô hình bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân đạt 70-80% trở
lên; ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với cơ quan bảo hiểm
thực hiện tốt việc thí điểm bảo hiểm sản xuất nông nghiệp để hạn chế thiệt hại
và rủi ro cho nông dân.
Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng thông
tin, giải trí, thư viện để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần cho nông
dân. Đặc biệt chú ý đầu tư các công trình vui chơi lành mạnh cho trẻ em, các
khu tập luyện, thể dục thể thao cho nông dân, nhất là người cao tuổi. Đẩy mạnh
132
và nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa, xây dựng làng, khu phố, cơ quan văn hóa. Thực hiện tốt nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống, các di sản vật thể và phi vật thể.
4.2.2 Nhóm giải pháp cụ thể, trực tiếp đến giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới của thủ đô Hà
Nội.
4.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước của các cấp chính quyền, nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và đến từng người dân về chủ chương chính sách của Đảng và Nhà
nước, quy định của pháp luật trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, giải
quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây
dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội
+ Tổ chức học tập quán triệt các chủ trương, chính sách, các
nghị quyết của Đảng, quyết định của nhà nước, của thành ủy, UBND Thành phố
về việc làm, giải quyết việc làm và ý nghĩa của nó cho đội ngũ cán bộ, Đảng
viên nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chi bộ cơ sở
thôn, xóm phải luôn quan tâm tới việc làm và giải quyết việc làm cho mỗi gia
đình trong đó có các hộ gia đình nông nghiệp, quan tâm tới các hộ gia đình bị
mất đất giải phóng mặt bằng dùng cho các công trình phúc lợi công cộng, phát
triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt
nâng cao nhận thức cho mỗi thành viên trong gia đình đến tuổi lao động có ý
thức lao động, tự tìm kiếm việc làm, cùng với gia đình, tổ chức doanh nghiệp
tạo việc làm và nâng cao thu nhập, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức lối
sống, nâng cao tay nghề và kỹ năng làm việc, yêu lao động, làm chủ bản thân,
làm chủ thể của quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước của các cấp chính quyền trong công tác quy hoạch kinh tế xã hội, quy
133
hoạch sử dụng đất, và kế hoạch đầu tư phát triển luôn gắn với tạo việc làm cho
lao động nông thôn trong đó có giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có
trình độ hạn chế không thể làm việc ở các doanh nghiệp bằng việc tạo ra các
hoạt động dịch vụ như chợ truyền thống, ki ốt bán hàng tại các trục đường quy
hoạch… để số lao động này tiếp tục được phát huy khi họ bị thu hồi hết diện
tích sản xuất nông nghiệp.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và việc tổ chức thực hiện các chương
trình, đề án, dự án trọng điểm đang triển khai trên địa bàn thành phố có ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng nông thôn mới và giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp ở thủ đô.
- Chương trình số 02-CTr/TU ngày 31/10/2008 của thành ủy Hà Nội,
Thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng
lần thứ 7 (khóa X) về nông nghiệp nông dân, nông thôn [22]; Với mục tiêu đến
năm 2020 hoàn thành xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn và
hàng năm ngân sách thành phố sẽ dành khoảng 30% tổng đầu tư cho lĩnh vực
nông nghiệp nông dân nông thôn.
- Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thành phố Hà Nội giai đoạn
2009- 2015, định hướng đến năm 2020; với mục tiêu đến năm 2020 nâng diện
tích mặt nước nuôi trồng thủy sản nên 24.000 ha; năng suất 5,5 tấn/ha. Sản
lượng 132.000 tấn; tổng kinh phí dành cho chương trình là 851 tỷ đồng.
- Chương trình cung cấp nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn Hà Nội
giai đoạn 2009-2020 mục tiêu đến năm 2020 có 100% dân số nông thôn được sử
dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 80% sử dụng nước sạch. Tổng
kinh phí dành cho chương trình khoảng 3.250 tỷ đồng.
- Chương trình phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn thành
phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020; tổng kinh phí 970 tỷ đồng.
- Chương trình phát triển lúa hàng hóa chất lượng cao thành phố Hà Nội
giai đoạn 2012- 2016 tổng kinh phí 132 tỷ đồng.
134
- Đề án xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010- 2020,
định hướng đến năm 2030; tổng kinh phí đề án khoảng 32.000 tỷ đồng.
- Đề án sản xuất và tiêu thụ rau an toàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 -
2015. Mục tiêu đến năm 2015 mở rộng diện tích sản xuất rau an toàn nên 5.500
ha. Đáp ứng 35% nhu cầu người tiêu dùng thủ đô. Tổng vốn đầu tư cho đề án
khoảng 9.000 tỷ đồng.
- Đề án phát triển một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao của thành
phố Hà Nội, giai đoạn 2012- 2016; tổng kinh phí dành cho đề án khoảng 211 tỷ
đồng.
- Đề án sản xuất hoa, cây cảnh thành phố Hà Nội, giai đoạn 2012 -2016;
tổng kinh phí khoảng 281 tỷ đồng.
- Các dự án trọng điểm về thủy lợi:
+Dự án tiếp nước
+Dự án cải thiện hệ thống tiêu nước khu vực phía tây thành phố Hà Nội
+ Dự án xây dựng cụm công trình đầu mối Liên Mạc
+ Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống trạm bơm tiêu Đông Mỹ, huyện Thanh
Trì…
Các chương trình, đề án, dự án của thành phố được thực hiện song hành
cùng với chương trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi một nguồn lực rất to lớn,
song trong thực tế, 3 năm qua nguồn vốn để thực hiện ở mức rất khiêm tốn nếu
không có giải pháp đột phá về việc huy động nguồn lực để thực hiện các nội
dung của chương trình đề án trên thì hiệu quả kinh tế xã hội sẽ là rất thấp. Chính
vì vậy Luận án kiến nghị với Thành ủy, Ủy ban thành phố và các sở, ban, ngành
thành phố Hà Nội có sự đổi mới trong việc huy động các nguồn lực, phân bổ
nguồn lực đặc biệt là việc đánh giá kết quả thực hiện của các chương trình, đề
án, dự án từ đó tìm ra các nguyên nhân hạn chế để kịp thời khắc phục.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác kiểm tra giám sát việc
thực hiện chính sách giải quyết việc làm ở cơ sở trong đó có hoạt động cho vay
vốn ưu đãi của các Hội, Đoàn thể đảm bảo đúng mục đích, đối tượng, nâng cao
135
hiệu quả chính sách an sinh xã hội đối với chương trình xóa đói giảm nghèo và
giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô.
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay ủy thác thông qua
các đoàn thể chính trị xã hội ở cơ sở, theo lộ trình gắn việc tạo việc làm và giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình thu hồi đất; trong việc
thực hiện các dự án cho vay vốn để phát triển kinh tế cũng như các dự án đầu tư
có sử dụng vốn ngân sách nhà nước
4.2.2.2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp để tạo nhiều chỗ làm việc và giải quyết được việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô, tập trung một số nội
dung sau:
Một là, thực hiện quy hoạch sử dụng đất trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất kinh doanh dịch vụ phát triển, tăng
thu nhập cho các hộ gia đình, tạo nhiều chỗ làm mới cũng như giữ ổn định việc
làm đã có cho lao động nông nghiệp. Đẩy mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp trên địa bàn thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp làm thay đổi đối
tượng trong ngành nông nghiệp, trong các ngành kinh tế của mỗi địa phương.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng là thay đổi các cây trồng vật nuôi,
thay đổi tỷ trọng giữa trồng trọt và chăn nuôi. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp có rất nhiều biện pháp nhưng trước tiên phải thực hiện đó là công
tác dồn điền đổi thửa. Bởi vì có dồn điền đổi thửa mới khắc phục được tình
trạng ruộng đất manh mún, phân tán hiện nay. Từ đó mới có điều kiện thực hiện
quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, tạo thuận lợi cho việc áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa nhằm giảm chi phí sản xuất nâng cao
thu nhập cho người nông dân góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu lao động trong doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp đầu tư và lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; góp phần đẩy
nhanh tiến độ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở thủ đô. Mặt khác
136
nó cũng tạo nguồn nội lực thực hiện xây dựng nông thôn mới xây dựng các công
trình phúc lợi của địa phương. Để có hiệu quả trong công tác dồn điền đổi thửa,
đảm bảo các yêu cầu, nguyên tắc dồn điền đổi thửa, quy trình dồn điền đổi thửa,
và áp dụng chính sách khuyến khích thực hiện dồn điền đổi thửa của thành phố
Hà Nội.
Sau khi thực hiện xong công tác dồn điền đổi thửa, tiếp tục thực hiện và
bổ sung các chính sách hỗ trợ của thành phố để thực hiện các bước tiếp theo của
chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn thành phố Hà Nội theo hướng công
nghệ cao, đô thị, sinh thái, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng hiệu quả, đảm bảo
an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu, hài hòa và bên vững môi
trường; góp phần đảm bảo an ninh lương thực, hướng tới xuất khẩu, nâng cao
thu nhập cho nông dân, tạo thêm nhiều việc làm và giải quyết được việc làm ổn
định có thu nhập ngày càng cao của lao động nông nghiệp, nông thôn. Một số
nội dung cần phải tập trung trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng là:
- Lựa chọn bố trí cơ cấu giống cây trồng và công thực luân canh cho phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
- Mở rộng các loại giống cây trồng có hiệu quả kinh tế cao đã được thực
tế sản xuất khẳng định trên địa bàn thủ đô và các tỉnh bạn. Tiếp tục khảo
nghiệm, thử nghiệm các giống cây trồng mới để lựa chọn các giống phù hợp với
từng loại đất ở từng vùng và từng địa phương bổ sung cho phong phú chủng loại
cây trồng trên địa bàn thủ đô.
- Thực hiện tốt thời vụ đối với từng loại cây trồng, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ sinh học, hệ thông canh tác tiên tiến trong sản xuất như SRI, IPM trên
các loại cây trồng, thuốc bảo vệ sinh học thảo mộc.
- Làm tốt công tác thu hoạch, quy hoạch đồng ruộng, làm cơ sở cho việc
xây dựng và tổ chức sản xuất, tăng cường đào tạo nâng cao nhận thức cán bộ,
nhận thức của nông dân, của lao động nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ mới.
Tiếp tục tuyên truyền tập huấn nâng cao kiến thức ứng dụng tiến bộ kỹ thuật,
137
thông tin thị trường. Tăng cường đầu tư tổ chức sản xuất kết hợp với đầu tư cơ
sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất như đường giao thông nội đồng, thủy lợi,
điện nước, các dịch vụ cung ứng vật tư phục vụ cho tưới tiêu và phát triển cây
trồng. Để có hiệu quả kinh tế cao các địa phương, các tổ chức, hợp tác xã, hộ gia
đình trong quá trình xây dựng nông thôn mới cần căn cứ các điều kiện cụ thể để
chọn ra các công thức luân canh cho phù hợp với đồng đất của địa phương mình
như luân canh trong các loại đất khác nhau: đất chuyên trồng hoa màu, đất một
lúa- rau màu; đất hai lúa- rau màu vụ đông; đất thấp trũng cấy một vụ lúa bấp
bênh. Cùng với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng tiếp tục phát triển chăn nuôi ở
những địa bàn có lợi thế đã có quy hoạch phát triển chăn nuôi trang trại, công
nghiệp quy mô phù hợp, xa khu dân cư để kiểm soát được dịch bệnh, hạ giá
thành sản phẩm, cải thiện môi trường sinh thái. Bên canh đó cũng tập trung sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: bảo tồn và phát triển các làng nghề
truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển làng nghề
nông thôn theo thế mạnh của địa phương gắn với du lịch làng nghề.
- Tiến hành lựa chọn làng nghề để xây dựng dự án phát triển làng nghề
theo ba loại hình:
+ Làng chưa có nghề phi nông nghiệp (lập dự án cấy nghề, chọn nghề,
dịch vụ, làm gia công)
+ Làng đã có nghề nhưng chưa phát triển (lập dự án chọn và phát triển
nghề có tiềm năng)
+ Làng đã có nghề truyền thống nhưng nay đã bị mai một (lập dự án khôi
phục và phát triển nghề truyền thống)
- Phát triển nghề truyền thống (mây, tre đan, thêu dệt thổ cẩm…), xây
dựng dân dụng (như sản xuất gạch ngói vật liệu xây dựng…); cơ khí sửa chữa-
nông cụ cầm tay, công nghiệp chế biến nông lâm sản, đồ mộc gia dụng, thủ công
mỹ nghệ…
138
- Phát triển dịch vụ thương mại và du lịch: Dịch vụ thương mại lưu thông
hàng hóa, chợ đầu mối, chợ nông thôn, dịch vụ sản xuất tiêu dùng khác liên kết
làng du lịch sinh thái, làng nghề ở nông thôn.
Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cần tiếp tục thực
hiện liên kết sản xuất giữa các hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại, các hợp
tác xã nông nghiệp kiểu mới và tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần
kinh tế khác cùng tham gia và thực hiện. Từ đó mới phát huy được mọi nguồn
lực để phát triển sản xuất nông nghiệp tạo việc làm tăng thu nhập cho lao động
nông nghiệp và cư dân ở nông thôn tạo sự phát triển bên vững, lâu dài cho mỗi
địa phương trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới. Đó cũng là một
nội dung chủ yếu mà thành phố Hà Nội cùng với các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương và cả hệ thống chính trị của huyện và xã phải quan tâm chỉ đạo và tổ
chức thực hiện. Hiện tại thành phố Hà Nội có 1.124 trang trại trong đó có 917
trang trại chăn nuôi, 156 trang trại nuôi trồng thủy sản, 36 trang trại sản xuất
kinh doanh tổng hơp, 13 trang trại trồng cây lâu năm, 2 trang trại trồng cây hàng
năm. Nơi đây đã thu hút và giải quyết được khá lớn lượng lao động nông
nghiệp thường xuyên và lao động thời vụ. Thành phố tiếp tục chỉ đạo các sở,
ban, ngành nghiên cứu rà soát cơ chế chính sách, phát triển kinh tế trang trại để
phát huy hơn nữa hiệu quả đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội, giải quyết
việc làm của loại hình kinh tế này bởi vì các chính sách tại Nghị quyết số
03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của chính phủ về phát triển kinh tế trang trại
(KTTT) đến nay có một số bất cập hơn nữa cần phải điều chỉnh bổ sung để phù
hợp với luật đất đai có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014.
4.2.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong việc đào tạo, đào tạo lại,
dạy nghề, tạo việc làm, tư vấn học nghề cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô
- Đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ
của cả hệ thống chính trị ở địa phương [13]. Nhận thức đúng về đào tạo nghề
139
cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động; góp phần
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Hà Nội trên thị trường trong
nước quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan
tâm của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích
cực của các tổ chức chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân
và lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn dân nhất
là các hộ gia đình đang sử dụng đất nông nghiệp nắm vẫng những chủ trương
chính sách của Đảng; nhà nước, của thành phố, của huyện về đào tạo nghề, giải
quyết việc làm, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chính sách và các điều kiện để
vay vốn ưu đãi, vay vốn thực hiện các dự án, vốn khuyến công, khuyến nông…
- Lựa chọn các ngành nghề phù hợp với từng xã, từng huyện để tổ chức
tuyên truyền, tập huấn và đào tạo nghề ngày từ khi lập kế hoạch để cấp nguồn
ngân sách hoặc huy động nguồn lực. Đào tạo nghề cho nông dân và lao động
nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thực sự của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh- dịch vụ trên địa bàn; từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp của người
dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất thời. Vì vậy, công
tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm chắc các nhu
cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở
từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp.
- Lựa chọn đội ngũ giáo viên và các thầy dạy nghề có chuyên môn tốt để
tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác, tư vấn, hướng dẫn, đăng ký và dậy nghề
để tuyên truyền.
- Hình thức tuyên truyền đa dạng phong phú: Đài phát thanh, phóng sự,
bản tin, nhưng hiệu quả cao và thiết thực là tổ chức tham quan, học tập trao đổi
kinh nghiệm ở những đơn vị tổ chức cá nhân đã thực hiện có hiệu quả về việc
140
đào tạo dạy nghề, tạo việc làm tư vấn học nghề…Nội dung của các chuyên mục,
chuyên trang tập trung vào tư vấn, giới thiệu học nghề và việc làm, cung cấp
thông tin về hướng nghiệp, dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn, thông tin về thị trường lao động trong và ngoài địa phương, tổ
chức các diễn đàn trao đổi về học nghề, việc làm và tự tạo việc làm, các điển
hình tốt trong triển khai thực hiện; thông tin, tuyên truyền kịp thời và toàn diện
về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa
bàn thành phố góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực
hiện đề án, đồng thời tạo sự chuyển biến về nhận thức của toàn xã hội về vai trò
của đào tạo nghề gắn với việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực khu vực nông thôn, nhằm đáp ứng quá trình chuyền dịch cơ cấu kinh
tế, phân công lại lực lượng lao động, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và
đất nước [67].
- Viết tin bài, xây dựng phóng sự, chuyên đề tuyên truyền trên hệ thống
đài phát thanh của huyện và xã.
- Viết tin bài tuyên truyền đăng trong phòng thông tin của bản tin nội bộ
của huyện. Thông tin cho các chi bộ Đảng cơ sở thôn, xóm, xã, huyện, thành
phố chỉ đạo.
- In ấn, cấp phát tờ rơi tuyên truyền tới các hộ gia đình và tới người lao
động.
- Tập huấn đội ngũ báo cáo viên, tổ dân vận về chủ trương, chính sách của
Đảng, nhà nước về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
đến năm 2020, làm nòng cốt trong công tác tuyên truyền vận động ở các thôn
xóm trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
- Tổ chức tuyên truyền, tư vấn hướng nghiệp, dậy nghề và tạo việc làm tới
hội viên: Hội nông dân, hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh tại các
xã, các trường học và các trung tâm giáo dục thường xuyên.
- Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức tuyên truyền, tư vấn trực tiếp
cho người lao động tại các phiên giao dịch việc làm của các huyện.
141
- Đối tượng tuyên truyền bao gồm các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, bí
thư chi bộ, trưởng, phó thôn, trưởng ban và các thành viên đang công tác mặt
trận ở thôn, tổ dân phố…; tuyên truyền đến các hội viên: hội nông dân, hội phụ
nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh… Tuyên truyền cho học sinh khối
trường học phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Tuyên truyền tới hộ
gia đình và lao đông nông thôn, lao động nông nghiệp, lao động đang mất việc
làm…
- Do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao
động nông nghiệp (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói
quen canh tác…), nên việc tổ chức tuyên truyền, đào tạo phải rất linh hoạt về
chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp
truyền đạt… Chương trình tuyên truyền, đào tạo phải gắn với học liệu sinh
động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.
- Phát hiện kịp thời để biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể
của huyện, xã đã đóng góp tích cực cho công tác tuyên truyền vận động người
lao động tham gia học nghề, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm. Nêu gương
những điển hình tiên tiến về việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ vào quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm cho
nhiều người lao động trong đó có lao động nông nghiệp, tăng thu nhập cho
người dân nông thôn.
- Có đánh giá, lựa chọn những địa phương đã triển khai có hiệu quả nhiệm
vụ này để tổ chức thăm quan học tập trao đổi kinh nghiệm trực tiếp bằng người
thực việc thực. Tránh bệnh thành tích phô trương tổng kết và báo cáo trên giấy,
gây lãng phí khi sử dụng ngân sách nhà nước.
- Trong công tác tuyên truyền , cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính
quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính
quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối
hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào tạo nghề đạt được kết quả rất
tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân
142
được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề cho nông dân và
lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ (theo Quyết định
số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010).
4.2.2.4. Thực hiện đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình giải quyết việc làm của thành
phố Hà Nội trong đó có việc đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm và tiếp tục thực
hiện Đề án ”Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” của các huyện
ngoại thành Hà Nội trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Đổi mới và đẩy
mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở thủ đô ở những năm tiếp theo. Trong đó cần phải xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với việc
phát triển kinh tế xã hội và phát triển nền nông nghiệp đô thị sinh thái của thủ
đô, đặc biệt phải bám sát quy hoạch nông nghiệp Hà Nội đến năm 2020 định
hướng 2030 được UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số
17/2012/QĐ-UBND.
Theo đó, quan điểm phát triển là Quy hoạch tổng thể nông nghiệp TP Hà
Nội phải bảo đảm phù hợp với Quy hoạch phát triển nông nghiệp Quốc gia và
vùng Đồng bằng sông Hồng; phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
– xã hội TP Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Phát triển nông
nghiệp hiện đại trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và phương
thức sản xuất tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực
cạnh tranh gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Phát triển nông nghiệp gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông
nghiệp, quá trình đô thị hóa và xây dựng NTM văn minh, tăng hiệu suất sử dụng
đất và tăng năng suất lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập và đời sống của
nông dân.
143
Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng năng suất và chất lượng cao,
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập
trung lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Ưu tiên phát triển những
cây, con có lợi thế; giảm dần diện tích sản xuất cây lương thực đi đôi với việc
phát triển lúa chất lượng cao; tăng sản xuất rau an toàn, hoa cây cảnh, cây ăn
quả nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng nâng cao
hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng đất, nguồn nước, lao động và vốn đầu tư.
Chuyển mạnh phát triển chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, tập trung
ngoài khu dân cư; theo định hướng ổn định tổng đàn lợn và gia cầm tăng nhanh
đàn bò sữa, phát triển đàn bò thịt. Phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm
canh, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững.
Do vậy, cần khảo sát và tham khảo định hướng phát triển nông nghiệp của
từng huyện, xã để tiến hành xây dựng chương trình đào tạo, giải quyết việc làm
phù hợp. Phải đào tạo nghề có khả năng được ứng dụng cao, phù hợp với mô
hình phát triển kinh tế, nông nghiệp tại địa phương.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu
lao động và xóa đói giảm nghèo trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ
đô là nhiệm vụ chủ yếu và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể
nhân dân. Do số lượng lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao trong lao động
nông thôn, hơn nữa số lượng lao động đã qua đào tạo ở Hà Nội vẫn ở mức thấp,
chính vì vậy, tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phải có sự kết hợp
giữa các cấp độ công nghệ, để không ngừng tăng năng suất và tăng giá trị sản
xuất trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp, liên tục đổi mới và nâng cao chất lượng
sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và
giải quyết được nhiều việc làm, đảm bảo thu nhập và từng bước cải thiện đời
sống cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô
Hà Nội. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp thủ đô ở mức hợp lý gắn
với chuyển dịch cơ cấu hoạt động các ngành kinh tế mới bao gồm các bộ phận
144
gắn kết chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau như là: lao động với trình độ công nghệ kỹ
thuật và năng suất cao, làm ra những sản phẩm có hàm lượng khoa học và công
nghệ mới, giá cả cạnh tranh có thể tham gia xuất khẩu; lao động với trình độ
công nghệ trung bình, chủ yếu là sản xuất ra các mặt hàng phục vụ nhu cầu
trong nước với giá cả phù hợp với sức mua của đại đa số nhân dân lao động, có
sức cạnh tranh với hàng hóa ngoại nhập, tiến tới có thể tham gia sản xuất hàng
xuất khẩu. Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có chính sách ưu tiên những lao
động và những người có trình độ tham gia vào quá trình sản xuất xây dựng lực
lượng nòng cốt phát triển lao động công nghệ cao. Lao động phổ thông chủ yếu
là lao động thuần nông nghiệp sản xuất phục vụ cho nhu cầu tại chỗ và đảm bảo
thu nhập cho chính họ, đây là nhóm đối tượng cần được quan tâm khi thực hiện
các chương trình an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, cho vay vốn sản xuất…,tổ
chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đối với lao động nông nghiệp
trong quá trình nông thôn mới là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng yêu cầu sự
lãnh đạo sâu sát và chỉ đạo cụ thể của chính quyền cấp cơ sở cùng với sự tham
gia của các hội đoàn thể, ban công tác mặt trận, tổ dân vận, các thôn xóm đến
từng gia đình, đối tượng được thụ hưởng các chính sách xã hội đảm bảo đúng,
đủ, kịp thời. Phát huy khả năng đóng góp cho các hoạt động cộng đồng của mọi
thành phần kinh tế trên địa bàn của mỗi địa phương để không ngừng chăm lo
cho đối tượng này.
Tăng cường đầu tư, nâng cấp các công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng
thông tin, giải trí thư viện để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần cho lao
động nông nghiệp và nông dân. Đặc biệt chú ý đầu tư các công trình vui chơi
lành mạnh cho trẻ em, các khu tập luyện thể dục thể thao cho lao động nông
nghiệp nhất là những người cao tuổi. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
phong trào toàn dân đoàn kết, xây dựng làng, khu phố, cơ quan văn hóa, gia
đình văn hóa ở nông thôn. Đồng thời tổ chức thường xuyên tuyên truyền vận
động nhân dân thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội văn minh, tiết kiệm. Tiếp
145
tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn và tôn vinh các giá trị
văn hóa truyền thống, các di vật thể và phi vật thể ở nông thôn trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô.
Đây là giải pháp có tính tiền đề của nhóm giải pháp trong việc dạy nghề,
đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động nông thôn nói
chung trong đó có lao động nông nghiệp bởi vì chỉ có chiến lược hành động
đúng cho việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dạy nghề cho lao
động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới thì mới mang lại hiệu
quả kinh tế đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đô thị hóa của
thủ đô Hà Nội đi trước một bước so với các thành phố và các tỉnh trong cả nước.
Trên cơ sở thực trạng nguồn chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn
hiện có của thủ đô cần phải có sự đánh giá rà soát lại chất lượng lao động ở từng
lĩnh vực, từng địa phương từ đó xây dựng một chiến lược nâng cao chất lượng
nguồn lao động hiện có và nguồn lao động nông nghiệp trong tương lai của thủ
đô Hà Nội. Đánh giá chất lượng lao động cũng cần tập trung vào khả năng làm
việc thực tế, tránh việc đánh giá hoàn toàn dựa vào bằng cấp, chứng chỉ vì có
một bộ phận không nhỏ người lao động đã được đào tạo nghề nhưng không phù
hợp với lĩnh vực sản xuất thực tế của mình. Quan tâm các vấn đề của đào tạo
nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn ở những vùng quy hoạch chuyên
canh, hàng hóa, các vùng thực hiện các chương trình đề án khác nhau từ đó có lộ
trình và nội dung ngành nghề đào tạo phù hợp đảm bảo đào tạo nghề cho lao
động nông nghiệp nông thôn thực sự đi vào cuộc sống.
4.2.2.5. Đào tạo lao động nông nghiệp chất lượng cao ở những khu vực
thuần nông trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Lao động nông nghiệp ở những khu vực thuần nông thường có chất lượng
thấp, đa số chưa qua đào tạo. Lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là rất
thiếu do vậy để đáp ứng với yêu cầu của mục tiêu chương trình xây dựng nông
thôn mới và mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa của thủ đô, phải về đích
146
trước cả nước khoảng 5 năm thì đòi hỏi thành phố phải có một chiến lược đào
tạo cùng với chính sách ưu đãi và huy động nguồn lực để tạo ra bước nhảy vọt
tăng tốc cả về quy mô đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật ở tất cả các ngành
nghề và các cấp trình độ khác nhau. Đặc biệt quan tâm thực hiện các lớp huấn
luyện kỹ thuật tay nghề ngắn hạn cho đông đảo lao động nông nghiệp nhanh
chóng nâng cao được chất lượng và đảm bảo thực hành thành thạo việc ứng
dụng các tiến bộ mới theo từng giai đoạn thời kỳ phù hợp với yêu cầu của quá
trình phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái.
Do đặc điểm của khu vực thuần nông quá trình xây dựng nông thôn mới
diễn ra với tốc độ chậm hơn, cơ cấu kinh tế có tỷ trọng nông nghiệp vẫn ở mức
cao do vậy lực lượng lao động nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn theo đó là
lao động chưa qua đào tạo là đa số vì vậy phải lựa chọn các ngành nghề chuyên
môn kỹ thuật như trồng rau cao cấp, rau chất lượng cao; trồng hoa, đặc biệt là
hoa mới, trồng cây cảnh, cây thế, cây ăn quả đặc sản; Chăn nuôi theo phương
pháp và quy mô công nghiệp bò sữa, lợn nạc, gia cầm siêu thịt, siêu trứng; Nuôi
trồng thủy sản, đặc sản quy mô công nghiệp; Công nghệ sinh học và sản xuất
cung ứng giống cây trồng, vật nuôi… có giá trị kinh tế cao; Chế biến nông sản,
lâm sản, thủy sản, trong đó đặc biệt là chế biến thịt, rau quả để thúc đẩy sản xuất
hàng hóa, nâng cao giá trị nông sản; Thú y, bảo vệ thực vật, thủy nông, khuyến
nông; dịch vụ điện năng, nước, chất đốt; cung ứng và tiêu thụ nông sản, vật tư,
dịch vụ vốn, thương mại, vận chuyển; kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại;
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống; Đào tạo nhân lực nông
nghiệp để chuyển mạnh sang sản xuất nông nghiệp bằng công nghệ cao, sản
xuất hàng hóa nông nghiệp có giá trị gia tăng lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
của thành phố và xuất khẩu là vấn đề có tính chiến lược của phát triển nông thôn
trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô.
Đồng thời với việc tăng nhanh đào tạo cho lao động nông nghiệp ở các
ngành nghề nói trên thì phải đồng thời phải quan tâm đến đào tạo lao động nông
147
nghiệp và lao động nông thôn để có nguồn lực chuyển sang các ngành nghề phi
nông nghiệp, có thể làm việc ở các khu công nghiệp tập trung ,khu chế xuất, khu
công nghệ cao cũng như các doanh nghiệp tổ chức về đầu tư khai thác sử dụng
đất trên địa bàn mỗi địa phương trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Tập
trung đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực lao động nông nghiệp, nông thôn để phát
triển các khu du lịch sinh thái, nghỉ ngơi, du lịch cộng đồng, du lịch xanh… Tập
trung đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển thương mại dịch vụ, hệ thống chợ nông
thôn vừa phục vụ trao đổi hàng hóa của đại đa số nhân dân lao động và giải
quyết việc làm cho số lao động tuổi cao không có điều kiện để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các trường,
trung tâm dạy nghề. Tổ chức hoạt động các nội dung bồi dưỡng giáo viên, xây
dựng chương trình, đặt hàng đào tạo nghề theo nhu cầu lao động kỹ thuật của
doanh nghiệp. Tiếp tục phát huy tổ chức tốt các phong trào thi giáo viên dạy
nghề giỏi, thi tay nghề trẻ, thi thiết bị dạy nghề tự làm ngày càng sâu rộng. Tổ
chức các hoạt động phối hợp nhà trường và doanh nghiệp để xây dựng, cập nhật
chương trình và hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề.
Nâng cao năng lực, chất lượng tư vấn của các đơn vị hoạt động trong lĩnh
vực đào tạo nghề cho người lao động. Đổi mới nội dung giáo trình và phương
pháp giảng dạy, khuyến khích dạy nghề theo phương pháp chủ động, gắn lý
thuyết với thực tiễn và phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực.
Trong giai đoạn 2015 – 2020, ưu tiên tập trung đào tạo nghề cho những xã đã
hoàn thành nông thôn mới nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho kinh tế nông
thôn ở Hà Nội.
Đào tạo lao động nông nghiệp gắn với giải quyết việc làm đối với các hộ
gia đình thuần nông sử dụng nhiều diện tích đất nông nghiệp thì quan tâm đầu tư
chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thông qua các mô hình khuyến nông
bằng hình thức cầm tay chỉ việc thì hiệu quả rất cao. Mặt khác đối với những lao
148
động nông nghiệp này rất cần sự hỗ trợ của nhà nước thông qua việc cho vay
vốn ưu đãi của chương trình giải quyết việc làm, chương trình xóa đói giảm
nghèo, có sự hỗ trợ giúp đỡ thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn ở cơ sở do các
tổ chức chính trị, xã hội thành lập, được chính quyền cấp xã chấp thuận. Hoạt
động của tổ theo nguyên tắc tự nguyện, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và
đời sống, cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả lãi đúng hạn. Tổ tiết kiệm
và vay vốn còn được giao nhiệm vụ tổ chức bình xét công khai, dân chủ những
người có đủ điều kiện vay vốn tín dụng ưu đãi, có sự quản lý, hướng dẫn và
giám sát của các tổ chức chính trị xã hội, trưởng thôn và được Ủy ban nhân dân
cấp xã phê duyệt hoạt động của các tổ vay vốn gồm những hộ nghèo và các đối
tượng chính sách có nhu cầu vay vốn cùng sống chung trong cùng một địa bàn
dân cư do vậy đã có hiệu quả cao trong quá trình hoạt động vừa giải quyết lao
động việc làm cho lao động nông thôn nhưng vừa có ý nghĩa rất lớn về mặt
chính trị xã hội.
4.2.2.6. Đưa tiến bộ công nghệ mới cho lao động nông nghiệp nhằm tăng
thu nhập, nâng cao đời sống của người dân, tạo điều kiện để các hộ gia đình mở
rộng quy mô theo hướng công nghiệp hóa và tạo thêm nhiều việc làm cho lao
động nông nghiệp.
Hoàn chỉnh và công khai thực hiện quy hoạch phát triển ngành nông
nghiệp Hà Nội, các quy hoạch chuyên ngành của lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,
thủy sản… gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô đến năm
2020 định hướng đến 2030. Để huy động được các nguồn lực của toàn xã hội
cùng với sự tập trung đầu tư của ngân sách nhà nước phù hợp với từng chương
trình, đề án, dự án đã được UBND thành phố Hà Nội phê duyệt và phù hợp với
lộ trình xây dựng nông thôn mới của Thủ đô. Đây là điều kiện để đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để tăng nhanh năng suất, hiệu quả của sản xuất
nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho lao động nông nghiệp.
* Đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ, cải tiến các công nghệ sẵn có
trong sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội, trong đó tập trung:
149
- Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo bảo đảm an ninh lương thực và chất
lượng gạo.
- Phát triển sản xuất các loại nông sản nhiệt đới, dược liệu có lợi thế so
sánh cao theo hướng nông nghiệp an toàn.
- Ứng dụng thiết bị và công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học vào các
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ để có giá thành hạ, chất
lượng cao.
- Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để sản xuất các loại nông
sản quý, các loại đặc sản, rau, hoa, nấm ở quy mô công nghiệp.
- Phát triển nuôi thủy sản gắn với chế biến hiện đại, các hình thức nuôi
công nghiệp, nuôi sinh thái gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi.
- Phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, quy mô trang trại phù hợp,
khép kín từ sản xuất đến chế biến và thị trường tiêu thụ.
- Phát triển ngành nghề nông thôn sử dụng máy công cụ cải tiến, cơ khí
hóa các khâu sản xuất, nâng cao chất lượng lao động.
- Phát triển công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy
điện nhỏ, năng lượng khí sinh học (biogas) phục vụ sản xuất và đời sống ở nông
thôn.
- Sử dụng tổng hợp tài nguyên nước để cấp nước cho sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt và cải thiện môi trường, phòng chống, giảm
nhẹ thiên tai; các công nghệ tiên tiến về tưới tiêu, tiết kiệm nước cho vùng gò
đồi, vùng khô hạn.
- Xử lý môi trường nông thôn.
- Công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao
dân trí nông nghiệp, nông thôn.
150
*Áp dụng khoa học công nghệ để phát triển và mở rộng các khu, cụm
công nghiệp và làng nghề để giải quyết việc làm cho nông dân, thúc đẩy chuyển
dịch lao động nông thôn.
- Nông thôn Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng, trong đó
có các nghề đặc sắc, lâu đời, có truyền thống văn hóa đối với đời sống dân cư và
sản xuất sản phẩm truyền thống có giá trị cao như làng gốm Bát Tràng, may Cổ
Nhuế, lụa Vạn Phúc, tượng gỗ Sơn Đồng… Lao động trong các làng nghề
truyền thống được đào tạo chủ yếu thông qua kèm cặp trong quá trình sản xuất
của các chủ cơ sở truyền thống và sự truyền nghề của những lao động đã có tay
nghề do kinh nghiệm đem lại chính vì vậy giải pháp để đào tạo và tạo việc làm
cho lao động ở lĩnh vực này là chính quyền thành phố huyện, xã có những chính
sách khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi, giữ gìn trật tự an ninh, tạo điều
kiện cơ sở vật chất, mặt bằng và cải tiến các thủ tục hành chính không gây phiền
hà để các chủ doanh nghiệp phấn khởi mở lớp truyền nghề cũng như họ tích cực
mở rộng quy mô phát triển để thu hút lao động tạo thu nhập cho chính gia đình
họ và thu nhập của lao động ở địa phương. Trong quá trình xây dựng nông thôn
mới cần quan tâm đầu tư hạ tầng giao thông thuận lợi điện nước phục vụ và phát
triển dịch vụ cùng khu vực ngành nghề để tạo sức hút các nhà đầu tư và phát
triển dịch vụ du lịch.
- Thành phố tiếp tục đầu tư xây dựng mới và mở rộng các khu, cụm công
nghiệp, các làng nghề để giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho lao động
nông nghiệp. Đến năm 2015, hoàn thành xây dựng mới 21 cụm công nghiệp với
diện tích 726 ha. Phát triển làng nghề đạt 1.500 làng trong đó có 525 làng nghề
truyền thông được công nhận để thu hút tổi thiểu 50% lao động nông nghiệp vào
làm việc. Việc phát triển các làng nghề, cụm công nghiệp phải dựa vào việc ứng
dụng công nghệ cao nhằm tăng hiệu quả trong sản xuất. Việc phát triển làng
nghề và cụm công nghiệp phải đi đôi với bảo vệ môi trường và khuyến khích
đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm làng nghề.
151
* Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin
trong phát triển hệ thống dịch vụ để từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng lao
động công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp nhưng thu
nhập của lao động nông nghiệp và cư dân nông thôn không ngừng được nâng
cao. Đưa công nghệ cao vào sản xuất sẽ tăng thu nhập, nâng cao đời sống của
người dân, tạo điều kiện để các hộ gia đình mở rộng quy mô theo hướng công
nghiệp hóa và tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp.
4.2.2.7. Tích cực tìm việc làm cho người lao động ở khu vực có tốc độ đô
thị hóa nhanh trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội thì ở một số địa
phương có tốc độ đô thị hóa nhanh, số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi do
vậy lao động nông nghiệp bị mất việc làm do giải phóng mặt bằng để xây dựng
các công trình hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ cho chương trình xây dựng nông
thôn mới đồng thời hình thành các khu đô thị theo đó lại có lao động cơ học
được thu hút về cùng với dân cư di chuyển từ nơi khác đến càng đem lại áp lực
cho chính quyền địa phương về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
vừa phải ứng phó với sự quá tải hệ thống hạ tầng xã hội hiện có chưa thể đáp
ứng ngay được với nhu cầu của số dân cơ học chuyên đến như y tế, hạ tầng giao
thông, điện nước, tiêu thoát nước… Chính vì vậy để giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp và sớm khắc phục các vấn đề trên thì chính quyền thành phố
cần phải có chính sách đầu tư tập trung đồng bộ tránh dàn trải các công trình đầu
tư liên quan đến hạ tầng kinh tế xã hội trong quá trình xây dựng nông thôn mới
gắn với việc thực hiện đầu tư các khu đô thị cho hài hòa, đồng thời cũng có giải
pháp đào tạo nhân lực dịch vụ cho khu đô thị hóa đòi hỏi tập trung vào tăng quy
mô và chất lượng đào tạo với những ngành nghề hợp lý như những nhân lực
phục vụ trong các trung tập thương mại, siêu thị nhà hàng, dịch vụ sửa chữa, bảo
152
dưỡng máy móc thiết bị điện nước, dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ tài chính
ngân hàng, bưu chính viễn thông…Theo đó việc đào tạo nghề cho lao động nông
nghiệp cũng như định hướng nghề cho học sinh cũng phải theo chiến lược trên
ngay từ khi còn là học sinh phổ thông.
Cần đảm bảo để quá trình đô thị hóa được quản lý một cách thích hợp
nhằm thúc đẩy sự phát triển tiếp tục về kinh tế-xã hội và con người của Hà Nội.
Hơn nữa, cần có các chính sách thích hợp cho sự phát triển đô thị cân đối hơn
trong tất cả các vùng.
Xây dựng các trung tâm đô thị cần lưu ý đến việc tạo ra các cơ hội việc
làm và đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, phát triển sản xuất và
hạ tầng giao thông và khu công nghiệp một cách thích hợp. Điều đó giúp bảo
đảm rằng, tất cả người dân, dù sống ở khu vực đô thị hay nông thôn, đều được
hưởng lợi ích như nhau từ quá trình phát triển. Cần quan tâm đặc biệt đến sự
phát triển con người và kinh tế-xã hội tại những khu vực thuần nông còn bị cách
biệt nhiều so với các khu vực khác nhằm tạo thêm các cơ hội học vấn và việc
làm.
Cần đặc biệt quan tâm tới nhóm dân số dễ bị tổn thương ở cả khu vực đô
thị hóa cao hoặc ở vùng nông thôn, đó là những lao động trẻ bị thất nghiệp.
Một lượng không nhỏ lao động thất nghiệp ở các khu vực có tốc độ đô thị
hóa nhanh là do di cư từ những vùng tốc độ đô thị hóa kém tới với mong muốn
nâng cao thu nhập, nhưng do trình độ thấp nên không kiếm được việc làm. Để
giảm lượng lao động thất ngiệp này cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát
triển mạnh các khu kinh tế vệ tinh và các làng nghề nhằm thu hút lao động nông
thôn tại chỗ, tạo sự liên kết kinh tế giữa các khu công nghiệp với nông thôn,
giữa sản xuất công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là cần khai thác
mối liên kết kinh tế giữa các huyện đô thị hóa mạnh với các khu vực phụ cận,
phát triển nông thôn là các vùng đệm cho thành thị (về mặt dịch vụ, các khu sản
xuất là đặt ở nông thôn,...) nhằm giảm thiểu di cư. Phát triển mạnh doanh nghiệp
153
vừa và nhỏ, trong đó có làng nghề và kinh tế trang trại nhằm, nơi tạo ra thu nhập
cao và ổn định hơn. Kinh tế trang trại có khả năng làm tăng giá trị sản phẩm
theo hướng xuất khẩu và hình thành các thị trường nông sản ngay tại địa
phương, đồng thời cũng tạo ra thu nhập và việc làm ổn định hơn trong quá trình
đô thị hóa.
Phát triển các loại hình kinh tế, tăng việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa cần thực hiện tốt và liên tục rà soát sửa đổi bổ sung
một số chính sách có liên quan như: chính sách phát triển các hợp tác xã mới,
chính sách phát triển kinh tế trang trại, chính sách khuyến khích tiêu thụ nông
sản thông qua hợp đồng, chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp
nông thôn, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông
thôn, chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản thủy
sản; chỉ thị 31/CT-TU ngày 21/7/2002 của Thành ủy và kế hoạch của UBND TP
về tăng cường lãnh đạo thực hiện nghị quyết hội nghị TW5 khóa IX về tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố
Hà Nội; quyết định số 16/2012/QĐ-UBND ngày 06/07/2012 của UBND thành
phố Hà Nội ban hành Quy định thí điểm một số chính sách khuyến khích phát
triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai
đoạn 2012-2016. Trong đó, tiếp tục đánh giá để hoàn chỉnh và bổ sung quyết
định số 16/2012/QĐ-UBND ngày 06/07/2012 của UBND thành phố Hà Nội ban
hành Quy định thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất
nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-
2016 cho phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo tính khả thi cao trong giai
đoạn tới ( ví dụ: như chính sách khuyến khích đầu tư thực hiện cơ giới hóa trong
sản xuất nông nghiệp của quyết định này thực hiện 3 năm qua trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô hiệu quả rất hạn chế).
154
4.2.2.8. Phát triển thông tin thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống giao
dịch chính thức trên thị trường lao động cho lao động nông nghiệp cần chuyển
đổi trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Sàn Giao dịch việc làm thành phố.
Phát triển website “vieclamhanoi.net” cung cấp rộng rãi, miễn phí các thông tin
tuyển dụng, tuyển sinh cho người lao động trên mạng. Tăng cường các hoạt
động tư vấn giới thiệu việc làm, học nghề cho lao động nông nghiệp, ngoại
thành tìm việc làm tại Sàn giao dịch việc làm thành phố.
- Đầu tư hiện đại hoá Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội và đặt thêm 5
sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận huyện: Sơn Tây, Thanh Trì, Long
Biên, Sóc Sơn, Ứng Hoà trong thời gian tới để người lao động tại các khu vực
nông nghiệp, ngoại thành có thể tiếp cận với các Sàn giao dịch việc làm dễ dàng
hơn.Tổ chức tuyên truyền, tư vấn chuyển nghề, học nghề và giới thiệu việc làm
đối với những lao động lao động nông nghiệp, ngoại thành mất việc, có nhu cầu
tìm việc hoặc chuyển đổi nghề nghiệp tham gia chương trình xuất khẩu lao
động.
- Đổi mới việc thu thập thông tin thị trường lao động và hoàn thiện hệ
thống giao dịch việc làm chính thức trên thị trường lao động trong quá trình xây
dựng nông thôn mới:
Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa sở Lao động Thương binh xã hội với
UBND các huyện, phòng Lao động Thương binh xã hội, cán bộ theo dõi về việc
làm và lao động ở các huyện với UBND các xã để đảm bảo thu thập thông tin về
lao động việc làm, nhu cầu đào tạo nghề đến từng hộ gia đình trong đó có lao
động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới hàng năm, để làm
căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động của các sàn giao dịch, phiên giao dịch cùng
với sự phối hợp với các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng. Từ đó, tổ chức
thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: tuyên truyền trong các cuộc
họp, hội nghị ở thôn, xóm, tuyên truyền qua đài phát thanh, cổng giao tiếp điện
155
tử của huyện và các xã. Thông tin về nhu cầu tuyển dụng phải đến được tất cả
người dân, người lao động trong đó có lao động nông nghiệp để họ biết và tham
gia, có vậy việc tổ chức sàn giao dịch mới có hiệu quả. Các phiên giao dịch
được tổ chức ở những địa điểm phù hợp, tổ chức tiết kiệm, thiết thực, tránh phô
trương, hình thức, lấy thành tích.
- Rà soát quy hoạch, củng cố sắp xếp hệ thống giới thiệu việc làm, mạng
lưới Trung tâm giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật.
- Thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động thống nhất từ
Thành phố đến quận, huyện, xã phường.
- Tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá, lưu trữ thông tin về số lượng, chất
lượng nguồn lao động nông thôn, lao động thất nghiệp. Tổ chức cập nhật các
thông tin về cung, cầu lao động, thực hiện tốt các quy định về chế độ báo cáo
thống kê, báo cáo thông tin về quản lý nguồn lao động nông nghiệp từ cơ sở đến
quận huyện, thành phố.
- Kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để khai thác chỗ việc làm trống,
tìm hiểu kế hoạch và nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Tổ chức thường
xuyên các phiên giao dịch việc làm cùng các hình thức đào tạo mới để tăng
cường cơ hội cho người lao động gặp gỡ, kết nối cung - cầu.
- Thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thị trường lao động. Hình thành
ngày càng nhiều các Trung tâm giới thiệu việc làm trọng điểm vùng. Ngoài ra,
trong phương hướng hoạt động giới thiệu việc làm, cần đầu tư nâng cao năng
lực cho các Trung tâm giới thiệu việc làm một cách tập trung, tránh dàn trải,
bình quân. Đầu tư chính vào các hoạt động thông tin thị trường lao động, kết nối
việc làm, xây dựng sàn giao dịch việc làm, đào tạo kỹ năng tư vấn, giới thiệu
việc làm cho các bộ làm công tác giới thiệu việc làm. Xây dựng cơ chế đầu tư
gắn với nhiệm vụ được giao và kết quả hoạt động của Trung tâm. Nâng cao trình
độ của đội ngũ tư vấn viên, tăng khả năng giao dịch việc làm thành công.
156
- Kiểm tra, phân tích, đánh giá các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp sản
xuất và doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động có đủ điều kiện, năng
lực và phù hợp với nhu cầu của người lao động trên địa bàn để đảm bảo quyền
lợi cho người lao động trong quá trình lao động.
- Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo xu hướng việc
làm, nhu cầu của người sử dụng lao động, chi phí đào tạo, tỷ lệ hoàn trả của đào
tạo,… Đồng thời cung cấp đầy đủ các thông tin về dự báo kinh tế, triển vọng
đầu tư, các dự án phát triển, trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ dự kiến phát triển
kinh tế, nhu cầu nguồn nhân lực và chủ động xây dựng các kế hoạch nhân lực
của mình. Đặc biệt cần đầu tư công tác thống kê, phân tích dữ liệu thông tin thị
trường lao động.
4.2.2.9.Tăng cường quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn
mới ở Hà Nội
- Để tăng cường vai trò quản lý nhà nước với thị trường lao động, giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô, cần thực hiện tốt một số nội
dung sau đây:
Một là, phải có sự đổi mới tu duy, sự nhận thức mới của các cấp ủy đảng,
chính quyền và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở trong quá trình xây
dựng nông thôn mới về phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu
mới của phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng hiện đại trên cở sở ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ và phương thức sản xuất tiên tiến để nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả năng lực cạnh tranh gắn với chế biến, tiêu thụ sản
phẩm. Phát triển nông nghiệp gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông
nghiệp, quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới văn minh, tăng hiệu
suất sử dụng đất và tăng năng suất lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập và
đời sống của nhân dân. Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
sinh thái, góp phần tạo cảnh quan môi trường, thúc đẩy phát triển du lịch sinh
157
thái, hài hòa và bền vững với môi trường, từng bước thích ứng với biến đổi khí
hậu toàn cầu. Phát triển nông nghiệp theo hướng hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung, chuyên canh, các vành đai xanh, sinh thái và các khu nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Phát triển nông nghiệp gắn với nhu cầu thị
trường, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tiến tới an ninh dinh
dưỡng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong đó, tập trung phát triển nông
nghiệp theo hướng năng suất và chất lượng cao đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm. Tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng và xuất khẩu, ưu tiên phát triển những cây, con có lợi thế; giảm dần diện
tích sản xuất cây lương thực đi đôi với việc phát triển lúa chất lượng cao; tăng
sản xuất rau ăn toàn, hoa cây cảnh, cây ăn quả nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu ngành trồng trọt theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng
đất, nguồn nước, lao động và vốn đầu tư. Chuyển mạnh phát triển chăn nuôi
theo hình thức công nghiệp, tập trung ngoài khu dân cư; theo hướng ổn định
tổng đàn lợn và gia cầm, tăng nhanh đàn bò sữa, phát triển đàn bò thịt. Phát triển
thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, tăng năng suất, phát triển bền vững.
Hai là, xác định rõ nội dung đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp Thủ đô theo hướng toàn diện, tổng hợp và hệ thống để có thể
đáp ứng hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, tổ chức và thực hiện có hiệu quả
các chương trình, đề án, dự án trọng điểm của ngành nông nghiệp Thủ đô trong
hiện tại và tương lai.
Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề và
giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông
thôn mới. Theo đó, tiếp tục đổi mới các hình thức đào tạo nghề, thời gian mở
lớp nghề, chương trình giảng dạy gắn lý thuyết với thực hành. Trong đề án 1956,
chính sách được áp dụng cho các xã, các huyện là như nhau, điều này làm giảm
hiệu quả của công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm ở các xã, các huyện có
tốc độ đô thị hóa cao, quá trình xây dựng nông thôn mới diễn ra mạnh mẽ khác
158
với các khu vực có tốc độ đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới chậm ở những
vùng còn sản xuất nông nghiệp thuần nông.
Bốn là, tiếp tục nâng cao trách nhiệm và vai trò quản lý của nhà nước với
việc quản lý, tổ chức thu thập cung cấp thông tin thị trường lao động và giải
quyết việc làm cho người lao động trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Đồng thời cũng đẩy mạnh việc xã hội hóa thu hút mọi nguồn lực trong xã hội để
thực hiện giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp phù hợp với điều kiện ở
mỗi huyện, mỗi xã trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước ở tất cả các cấp chính quyền đối
với công tác quản lý thị trường lao động và giải quyết việc làm. Phân cấp rõ
công tác quản lý nhà nước về việc làm và giải quyết việc làm, thông tin thị
trường lao động giữa thành phố, huyện, xã trong quá trình xây dựng nông thôn
mới và phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô.
- Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật lao
động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh
nghiệp theo Chỉ thị 22/CT/TW ngày 05/6/2008 của Ban Bí thư Trung ương
ương.
- Tăng cường quản lý nhà nước, củng cố chất lượng hoạt động các đơn vị
xuất khẩu lao động trên địa bàn nông thôn, xây dựng cơ chế hỗ trợ các đối tượng
chính sách (người có công với cách mạng, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ, người
nghèo) đi xuất khẩu lao động. Quản lý hoạt động của các tổ chức cung ứng nhân
lực, giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động, tập huấn triển khai
các chế độ chính sách lao động phù hợp đến các chủ doanh nghiệp và người lao
động nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành các quy định của pháp luật nói
chung và pháp luật lao động nói riêng, nhất là về chính sách chế độ liên quan
trực tiếp đến người lao động như: chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, điều kiện an toàn vệ
159
sinh lao động, vấn đề đình công đúng trình tự quy định của pháp luật lao động.
Nâng cao nhận thức của chủ doanh nghiệp chấp hành nghiêm túc việc xây dựng
và đăng ký với cơ quan lao động của Thành phố, huyện theo phân cấp về: khai
trình sử dụng lao động, xây dựng và đăng ký nội quy lao động, thoả ước lao
động tập thể, hệ thống thang lương bảng lương, quy chế trả lương, thành lập tổ
chức công đoàn, Hội đồng hoà giải lao động cơ sở ... trong doanh nghiệp.
- Tư vấn tìm việc, học nghề cho người lao động khi tham gia thị trường
lao động về pháp luật chính sách lao động.
- Tổ chức tập huấn cán bộ lao động thương binh xã hội cấp xã, cán bộ lao
động cấp huyện, các Trung tâm giới thiệu việc làm.
- Triển khai tuyên truyền sâu rộng về Bảo hiểm thất nghiệp và tập huấn
cho các doanh nghiệp, các quận, huyện về Bảo hiểm thất nghiệp để các doanh
nghiệp và người lao động thực hiện đóng Bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 7/2009
và người lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp từ 01/01/2010. In ấn, phát
tờ rơi cho người lao động khi mất việc làm tìm được địa chỉ cần thiết, hưởng chế
độ thất nghiệp và tìm việc làm theo quy định.
- Quản lý nhà nước về lao động phải phù hợp với sự phát triển của thị
trường lao động ở hiện tại và tương lai, nhất là công tác thông tin, quy hoạch
phát triển thị trường lao động. Thời gian qua, công tác hệ thống dự báo và thông
tin thị trường lao động chưa được quan tâm thích đáng đã dẫn đến công tác
hướng dẫn, định hướng hoạt động thị trường lao động còn bị động, hiệu quả
thấp; đào tạo chưa gắn với nhu cầu; người lao động và người thất nghiệp thiếu
thông tin về việc làm; người sử dụng lao động thiếu thông tin về cung cầu trên
thị trường lao động, ảnh hưởng đến đầu tư, phát triển sản xuất; cơ quan quản lý
nhà nước thiếu thông tin để phân tích, đánh giá và xây dựng chính sách thị
trường lao động phù hợp với nhu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế.
- Phải giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội, nhất là việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Ngăn chặn được tình
160
trạng người sử dụng lao động cố tính ký các hợp đồng lao động dưới ba tháng
nhằm trốn tránh đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; môi trường làm việc
không bảo đảm; số lượng thanh tra viên lao động thấp mới.
- Nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc định
hướng, điều tiết thị trường lao động ở Hà Nội hiện nay. Xây dựng cơ chế ba bên
giữa cơ quan quản lý nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động giúp
giải quyết hài hòa nhất các mâu thuẫn của thị trường lao động.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức công đoàn cơ sở tham gia có hiệu
quả vào quản lý lao động, làm tốt vai trò là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động.
161
KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận án về việc làm và giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà
Nội, tác giả rút ra một số kết luận sau:
1. Luận án đã trình bày các căn cứ lý luận và thực tiễn về vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn
mới nói chung và ở Thủ đô Hà Nội nói riêng. Với các điều kiện đặc trưng như
kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nguồn vốn huy động tập
trung đầu tư, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, thu nhập bình quân của
người lao động, sức ép về việc làm cho lao động nông nghiệp là rất khác nhau
giữa các huyện của thủ đô Hà Nội, trong khi đó các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội, giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới đều được
áp dụng chung cho cả nước trong đó có thành phố Hà Nội. Luận án cho rằng,
điều đó không thể phù hợp với thực tiễn của mỗi địa phương, đòi hỏi phải có
một nghiên cứu riêng mới có thể giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Đây là những điểm mà các công trình
nghiên cứu trước đó về việc làm chưa đề cập đến.
2. Luận án đã phân tích mối quan hệ của việc làm cho lao động nông
nghiệp với quá trình xây dựng nông thôn mới. Làm rõ và phân tích đặc điểm của
lao động nông nghiệp nói chung và lao động nông nghiệp trong quá trình xây
dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội. Kết quả cho thấy quá trình xây đựng nông
thôn mới và việc làm cho lao động nông nghiệp có tác động qua lại lẫn nhau.
Nhu cầu việc làm thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới diễn ra và quá
trình nông thôn mới có tác động ngược lại tới việc làm cho lao động nông
nghiệp. Những tác động của quá trình xây dựng nông thôn mới tới việc làm cho
lao động là tích cực nếu quá trình xây dựng nông thôn mới được diễn ra đồng
bộ, đúng hướng và có hiệu quả, và chưa tích cực nếu quá trình xây dựng nông
162
thôn mới diễn ra chậm, thiếu những định hướng, chính sách và sự chỉ đạo sâu
sát từ các cấp lãnh đạo.
3. Luận án đã phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội gắn với thời kỳ xây dựng nông thôn mới.
Đưa ra một cái nhìn tổng thể nhất về thực trạng việc làm và giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô
giai đoạn 2008 – 2013. Theo đó quá trình xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội đã
kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu về kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng tăng
dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Một lượng không nhỏ người lao động nông nghiệp có nhu cầu được đào tạo và
chuyển sang lao động tại các ngành nghề mới. Hà Nội đã thực hiện chính sách
giải quyết việc làm, xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp.
Các chính sách này đã bước đầu đem lại một số kết quả tích cực nhưng chưa
thực sự đem lại hiệu quả cao. Những hạn chế này có nguyên nhân từ nhiều mặt:
cung lao động tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của cầu lao động nông nghiệp,
tỷ trọng việc làm bền vững tăng chậm, quản lý nhà nước đối với thị trường lao
động còn khó khăn, bất cập, trình độ năng lực của các cán bộ quản lý và của
người lao động nông nghiệp còn kém, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ
cao trong sản xuất thấp. Sự chênh lệch về tốc độ xây dựng nông thôn mới giữa
các địa phương trên địa bàn Hà Nội là nguyên nhân chính gây ra sự chưa phù
hợp của chính sách giải quyết việc làm ở Thủ đô với từng địa phương , đòi hỏi
phải có định hướng, chính sách phù hợp với từng địa phương để giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp thực sự hiệu quả.
4. Để đánh giá sự tương tác giữa việc làm cho lao động nông nghiệp và
quá trình xây dựng nông thôn mới, luận án dựa vào điều kiện tự nhiên kinh tế xã
hội và kết quả xây dựng nông thôn mới của các huyện trên địa bàn thành phố Hà
Nội để chọn huyện điều tra. Trong đó chọn lựa mẫu điều tra tại huyện Từ Liêm,
163
huyện Phúc Thọ, Ba Vì. Luận án tiến hành phân tích so sánh các tiêu chí của các
huyện trên về cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo trình độ văn hoá và
trình độ chuyên môn, cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo ngành nghề,
cơ cấu lao động nông nghiệp phân loại theo độ tuổi, giới tính, phân bố lao động
nông nghiệp phân loại theo vùng, tỷ lệ lao động nông nghiệp có việc làm và lao
động nông nghiệp thiếu việc làm. Qua quá trình phân tích, so sánh rút ra được: ở
toàn bộ các tiêu chí, huyện Từ Liêm đều có những thay đổi tích cực hơn hai
huyện Ba Vì và Phúc Thọ trong giai đoạn 2008 – 2013. Qua điều tra tại huyện
Từ Liêm Luận án cho rằng lao động nông thôn chuyển dịch từ lao động nông
nghiệp sang lao động dịch vụ và công nghiệp tăng gấp nhiều lần so với số lao
động nông nghiệp bị mất việc làm do thu hồi hết diện tích đất sản xuất nông
nghiệp. Hơn nữa thu nhập của số lao động này ngày càng ổn định, nâng cao và
người lao động nông nghiệp ở huyện Từ Liêm có trình độ tay nghề, vốn đầu tư
đã mở rộng sản xuất, thuê đất canh tác ở các địa phương khác trồng các loại
nông sản, hoa màu có giá trị kinh tế cao, tạo nhiều việc làm tại chỗ và việc làm
cho lao động ở các địa phương này. Trong khi đó ở huyện Ba Vì và Phúc Thọ vì
quá trình xây dựng nông thôn mới chưa được đồng bộ nên tỷ lệ lao động nông
nghiệp mất việc làm do thu hồi đất cao, trình độ lao động thấp và quá trình đào
tạo nghề chưa thực sự hiệu quả khiến cho một lượng lớn lao động nông nghiệp
thiếu việc làm, thu nhập của người lao động nông nghiệp cũng thấp hơn do chưa
áp dụng có hiệu quả khoa học công nghệ trong sản xuất.
5. Từ những kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đưa ra hai
nhóm giải pháp chính giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030:
* Nhóm giải pháp chung (năm giải pháp) về xây dựng nông thôn mới có
tác động toàn diện tới việc nâng cao đời sống của nông dân và giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
164
* Nhóm giải pháp cụ thể (chín giải pháp), trực tiếp đến giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới của thủ
đô Hà Nội:
Với những căn cứ lý luận và thực tiễn về vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô cùng với
kết quả nghiên cứu mối quan hệ tác động của kết quả thực hiện các tiêu chí xây
dựng nông thôn mới tới việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội, ở các huyện của thủ đô.
Luận án đã đề xuất năm giải pháp chung và chín giải pháp cụ thể, tạo thành một
hệ thống giải pháp đồng bộ, khoa học và có tính khả thi cao trong việc giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Thủ đô Hà Nội.
165
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arnab K. Basu (2011), Impact of Rural Employment Guarantee Schemes on
Seasonal Labor Markets: Optimum Compensation and Workers' Welfare,
Vol. 5, Viện Nghiên cứu lao động Đức.
2. Bùi Anh Tuấn (2011), Tạo việc làm cho người lao động qua trục đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
3. Bùi Quang Dũng (2009-2010), Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn
năm 2009 (Lao động và việc làm nông thôn), Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam.
4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 23, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Tư bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Jennifer Cheung (2012), "China's Inland Growth Gives Rural Laborers More
Opportunities Near Home", Forbes(8).
7. Chi Cục Thống kê huyện Ba Vì (2011), Niên giám thống kê Ba Vì 2011.
8. Chi Cục Thống kê huyện Ba Vì (2013), Niên giám thống kê Ba Vì 2013
9. Chi Cục Thống kê huyện Từ Liêm (2011), Niên giám thống kê Từ Liêm
2011.
10. Chi Cục Thống kê huyện Từ Liêm (2012), Niên giám thống kê Từ Liêm
2012.
11. Chi Cục Thống kê huyện Từ Liêm (2013), Niên giám thống kê Từ Liêm
2013.
12. Chính phủ (2008), Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 7 Của Ban chấp hành Trung ương Khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
13. Chính phủ (2009), Quyết định phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020.
166
14. Chu Văn Cấp, chủ biên (2007), Lịch sử các học thuyết kinh tế (tập bài
giảng), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2008), Niên giám thống kê Hà Nội 2008.
16. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2010), Niên giám thống kê Hà Nội 2010.
17. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2011), Niên giám thống kê Hà Nội 2011.
18. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2012), Niên giám thống kê Hà Nội 2012.
19. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2013), Báo phát triển kinh tế - xã hội
thành phố Hà Nội năm 2013, Hà Nội.
20. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2013), Báo phát triển kinh tế - xã hội
thành phố Hà Nội năm 2013.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
5 Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá IX).
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008
của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá X), về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
23. Đinh Đặng Định, chủ biên (2004), Một số vấn đề lao động, việc làm và đời
sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, NXB Lao động, Hà Nội.
24. Đỗ Thế Tùng, chủ biên (2000), Giáo trình kinh tế chính trị (chương trình
cao cấp), Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đỗ Tiến Sâm, chủ biên (2007), Vấn Đề Tam Nông Ở Trung Quốc: Thực
Trạng Và Giải Pháp, NXB Từ Điển Bách Khoa.
26. Jonna Estudillo và các cộng sự. (2013), "Labor markets, occupational
choice, and rural poverty in four Asian countries", Tạp chí Kinh tế
Philippines(6).
27. Francesco Caselli (1996), "Thị trường lao động và tín dụng nông thôn", Tạp
chí Phát triển kinh tế, Mỹ (4).
167
28. Tuan Francis, Somwaru Agapi và Diao Xinshen (2000), Lao động nông thôn
di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa trên điều tra nông
nghiệp Trung Quốc, The International Food Policy Research Institute
(IFPRI).
29. Nolwen Heraff và Jean Yves Martin (2001), Lao động, việc làm và nguồn
nhân lực ở Việt Nam sau 15 năm đổi mới, NXB Thế giới mới, Hà Nội.
30. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Kinh tế học
phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội (2010), Về xây dựng nông thôn mới
thành phố Hà Nội giai đoạn 2010-2020, định hướng 2030, Nghị quyết
03/2010/NQ-HĐND, ngày 21/4/2010.
32. John Maynard Keynes (1994), Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Li Luping (2009), Biến đổi thu nhập hộ gia đình ở nông thôn Trung Quốc,
Hội thảo quốc tế về kinh tế nông nghiệp, Bắc Kinh, Trung Quốc.
34. Ren Mu và Dominique van de Walle (2006), Left Behind to Farm? -
Women’s Labor Re-Allocation in Rural China, World Bank.
35. Nguyễn Hữu Dũng (1994-1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính
sách giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyến sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, Đề tài KX.04, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
36. Nguyễn Hữu Dũng (2008), "Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động
việc làm", Tạp chí Cộng sản. 5(149).
37. Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Hữu Quỳnh, chủ biên (1998), Đại Từ điển kinh tế thị trường, Viện
nghiên cứu và phát triển kiến thức Bách Khoa, Hà Nội.
39. Nguyễn Khắc Thanh (2007), "Một số vấn đề trong tư duy, nhận thức về phát
triển thị trường sức lao động", Tạp chí Cộng sản. 23(143).
168
40. Nguyễn Lương Trào (1993), Mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc đưa
lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Luận án PTS khoa
học Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
41. Nguyễn Sinh Cúc (2013), "Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau
25 năm thực hiện Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khóa VI)", Tạp chí Kinh
tế và Quản lý (6).
42. Nguyễn Thị Lan Hương, chủ biên (2002), Thị trường lao động Việt Nam
định hướng và phát triển, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
43. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình
đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, NXB Lao động - Xã hội
44. Nguyễn Tiệp (2008), "Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển
đổi mục đích sử dụng đất", Tạp chí Cộng sản. 7(151).
45. Nguyễn Trần Dương (2006), Hiện trạng cung - cầu nguồn lao động kỹ thuật
thành phố Hồ Chí Minh và định hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai
đoạn tới 2010, Đề tài cấp Bộ, Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ
Chí Minh.
46. Nguyễn Xuân Khoát (2007), Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn Việt Nam, NXB Đại học Huế.
47. Phạm Đức Chính (2010), Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực
sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý Hành chính
công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
48. Quốc hội (1994), Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/06/1994.
49. David Slandes (2001), Sự giàu nghèo của các dân tộc, NXB Thống kê, Hà
Nội.
50. Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội (2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030.
169
51. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2012), Báo cáo Kết quả thực
hiện thu thập thông tin cung, cầu lao động trên địa bàn thành phố năm
2012.
52. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2012), Báo cáo Lao động,
việc làm thành phố Hà Nội.
53. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo
Tổng kết 5 năm hoạt động Sàn giao dịch việc làm trên địa bàn Hà Nội (
2007 - 2012 ) và phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2013 – 2015, Hà Nội.
54. Thành ủy Hà Nội (2011), Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới,
từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011 - 2015, Chương trình
số 02-Ctr/TU, ngày 29/08/2011.
55. Thành ủy Hà Nội (2011), Về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011-2015 Chương
trình số 02-CTr/TU, ngày 29/8/2011.
56. Trần Đình Hoan (1996), "Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước
ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản (1).
57. Trần Thị Bích Hạnh (2004), Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các tình
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
58. UBND thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương
trình 02-CTr/TU của Thành ủy, tổng kết xây dựng mô hình nông thôn mới
tại các xã làm điểm và công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Hà Nội.
59. UBND thành phố Hà Nội (2013), Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và
kế hoạch sử dụng đất 5 năm chu kỳ đầu (2011 - 2015) của thành phố Hà
Nội, Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 09/01/2013.
60. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Dự án HAIDEP, Hà Nội.
170
61. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Đề án tiếp tục phát triển thị
trường lao động thành phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020, Hà Nội.
62. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Phê duyệt chương trình giải
quyết việc làm thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015, Quyết định số
3510/QĐ-UBND ngày 16/7/2010.
63. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2011), Về phát triển văn hóa - xã hội
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch,
văn minh giai đoạn 2011- 2015, Kế hoạch số 157/KH-UBND, ngày
30/12/2011 của UBND Thành phố về chương trình 04/CTr-TU, ngày
18/10/2011 của Thành ủy Hà Nội.
64. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg trên địa bàn thành phố Hà Nội, Kế
hoạch số 112/KH-UBND ngày 24/08/2012.
65. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2012), Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-Ttg trên địa bàn thành phố Hà Nội, Kế
hoạch số 112/KH-UBND ngày 24/8/2012, Hà Nội.
66. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo Tình hình thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
67. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Đề án tổ chức, nâng cao hiệu
quả hoạt động sàn giao dịch việc làm thành phố Hà Nội giai đoạn 2013-
2015 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
171
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Lao động Nông, Lâm Nghiệp và Thủy sản phân theo nhóm tuổi chia theo đơn vị hành chính
Đơn vị tính:Người
Chia ra
Tổng
Dưới 20
Từ 20 - 30
Từ 30 - 40
Từ 40 - 50
Từ 50 - 55
Từ 55 - 60 tuổi
số
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
(Riêng đối với lao động nam )
666.429
20.090
128.564
152.107
206.048
122.732
36.888
Tổng số
5.468
6.080
8.237
4.781
26.790
702
1.522
Khu vực quận
1.226
5
113
252
543
245
68
- Tây Hồ
- Long Biên
2.338
20
253
362
892
617
194
- Hoàng Mai
1.852
39
303
347
598
427
138
21.374
638
4.799
5.119
6.204
3492
1.122
- Hà Đông
639.639
19.388
35.366
123.096
146.027
197.811
117.951
Khu vực huyện, thị xã
53.058
1.599
9.780
12.446
16.842
9.615
2.776
- Sóc Sơn
39.251
508
4.432
8.701
14.097
9.152
2.361
- Đông Anh
- Gia Lâm
26.732
459
3.110
5.742
9.349
6.239
1.833
12.987
260
2.513
3.051
3.811
2.622
730
- Từ Liêm
- Thanh Trì
13.374
334
2.000
4.438
3.002
866
172
123.096
146.027
197.811
117.951
35.366
639.639
19.388
Khu vực huyện, thị xã
53.058
1.599
12.446
9.780
16.842
9.615
2.776
- Sóc Sơn
8.701
4.432
14.097
9.152
39.251
508
2.361
- Đông Anh
5.742
3.110
9.349
6.239
26.732
459
1.833
- Gia Lâm
3.051
2.513
3.811
2.622
12.987
260
730
- Từ Liêm
2.734
2.000
4.438
3.002
13.374
334
866
- Thanh Trì
11.439
9.035
14.816
7.690
46.099
887
2.232
- Mê Linh
4.148
3.016
4.915
3.012
16.520
515
914
- Sơn Tây
20.966
24.293
13.275
3.352
20.071
85.637
3.680
- Ba Vì
6.584
4.691
9.124
6.071
29.011
727
1.814
- Phúc Thọ
3.618
3.022
5.432
3.997
17.728
407
1.252
- Đan Phượng
6.312
6.060
7.940
4.973
28.003
1.011
1.707
- Hoài Đức
7.901
7.625
9.731
5.861
34.024
1.225
1.681
- Quốc Oai
9.567
8.368
11.145
6.062
37.927
1.116
1.669
- Thạch Thất
12.792
12.828
16.137
9.338
55.981
1.884
3.002
- Chương Mỹ
4.518
4.102
6.691
4.331
22.023
714
1.667
- Thanh Oai
3.075
2.561
5.265
3.727
16.397
475
1.294
- Thường Tín
5.245
3.632
8.949
5.401
25.739
764
1.748
- Phú Xuyên
7.389
5.564
11.242
6.318
33.636
1.049
2.074
- Ứng Hòa
9.799
10.686
13.594
7.265
45.512
2.102
2.066
- Mỹ Đức
173
Phụ lục 2: Cơ Cấu lao động Nông, Lâm Nghiệp và Thủy sản
phân theo nhóm tuổi chia theo đơn vị hành chính
Đơn vị tính:Người
Chia ra
Tổng
Từ 55 - 60 tuổi
số
Dưới 20
Từ 30 - 40
Từ 20 - 30 tuổi
Từ 40 - 50 tuổi Từ 50 - 55 tuổi
(Riêng đối với lao
tuổi
tuổi
động nam )
666.429
20.090
128.564
152.107
206.048
122.732
36.888
Tổng số
26.790
702
6.080
5.468
8.237
4.781
1.522
Khu vực quận
1.226
5
252
113
543
245
68
- Tây Hồ
2.338
20
362
253
- Long Biên
892
617
194
1.852
39
347
303
- Hoàng Mai
598
427
138
21.374
638
5.119
4.799
6.204
3.492
1.122
- Hà Đông
146.027
12.446
8.701
5.742
3.051
639.639
53.058
39.251
26.732
12.987
13.374
19.388
1.599
508
459
260
334
123.096
9.780
4.432
3.110
2.513
2.000
Khu vực huyện, thị xã
-
Sóc Sơn
Đông Anh
-
Gia Lâm
-
Từ Liêm
-
Thanh Trì
-
197.811
16.842
14.097
9.349
3.811
4.438
117.951
9.615
9.152
6.239
2.622
3.002
35.366
2.776
2.361
1.833
730
866
174
Chia ra
Tổng
Từ 55 - 60 tuổi
số
Dưới 20
Từ 20 - 30
Từ 30 - 40
Từ 40 - 50
Từ 50 - 55
(Riêng đối với
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
lao động nam )
35.366
2.776
2.361
1.833
730
866
2.232
914
639.639
53.058
39.251
26.732
12.987
13.374
46.099
16.520
85.637
29.011
17.728
28.003
34.024
37.927
55.981
22.023
16.397
25.739
33.636
45.512
19.388
1.599
508
459
260
334
887
515
3.352
727
407
1.011
1.225
1.116
1.884
714
475
764
1.049
2.102
123.096
9.780
4.432
3.110
2.513
2.000
9.035
3.016
20.071
4.691
3.022
6.060
7.625
8.368
12.828
4.102
2.561
3.632
5.564
10.686
146.027
12.446
8.701
5.742
3.051
2.734
11.439
4.148
20.966
6.584
3.618
6.312
7.901
9.567
12.792
4.518
3.075
5.245
7.389
9.799
197.811
16.842
14.097
9.349
3.811
4.438
14.816
4.915
24.293
9.124
5.432
7.940
9.731
11.145
16.137
6.691
5.265
8.949
11.242
13.594
3.680
1.814
1.252
1.707
1.681
1.669
3.002
1.667
1.294
1.748
2.074
2.066
117.951
9.615
9.152
6.239
2.622
3.002
7.690
3.012
13.275
6.071
3.997
4.973
5.861
6.062
9.338
4.331
3.727
5.401
6.318
7.265
Khu vực huyện, thị xã
-
Sóc Sơn
-
Đông Anh
Gia Lâm
-
Từ Liêm
-
Thanh Trì
-
Mê Linh
-
-
Sơn Tây
Ba Vì
-
Phúc Thọ
-
Đan Phượng
-
Hoài Đức
-
Quốc Oai
-
Thạch Thất
-
-
Chương Mỹ
Thanh Oai
-
Thường Tín
-
Phú Xuyên
-
Ứng Hòa
-
Mỹ Đức
-
175
NHỮNG ĐIỀU GHI TRÊN
BAN CHỈ ĐẠO TỔNG ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN 2011
PHIẾU ĐƯỢC BẢO MẬT
PHỤ LỤC 3: Mẫu phiếu điều tra tình hình lao động nông nghiệp ở các huyện
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN VỀ TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA HỘ
THEO LUẬT THỐNG KÊ
Hộ số:
Phiếu số 01/TĐTNN-HO
ĐÂY LÀ TỜ PHIẾU SỐ
TRONG TỜ PHIẾU CỦA HỘ
Mẫu các chữ số
Tỉnh/thành phố trực thuộc TW: ..........................................................................
Huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh: ..........................................................
Xã/phường/thị trấn: .............................................................................................
Thôn/ấp/bản: ........................................................................................................
Tên địa bàn điều tra: ............................................................................................
Địa bàn điều tra số:
Họ và tên chủ hộ: ................................................................................................
Dân tộc.............................
Nếu là hộ độc thân sống tập thể làm việc ở khu công nghiệp, khu chế xuất khu vực nông thôn thì đánh dấu x vào ô
PHẦN I. HỘ, NHÂN KHẨU, BẢO HIỂM Y TẾ
(CÂU 1 VÀ CÂU 2 DO TỔ TRƯỞNG ĐIỀU TRA GHI – TỔ TRƯỞNG CĂN CỨ VÀO DANH SÁCH HỘ NGHÈO VÀ HỘ CẬN NGHÈO CỦA XÃ ĐỂ XÁC ĐỊNH)
CÓ >> CÂU 3
1
176
1. HỘ CÓ THUỘC DIỆN HỘ NGHÈO NĂM 2010 THEO CHUẨN NGHÈO MỚI CỦA QUỐC GIA KHÔNG?
(ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)
KHÔNG
2
CÓ
1
2. HỘ CÓ THUỘC DIỆN HỘ CẬN NGHÈO NĂM 2010 THEO CHUẨN NGHÈO MỚI CỦA QUỐC GIA KHÔNG?
(ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)
KHÔNG
2
3. Số nhân khẩu của hộ? (NHỮNG NGƯỜI THỰC TẾ THƯỜNG TRÚ TẠI HỘ)
4. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của hộ?
NAM TỪ 15 ĐẾN DƯỚI 60 TUỔI (SINH TỪ 1952 ĐẾN 1996)
NỮ TỪ 15 ĐẾN DƯỚI 55 TUỔI (SINH TỪ 1957 ĐẾN 1996)
5. Số người tham gia bảo hiểm y tế của hộ?
(BAO GỒM TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ, KỂ CẢ HỌC SINH, SINH VIÊN VÀ TRẺ EM DƯỚI 6 TUỔI)
PHẦN II. LAO ĐỘNG, NGUỒN THU VÀ NGÀNH SẢN XUẤT CHÍNH CỦA HỘ
I. NHỮNG NGƯỜI TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG CÓ KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG (TRỪ HỌC SINH, SINH VIÊN CÒN ĐANG ĐI HỌC) VÀ NHỮNG NGƯỜI TRÊN TUỔI LAO ĐỘNG
THỰC TẾ ĐANG LAO ĐỘNG
SỐ THỨ TỰ
NGƯỜI THỨ 1
NGƯỜI THỨ 2
NGƯỜI THỨ 3
NGƯỜI THỨ 4
NGƯỜI THỨ 5
NGƯỜI THỨ 6
CÂU HỎI
(CHỦ HỘ)
6. Tên
......................................................................................................................................................
..............................
7. Tuổi (TÍNH THEO DƯƠNG LỊCH = 2011 - NĂM SINH)
8. Giới tính (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)
NAM
1
1
NAM
1
NAM
1
NAM
1
NAM
1
NAM
NỮ
2
2
NỮ
2
NỮ
2
NỮ
2
NỮ
2
NỮ
9. Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất của [TÊN]?
(GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô)
CHƯA QUA ĐÀO TẠO
1=
ĐÃ QUA ĐÀO TẠO NHƯNG KHÔNG CÓ CHỨNG CHỈ
2=
SƠ CẤP NGHỀ
3=
TRUNG CẤP NGHỀ, TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
4=
CAO ĐẲNG NGHỀ
5=
CAO ĐẲNG
6=
ĐẠI HỌC TRỞ LÊN
7=
177
10. Việc làm chiếm thời gian nhiều nhất trong 12 tháng qua
của [TÊN] là gì? (GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô)
01=
NÔNG NGHIỆP
XÂY DỰNG
06=
02=
LÂM NGHIỆP
THƯƠNG NGHIỆP
07=
03=
THỦY SẢN
VẬN TẢI
08=
04=
DIÊM NGHIỆP
DỊCH VỤ KHÁC
09=
05=
CÔNG NGHIỆP (KHÔNG
10=
KHÔNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ >> HỎI
BAO GỒM DIÊM NGHIỆP)
NGƯỜI TIẾP THEO
11. Hình thức của công việc chiếm thời gian nhiều nhất
trong 12 tháng qua của [TÊN] là gì? (GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP
VÀO Ô)
TỰ LÀM CHO GIA ĐÌNH
1=
LÀM NHẬN TIỀN CÔNG, TIỀN LƯƠNG
2=
12. Việc làm chiếm thời gian nhiều thứ hai trong 12 tháng
qua của [TÊN] là gì?
(XEM CÁCH ĐÁNH MÃ Ở CÂU 10 ĐỂ GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô)
13. Ai trong số những người trên là người quyết định hoạt động kinh tế của hộ?
(NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH, QUYẾT ĐỊNH CÁC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CỦA HỘ)
(ĐTV GHI MÃ THEO SỐ THỨ TỰ Ở TRƯỚC CÂU 6)
Mẫu các chữ số
Hộ số
II. Nguồn thu, ngành sản xuất chính của hộ (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)
NÔNG, LÂM, THỦY SẢN VÀ DIÊM NGHIỆP
NÔNG NGHIỆP
XÂY DỰNG
1
6
1
178
14. Nguồn thu nhập (ĐÃ TRỪ CHI PHÍ)
16. Ngành sản xuất chính
lớn nhất của hộ trong 12 tháng
của hộ trong 12 tháng
CÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG (>>CÂU 16)
LÂM NGHIỆP
THƯƠNG NGHIỆP
2
7
2
qua?
qua?
THƯƠNG NGHIỆP, VẬN TẢI, DỊCH VỤ KHÁC (>>CÂU
THỦY SẢN
VẬN TẢI
8
3
3
16)
4
9
DIÊM NGHIỆP
DỊCH VỤ KHÁC
4
NGUỒN KHÁC (KHÔNG TỪ SẢN XUẤT KINH DOANH) (>>CÂU
5
CÔNG NGHIỆP (KHÔNG BAO
10
HỘ KHÁC
16)
GỒM DIÊM NGHIỆP)
NÔNG NGHIỆP
THUỶ SẢN
3
1
15. Nguồn thu nhập lớn nhất của
hộ từ nông, lâm, thủy sản và diêm
LÂM NGHIỆP
DIÊM NGHIỆP
4
2
nghiệp trong 12 tháng qua?
PHẦN III. DIỆN TÍCH ĐẤT SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẤT LÂM NGHIỆP, DIỆN TÍCH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN, ĐẤT LÀM MUỐI
(TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)
17. Đất hộ sử dụng (GỒM CẢ ĐẤT ĐI THUÊ, ĐI MƯỢN, ĐẤU THẦU; KHÔNG TÍNH ĐẤT CHO THUÊ, CHO MƯỢN)
Trong đó
c. Tổng diện tích (m2)
a. Loại đất
b. Số thửa/mảnh
c1. Đất của hộ (m2)
c2. Đất hộ đi thuê, mượn,
đấu thầu (m2)
1. Đất trồng cây hàng năm
1a. Trong đó: Đất lúa
2. Đất trồng cây lâu năm
3. Đất lâm nghiệp
3a. Trong đó: Đất có rừng trồng
tập trung đạt tiêu chuẩn rừng
4. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản
5. Diện tích đất làm muối
179
18. Diện tích đất hộ cho thuê, cho mượn (m2)
PHẦN IV. DIỆN TÍCH GIEO TRỒNG, CHĂN NUÔI VÀ THỦY SẢN
CÓ 2
KHÔNG >> CÂU 21
19. Trong 12 tháng qua hộ [Ông/bà] có trồng các loại cây nông nghiệp không? (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP) 1
20. Diện tích gieo trồng một số cây chủ yếu
I. Cây hàng năm (MỖI VỤ TRONG NĂM TÍNH 1 LẦN DIỆN TÍCH)
II. Cây lâu năm (CÓ ĐẾN 01/7/2011)
c. Số cây lâu năm
a. Loại cây
b. Tổng diện tích trồng (m2)
a. Loại cây
b. Tổng diện tích trồng (m2)
trồng phân tán
b1. Trong đó: Diện tích cho
sản phẩm (m2)
cho sản phẩm
1. Lúa hè thu 2010
1. Xoài
(cây)
2. Lúa thu đông/vụ 3 -
2. Sầu riêng
2010
3. Lúa mùa 2010
3. Măng cụt
4. Lúa đông xuân 2011
4. Mít
5. Ngô/bắp
5. Cam, quýt
6. Khoai lang
6. Bòng, bưởi
7. Sắn/mỳ
7. Nhãn
8. Mía
8. Vải, chôm chôm
9. Đậu tương
9. Dừa
10. Lạc/đậu phộng
10. Điều/Đào lộn hột
11. Rau các loại
11. Hồ tiêu
12. ……..
12. Cao su
13. ..........
13. Cà phê
14. ..........
14. Chè búp
15. ..........
15. ...................
16. ..........
16. ..................
180
Mẫu các chữ số
Hộ số
1
CÓ 2
KHÔNG >> CÂU 23
181
21. Tại thời điểm 01/7/2011 hộ [Ông/bà] có chăn nuôi không? (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)
22. Chăn nuôi (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)
a. Loại vật nuôi
b. Số lượng (con)
a. Loại vật nuôi
b. Số lượng (con)
1. Trâu
6. Gà
6a. Trong đó: Gà công nghiệp
2. Bò
2.1. Bò sữa
6.1. Gà mái đẻ
2.1a. Trong đó: Bò cái sữa
6.1a. Trong đó: Gà công nghiệp
3. Dê
7. Vịt
7a. Trong đó: Vịt đẻ
4. Cừu
5. Lợn/heo (KHÔNG KỂ LỢN SỮA)
8. Ngan/vịt xiêm, ngỗng
5.1. Lợn/heo nái
9. Ong (ĐÀN)
Chia ra
5.2. Lợn/heo đực giống
10. …………………......
5.3. Lợn/heo thịt
11. ………………………
CÓ 2
KHÔNG >> CÂU 26
23. Trong 12 tháng qua hộ [Ông/bà] có nuôi trồng thủy sản (kể cả nuôi thuỷ sản lồng, bè) không? (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP) 1
24. Nuôi trồng thủy sản trong 12 tháng qua (không bao gồm nuôi thủy sản lồng, bè)
d. Diện tích nuôi
e. Thể tích
a. Diện tích nuôi cá
(m2)
b. Diện tích nuôi tôm
(m2)
c. Diện tích nuôi thuỷ sản khác
(m2)
giống thuỷ sản
(m2)
bể, bồn nuôi
giống (m3)
182
Tổng số (=1+2+3)
1. Nuôi nước ngọt
Chia ra
2. Nuôi nước lợ
3. Nuôi nước mặn
4. Nuôi trong ruộng lúa
xxxx
xxxx
xxxx
xxxx
Trong
tổng số 5. Nuôi thâm canh, bán
thâm canh
25. Nuôi thuỷ sản lồng, bè (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)
a1. Trong đó:
a. Tổng số lồng, bè nuôi (cái)
b. Thể tích lồng, bè nuôi (m3)
Số lồng bè nuớc ngọt (cái)
b1. Trong đó: Thể tích lồng,
bè nước ngọt (m3)
1. Cá
2. Tôm
3. Thuỷ sản khác
PHẦN V. MÔI TRƯỜNG SỐNG VÀ ĐỒ DÙNG CHỦ YẾU CỦA HỘ (ĐÁNH DẤU X VÀO MỘT Ô THÍCH HỢP)
CÓ
CỦI
1
1
26. Hộ có sử dụng điện không?
31. Hộ sử dụng loại chất đốt chủ yếu
nào để đun nấu?
KHÔNG >> CÂU 28
THAN
2
2
GAS CÔNG NGHIỆP
3
ĐIỆN LƯỚI QUỐC GIA
1
27. Hộ sử dụng nguồn điện nào là chính?
BIOGA
4
NGUỒN ĐIỆN KHÁC
2
ĐIỆN
5
NƯỚC MÁY RIÊNG
1
28. Hộ sử dụng nguồn nước chính nào
dùng cho ăn, uống?
NGUỒN KHÁC
6
NƯỚC MÁY CÔNG CỘNG
NHÀ TẮM XÂY
1
2
183
32. Hộ đang sử dụng loại nhà tắm nào
là chính?
NHÀ TẮM KHÁC
NƯỚC MUA (XI TÉC, BÌNH...)
2
3
KHÔNG CÓ NHÀ TẮM
NƯỚC GIẾNG KHOAN
3
4
NƯỚC GIẾNG ĐÀO/GIẾNG KHƠI
5
HỐ XÍ TỰ HOẠI/BÁN TỰ HOẠI TRONG NHÀ
1
33. Hộ đang sử dụng loại hố xí nào là
chính?
NƯỚC KHE, NƯỚC SUỐI
6
HỐ XÍ TỰ HOẠI/BÁN TỰ HOẠI NGOÀI NHÀ
2
HỐ XÍ THẤM DỘI NƯỚC (SUILABH)
3
NƯỚC SÔNG, HỒ, AO
CÓ
29. Hộ có dùng hệ thống lọc hoặc hoá
HỐ XÍ KHÁC
4
chất để xử lý nước ăn, uống không?
NƯỚC MƯA
KHÔNG
NƯỚC KHÁC (GHI RÕ____________________)
7
1
8
2
9
KHÔNG CÓ HỐ XÍ
5
NƯỚC MÁY RIÊNG
CÓ NGƯỜI ĐẾN THU GOM
1
1
30. Hộ sử dụng nguồn nước chính nào
34. Hộ xử lý rác thải sinh hoạt bằng
dùng cho sinh hoạt?
hình thức chủ yếu nào?
MANG ĐẾN HỐ RÁC TẬP TRUNG
NƯỚC MÁY CÔNG CỘNG
2
2
CHÔN, ĐỐT
NƯỚC MUA (XI TÉC, BÌNH...)
3
3
VỨT BẤT KỂ CHỖ NÀO
NƯỚC GIẾNG KHOAN
4
4
KHÁC (GHI RÕ________________________)
NƯỚC GIẾNG ĐÀO/GIẾNG KHƠI
5
5
NƯỚC KHE, NƯỚC SUỐI
6
RÃNH THOÁT CÓ NẮP ĐẬY
1
35. Hệ thống thoát nước thải chủ yếu
của hộ thuộc loại gì?
NƯỚC SÔNG, HỒ, AO
7
RÃNH THOÁT HỞ
2
NƯỚC MƯA
8
HÌNH THỨC KHÁC
3
NƯỚC KHÁC (GHI RÕ____________________)
9
KHÔNG CÓ HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC THẢI
4
Mẫu các chữ số
Hộ số
184
36. Một số đồ dùng chủ yếu của hộ (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)
Loại
Số lượng (cái)
Loại
Số lượng (cái)
Loại
Số lượng (cái)
6. Điện thoại cố định*
11. Quạt điện các loại
1. Xe máy
7. Điện thoại di động
12. Bình tắm nóng lạnh
2. Ti vi màu
8. Máy điều hòa
13. Lò vi sóng, lò nướng
3. Đầu video/VCD/DVD
9. Máy giặt
14. Máy vi tính
4. Radio, cassettes
14a. Trong đó: - Số máy tính kết nối
10. Tủ lạnh, tủ đá
5. Dàn nghe nhạc
Internet
GỒM CẢ ĐIỆN THOẠI CỐ ĐỊNH KHÔNG DÂY; MỘT THUÊ BAO ĐIỆN THOẠI CỐ ĐỊNH NẾU CÓ LẮP THÊM NHIỀU MÁY CŨNG CHỈ TÍNH LÀ MỘT ĐIỆN THOẠI
GHI CHÚ: *
PHẦN VI. MÁY MÓC, THIẾT BỊ CHỦ YẾU (TẠI THỜI ĐIỂM 01/7/2011)
I. Máy kéo (MÁY CÀY, BỪA, XỚI...)
II. Tàu, thuyền, xuồng vận tải có động cơ
Công suất (CV)
Loại tàu, thuyền, xuồng
Số lượng (chiếc)
Tổng công suất (CV)
41. Tàu, thuyền, xuồng vận tải hàng
37. Máy kéo thứ nhất
hóa
42. Tàu, thuyền, xuồng vận tải hành
38. Máy kéo thứ hai
khách
43. Tàu, thuyền, xuồng dịch vụ thuỷ
39. Máy kéo thứ ba
sản
……………………….
40. Máy kéo thứ tư
185
III. Máy móc, thiết bị khác
Số lượng
Loại máy, thiết bị
Số lượng (chiếc)
Loại máy, thiết bị
(chiếc)
44. Ô tô (TỔNG SỐ)
49. Máy gặt đập liên hợp
44a. Trong đó: Ô tô vận tải hàng hoá
50. Máy gặt khác (MÁY GẶT XẾP HÀNG, MÁY GẶT CẦM TAY…)
45. Máy phát lực chạy bằng động cơ điện
51. Máy cắt, xén (MÁY CẮT CỎ, CẮT CÀNH, XÉN CÂY...)
46. Máy phát lực chạy bằng động cơ xăng, dầu diezen
52. Máy tuốt lúa có động cơ
47. Máy phát điện
53. Lò, máy sấy sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản
54. Máy chế biến lương thực (XAY XÁT, ĐÁNH BÓNG, PHÂN
48. Máy/giàn gieo sạ
LOẠI)
Số lượng
Loại máy, thiết bị
Số lượng (chiếc)
Loại máy, thiết bị
(chiếc)
55. Máy chế biến thức ăn gia súc (NGHIỀN, TRỘN …)
59. Bình phun thuốc trừ sâu có động cơ
56. Máy chế biến thức ăn thuỷ sản (NGHIỀN, TRỘN, ÉP ĐÙN…)
60. Thuyền, xuồng đánh bắt thuỷ sản không động cơ
57. Máy sục khí, đảo nước dùng trong nuôi thủy sản
61. Máy chế biến gỗ (CƯA, XẺ, PHAY, BÀO...)
62. Máy khác (GHI
58. Máy bơm nước dùng cho sản xuất nông, lâm, thủy sản
RÕ....................................................................................)
186
63. Tầu, thuyền, xuồng khai thác thuỷ sản có động cơ
c. Nghề khai thác chính
f. Phạm vi khai thác chủ yếu
(GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô )
a. Công suất
b. Chiều dài
d. Số ngày khai
(GHI MỘT MÃ THÍCH HỢP VÀO Ô )
01= KÉO ĐƠN
06= VÂY ÁNH SÁNG
e. Số chuyến
1= TRONG ĐẤT LIỀN
máy chính
thân tàu
thác bình
02= KÉO ĐÔI
07= CÂU MỰC
2= VÙNG BIỂN VEN BỜ
khai thác/năm
03= RÊ TẦNG MẶT
08 = CÂU VÀNG CÁ NGỪ
(CV)
(m)
quân/chuyến
3= VÙNG LỘNG
04= RÊ TẦNG ĐÁY
09= CÂU KHÁC
4= VÙNG KHƠI, BIỂN CẢ
05= VÂY NGÀY
10= NGHỀ KHÁC
Tàu, thuyền, xuồng 1
Tàu, thuyền, xuồng 2
Tàu, thuyền, xuồng 3
Tàu, thuyền, xuồng 4
Tàu, thuyền, xuồng 5
Tàu, thuyền, xuồng 6
Ngày điều tra: ….. tháng 7 năm 2011
KÝ XÁC NHẬN
TỔ TRƯỞNG ĐIỀU TRA
NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
ĐIỀU TRA VIÊN
CHỮ KÝ
187
PHỤ LỤC 4: CÁC SỐ LIỆU ĐIỀU TRA VÀ ĐƯỢC TỔNG HỢP SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
4.1. So sánh cơ cấu kinh tế giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm năm 2011
Ba Vì Từ Liêm
1,20% Nông nghiệp 43,70%
17% 55% Công nghiệp
40% 43,40% Dịch vụ
4.2. So sánh cơ cấu lao động giữa huyện Ba Vì và huyện Từ Liêm
Ba Vì Từ Liêm
2,90% Nông nghiệp 87,00%
7% 57% Công nghiệp
6% 40,10% Dịch vụ
4.3. So sánh thu nhập của lao động nông nghiệp giữa huyện Từ Liêm và Ba Vì (Triệu đồng/ người/ năm)
Ba Vì Từ Liêm
17,5 39,4
188
4.4. Số cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ huyện Từ Liêm từ năm 2010 đến năm 2013 (người)
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
12.870 14.053 14.432 16.931
4.5. Số lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của huyện Từ Liêm các năm 2010 đến 2013 (người)
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
22.379 43.584 46.314 54.700
4.6. Sự thay đổi về mục đích sử dụng đất ở Huyện Từ Liêm
Năm 2010 Năm 2013
28.731.463 26.727.370 Đất nông nghiệp(ha)
46.392.395 48.408.280 Đất phi nông nghiệp(ha)
4.7. Số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ở huyện Phúc Thọ qua các năm (người)
Năm 2010Năm 2013
10.035
11.567
189
4.8. So sánh trình độ lao động nông nghiệp huyện Từ Liêm, Sóc Sơn, Phúc Thọ
Từ Liêm Sóc Sơn Phú Thọ
Chưa qua 82,64% 96,18% 96,04% đào tạo
Đã qua đào 17,36% 3,82% 3,96% tạo
4.9. Phân bổ lao động nông nghiệp ở các huyện trên địa bàn Hà Nội (người)
Khu
Phú
Đan
Thạc
Sóc
Gia
Than
Mê
Phúc
Hoài
Than
vực
Đông
Từ
Sơn
Quốc
Chươn
Thườn
Ứng
Mỹ
h
Xuyê
Ba Vì
Phượn
Anh
Lâm
Liêm
h Trì
Linh
Tây
Oai
h Oai
g Tín
Hòa
huyện,
Sơn
Thọ
Đức
g Mỹ
Đức
g
n
Thất
thị xã
3
4
1
8
2
1
2
3
3
5
2
1
2
53.058
2
12.987
13.374
3
45.512
639.639
9.251
6.732
6.099
6.520
5.637
9.011
7.728
8.003
4.024
7.927
5.981
2.023
6.397
5.739
3.636
190
4.10. Phân bổ lao động nông nghiệp trẻ ở các huyện trên địa bàn Hà Nội (người)
Sóc
Gia
Thanh
Mê
Phúc
Hoài
Thanh
Phú
Đông
Từ
Sơn
Đan
Quốc
Thạch
Chương
Thường
Ứng
Mỹ
Ba Vì
Anh
Lâm
Liêm
Trì
Linh
Tây
Oai
Oai
Tín
Xuyên
Hòa
Sơn
Thọ
Phượng
Đức
Thất
Mỹ
Đức
23825
13641
9311
5824
5068
21361
7679
44389
12002
7047
13383
16751
19051
27504
9334
6111
9641
14002
22587
4.11 . Cơ cấu lao động nông nghiệp Hà Nội 2009
44,44% Trồng trọt
42,50% Chăn nuôi
3,71% Lâm nghiệp
Dịch vụ nông nghiệp 4,06%
5,29% Khác
4.12. So sánh chất lượng lao động giữa huyện Phúc Thọ và huyện Từ Liêm
Phúc Thọ Từ Liêm
2009 2013 2009 2013
72% 86,40% 57% 46,50% Chưa qua đào tạo
28% 13,60% 43% 53,50% Đã qua đào tạo
191
4.13. So sánh cơ cấu lao động nông nghiệp ở huyện Ba Vì và Hoài Đức (%)
Ba Vì
Hoài Đức
61,0
37,8
Trồng trọt
39,0
62,2
Chăn nuôi
4.14. Phân bố làng nghề tại các huyện trên địa bàn Hà Nội ( đơn vị: làng nghề)
Gia
Hoài
Mê
Phú
Phúc
Sóc
Thanh
Thanh
Chương
Đan
Đông
Mỹ
Quốc
Thạch
Thường
Từ
Ứng
Sơn
Ba Vì
Anh
Lâm
Linh
Xuyên
Oai
Oai
Trì
Tín
Liêm
Hòa
Tây
Mỹ
Phượng
Đức
Đức
Thọ
Sơn
Thất
8
33
70
28
0
51
3
7
98
32
32
31
50
105
63
126
8
112
0
192
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Huệ (2010), “Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
trên địa bàn huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội”, Tạp chí giáo dục lý luận, Học
viện Chính trị - Hành chính Khu vực I, Số 8+9/2010, tr. 169 – 171.
2. Nguyễn Thị Huệ (2010), “Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Từ Liêm
- Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, Học
viện Chính trị - Hành chính Khu vực I, Số 10/2010, tr. 76+81-84.
3. Nguyễn Minh Quang (chủ nhiệm), Nguyễn Thị Huệ (2010), đề tài Lý luận của
Các Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay, Giấy chứng
nhận của Cục Trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia số
7946/GCN-TTKHCN ngày 01/6/2010, tr. 1-19.
4. Nguyễn Thị Huệ (2012), “Kinh tế tập thể ở huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
trong quá trình xây dựng Nông thôn mới”, Tạp chí kinh tế và Quản lý, Viện
Kinh tế Học, Học Viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, số 3
tháng 9/2012, tr. 49-52.
5. Nguyễn Thị Huệ (2014), “Đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nông thôn mới:
Thực tiễn của Thành phố Hà Nội”, Tạp chí Tài Chính, Bộ Tài Chính, số tháng
3/2014, tr. 69 – 71.