intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bình giảng đoạn thơ sau trong bài "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm: "Đêm buông xuống dòng sông Đuống(...) Những chuyện muôn đời không nói năng”

Chia sẻ: Lan Zhan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:4

44
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tháng 4.1948, tại chiến khu Việt Bắc, Hoàng Cầm viết “Bên kia sông Đuống” một kiệt tác của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Giai điệu thiết tha của dân ca Quan họ thấm vào từng vần thơ. Lòng nhớ tiếc xót xa quê hương bị giặc giày xéo, lòng uất hận căm thù giặc bùng cháy, niềm tin dào dạt vào một ngày mai, quê hương trở lại thanh bình đã được thể hiện một cách cảm động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm: "Đêm buông xuống dòng sông Đuống(...) Những chuyện muôn đời không nói năng”

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm: <br /> "Đêm buông xuống dòng sông Đuống(...) Những chuyện muôn đời không nói năng”<br /> <br /> Bài làm<br /> <br /> Tháng 4.1948, tại chiến khu Việt Bắc, Hoàng Cầm viết “Bên kia sông Đuống” một kiệt  <br /> tác của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Giai điệu thiết tha của dân ca Quan họ thấm vào  <br /> từng vần thơ. Lòng nhớ tiếc xót xa quê hương bị giặc giày xéo, lòng uất hận căm thù giặc  <br /> bùng cháy, niềm tin dào dạt vào một ngày mai, quê hương trở lại thanh bình đã được thể <br /> hiện một cách cảm động.<br /> <br /> Đoạn thơ dưới đây trích trong phần 3 bài thơ ghi lại cảnh mẹ già trong vùng địch hậu đón  <br /> bộ  đội về  giải phóng quê hương. Đoạn thơ  được viết dưới hình thức đối thoại rất gợi  <br /> cảm:<br /> <br /> "Đêm buông xuống dòng sông Đuống<br /> <br /> …………………<br /> <br /> Những chuyện muôn đời không nài năng”<br /> <br /> Trong bài thơ, 12 lần Hoàng Cầm nhắc đến dòng sông Đuống yêu thương. Đây là lần thứ <br /> 9, sông Đuống hiện ra trong một thời điểm đáng nhớ:<br /> <br /> "Đêm buông xuống dòng sông Đuống”<br /> <br /> Đã mấy năm dài "giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn", quê hương ta điêu tàn, tang tóc:  <br /> "Ruộng ta khô ­ Nhà ta cháy...". Bao nước mắt và máu đã đổ  xuống! Bao thịt nát xương <br /> tan... Bao tháng ngày, mẹ  già vùng địch tạm chiếm khắc khoải chờ mong. Đêm nay, khi <br /> màn đêm "buông xuống", màn đêm bí mật bao phủ dòng sông Đuống thì "bộ đội bên sông <br /> đã trở  về”. Mẹ  già gặp lại đàn con xa. Câu thơ  gồm từng âm, từng tiếng nối tiếp xuất <br /> hiện gợi tả màn đêm từ từ, nhẹ nhàng buông xuống. Một không khí bí mật bao trùm dòng <br /> sông. Các láy âm: "buông ­ xuống – Đuống” rất gợi, gợi không khí, một đêm địch hậu có  <br /> bộ đội vượt sông trở về. Đó là một “đêm lịch sử” chờ mong của mẹ già.<br /> <br /> Hai câu hỏi của mẹ  già nối tiếp xuất hiện. Phút đầu gặp gỡ  bộ  đội, những đứa con xa. <br /> Ngạc nhiên và xúc động. Câu hỏi ngắn. Chữ “con” nhiều ấm áp, tin cậy và yêu thương:<br /> <br /> “­ Con là ai? Con ở đâu về?”<br /> <br /> Sau lời nói như  nghẹn lại, là những giọt lệ  mừng vui. Cử  chỉ  mẹ  già run run: "Hé một <br /> cánh liếp".Đúng là "Nhà lá đơn sơ­ Nhưng tấm lòng rộng mở…” ("Bao giờ  trở  lại" ­ <br /> Hoàng Trung Thông). Không gian bé nhỏ mà lòng mẹ thì mênh mông, bao la:<br /> <br /> “­ Con vào đây bốn phía tường che”…<br /> <br /> Một chữ  "che"  ấp  ủ biết bao tình thương của bà mẹ, của đồng bào vùng địch hậu. Một <br /> tấm liếp mỏng manh mà vững chắc hơn cả  thành đồng vách sắt. Bộ  đội đánh giặc vì <br /> nước vì dân. Đồng bào đùm bọc, chở che bộ đội. Bộ đội sống trong lòng nhân dân. Các từ <br /> ngữ: "bốn phía", "che", và lời chào mời: "vào đây" đã thể hiện một cách sâu sắc cảm động <br /> tình thương, sự  đùm bọc chở  che của mẹ  già, của đồng bào đối với bộ  đội thời kháng <br /> chiến. Tinh quân dân như cá với nước là thế! Tác giả đã tạo nên một tình huống gặp gỡ, <br /> gợi lên một không khí vừa bí mật, vừa thiêng liêng. Cảnh mẹ già vùng giặc chiếm gặp bộ <br /> đội trong màn đêm, mà người đọc cảm thấy sự việc đang diễn ra trước mắt mình, mình  <br /> đang được chứng kiến.<br /> <br /> Sau ngôn ngữ, cử  chỉ  của mẹ  già, Hoàng Cầm sáng tạo nên một số  hình  ảnh hoán dụ, <br /> tương phản và so sánh rất đặc sắc: "tình mẹ  ", “tóc trắng", “lửa đèn leo lét", "như  dựng  <br /> trăng". Một cảnh sống âm thầm, đen tối, đau khổ  trong “lửa đèn leo lét" nhưng vẫn "soi  <br /> tình mẹ". Tình mẹ  là lòng yêu nước, là tình thương bộ  đội. Thủ  pháp tương phản của <br /> Hoàng Cầm đã sáng tạo nên một câu thơ  có hình  ảnh đẹp, làm sáng bừng lên tình mẹ, <br /> lòng mẹ Việt Nam: "Lửa đèn leo soi tình mẹ". Tình mẹ, lòng mẹ mênh mông:<br /> <br /> "Nơi hầm tối là nơi sáng nhất<br /> <br /> Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam”<br /> ("Đất nước quê ta mênh mông”­ Dương Hương Ly)<br /> <br /> Câu thơ “khuôn mặt bừng lên như dựng trăng" có hình ảnh so sánh đẹp. "Dựng trăng” là <br /> trăng mọc, trăng lên, cảnh vật nơi nơi trên mặt đất, trên làng quê đều sáng bừng lên. <br /> Trăng lên xua tan màn đêm bóng tối, đem lại ánh sáng cho núi sông, làng quê. Cũng như bộ <br /> đội vượt sông Đuống trở về đánh giặc để xua tan, quét sạch hắc ám. Gặp bộ đội về làng, <br /> mẹ vui sướng, gương mặt mẹ rạng rỡ "bừng lên như dựng trăng". Mẹ già như được hồi <br /> sinh trong sự hồi sinh của quê hương đất nước.<br /> <br /> Có biết bao nỗi đau như nén lại trong lòng mẹ. "Không nói năng", mẹ già vùng địch hậu <br /> không nói nên lời. Mái "tóc trắng" là hiện thân của tủi nhục, của mất mát đau thương mà <br /> mẹ già đã phải chịu đựng trong những ngày tháng "khủng khiếp”. Chữ “kể” rất đắt. "Kể" <br /> bằng "tóc trắng" của mẹ. "Kể" bằng nỗi "ngậm ngùi” của mẹ mà đứa con xa thấu hiểu:<br /> <br /> "Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể,<br /> <br /> Những chuyện muôn đời không nói năng”<br /> <br /> Dùng hình ảnh để gợi tả nội tâm, gợi tả lòng mẹ là một cách viết hình tượng biểu cảm <br /> thể hiện bút pháp nghệ thuật tài hoa của thi sĩ Hoàng Cầm.<br /> <br /> Trong bài thơ "Bên kia sông Đuống", ba lần nhà thơ nói đến hình ảnh người mẹ đang <br /> sống trong vùng giặc chiếm đóng. Đoạn thơ trên đây nói đến hình ảnh mẹ lần thứ hai. <br /> Hình ảnh người mẹ già được nhắc đến trong đoạn thơ tượng trưng cho những mất mát, <br /> đau thương trong thời chiến tranh. Các hình ảnh hoán dụ như: “cánh liếp”, "tường che” <br /> "lửa đèn", "tình mẹ", "khuôn mặt", "tóc trắng”, cho thấy một lối viết rất gợi, cảm xúc <br /> như nén lại biểu hiện sâu sắc bi kịch quê hương thời chiến tranh và lòng mẹ Việt Nam.<br /> <br /> Tưởng tượng là một nhân tố làm nên vẻ đẹp thi ca. Năm 1948, chưa thể có cảnh tượng <br /> hào hùng "Bộ đội bên sông đã trở về". Chỉ là dự cảm, dự báo mang sắc màu lãng mạn <br /> đẹp. Qua đó, ta thấy sự tưởng tượng phong phú bay bổng của Hoàng Cầm đã sáng tạo nên <br /> một đoạn thơ mang tình huống cảm động. Hoàng Cầm là thi sĩ viết kịch thơ rất tài hoa, <br /> độc đáo (Hận Nam Quan, Trương Chi…). Bút pháp nghệ thuật ấy đã in đậm qua đoạn thơ <br /> này. Niềm vui của mẹ già trong vùng địch hậu đón bộ đội về đánh giặc mang ý nghĩa sự <br /> hồi sinh của quê hương trong chiến đấu và chiến thắng.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2