Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ "Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: <br />
"Ôi những cánh đồng quê... nhớ mắt người yêu"<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Có những vần thơ xao xuyến bồi hồi. Có những vần thơ ngọt ngào say đắm. Lại có <br />
những vần thơ đĩnh đạc, hào hùng. Còn có lúc, ta bị ám ảnh khôn nguôi trước những vần <br />
thơ yêu thương và căm giận:<br />
<br />
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu,<br />
<br />
Dây thép gai đâm nát trời chiều<br />
<br />
Những đêm dài hành quân nung nấu<br />
<br />
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu".<br />
<br />
(“Đất nước" Nguyễn Đình Thi)<br />
<br />
"Đất nước" là bài thơ sáng giá nhất của Nguyễn Đình Thi viết trong kháng chiến chống <br />
Pháp, cũng là bài thơ kiệt tác viết về đề tài quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam <br />
hiện đại. Nó đã được tác giả thai nghén và hình thành trong một quá trình lịch sử khá dài <br />
(19481955). Các áng thơ "Đêm mít tinh", “Sáng mát trong như sáng năm xưa" đã khơi <br />
nguồn cảm hứng để Nguyễn Đình Thi khám phá và thể hiện tuyệt đẹp tình yêu nước một <br />
cách nồng nàn, say đắm.<br />
<br />
"Đất nước" như một phức điệu đa thanh nói về cảm xúc mùa thu quê hương xưa và nay. <br />
Là tiếng nói say mê về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, là niềm tự hào về truyền <br />
thống bất khuất của dân tộc anh hùng. Nó là tiếng nói xót xa, căm giận quân xâm lược <br />
đang giày xéo đất nước thân yêu. Phần cuối bài thơ biểu lộ niềm kiêu hãnh của người <br />
chiến sĩ trước tư thế chiến đấu và chiến thắng lẫm liệt hiên ngang "rũ bùn đứng dậy sáng <br />
lòa!" của đất nước. Đoạn thơ bốn câu trên đây trích trong phần thứ ba của bài "Đất <br />
nước".<br />
Nhà thơ người chiến sĩ như đang nắm chắc tay súng “lắng hồn núi sông ngàn năm", <br />
lắng nghe những âm vang của lịch sử, giống nòi “rì rầm trong tiếng đất” tự nghìn xưa <br />
"vọng nói về": những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... bất tử! Từ quá khứ nghìn xưa trở <br />
về hiện tại, câu thơ vút lên nghẹn ngào, đau đớn:<br />
<br />
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu".<br />
<br />
Cảnh tượng đau thương mà nhà thơ nói đến là mùa thu 1948, khi cuộc kháng chiến chống <br />
Pháp xâm lược của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt! Nhiều đô thị, nhiều vùng <br />
nông thôn rộng lớn của đất nước ta đang bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo "Đường <br />
làng bao xương máu tơi bời Vườn không nhà trống tàn hoang" ("Làng tôi" Văn Cao). <br />
"Những cánh đồng quê chảy máu" hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho đất nước thân yêu, <br />
những làng xóm thân thuộc đang bị quân thù càn quét, bắt giết dã man. Máu những người <br />
nông dân hiền lành đã chảy ngập đường thôn, luống cày... dưới làn bom đạn của lũ cướp <br />
nước. Xưa kia thuở thanh bình, đất nước là "những cánh đồng thơm mát…”, "xanh xanh <br />
bãi mía bờ dâu...", thì kể từ khi "súng giặt đất rền", đã trở nên tang thương, điêu tàn với <br />
"những cánh đồng quê chảy máu". Nhân dân ta bị giặc Pháp tàn sát dã man. Hai chữ "chảy <br />
máu" lên án tội ác và chính sách tam quang của quân cướp nước: giết sạch, cướp sạch, <br />
đốt phá sạch! Từ "ôi" cảm thán diễn tả nỗi lòng đau đớn, xót xa không thể nào kể xiết!<br />
<br />
Từ cái nhìn toàn cảnh về không gian đau thương, về "những cánh đồng chảy máu", nhà <br />
thơ đứng lặng nhìn về các phía chân trời. Một nét vẽ thậm xưng, độc đáo, rất sáng tạo:<br />
<br />
“Dây thép gai đâm nát trời chiều”.<br />
<br />
Quân giặc tàn bạo ra sức bắn giết, càn quét, chiếm đất, dồn dân. Đồn giặc như nấm độc <br />
mọc lên khắp mọi nơi. "Dây thép gai" cũng là một hình ảnh hoán dụ nói về bốt đồn giặc, <br />
sự chiếm đóng dã man của quân cướp nước. Những núi thép gai, những hàng rào dây thép <br />
gai tua tủa nhọn hoắt bao bọc xung quanh đồn giặc không chỉ nhằm chống đỡ những trận <br />
tấn công vũ bão của quân đội ta, mà còn "đâm nát trời chiều” Một cách nói thậm xưng <br />
đầy ấn tượng về tội ác và âm mưu cướp nước của giặc Pháp. "Mấy trăm năm thấp <br />
thoáng mộng bình yên” là những chiều thôn trang êm đềm có "cánh cò trắng vẫy mênh <br />
mông", có "tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn", có tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về thôn... <br />
Nhưng nay còn đâu nữa? Cảnh trời chiều quê hương đã và đang bị dây thép gai đồn giặc <br />
"đâm nát". Nỗi đau từ đất trời như đang cứa nát, đâm nát lòng người!<br />
<br />
Ở phần đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi nói về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ <br />
của đất nước với trời xanh, núi xanh, những cánh đồng quê thơm mát, những ngả đường <br />
bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù và tất cả đều "của chúng ta". Nhưng từ khi giặc <br />
tràn tới, đồng quê thì "chảy máu", trời chiều thôn trang thì bị dây thép gai "đâm nát",biết <br />
bao đau đớn, căm hờn! Tác giả "Đất nước" tạo nên sự đối lập, tương phản đầy ấn <br />
tượng: xưa và nay, thanh bình với chiến tranh, hữu tình nên thơ với điêu tàn,tang tóc để <br />
lên án tội ác dã man của giặc Pháp mà trời không thể dung tha, người người đều căm <br />
giận! Sự kết hợp tài tình các biện pháp tu từ hoán dụ, cảm thán, thậm xưng, và tương <br />
phản đã tạo nên vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Qua đó, ta cảm nhận được cốt <br />
cách thi sĩ của Nguyễn Đình Thi: thơ đẹp, tài hoa, cảm dồn nén, ngôn từ xác thực, hình <br />
tượng sáng tạo. Nhà thơ đã dẫn hồn người đọc sống và cảm với hiện thực đất nước một <br />
thời khói lửa, mở rộng cho ta một trường liên tưởng về không gian nghệ thuật để mọi <br />
người cùng suy ngẫm về dòng chảy lịch sử và hành trình bi tráng của dân tộc. Và đó cũng <br />
là cái giá của độc lập tự do để ta nhớ và tự hào!<br />
<br />
Gần 150 năm về trước, trong bài thơ "Chạy giặc", Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận lên <br />
án quân xâm lược:<br />
<br />
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây…<br />
<br />
(...) Bến Nghé của tiền tan bọt nước<br />
<br />
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…”<br />
<br />
Có biết bao câu thơ xúc động làm sôi sục lòng người những năm tháng đất nước "ra trận":<br />
<br />
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp<br />
<br />
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn<br />
Ruộng ta khô<br />
<br />
Nhà ta cháy<br />
<br />
Chó ngộ một đàn<br />
<br />
Lưỡi dài lê sắc máu<br />
<br />
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang…”<br />
<br />
("Bên kia sông Đuống” Hoàng Cầm)<br />
<br />
Đó là những vần thơ một thời tạc vào thời gian và lòng người để ta nhớ mãi.<br />
<br />
Câu thơ thứ ba nói lên tâm trạng người chiến sĩ ra trận:<br />
<br />
"Những đêm dài hành quân nung nấu".<br />
<br />
Câu 1 nói về "những cánh đồng quê chảy máu”, câu ba tứ thơ chỉ rõ "Những đêm dài hành <br />
quân nung nấu", từ không gian đau thương mở ra thời gian căm giận, không chỉ một đêm, <br />
năm mười đêm mà là "những đêm dài”…Cấu trúc song hành, điệp lại 2 lần chữ "những", <br />
chữ "nấu" vần với chữ "máu” (vần chân) đã tạo nên giai điệu, nhạc điệu trầm hùng đang <br />
nung nấu tâm hồn người chiến sĩ xung kích trên đường hành quân ra trận. "Nung nấu" vì <br />
căm thù dữ dội. Nòng súng nóng bỏng, lưỡi lê nhọn hoắt căm thù! Mối thù đối với giặc <br />
Pháp cướp nước nung nấu, ngùn ngụt bốc lửa, sôi sục trong lòng, không chỉ trong một <br />
thời gian hữu hạn mà kéo dài trong thời gian vô hạn "Những đêm dài hành quân nung <br />
nấu". Hai chữ "nung nấu” biểu hiện sâu sắc tình yêu nước của " những người áo vải Đã <br />
đứng lên thành những anh hung!”.<br />
<br />
Càng nung nấu căm hờn quân xâm lược bao nhiêu thì lòng càng yêu quê hương đất nước <br />
bấy nhiêu. Người lính ra trận nung nấu, sôi sục căm thù giặc khi nhìn thấy đất nước tang <br />
tóc, điêu tàn "những cánh đồng quê chảy máu…”, nhìn thấy “những bóng thù hắc ám", <br />
những đồn giặc mọc lên với bao “dây thép gai đâm nát trời chiều”. Câu thơ thứ tư tiếp <br />
theo là một nét vẽ, nét khắc chiều sâu tâm hồn người chiến sĩ ra trận; nhiều khám phá và <br />
sáng tạo:<br />
<br />
"Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”<br />
<br />
"Nung nấu" căm thù và "bồn chồn nhớ" là hai nét biểu hiện của một tâm trạng, làm nên <br />
sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của anh Vệ quốc quân thời kháng chiến 9 năm đánh <br />
Pháp. Anh ra trận với sức mạnh căm thù giặc, với tình yêu nước thương dân, với bao nỗi <br />
nhớ. Nhớ luống cày mái rạ, nhớ bãi mía nương dâu, nhớ giếng nước gốc đa, nhớ "người <br />
tình chung"... "nhớ mắt người yêu". “Mắt người yêu” cũng là một hình ảnh hoán dụ rất <br />
đắt diễn tả hình bóng quê hương, vẻ đẹp duyên dáng "người tình chung" sau lũy tre làng <br />
mà anh nhớ lắm:<br />
<br />
"Vầng trán em mang trời chiều quê hương<br />
<br />
Mắt em như giếng nước thôn làng<br />
<br />
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm<br />
<br />
Em đã bao ngày em nhớ thương?…”<br />
<br />
("Mắt người Sơn Tây” Quang Dũng)<br />
<br />
"Nhớ mắt người yêu" với bao kỉ niệm đẹp một thời trai trẻ. "Xa em năm nhớ gần em <br />
mười thương". Chàng trai cày ngày xưa nhớ quê nhà là nhớ hương vị đậm đà “bát canh rau <br />
muống, quả cà giòn tan", là "nhớ ai tát nước bên đường hôm nào”. Anh bộ đội Cụ Hồ giã <br />
từ nơi chôn nhau cắt rốn, nơi “nước mặn đồng chua”, nơi “đất cày lên sỏi đá", có người <br />
nhớ thầm: "Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non”. Có người <br />
nhớ "người vợ trẻ mòn chân bên gạo canh khuya”. Chàng lính trẻ hào hoa trong đoàn binh <br />
Tây Tiến thì lại " Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Có trăm nghìn nỗi nhớ quê, nhớ nhà, <br />
nhớ người thân thương: “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh <br />
kiến hoa vàng" (Chế Lan Viên), v.v...<br />
<br />
Trở lại câu thơ "bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” hai chữ “bồn chồn" nghĩa là nóng <br />
ruột, không yên tâm (Từ điển tiếng Việt); diễn tả nỗi nhớ xôn xao, rung động, dâng lên <br />
như những đợt sóng vỗ mãi trong lòng. Đã có nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi”. Đã có sự vấn <br />
vương "không yên một bề". Đã có tâm tình khao khát “nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ <br />
ai...".Câu thơ "Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” là một nét vẽ rất đẹp thể hiện bút <br />
pháp tài hoa của Nguyễn Đình Thi. "Nhớ" là cảm hứng nhiều màu sắc và dáng vẻ đã làm <br />
nên những câu thơ hay, những vần thơ đẹp của Nguyễn Đình Thi trong tập thơ "Người <br />
chiến sĩ":<br />
<br />
... "Anh yêu em như anh yêu đất nước<br />
<br />
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần<br />
<br />
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước<br />
<br />
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn”…<br />
<br />
(Nhớ)<br />
<br />
Trong cái chung nhớ nước, nhớ "nguồn thiêng ông cha” (Hữu Loan), lại có cái riêng "bỗng <br />
bồn chồn nhớ mắt người yêu". Có nỗi hờn "nung nấu”, có nỗi nhớ “bồn chồn” nên mới <br />
có sức mạnh chiến đấu và niềm tin thắng trận: "Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm <br />
Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non song – Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh" <br />
(Hoàng Cầm).<br />
<br />
Tình cảm là cái gốc của thơ ca, là ngọn nguồn sáng tạo của thơ ca. Thơ chỉ đẹp khi thơ ca <br />
hút màu mờ, phù sa trong lòng đất hiện thực cuộc sống mà nảy mầm xanh tươi, đơm <br />
hoa kết trái dâng hương thơm, vị ngọt cho đời. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi như một <br />
bông hoa đẹp trong cành hoa đẹp đã mang hơi thở nóng hổi của thời đại, mang tình yêu <br />
đất nước mãnh liệt của con người Việt Nam trong ba ngàn ngày khói lửa.<br />
<br />
Đọc đoạn thơ trên, ta cảm nhận được phần nào vẻ đẹp của phong cách nghệ thuật của <br />
Nguyễn Đình Thi, một hồn thơ giàu cá tính sáng tạo. Hiện thực chiến tranh: đất nước <br />
điêu tàn, dân tộc đau thương trong bom đạn quân thù đã được diễn tả một cách tuyệt vời <br />
qua những vần thơ hàm súc, biểu cảm và giàu hình tượng.<br />
"Cánh đồng quê chảy máu", "Giây thép gai đâm nát trời chiều” là những hình ảnh thơ mới <br />
mẻ, độc đáo và hay. "Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu" là một hình ảnh mang tính kế <br />
thừa sáng tạo, thể hiện một hồn thơ chiến sĩ cho ta nhiều rung cảm thấm thía<br />
<br />
Đọc "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi, tâm hồn ta được bồi đắp bao tình cảm đẹp trở <br />
nên trong sáng và phong phú, để ta yêu, để ta nhớ, ta sống lại và tự hào về những năm <br />
tháng hào hùng và oanh liệt với ngọn lửa Điện Biên thần kì của đất nước và dân tộc trong <br />
thời đại Hồ Chí Minh.<br />