Đề bài: Cảm nhận về bài Luận về một chính sách khai hóa của Phan Châu Trinh<br />
Bài làm<br />
Phan Châu Trinh (1872 1926) biệt hiệu là Tây Hồ, quê ở Quảng Nam, một vùng quê, một <br />
xứ sở "địa linh nhân kiệt" lừng danh cả nước. Cụ là một chiến sĩ yêu nước, một chí sĩ <br />
cách mạng lỗi lạc của dân tộc ta trong ba thập niên đầu của thế kỉ XX.<br />
Phan Châu Trinh để lại nhiều thơ văn yêu nước nêu cao tư tưởng dân chủ, đả kích bọn <br />
quan lại tay sai tham lam, độc ác, chính sách sưu thuế nặng nề của bọn thực dân Pháp. Bài <br />
"Luận về chính sách khai hóa" trích trong "Thư gửi chính phủ bảo hộ". Đó là "Thư gửi <br />
Toàn quyền Bộ" của Phan Châu Trinh viết tại Hà Nội, ngày 15 8 1907.<br />
Văn bản "Luận về một chính sách khai hóa" đã lên án và đả kích bọn quan lại An Nam <br />
công cụ áp bức bóc lột dân tộc ta của Chính phủ bảo hộ, đồng thời đòi hỏi thực dân <br />
Pháp phải cải lương chính sách cai trị đối với dân Nam để tránh nguy cơ "dân cường tắc <br />
biến".<br />
Phần đầu, nhà chí sĩ cách mạng chỉ rõ việc "cải lương" quan lại cùng sưu thuế" không hề <br />
được quan Toàn quyền nói đến bao giờ. Thế mà bài diễn thuyết nào, ngài cũng lớn tiếng <br />
nói "sẽ đãi người Nam một cách rộng rãi", "quyết lòng khai hoá cho người Nam", v.v...<br />
Ông chủ bút báo Le Courrier d'Haiphong tuy nói về "cái tệ thuế thì kĩ càng lắm, song còn <br />
vấn đề quan lại thì ông lại nói rằng phải đem cái chế độ cũ của An Nam thì mới trị được <br />
dân An Nam". Phan Châu Trinh đã phê phán: "Câu đó thật lầm to!". Ông vạch trần bộ mặt <br />
bọn quan lại An Nam là công cụ đắc lực của Chính phủ bảo hộ "để áp chế dân Nam đã <br />
lâu rồi", còn bọn quan lại tay sai thì "nhờ oai thế của Chính phủ bảo hộ mà gây nên tội ác <br />
với dân, cũng đã sâu rồi". Vì thế "quan không chọn mà lại trị được dân bao giờ."<br />
Phần thứ hai tác giả cầu xin Chính phủ bảo hộ làm mọi cách để cứu dân Nam, đừng "có <br />
lòng thi hành cái chính sách ngược đãi dân Nam" nữa.<br />
Phan Châu Trinh đã chỉ rõ cuộc sống lầm than trâu ngựa, bị áp bức bóc lột dã man nên <br />
"dân Nam ngày nay như một thứ dân gần chết rồi". Còn bọn quan lại tay sai thì chỉ biết <br />
"truyền mệnh lệnh cùng sưu dịch" của Chính phủ bảo hộ mà thôi. Chính sách mới mà <br />
Chính phủ bảo hộ muốn "ban" cho dân chỉ hại dân chớ được ích gì đây!", chỉ là "nói gạt" <br />
để mị dân, lừa dân, chỉ làm cho "tiêu tan dân khí" và "nuôi cái ác cho quan lại". Tác giả <br />
bức thư châm biếm cái "chính sách mới" của Chính phủ bảo hộ "khác nào... sợ trẻ khóc <br />
mà dỗ cho ăn bánh, sợ dân đói đi trộm cướp mà hứa cho núi vàng mỏ bạc trên rừng, chẳng <br />
qua là nói gạt cả".<br />
Dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân Pháp, nhân dân ta "nặng nề khốn khổ, oán <br />
giận thấu xương" hỏi "cái ách quan lại", "cùng sự khốn khổ" vì "sưu thuế phiền nhiễu", <br />
tất sẽ "nhân cùng tắc biến",...<br />
Phan Châu Trinh kêu gọi Toàn quyền Bộ và Chính phủ bảo hộ nên "biết hội ngộ lại" mà <br />
thay đổi chính sách cai trị như: hưng lợi trừ hại, mở con đường sống cho dân nghèo, cho <br />
thân sĩ cái quyền nghị luận", mở nhà báo, "thanh trừng tệ lại", v.v... Cụ cầu xin Chính phủ <br />
bảo hộ hãy "đổi pháp luật, bỏ khoa cử, mở nhà học, dựng phòng sách, chấn hưng công <br />
thương kĩ nghệ...".<br />
Những lời kêu gọi và cầu xin đó của nhà chí sĩ tuy thể hiện một tấm lòng nồng nàn yêu <br />
nước thương dân nhưng không bao giờ thực hiện được Lang sói không bao giờ thương <br />
cừu non. Dùng bọn quan lại tay sai để đè đầu cưỡi cổ đồng bào ta, dùng sưu thuế nặng <br />
nề để bóc lột dã man dân ta, thi hành chính sách ngu dân để cai trị, v.v... đã được thực dân <br />
Pháp thi hành một cách thâm độc, tàn bạo trong suốt tám mươi năm trời. Vì thế, mọi lời <br />
kêu gọi, lời cầu xin đều không bao giờ được Chính phủ bảo hộ chấp nhận và thực hiện!<br />
Phần thứ ba, sau khi tác giả bộc lộ tâm trạng "phẫn uất đầy bụng, không biết kêu nói <br />
cùng ai" nên phải viết bức thư này, "dẫu có ai thù oán, ghen ghét cũng trối kệ".<br />
Nhà chí sĩ sẵn sàng "nói cho mà nghe" nếu "quan lớn bảo hộ" "qua có tấm lòng thành thật <br />
khoản đãi dân Num". Nhà chí sĩ cũng sẵn sàng " mắc tội" nếu Chính phủ bảo hộ "cứ cố <br />
lòng thi hành cái chính sách ngược đãi dân Nam". Cụ khẳng định "xin quan lớn định liệu <br />
lấy" trong hai điều ấy.<br />
Có thể nói rằng những lời lẽ ấy đã biểu lộ tấm lòng nhiệt thành yêu nước và thái độ dũng <br />
cảm của nhà chí sĩ trước cường quyền bạo lực. Lịch sử Cách mạng Việt Nam đã ghi rõ: <br />
tháng 41908, Phan Châu Trinh bị kết án "trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất <br />
nguyên" rồi bị đày ra đảo Côn Lôn.<br />
Ngoài thể thức một bức thư, lời lẽ hợp lí của một bức thư, bài "Luận về một chính sách <br />
khai hóa" là một văn bản chính luận bằng chữ Hán của một nhà chí sĩ viết cách chúng ta <br />
ngày nay một thế kỷ?<br />
Văn bản này có nhiều nét đặc sắc về phong cách chính luận của Phan Châu Trinh. Giọng <br />
điệu biến hoá, lúc thì mềm mỏng lịch thiệp, lúc thì mạnh mẽ, đanh thép. Ngôn từ mang <br />
dấu ấn thời đại rất rõ: cái tệ sưu thuế, cái ách quan lại, oán giận thấu , sưu thuế phiền <br />
nhiễu, nhân cùng tác biến, bị khổ ức, biết hội ngộ, thanh trừng tệ hại, dân khí trụy lạc, <br />
dân trí mờ ám, khóa cổ ngậm miệng, v.v...<br />
Cách lập luận khá chặt chẽ, đầy sức thuyết phục như khi nói về bọn quan lại lay sai: <br />
"Chính phủ bảo hộ dùng" quan lại An Nam để áp chế dân An Nam đã lâu rồi, quan lại An <br />
Nam nhờ oai thế của Chính phủ bảo hộ mà gây nên tội ác với dân cũng đã sâu rồi; đến <br />
nay hưng lợi mà muốn không trước hết trừ hại, nói trị dân mà không chọn quan, tôi chưa <br />
hề thấy hại không trừ, mà lại hưng được lợi, quan không chọn mà lại trị được dân bao <br />
giờ".<br />
Có lúc tác giả dùng hình ảnh so sánh hóm hỉnh để châm biếm cái "chính sách mới" của <br />
Chính phủ bảo hộ khác nào "vẽ hoa ở trên bức tường đất ",...<br />
"Bức thư..." cho thấy một số hạn chế như ảo tưởng về "tấm lòng thành thật khoản đãi <br />
dân Nam" của bọn Toàn quyền, Công sứ Pháp, hoặc khi nói về "dân khí", "dân trí" An <br />
Nam. Có thể do nhiều nguyên nhân bởi thời đại và lịch sử.<br />
Trong bài "Lời giới thiệu" thơ văn Phan Châu Trinh, ông Huỳnh Lý viết:<br />
"Dù có những hạn chế kia nọ, điều đáng quý, đáng phục ở Phan Châu Trinh là tinh thần <br />
yêu nước nồng nhiệt không di dịch, lòng căm thù áp bức, tinh thần bất khuất trước gian <br />
khổ, ý thức dân chủ, tất cả những cái ấy vằng vặc trong thơ văn ông, làm sáng rõ thêm <br />
nền văn học của nước ta nói chung, văn thơ yêu nước nói riêng".<br />
Trong bài "Văn tế Phan Châu Trinh", nhà chí sĩ Phan Bội Châu viết:<br />
"Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng gai ghê;<br />
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, của dân chủ khêu đèn thêm sáng chói".<br />
Có lẽ, chúng ta cần nhắc lại những lời tốt đẹp đó khi học bài "Luận về một chính sách <br />
khai hóa " của Phan Châu Trinh.<br />
<br />