intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách đầu tư phát triển Nông nghiệp ở Hà Tây - 3

Chia sẻ: Tt Cao | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

66
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Do có những loại máy móc này mà sản xuất nông nghiệp có thể tiến hành trên diện rộng và hàng loạt, đồng thời làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi lên rất nhiều lần so với trước đây. Như vậy đầu tư máy móc thiết bị nông nghiệp là nhân tố thúc đẩy sản suất nông nghiệp ; vì thế chúng ta nên quan tâm và coi trọng đầu tư cho nông nghiệp một cách thoả đáng. ở Việt Nam , ngành nông nghiệp còn sử dụng sức người và súc vật trong khi làm việc là...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách đầu tư phát triển Nông nghiệp ở Hà Tây - 3

  1. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com máy cày máy kéo, máy gặt đập, máy xay xát, các loại xe chuyên chở ...thay thế cho sức người và súc vật trong quá trình sản xuất. Do có những loại máy móc này mà sản xuất nông nghiệp có thể tiến hành trên diện rộng và hàng loạt, đồng thời làm tăng năng suất cây trồng vật nuôi lên rất nhiều lần so với tr ước đây. Như vậy đầu tư máy móc thiết bị nông nghiệp là nhân tố thúc đẩy sản suất nông nghiệp ; vì thế chúng ta nên quan tâm và coi trọng đầu tư cho nông nghiệp một cách thoả đáng. ở Việt Nam , ngành nông nghiệp còn sử dụng sức người và súc vật trong khi làm việc là chủ yếu, áp dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế và ở qui mô nhỏ. Đầu tư mua sắm những phương tiện này là đỏi hỏi cấp thiết của nền nông nghiệp. Tuy nhiên chúng ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương ,từng lĩnh vực mà mua những máy móc cho thích hợp nhất. Thứ ba , đầu tư vào lĩnh vức khoa học công nghệ sẽ góp phần tạo ra cho nông nghiệp những giống cây trồng vật nuôi mới hiệu quả hơn. Mà ta biết giống là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển ngành nông nghiệp .Mỗi người đều hiểu rằng khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển các ngành kinh tế và no vẫn là nhân tố quan trọng cho sự phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp. Ngày nay, công nghệ sinh học đang phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong đời đời sống kinh tế thế giới. Công nghệ sinh học ngày càng có những thành công to lớn hơn và là lĩnh vực liên quan khá chặt chẽ với ngành nông nghiệp.Một phần công nghệ này sẽ được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. ở mức độ quốc gia chúng ta cần đầu tư mạnh để phát triển công nghệ này , đồng thời cần có những chính sách khác để khuyến khích động viên những nhà khoa học giỏi nghiên
  2. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com cứu và từ đó áp dụng triệt để những thành quả của nó.Mặt khác, chúng ta nên xây dựng những trung tâm giống cây trồng vật nuôi với những cán bộ khoa học giỏi về chuyên môn nghiệp vụ để nghiên cứu ra những giống mới từ kết quả của công nghệ sinh học . Vì vậy,chúng ta nên có những chính sách để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư vào công nghệ này và thành lập những trung tâm nghiên cứu áp dụng những kĩ thuật tiên tiến của thế giới và trong nước. Tóm lại , đầu tư góp phần vào việc tạo ra cho nông nghiệp một sức phát triển mới thông qua đầu tư cho công nghệ phục vụ sản xuất. Thứ tư , đầu tư là đã góp phần tạo ra cho nông nghiệp một lực lượng lao động hùng hậu có tay nghề chuyên môn và trình độ kĩ thuất cao. Dù máy móc có hiện đại và phù hợp đến đâu, hay một phương thức sản xuât mới có tiên tiến đến mấy nhưng nếu lao động trong nông nghiệp không có trình độ để nắm bắt và sử dụng thì những thứ trên đều là vô dụng, bỏ đi. Nhờ có một khối lượng lớn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo thông qua việc xây dựng các trung tâm dạy nghề , các chương trình phổ biến kiến thức nông nghiệp mới cho người nông dân mà họ ngày càng nắm bắt được những kiến thức mới , thiết thực cho việc trồng trọt và chăn nuôi : biết cách thâm canh, biết điều khiển máy móc , biết làm kinh tế Vac...Điều này cũng sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về các đặc tính và quá trình sinh trưởng của từng loại cây trồng vật nuôi để họ có những biện pháp chăm sóc tốt hơn. Khi người nông dân có trình độ càng cao sẽ càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp trong việc sử dụng những kĩ thuật mới và giúp cho ngành này có sự tăng trưởng cao.
  3. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Thứ năm , đầu tư góp phần tạo cho nông nghiệp một cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi hợp lí hơn với tỷ trong chăn nuôi chiếm ngày càng cao trong tổng giá trị ngành nông nghiêp. Bởi vì, trong nông nghiệp , chăn nuôi là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với trồng trọt, muốn phát triển ngành nông nghiệp thì phải đầu tư phát triển lĩnh vực chăn nuôi. Như trước đây, trồng trọt chiếm vai trò chủ yếu nên ngành nông nghiệp có tốc độ phát triẻn không cao, kể từ khi đầu tư mạnh hơn vào chăn nuôi thì nông nghiệp đã có những sự phát triển vượt bậc. Đây là hướng đi đúng của nhiều nước đi trước mà những nước đi sau như Việt Nam cần học tập và phát huy. Nói chung, đầu tư còn góp phần cải thiện đời sống người nông dân, cải cách phương thức tổ chức quản lí nông thôn ... Tóm lại, đầu tư có vai trò quyết định sự tiến bộ đi lên không ngừng của nông nghiệp. Khi nền kinh tế càng hiện đại, nông nghiệp càng không thể không có đầu tư. 3. Đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp Nông nghiệp là một ngành kinh tế dặc thù với những đặc điểm riêng biệt, vì vậy mà đầu tư trong nông nghiệp cũng có những nét đặc trưng riêng, không giống bất cứ một ngành kinh tế nào trong nền kinh tế. Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực hiện một công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu ảnh huởng nhiều của các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm ngành nông nghiệp chi phối. Đầu tiên, khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, do đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên chúng ta phải nghiên cứu rất kĩ về các điều kiện của đất , chất
  4. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com lượng và đặc điểm của đất và đặc điểm về địa hình. Bởi vì đất tốt hay xấu ảnh hưởng rất mạnh tới quá trình thực hiện đầu tư và thành quả thu được. Nếu đất tốt thì cây trồng phát triển thuận lợi, có xây dựng hạ tầng cơ sở thì cũng giảm chi phí và ngược lại. Nghiên cứu về đất còn cho chúng ta biết nên trồng loại cây nào, nên nuôi loại động vật gì, để từ đó có kế hoạch sản xuất.Địa hình cũng có ảnh hưởng tới đầu tư, nếu địa hình bằng phẳng thì có thể đầu tư nhiều loại cây trồng, vật nuôi thích hợp cho vùng đồng bằng, đỡ tốn công san lấp và thuận lợi về giao thông do vậy vận chuyển các nông sản mang ra thị trường nhanh và đảm bảo tươi sống. Khi đầu tư dựa vào điều kiện của địa hình để có những chính sách đầu tư phù hợp nhất. Khí hậu cũng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư,khi đầu tư người ta thường phải nghiên cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó có ảnh hưởng mạnh tới kết quả của sản xuất nông nghiệp hay kết quả đầu tư. Ví dụ như khi tiến hành đầu tư xây dựng hệ thông thuỷ lợi thì thường tiến hành vào mùa nước cạn, bởi khi nước lên thì việc xây dựng rất khó và cực kì tốn kém. Hoặc khi ta đầu tư một loại cây lương thực náo đó, chẳng hạn như cây lúa, ta không thể trồng lúa vào mùa đông lạnh ,bởi lúa là cây không thích hợp với điều kiện giá rét , do vậy mà đầu tư không thu được lợi ích tốt. . Do vậy mà khi đầu tư vào nông nghiệp các nhà đầu tư phải nghiên cứu rất kĩ đặc điểm tự nhiên của từng vùng để có thể có những công cuộc đầu tư mang hiệu quả cao hoặc có những biện pháp phòng tránh ảnh hưởng xấu của tự nhiên hữu hiệu. Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp cũng mang tính thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông nghiệp phải nghiên cứu thời điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư. Bởi vì, trồng trọt và
  5. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com chăn nuôi không thể tiến hành quanh năm cho nên chọn thời điểm để sản xuất là rất cần thiết.Do vậy khi đầu tư vào một loại đối tượng nào đó thì ta chỉ có thể bắt đầu đầu tư tại một thời gian rõ ràng và cố định trong năm, như trồng cây thì thường phải vào mùa xuân. Tuy nhiên , với trình độ khoa học phát triển chúng ta có thể đầu tư đa dạng và với khoảng thời gian rộng hơn. Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một lượng vốn đầu tư khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn nhiều so với các ngành , lĩnh vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng( như hệ thống thuỷ lợi ) hay khoa học công nghệ thì lượng vốn đầu tư thất không nhỏ chút nào. Ví dụ như để phát hiện ra một loại giống mới cho sản xuất nông nghiệp th ì lượng vốn bỏ ra và số nhà khoa học cần cho nghiên cứu không thua kém để cho một sản phẩm công nghiệp mới ra đời. Hoặc chi phí để xây một hệ thống thuỷ lợi cũng không kém việc xây dựng một nhà máy hay một khách sạn du lịch. Vì vậy mà khi đầu tư , đỏi hỏi các nhà đầu tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn và kịp tiến độ. Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông nghiệp. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những rủi ro chung của các công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực mạnh của những biến đổi tự nhiên xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế những loại rủi ro này là rất khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của đầu tư là tỷ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp rất thấp thường chỉ vài phần trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10 % , do nông nghiệp có tốc độ
  6. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com tăng trưởng không cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi vốn cũng rất lâu. Còn một số công trình đầu tư trong nông là hoà vốn, thậm chí nhiều công trình không thu đủ số vốn đầu tư ban đầu bỏ ra. Tóm lại , hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì những nét này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư vào ngành nồng nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển thì đòi hỏi chính phủ mỗi nước phải có những chính sách khuyến khích , hỗ trợ đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư và bản thân nhà nước phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở. 4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp Để xem xét thành quả hay mức độ thành công của các công cuộc đầu tư , của một ngành của một tỉnh hay của cả nước ; ngoài chỉ tiêu kết quả đầu tư người ta còn phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đầu tư để tính. Ngành nông nghiệp, do có những đặc điểm cũng như do đầu tư trong nông nghiệp có các đặc trưng riêng nên trong nông nghiệp người ta có thể sử dụng những chỉ tiêu hiệu quả sau: a.Chỉ tiêu :GO tăng thêm/ Vốn đầu tư và GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư Trong đó :+ GO: giá trị sản xuất + GDP : tổng sản phẩm + Vốn đầu tư : là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án đầu tư hay của cả một tỉnh, một nước trong một năm hoặc một thời kì nhất định Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì tạo ra bao nhiêu giá trị hàng hoá và dịnh vụ. Chỉ tiêu này, càng cao thì chứng tỏ công cuộc đầu tư càng thành
  7. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com công. Trong các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp thì đây là chỉ tiêu dễ tính nhất cũng như đơn giản nhất bởi lẽ các số liệu thu thập về GO ,GDP cũng nh ư về vốn đầu tư là tương đối dễ. b. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thu được. Thời hạn T thường được tính cho một dự án. Nó phản ánh phần nào mức độ hiệu quả của dự án. Đối với những dự án tương tự nhau thì dự án có thời gian thu hồi vốn đầu tư càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên đối với nhiều dự án của một tỉnh, một giai đoạn thì T rất khó tính, thậm chí là không tính được. Trong nông nghiệp có nhiều dự án khó tính được thời gian T bởi vì đầu tư trong nông nghiệp mang tính xã hội cao, nhiều khi không có lợi nhuận, nên nó không được sử dụng nhiều c. Hệ số hoàn vốn nội bộ: là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng thời gian ở hiện tại sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công cuộc đầu tư được coi là có hiệu quả khi : IRR < IRR định mức Trong đó IRR định mức có thể là lãi suất đi vay nếu ta phải vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định nếu vốn đầu tư do ngân sách cấp , có thể là tỷ suât lợi nhuận bình quân hoặc là chi phí cơ hội của vốn tự có... Để tính IRR của một dự án người ta có thể tình bằng nhiều cách khác nhau: như bằng máy tính, bằng phương pháp nội suy, ngoại suy... Chỉ tiêu IRR rất quan trọng trong việc tính hiệu quả dự án đầu tư. Nói chung dự án có IRR càng lớn càng tốt .
  8. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Trong ngành nông nghiệp, do dặc trưng của đầu tư trong ngành nên các công cuộc đầu tư thường có IRR là tương đối thấp. Đây là công thức có thể tính được nếu công tác thống kê thu thập làm tốt. d. Chỉ tiêu số lao động tăng thêm từng năm của dự án. Số lao động tăng thêm nói lên sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế xã hội. Số lao động tăng thêm nói chung là tương đối dễ tính tuy nhiên trong ngành nông nghiệp, người nông dân dù có thêm hay giảm đầu tư thì họ vẫn phải làm nông nghiệp, nên trong nông nghiệp tính không phải là dễ. Còn số lao động tăng thêm càng nhiều ,dự án đó càng hiệu quả ( nhưng ta còn phải xem xét thêm thu nhập của người lao động tư dự án như thế nào) e .Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm( NVA): Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của đầu tư. NVA là mức chênh lệnh giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính: NVA = O - (MI + Iv) Trong đó : - NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại O : là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư ( doanh thu) - MI: là giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài - theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây( năng lượng, nhiên liệu, giao thông ...) Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao - Trong ngành nông nghiệp ,chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án nông nghiệp mang tính lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. Nếu tính theo chỉ tiêu này thì mức lợi ích của đầu tư trong nông nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, đây lại là chỉ tiêu rất khó
  9. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com tính được chính xác. NVA còn có thể tính cho từng năm hoặc tính cho nhiều dự án trong một thời kì nhất định f.Chỉ tiêu GO/GDP Trong đó: GO giá trị sản xuất của : GDP = GO - chi phí trung gian Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của vốn đầu tư, nói trung nó có giá trị càng gần 1 càng tốt. Nếu gần 1, tức sẽ giảm tối thiểu các chi phi trung gian không cần thi êt, những kết quả thu được từ đầu tư chính là sự gia tăng giá trị cho xã hội g. Chỉ tiêu công bằng xã hội :chỉ tiêu này xem xét mức độ bình đẳng của người dân trong xã hội, mức độ phân phối thu nhập từ công cuộc đầu tư... Trên đây là một vài chỉ tiêu tiêu biểu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp. Muốn tính hiệu quả đầu tư chính xác ta nên kết hợp chúng với nhau. Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây I.Các nguồn lực cho đầu tư phát triển Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây 1. Điều kiện tự nhiên 1.1 Vị trí địa lí: Hà Tây là một tỉnh vừa mới tái lập gồm hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây hợp thành. Hà Tây có diện tích chung là 2147 km2, nằm trong vùng đồng Bằng Bắc Bộ; phía đông nằm ngay tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp với Vĩnh Phúc, Phía Tây và Nam tiếp với hai tỉnh Hải Dương và Hoà Bình. Như vậy, Hà Tây là cửa ngõ nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc và đặc biệt là các tỉnh phía Nam và Hà Tây nằm
  10. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com trên nhiều đường giao thông quan trọng huyết mạch của đất nước như đường quốc lộ 1, 6 và 32 , đường thuỷ sông Hồng chạy qua n ên rất có điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa , Hà Tây còn nằm gần khu tam giác kinh tế trọng điểm không những của phía bắc và cả nước: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Như vậy tỉnh sẽ chịu ảnh hưởng mạnh của sự phát triển của các tỉnh này. Khí hậu Có thể nói, Hà Tây nằm ở vùng Đông Bắc nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với mùa đông nhiệt độ thấp lạnh, có gió mùa đông bắc rét, hanh khô còn mùa hè nóng và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1800 - 2000 mm.Do diện tích không lớn, nên khí hậu Hà Tây không có sự khác biệt lớn giữa các huyện thị trong tỉnh. Với loại khí hậu này , Hà Tây có thể phát triển đa dạng các loại cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên , Hà Tây cũng có bất lợi về mùa mưa chịu ảnh hưởng của lượng mưa lớn còn mùa khô thiếu nước nên đòi hỏi đầu tư lớn cho hệ thống thuỷ lợi để điều hoà tưới tiêu. Ngoài ra một số vùng Hà Tây còn chịu ảnh hưởng kế hoạch phân lũ Sông Hồng, nên có thể ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp. Địa hình Hà Tây là một tỉnh với nhiều loại địa hình đa dạng và cũng tương đối phức tạp. + Với phía Tây là vùng đồi núi chiếm 1/3 diện tích lãnh thổ toàn tỉnh. với diện tích vùng núi là 70.400 ha. + Vùng đồi với độ cao khoảng dưới 100 m, chủ yếu là đồi thấp với diện tích 53.400 ha
  11. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com +Phía đông là vùng đồng bằng với diện tích khoảng 144.450 ha, chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh. Vùng đồng bằng với bề mặt tương đối bằng phẳng lại ven một số con sông lớn như sông Hồng, sông Đáy..Trong vùng đồng bằng có hai nơi trũng nhất là Mỹ Đức và vùng ứng Hoà ,Thường Tín ... Với kiểu địa hình này, Hà Tây có th ể trồng đa dạng các loại cây, đồng thời có thể tiến hành thâm canh tăng vụ hoặc cũng có thể ứng dụng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp như VAC hay phát triển kinh tế trang trại. Tài nguyên đất Đây là tỉnh có vùng đồng bằng có diện tích khá lớn, nằm ở một trong những đồng bằng phì nhiêu và tốt nhất nước. Nên đất ở đây cũng tương đối màu mỡ và phì nhiêu ,giàu chất phù sa. Các vùng đất này có thể nằm trong đê hoặc ngoài đê thường xuyên được phù sa các con sông bồi đắp.Vì vậy mà đất ngày càng trở nên tốt và hiệu quả đối với trồng trọt. Vùng đồng bằng này có các loại đất chủ yếu như sau: + Đất phù sa bồi: diện tích 17.038 ha ( chiếm 8 %) + Đất phù sa không bồi : diện tích 51.392 ha (chiếm 24%) + Đất phù sa Gley : diện tích 51.551 ha ( chiếm 24 % ) Như vậy diện tích đất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của Hà Tây là rất lớn và khá đa dạng. Tuy vậy việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này cũng chưa thật cao. Thể hiện ,Hà Tây chủ yếu là độc canh cây lúa trong trồng trọt nhưng năng suất cũng chưa cao và hiệu suất sử dụng đất trong năm khoảng hơn hai lần là tương đối thấp.
  12. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Hà Tây còn có một vùng đồi núi với các loại đất khá phong phú: + Đất nâu vàng trên phù sa cổ: diện tích 20. 603 ha ( chiếm 10 % ) + Đất đỏ vàng trên đá phiến sét : 10.783 ha ( chiếm 5 % ) + Còn lại là các loại đất khác. Các loại đất này chủ yếu dùng để phát triển cây lương thực ngắn ngày hoặc thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp, không thật phù hợp cho cây lương thực. Tuy nhiên trong vùng đất này ta có thể tiến hành chăn nuôi gia súc như trâu bò, dê hoặc phát triển kinh tế trang trại với các cây ăn quả là rất thích hợp. Tài nguyên nước Là một tỉnh có nhiều con sông lớn chảy qua như sông Hồng bao bọc ở phía Đông, sông Đà ở phía Bắc, Sông Đáy ở phía Nam và còn cả một hệ thống sông nội địa như sông Nhuệ... Như vậy mật độ nước ở tỉnh Hà Tây là khá dàyvà chiếm một diện tích không nhỏ. Các con sông này có lưu lượng nước hàng năm là rất lớn, với lượng nước hàng năm vào khoảng 180 - 200 tỷ m3. Cùng với nước là hàng ngàn tấn phù sa các loại luôn bồi đắp cho các vùng đồng bằng. ở Hà Tây còn có một trữ lượng nước ngầm khá lớn chưa được khai thác hiệu quả. Với lượng nước đồi dào nay thì vấn đề tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp là cực kì thuận lợi; để khai thác tốt lợi thế này , cần phải xây dựng hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi. 1.2 .Dân số và lao động Vào năm 1996, dân số Hà Tây là 2328 triệu người; nhưng đến năm 2000 dân số của tỉnh là 2423 triệu người với tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm trong giai đoạn 1996- 2000 là 1.1 % năm, là một tỷ lệ tăng khá thấp so với trung bình toàn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2