intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề: Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường

Chia sẻ: Nguyen Khanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

145
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyên đề: Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề: Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường

  1. CHUYÊN ĐỀ: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1 Quan niệm về tài chính và vai trò của tài chính trong kinh tế thị trường 1). Quan niệm về tài chính Thuật ngữ "tài chính" bắt nguồn từ tiếng La-tinh "fiancia", dịch theo nghĩa hẹp là thanh toán, thu nhập; theo nghĩa rộng là vốn tiền tệ, chu chuyển tiền tệ. Từ thế kỷ XIII- XV lần đầu tiên danh từ "thanh toán bằng tiền" được sử dụng rộng rãi trong một số thành phố nổi tiếng của Italia với tư cách là những trung tâm khổng lồ về thương mại và ngân hàng của châu Âu. Sau đó thuật ngữ này được lan rộng ra các nước khác và được sử dụng như một khái niệm, gắn liền với hệ thống các quan hệ tiền tệ hình thành các quỹ tiền tệ được động viên bởi nhà nước để thực hiện các chức năng chính trị và kinh tế. Theo Từ điển Laroussei cho rằng Tài chính (tiếng Pháp cổ là finer) có nghĩa là một khoản thanh toán. Thuật ngữ tài chính (nếu đứng ở số nhiều - finances), được hiểu là tài sản công cộng; toàn bộ các nguồn thu và khoản chi của Nhà nước, hoặc của một lãnh thổ; Nếu hiểu theo nghĩa thông thường: là nguồn tiền mặt của một cá nhân. Trong kinh tế thị trường, thuật ngữ tài chính còn được mô tả theo nghĩa là vốn dưới hình thức tiền tệ, được thể hiện dưới dạng các quỹ cho vay hoặc đi vay thông qua TTTC hay định chế, tổ chức tài chính. Như vậy, tài chính được quan niệm như là nguồn tiền bạc, thu nhập hay tài sản; là cách thức, hay sự huy động, phân phối, bố trí, cung cấp, cấp phát, trợ giúp, chi tiêu, sử dụng, kiểm soát các quỹ tiền bạc; điều hành, dẫn dắt của cải. Các quan niệm này thường xem xét ở khía cạnh mô tả các biểu hiện, hiện tượng của hoạt động tài chính. Có thể thấy rằng, khái niệm tài chính gắn liền mật thiết với tiền tệ và các quan hệ hàng hóa-tiền tệ. Tài chính nảy sinh trong điều kiện kinh tế hàng hóa-tiền tệ dưới tác động ảnh hưởng của sự phát triển chức năng và nhu cầu của nhà nước và nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Do đó, tài chính có quan hệ mật thiết với các quá trình kinh tế-xã 1
  2. hội, được thể hiện trong các hình thức vận động khác nhau và nhất định bao giờ cũng biểu hiện dưới hình thái tiền tệ và kèm theo sự vận động của tiền tệ. Từ quan niệm đó, người ta thường nhầm lẫn tài chính với tiền tệ và trong nhiều trường hợp tài chính được coi là tiền tệ. Tuy nhiên, nếu quan sát các quá trình vận động kinh tế-xã hội trong thực tiễn có thể nhận thấy: các biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dưới dạng các hiện tượng thu vào bằng tiền và các hiện tượng chi ra bằng tiền ở các chủ thể kinh tế-xã hội. Các hiện tượng thu, chi bằng tiền đó đều mang một tính chất chung là vốn tiền tệ đang vận động. Như vậy, tính chất tiền tệ của các quan hệ tài chính - đó là một dấu hiệu quan trọng của tài chính. Dấu hiệu này khẳng định rằng, sự hoạt động của tài chính chỉ có thể khi có những điều kiện nhất định, mà nếu thiếu điều kiện đó thì tức khắc biến mất ranh giới tác động của phạm trù này. Sự xuất hiện các quan hệ tài chính luôn luôn biểu hiện ở chỗ tồn tại sự vận động của vốn tiền tệ, ở đâu thiếu sự vận động đó thì nơi đó không phải là chỗ nảy sinh tài chính. Như vậy, sự hiện diện của tiền tệ là điều kiện bắt buộc cho sự tồn tại của tài chính. Không có tiền tệ thì không thể có tài chính. Tiền tệ biểu hiện cơ sở vật chất cho sự tồn tại tài chính. Tuy nhiên, tài chính và tiền tệ là hai khái niệm khác nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Tài chính khác biệt căn bản với tiền tệ cả ở nội dung và cả ở các chức năng mà nó thực hiện. Người ta có thể cảm nhận được tiền tệ nhờ vào trực giác, còn tài chính biểu hiện sự vận động của tiền tệ, luôn ẩn đằng sau sự vận động của tiền tệ, khiến người ta không “sờ mó” được vào tài chính. Mặt khác, lĩnh vực nảy sinh và hoạt động của tài chính chính là quá trình diễn ra sự phân phối giá trị sản phẩm xã hội giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế, mà trong đó mỗi người cần phải nhận được một bộ phận theo một tỉ lệ nào đó trong số sản phẩm sản xuất ra. Bởi vậy dấu hiệu quan trọng của tài chính là tính chất phân phối của các quan hệ tài chính. Sự phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính đó được hình thành ở các chủ thể kinh tế và nhà nước nhờ các dạng vận động khác nhau của thu nhập, tích lũy, thanh toán, trích nộp dưới hình thức tiền tệ và được sử dụng vào những mục đích nhất định để đáp ứng nhu cầu của mình. Các nguồn tài chính là sự biểu hiện vật chất hóa của các quan hệ tài chính. Việc sử dụng các nguồn tài chính được thực hiện về cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy dấu hiệu đặc biệt quan trọng của tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành các quỹ tiền tệ có hình thức biểu hiện là các nguồn tài chính. 2
  3. Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể nói trên (Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình) chính là quá trình tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền của các chủ thể. Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là sự vận động của tiền tệ - mặt biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn các quỹ tiền tệ do các chủ thể nắm giữ là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính - một thuộc tính vốn có của tài chính. Nhưng trên cơ sở các hoạt động thu, chi bằng tiền do các chủ thể thực hiện lại làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội. Đó chính là các quan hệ về mặt lợi ích nảy sinh trong quá trình tham gia phân phối và sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài chính, biểu hiện nội dung kinh tế-xã hội của tài chính. Từ những phân tích đó chúng tôi cho rằng, tài chính là sự vận động của tiền tệ, gắn liền với quá trình huy động và phân phối các nguồn tài chính nhằm thực hiện các lợi ích của các chủ thể kinh tế. Trong kinh tế học hiện đại, các tác giả của cuốn giáo khoa “Tài chính học” Z. Bodi và R. Merton cho rằng, tài chính là việc nghiên cứu các cánh thức phân bổ nguồn lực vốn khan hiếm của các chủ thể trong nền kinh tế theo thời gian. Quan niệm này khá cụ thể và trực diện, song nó hàm chứa ý nghĩa TTTC nhiều hơn. Quan niệm về tài chính của chúng tôi trình bày ở trên cho phép nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện và khách quan về tài chính. Quan niệm đó vừa chỉ ra mặt cụ thể, hình thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính là sự vận động của các quỹ tiền tệ, vừa vạch rõ mặt trừu tượng, mặt bản chất bên trong - nội dung kinh tế - xã hội của tài chính là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài chính để thực hiện các mục đích khác nhau của các chủ thể kinh tế, đồng thời có tính bao quát toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của tài chính nói chung, trong đó bao gồm cả tài chính công và TTTC. 2). Vai trò của tài chính và CSTK trong kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập Tài chính có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước Để duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước thì cần phải có các nguồn lực tài chính để đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Các nhu cầu đó được đáp ứng bởi tài chính, trước hết là tài chính nhà nước. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh sau đây: Một là, tài chính thực hiện chức năng phân phối thông qua động viên và tập trung các nguồn lực tài chính để đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển. Các nguồn tài chính này có thể được động viên 3
  4. cả ở trong nước và từ nước ngoài, từ mọi lĩnh vực hoạt động và mọi thành phần kinh tế, dưới nhiều hình thức khác nhau, có bắt buộc và tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn trả. Hai là, phân phối các nguồn tài chính đã tập trung được vào tay Nhà nước cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo những quan hệ tỷ lệ hợp lý nhằm vừa đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước, vừa đảm bảo thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Ba là, kiểm tra giám sát để đảm bảo cho các nguồn tài chính đã phân phối được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhất, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của quản lý nhà nước và phát triển kinh tế-xã hội. Tài chính có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vai trò rất quan trọng của tài chính trong kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Tuy nhiên sự nhận thức về vai trò này là cả quá trình phát triển về lý luận. Các quan điểm của các trường phái kinh tế học Phương Tây Các trường phái kinh tế học Phương Tây, mặc dù có cách lập luận khác nhau nhưng lại thống nhất quan điểm rằng, phân phối tài chính có mối quan hệ rất mật thiết với tăng trưởng kinh tế và được coi là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đã từ lâu, nhà kinh tế lỗi lạc Adam Smith cho rằng, để tăng số người lao động mang tính sản xuất thì phải tăng tư bản từ quỹ tăng lao động và muốn tăng năng suất lao động lại đòi hỏi phải tăng thêm tư bản. Từ đó cho thấy đầu tư tăng tư bản cho sản xuất kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Cùng với Adam Smith, David Ricardo lại chú trọng tới tỷ lệ phân phối của các loại thu nhập và ảnh hưởng của nó tới tích luỹ tư bản và tăng trưởng kinh tế. Ông phân tích hàm số tăng trưởng và rút ra nhận xét, do tích luỹ tư bản có xu hướng co lại nên làm kinh tế tăng trưởng chậm lại. Các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng được xuất phát từ tăng tỷ lệ hình thành tư bản, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng kinh tế. Các nhà khoa học Roy Harrod và Evsey Domar (sau này gọi là mô hình Harrod–Domar) đã gắn tăng trưởng kinh tế với việc cơ cấu lại tiết kiệm và đầu tư trong tổng thu nhập. Hai ông cho rằng, sản lượng của bất cứ một đơn vị kinh tế nào, dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế cũng đều phụ thuộc chắc chắn vào tổng số vốn có được. Khi nói tăng trưởng kinh tế thì phải nói đến mức tăng thêm của sản lượng, nhưng mức tăng thêm của sản lượng lại do lượng tăng thêm của vốn quyết 4
  5. định hay nói cách khác do thay đổi cơ cấu đầu tư vốn quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Cambridge cho rằng, con đường căn bản để thực hiện sự tăng trưởng ổn định nền kinh tế nằm ở chỗ điều chỉnh chế độ phân phối. Ông cho rằng, có thể áp dụng biện pháp phân phối lại để điều chỉnh tăng phần thu nhập của các tầng lớp khác nhau, từ đó thực hiện được sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân. Bởi vì, sự tác động khác nhau giữa khuynh hướng tiết kiệm và tiêu dùng là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh J. Kenyes trong cuốn sách “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), đã coi chi tiêu nhà nước là một công cụ cơ bản của Chính phủ để can thiệp vào sự phát triển có tính chất chu kỳ của nền kinh tế để vượt qua khủng hoảng. Bởi vậy, sự hình thành cơ cấu và tốc độ của chi tiêu nhà nước là yếu tố quan trọng và không thể tách rời để đạt được "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nước theo ông cần phải thúc đẩy tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm bảo việc làm. Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các tác nhân của cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư. Như vậy, đã từ lâu các nhà kinh tế học Phương tây đã rất đề cao vai trò của phân phối tài chính để hình thành cơ cấu tài chính, coi đó là một nhân tố quan trọng để kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội Quan điểm của Mác Quan điểm của Mác về vai trò của tài chính xuất phát từ những nghiên cứu lý luận sau đây: Thứ nhất, Mác đã nghiên cứu về cấu tạo hữu cơ của tư bản và rút ra kết luận: cấu tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo thêm giá trị thặng dư cho xã hội. Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật của tư bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất với số lượng lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu, do trình độ phát triển của sản xuất quyết định và phản ánh trình độ tiến bộ kỹ thuật. Cấu tạo giá trị của tư bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng giá trị tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để để tiến hành sản xuất. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ với nhau và phụ thuộc vào nhau: sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cấu tạo giá trị. Sự thể hiện mối quan hệ mật thiết đó đã hình thành một phạm trù mới, đó là cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quyết định và phản ánh những biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó. 5
  6. Do trình độ kỹ thuật không ngừng phát triển nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không ngừng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ được thể hiện ở tư bản bất biến tăng lên tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến giảm tương đối. Như vậy, do cấu tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo thêm giá trị thặng dư và tăng quy mô tích lũy tư bản. Thứ hai, khi nghiên cứu vai trò của các khâu cấu thành trong quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa, bao gồm: sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng, quan điểm của Mác cho rằng: sản xuất là khâu quyết định phân phối, còn phân phối có tác động ngược trở lại đối với sản xuất theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm. Như vậy, phân phối với tư cách là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội được coi là nhân tố có tác động thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, tài chính là một bộ phận của các quan hệ phân phối dưới hình thức tiền tệ có vai trò quan trọng trong khuyến khích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, theo Mác vai trò này có phần bị động, vì phân phối là do sản xuất quyết định. Điều này đưa đến những quan điểm hạn chế vai trò của phân phối, trong đó có tài chính. Những nhận thức mới Chúng tôi cho rằng, phân phối tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, xác định cơ cấu tài chính hợp lý có tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng, góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn, công thức vận động của tư bản được khái quát là: TLSX T–H …Sx – H’ – T’ SLĐ Như vậy, trong công thức trên: tài chính được coi là khởi điểm của quá trình vận động của tư bản, nếu sự đầu tư nguồn lực tài chính cho các bộ phận của sản xuất theo những tỷ lệ hợp lý sẽ tạo ra thặng dư cho xã hội. Với ý nghĩa đó, theo quan điểm của chúng tôi thì cơ cấu phân phối các nguồn lực tài chính có tác động quyết định sản xuất, quyết định tăng trưởng. Vì thế, để nền kinh tế tăng trưởng nhanh, góp phần thực hiện tốt các CSXH, cần phải coi việc đổi mới cơ cấu huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính và coi đó là nhân tố có tính đột phá, quyết định sự thay đổi cơ cấu kinh tế và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. 6
  7. Với ý nghĩa đó có thể cho rằng, sản xuất là cơ sở của phân phối, của tài chính, nhưng phân phối và tài chính lại có tác động quyết định sản xuất, quyết định tăng trưởng kinh tế. Tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội. Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thu, chi của tài chính để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt những bất hợp lý trong phân phối, đảm bảo công bằng trong phân phối và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đáp ứng các mục tiêu xã hội của kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường với sự nảy sinh và tồn tại tất yếu những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là về mặt xã hội, việc sử dụng các biện pháp tài chính để phát huy vai trò xã hội của tài chính nhằm đảm bảo xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng có ý nghĩa quan trọng. Trong việc thực hiện công bằng xã hội, thông thường tài chính được sử dụng để tác động theo hai hướng - giảm bớt các thu nhập cao và nâng đỡ các thu nhập thấp nhằm rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Công cụ của tài chính nhà nước thường được sử dụng để điều tiết thu nhập là thuế và chi tiêu chính phủ. 1.2 Khái niệm và chức năng của Tài chính công 3). Khái niệm Mặc dù Tài chính công là một phạm trù thuôc Tài chính nhà nước, song khái niệm Tài chính công chỉ ra đời từ giữa thế kỷ XX. Vào đầu thế kỷ XX, các quan điểm của các nhà kinh tế thường chú ý đến vai trò của Nhà nước trong việc can thiệp vào nền kinh tế, từ đó ra đời thuật ngữ “Tài chính nhà nước”. Sự chuyển dịch từ Tài chính nhà nước sang Tài chính công có mối liên hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch quyền hạn từ các cơ quan công quyền Trung ương sang tổ chức các cơ quan công quyền địa phương và tự quản trên nguyên tắc lãnh thổ. Sự thay đổi có tính bước ngoặt về định nghĩa Tài chính công diễn ra vào những năm 20 của thế kỷ XX gắn liền với mối quan hệ về thiếu hụt ngân sách, từ đó cần thiết phải cơ cấu lại ngân sách theo những nguyên tắc riêng có. Từ đó ra đời môn khoa học “Tài chính công”. Khái niệm này bắt đầu đưa vào Việt Nam từ cuối năm 1989 đầu năm 1990. Tài chính công là hệ thống các quỹ tiền tệ được hình thành trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, gắn với việc sản xuất và cung cấp hàng hóa và dịch vụ công do nhà nước tiến hành. Đặc trưng cơ bản của quan hệ tài chính công là: 7
  8. - Tài chính công gắn liền với chủ thể thực hiện phân phối tổng nguồn lực tài chính quốc gia là Nhà nước và các chủ thể công quyền khác. - Các quỹ tiền tệ thuộc lĩnh vực tài chính công là các quỹ tiền tệ của nhà nước. - Tài chính công phản ánh các quan hệ kinh tế biểu hiện thông qua các hoạt động thu chi bằng tiền của nhà nước và của các chủ thể. - Tài chính công cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng phục vụ lợi ích cộng đồng và xã hội không vì mục đích lợi nhuận. 4). Chức năng của tài chính công - Chức năng cung cấp hàng hóa xã hội (hàng hoá công cộng) của khu vực công - Chức năng phân phối của tài chính công - Chức năng ổn định của tài chính công - Chức năng ngân quỹ của tài chính công 1.3 Chính sách tài khóa 5). Khái quát CSTK Trong bất kỳ một xã hội nào, nhà nước muốn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình để đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định đều phải sử dụng công cụ tài chính. Vai trò quan trọng việc thực hiện các mục tiêu nói trên thuộc về CSTK. CSTK là một phạm trù kinh tế học dùng để chỉ các hành động của Chính phủ quyết định mức chi tiêu công và cách thức có đủ nguồn tài chính để đảm bảo mức chi tiêu công đó. Chính phủ phải chi tiêu cho nhiều nhiệm vụ rất đa dạng, từ quân sự, cảnh sát, đến các dịch vụ như giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Có nhiều nguồn để đảm bảo cho các khoản chi trên, trong đó quan trọng nhất là thu thuế từ người dân và vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách. CSTK là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô được Chính phủ sử dụng để huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia. Nội dung của CSTK thông thường chứa đựng các yếu tố sau: - Mục tiêu của chính sách: thể hiện phương hướng, đường lối, chủ trương của nhà nước về sử dụng chính sách huy đông, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính. - Các công cụ của chính sách 8
  9. - Cơ chế chuyển tải của chính sách, bao gồm cách thức hay phương thức huy động, phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và các chế tài đảm bảo thực hiện phương thức đó. 6). Phân loại CSTK Căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế có thể chia CSTK thành CSTK tự động ổn định và CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước. CSTK tự động ổn định là loại CSTC dựa trên cơ sở sự biến động của nền kinh tế quốc dân mà tự động phát sinh tác dụng thay đổi tình hình kinh tế mà không cần dựa vào sự tác động của phía Chính phủ. Loại hiệu quả ổn định tự động này sinh ra từ nội tại của CSTC, tự mình phát huy tác dụng điều tiết, không cần có bất kỳ hành động can thiệp nào của chính quyền. Tính tự động ổn định của CSTC được thực hiện bởi sự hoạt động của cơ chế thị trường. Chính nhờ cơ chế đó mà tạo ra khả năng phân phối lại một cách tự do và nhanh chóng các nguồn tài chính giữa các chủ thể kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp cơ chế thị trường cũng thể hiện sự kém hiệu qủa trong việc phân phối nguồn tài chính và sự phân phối đó bị ngáng trở bởi các tổ chức độc quyền. Nói cách khác, cơ chế thị trường không đảm bảo sự phân phối thu nhập phù hợp với mục tiêu của một xã hội dân chủ. Bởi vậy, nẩy sinh sự cần thiết phải thực hiện cơ chế điều chỉnh của nhà nước. CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước là một loại CSTC mà bản thân nó không có tác dụng tự động ổn định mà cần nhờ tác động bên ngoài mới có thể phát sinh tác dụng điều tiết đối với nền kinh tế. Sự cần thiết xuất hiện vai trò của nhà nước can thiệp vào nền kinh tế căn cứ vào việc giải quyết những nhiệm vụ, gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu của xã hội về phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định rằng, sự điều chỉnh của nhà nước cũng có những gianh giới qui định hình thành một cách khách quan. Nếu can thiệp qúa mức sẽ làm suy yếu những đòn bẩy kinh tế và hạ thấp hiệu qủa hoạt động của cơ chế thị trường. Nếu căn cứ vào tính chất điều tiết mặt lượng của tài chính đối với nền kinh tế thì CSTK được chia thành: CSTK mở rộng, CSTK thu hẹp và CSTK trung tính. CSTK mang tính chất mở rộng là CSTC mà thông qua phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhà nước thực hiện kích thích tăng tổng nhu cầu xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thiếu hụt về tổng cầu, nhà nước thực hiện CSTK mở rộng để thu hẹp khoản chênh lệch giữa tổng cầu và tổng cung. Khi tổng cầu và tổng 9
  10. cung đã cân đối thì thông qua CSTK mang tính chất mở rộng nhà nước sẽ làm cho tổng nhu cầu vượt qúa tổng cung cấp. Công cụ thực hiện CSTK mang tính chất mở rộng chủ yếu là giảm thuế và tăng quy mô chi tiêu ngân sách. Nếu thực hiện song song việc giảm thuế với việc tăng chi tiêu ngân sách, CSTK mở rộng sẽ dẫn đến bội chi ngân sách. Bởi vậy,CSTK mang tính chất mở rộng thường được gọi là CSTC bội chi. CSTK mang tính chất thắt chặt là CSTC thông qua phân phối và sử dụng nguồn tài chính, nhà nước thực hiện giảm bớt và hạn chế tổng nhu cầu. Trong điều kiện tăng tổng nhu cầu qúa mức của nền kinh tế, nhà nước thông qua CSTK thắt chặt thực hiện kiềm chế lạm phát để cân đối cung và cầu. Trong điều kiện tổng cung cầu đã cân đối, nhà nước có thể thi hành CSTK thắt chặt để tạo ra thiếu hụt nhu cầu hữu ích. Biện pháp thực hiện mục tiêu của CSTK mang tính chất thắt chặt chủ yếu là tăng thuế và giảm bớt chi tiêu ngân sách. Nếu trong điều kiện vừa tiến hành tăng thuế, vừa thực hiện giảm chi thì có thẻ phát sinh khả năng kết dư ngân sách. Bởi vậy, CSTK mang tính chất thắt chặt thường được gọi là CSTC kết dư. CSTK trung tính luôn luôn thể hiện sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong hoạt động phân phối và sử dụng nguồn tài chính. Vì thế, hoạt động thu chi tài chính không thể sinh ra hiệu ứng mở rộng, cũng như không thể sinh ra hiệu ứng thắt chặt. Nói chung, CSTK trung tính luôn luôn yêu cầu thu chi tài chính giữ vững được sự cân đối. 1.4 Các công cụ của CSTK Các công cụ của CSTK thường được sử dụng như sau: 1). Thuế Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Thuế có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính khác như sau: - Thuế là một khoản đóng góp thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho nhà nước mang tính bắt buộc. Đây là một thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác. - Việc đóng góp thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. - Việc đóng góp thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật pháp. 10
  11. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế trở thành công cụ quan trọng để huy động nguồn lực tài chính cho Chính phủ và thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Sử dụng công cụ thuế để huy động nguồn lực tài chính có ưu điểm: - Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn thu nhập nộp thuế. Vì thế, thuế trở thành công cụ huy động nguồn lực chủ yếu của Chính phủ. - Phương thức huy động tập trung nguồn lực của thuế sử dụng phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy nhà nước đảm bảo thực hiện sự công bằng trong việc phân bố gánh nặng của các khoản chi tiêu công cộng, mặt khác việc động viên thông qua thuế mang tính pháp lý cao. - Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc nội, nhờ đó mà một bộ phận đáng kể thu nhập của xã hội được tập trung vào trong tay nhà nước một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho các biện pháp kinh tế -xã hội. - Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ tài chính khác ở chỗ: Thuế kết hợp giữa phương thức cưỡng bức, được qui định dưới hình thức pháp luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các chủ thể kinh tế đến chất lượng và hiệu qủa kinh doanh. Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những khuyết tật vốn có. Mục tiêu can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế thị trường là nhằm: - Đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển có hiệu qủa. Chính phủ phải cố gắng duy trì môi trường cạnh tranh thuận lợi và sửa chữa những khuyết tật của thị trường như độc quyền. - Đảm bảo yêu cầu công bằng xã hội bằng biện pháp phân phối lại thu thập - Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong thế ổn định theo hướng làm giảm tính chu kỳ của nền kinh tế, giảm thất nghiệp, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện được các mục tiêu đó, nhà nước cần phải sử dụng công cụ thuế để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối tượng điều tiết thông qua công cụ thuế là các lĩnh vực, các ngành, các vùng, cũng như các mặt hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế xã hội, nơi phát sinh những khó khăn hay những vấn đề về thuế mà nó không thể tự động điều tiết, cần phải có sự can thiệp của nhà nước để hiệu chỉnh cho phù hợp với hoạt động bình thường của xã hội. 11
  12. Trên cơ sở mục tiêu và đối tượng kể trên, nội dung điều tiết của thuế đối với nền kinh tế quốc dân bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng vũng lãnh thổ; tích lũy tư bản; lạm phat; việc làm; lưu thông tiền tệ; giá cả; tiền lương; phân phối thu nhập; các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, bảo vệ môi trường... Như vậy, nội dung của điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm các qúa trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 2). Chi tiêu chính phủ Chi tiêu của chính phủ nhằm thỏa mãn nhu cầu của Nhà nước đối với việc thực hiện các mục tiêu chung toàn xã hội. Chi tiêu chính phủ bao gồm hai loại: chi tiêu công cộng (hoặc gọi là các khoản chi thường xuyên) và chi đầu tư XDCB. Đối với các nhu cầu chi tiêu công cộng thông thường bao gồm hai bộ phận: chi tiêu mang tính chất mua sắm và chi tiêu mang tính chất chuyển dịch. Chi tiêu mang tính chất mua sắm, bao gồm chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ là một loại chi tiêu dùng trực tiếp của chính phủ. Chi tiêu mang tính chất chuyển dịch là thông qua chi tiêu nhằm thực hiện chuyển dịch thu nhập tiền tệ của một bộ phận này chuyển dịch cho một bộ phận khác. Loại chi tiêu này của chính phủ không ảnh hưởng nhiều đến tiêu dùng của dân cư nên không gây ra các biến động về kinh tế - xã hội. Trợ cấp tài chính là một hình thức chi tiêu chuyển dịch. Đầu tư XDCB của chính phủ là khoản chi nhằm hình thành các loại tài sản cố định, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đầu tư của chính phủ chủ yếu cho những ngành nghề, những lĩnh vực có hiệu ứng bên ngoài lớn, có tác dụng châm ngòi cho đầu tư của khu vực tư nhân. Vì vậy, năng lực đầu tư và phương hướng đầu tư của chính phủ có tác dụng then chốt đối với sự điều chỉnh cơ cấu huy động nguồn lực tài chính của xã hội để ĐTPT nền kinh tế quốc dân. 3). Tín dụng nhà nước Khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn mức thuế thu được, Chính phủ phải vay nợ từ trong nước và ngoài nước để trang trải phần thâm hụt ngân sách hình thành nợ chính phủ và gọi là Tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: công trái, tín phiếu, trái phiếu quốc tế, TPCP. Lúc đầu tìn dụng nhà nước chỉ được dùng để bù đắp bội chi tài chính. Theo đà phát triển của kinh tế, Tín dụng nhà nước đã trở thành CSTC quan trọng điều tiết quan hệ cung cầu tiền tệ và điều tiết mối quan hệ tài chính với tiền tệ - tín dụng. Tác dụng điều tiết của Tín dụng nhà nước chủ yếu thể hiện trên 3 mặt như sau: 12
  13. Thứ nhất, Tín dụng nhà nước đã thu hút một nguồn lực tài chính đáng kể từ dân cư cho nhà nước, làm cho đầu tư và tiêu dùng của dân cư giảm đi. Do đó, tín dụng của nhà nước có tác dụng điều tiết đối với một bộ phận nguồn lực tài chính sử dụng cho mục đích đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế. Thứ hai, Tín dụng nhà nước có tác động đến cung cầu tiền tệ. Nhờ có Tín dụng nhà nước mà một bộ phận tiền tệ nhàn rỗi, nằm im biến thành tiền tệ lưu thông và đưa vào ĐTPT kinh tế. Sự biến động về số lượng tiền tệ do Tín dụng nhà nước đưa đến gọi là "hiệu ứng tiền tệ" của Tín dụng nhà nước. Thứ ba, do nguồn trả nợ của Tín dụng nhà nước chủ yếu dựa vào gia tăng thu thuế ở các năm sau. Đối với những người cho nhà nước vay, khi Tín dụng nhà nước đến hạn, họ không chỉ thu hồi được vốn mà còn nhận được lợi tức. Nhà nước phát hành Tín dụng nhà nước chủ yếu dùng cho các nhu cầu chung của xã hội, mọi người dân đều được hưởng. Như vậy sẽ sinh ra vấn đề chuyển dịch thu nhập giữa những người nộp thuế với những người cho nhà nước vay. Ngoài ra, vấn đề trả nợ do tín dụng nhà nước đưa đến, không chỉ ảnh hưởng đến những người đương thời, mà còn tồn tại cái gọi là vấn đề chuyển dịch thu nhập và gánh vác của "các đời". Điều đó gọi là hiệu ứng thu nhập, có tác động điều tiết nguồn lực tài chính của khu vực dân cư. Tác dụng của tín dụng nhà nước chủ yếu thông qua quy mô tín dụng nhà nước, cơ cấu người mua, cơ cấu về kỳ hạn, lãi suất tín dụng nhà nước. Nhà nước thông qua việc điều chỉnh quy mô tín dụng nhà nước, lựa chọn đối tượng mua, phân chia kỳ hạn hoàn trả tín dụng nhà nước, xây dựng lãi suất tín dụng nhà nước khác nhau, để thực hiện mục tiêu điều tiết của CSTC. Trong điều kiện thực thi CSTC gắn với CSTT, thông qua thị trường tín dụng nhà nước, Chính phủ có thể điều hành được hai hệ thống chính sách lớn: một mặt, tín dụng nhà nước có thể làm nhẹ bớt hậu qủa lạm phát do bội chi ngân sách, việc huy động vốn từ tín dụng nhà nước để bù đắp bội chi ngân sách so với bù đắp bằng phát hành tiền có ảnh hưởng nhỏ hơn tới sự biến động của tiền tệ và lạm phát; mặt khác, còn có thể gia tăng khả năng linh hoạt điều tiết việc cung ứng tiền tệ của ngân hàng trung ương. 1.5 Vai trò của CSTK trong kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, tài chính chỉ phát huy được vai trò tích cực của mình khi nhà nước xây dựng và thực hiện CSTK phù hợp. Nếu CSTK được xây dựng đúng đắn, hợp lý thì có thể bảo đảm cho nền kinh tế phát triển liên tục, ổn định, nhịp nhàng. Ngược lại, khi CSTK không được hoạch định phù hợp quy luật khách quan thì nền kinh tế có thể phát triển mất cân đối và kém hiệu qủa. 13
  14. CSTK với tư cách là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước, có vai trò nổi bật trên các mặt sau đây: 1. Hướng dẫn Một trong những nội dung quan trọng của CSTC là huy động, phân phối, sử dụng các nguồn tài chính và mối quan hệ cân đối của nó, mà loại quan hệ này lại đụng chạm đến lợi ích vật chất và khống chế hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội. CSTK phát huy vai trò hướng dẫn thông qua việc điều chỉnh lợi ích vật chất để hướng mọi hoạt động kinh tế của chủ thể kinh doanh đi vào quỹ đạo quản lý của nhà nước, phù hợp với phương hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vai trò hướng dẫn của CSTK thể hiện ở hai mặt: Trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp hướng dẫn là sự thể hiện vai trò phát huy tác dụng trực tiếp của CSTK đối với đối tượng điều chỉnh. Gián tiếp hướng dẫn là ảnh hưởng của CSTK đối với đối tượng điều tiết thông qua các công cụ và đòn bẩy khuyến khích khác của cơ chế thị trường. 2. Điều tiết CSTK có vai trò điều tiết xuất phát từ chính chức năng của bản thân tài chính quyết định - chức năng điều chỉnh. Vai trò này được phát huy nhờ vào việc vận dụng chức năng phân phối nguồn lực của tài chính trong hoạt động thực tiễn. Bằng việc tạo lập, phân phối và sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý các nguồn lực tài chính, Nhà nước đã tác động tới việc phân phối và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của toàn xã hội, từ đó tác động tới sự phát triển kinh tế-xã hội. Vai trò điều tiết của CSTK chủ yếu biểu hiện ở sự điều chỉnh một số mặt mất cân đối nào đó trong qúa trình phát triển kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển kinh tế theo chu kỳ là điều khó tránh khỏi. CSTC, thông qua phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính có thể tác động một cách thích hợp vào các giai đoạn của chu kỳ kinh tế, nhằm rút ngắn thời gian nền kinh tế bị khủng hoảng tiêu điều, kéo dài thời kỳ nền kinh tế phục hồi hưng thịnh. Đồng thời, thông qua việc phân phối và phân phối lại thu nhập mà CSTC có thể điều hòa các mối quan hệ lợi ích và thực hiện sự cân đối giữa các khu vực, các ngành nghề và các tầng lớp dân cư. 3. Kiềm chế CSTK thông qua phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính mà tác động ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Thông qua đó, CSTC thực hiện vai trò kiềm chế hoặc thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tê quốc dân. 14
  15. Sở dĩ CSTK có vai trò không chế, chủ yếu là do các thuộc tính bên trong của chính sách quyết. Bất kể CSTK thuộc loại hình nào đều mang yếu tố không chế nào đó ở bên trong. Các chính sách này đều thông qua các chế tài nhất định để bắt buộc các chủ thể kinh tế phải thực hiện các quy định của chính sách. Đặc trưng nổi bật về vai trò không chế của CSTC là tính chất gián tiếp, vì rằng cái mà CSTK cung cấp là một phương thức hay áp lực điều hòa kinh tế. 4. Ổn định CSTK thông qua điều chỉnh tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, làm cho tổng mức chi tiêu tiền tệ cân bằng với sản lượng sản xuất và thu nhập, từ đó thực hiện phát triển ổn định nền kinh tế quốc dân. CSTK thực hiện vài trò ổn định thông qua các công cụ của mình. Nhà nước sử dụng thuế, chi tiêu ngân sách, bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp là những công cụ chủ yếu của CSTK và được coi là "công cụ ổn định bên trong" của nền kinh tế. Việc sử dụng đúng đắn và hợp lý các công cụ của CSTC vào những thời điểm thích hợp của chu kỳ kinh tế sẽ tạo ra tiền đề để thực hiện ổn định nền kinh tế xã hội. Chẳng hạn, trong thời kỳ phồn thịnh, thu nhập quốc dân tăng lên, do đó cần phải tăng thuế để điều tiết thu nhập và đầu tư của các chủ thể kinh doanh, áp lực của lạm phát sẽ được giảm nhẹ. Trong thời kỳ suy thoái, mức thu nhập quốc dân xuống thấp, thuế sẽ giảm đi, còn chi tiêu công cộng cần phải tăng lên, thu nhập có thể chi phối của dân cư tăng lên một cách tương tối, do đó tổng cầu của xã hội cũng tăng lên. Vai trò của CSTK mang tính chất phản chu kỳ. Mặt khác, trong điều kiện mất cân đối giữa tắc tổng cung và tổng cầu, có thể thông qua CSTKh để gia tăng chi tiêu công cộng, hoặc là giảm bớt thu nhập của chính phủ từ thuế khóa để duy trì sự không thay đổi về tổng nhu cầu. Ngược lại, nếu chi tiêu của các tổ chức tư nhân quá nhiều, có nguy cơ gây ra lạm phát, CSTK, một mặt cần giảm bớt chi tiêu công cộng, mặt khác cần tăng gia thu thuế để thu hút sức mua dư thừa của xã hội. Vai trò đó của CSTK mang tính chất ổn định. Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, để khống chế và đẩy lùi lạm phát, các biện pháp của tài chính thường được sử dụng như: Cắt giảm chi tiêu Ngân sách, tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư; vay dân qua con đường phát hành công trái, tín phiếu Kho bạc nhà nước hoặc sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất để thu hút lượng tiền mặt trong lưu thông làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ tiền - hàng ... 15
  16. 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP 2.1 CSTT, mục tiêu và nội dung của CSTT 1). CSTT Tiền tệ là sản phẩm của quan hệ trao đổi hàng hóa. Có thể nói bất cứ vật gì được chấp nhận chung để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ hoặc để thanh toán các khoản nợ đều được gọi là tiền tệ. Tiền tệ có vai trò quan trọng trong kinh tế thị trường. Để phát huy được vai trò đó, nhà nước phải hoạch định CSTT theo những định hướng nhất định, hình thành CSTT. Như vậy, CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW soạn thảo và tổ chức thực hiện nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định. Trong tác phẩm “Tiền tệ, ngân hàng và TTTC”, F.S. Miskin đã đưa ra quan điểm về CSTT theo nghĩa rộng: “CSTT là một trong các chính sách vĩ mô, trong đó ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định TTTC và ổn định tỷ giá hối đoái”. Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. NHTW điều hành CSTT phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu của lưu thông. Xét cho cùng, CSTT có thể được xác định theo một trong hai hướng sau: - CSTT mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này, chính sách nhằm vào chống suy thoái. - CSTT thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này CSTT nhằm vào việc kiềm chế lạm phát. Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (money supply) làm thay đổi cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu của các khu vực 16
  17. nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến GDP (thực, tiềm năng) và lạm phát. Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị danh nghĩa hay giá trị tiền tệ của hàng hóa và dịch vụ - đó chính là mức giá chung hay CSTT chính là yếu tố quyết định mức giá chung trong dài hạn. Tuy nhiên, những thay đổi của CSTT cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. CSTT là cách thức hay tổng thể các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế, thông qua việc chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiềnii. Qui trình hoạt động của CSTT có thể tóm tắt như sau: Công cụ của Mục tiêu Mục tiêu Mục tiêu CSTT hoạt động trung gian cuối cùng Qui trình này thực hiện thông qua một cơ chế truyền dẫn tiền tệ 2). Hệ thống mục tiêu CSTT Để đạt được cái đích cuối cùng của CSTT, trong quá trình điều hành CSTT, NHTW phải theo đuổi những đích trực tiếp và gián tiếp khác. Các đích này có sự liên kết lẫn nhau và liên kết với cái đích cuối cùng của CSTT, từ đó hình thành “ hệ thống mục tiêu” của CSTT. Nhiều nghiên cứu thực tế đã chỉ ra rằng, CSTT chỉ đạt được hiệu quả cao khi NHTW lựa chọn được hệ thống mục tiêu CSTT phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và hệ thống tài chính. Mục tiêu cuối cùng Mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là mục tiêu trung hạn, vì tác động trễ của tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. CSTT là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, nên mục tiêu CSTT theo đuổi không ngoài mục tiêu của kinh tế vĩ mô là “ mức sản lượng cao và tăng trưởng nhanh; mức công ăn việc làm hữu hiệu với mức thất nghiệp tự nguyện thấp nhất; ổn định giá cả”. Trên thực tế NHTW các nước điều hành CSTT đều theo đuổi mục tiêu trên. Tuy nhiên, CSTT không phải là duy nhất để nền kinh tế đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô với mức tăng trưởng bền vững, công ăn việc làm cao và lạm phát thấp, mà để đạt được điều đó phải phối hợp đồng bộ với nhiều chính sách khác như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại...Có thể khái quát hoá mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức mong muốn. Trong từng thời kỳ, mục tiêu cuối cùng được lượng hoá cụ thể phù hợp với diễn biến kinh tế và diễn biến tiền tệ. 17
  18. Mục tiêu trung gian Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường được, NHTW có thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối cùng. Điều đó có nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu hoạt động và có thể tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Qua đúc kết kinh nghiệm của các nước, IMF đã chia mục tiêu trung gian được chia thành 3 loại: Mục tiêu trung gian là tổng tiền, thường là lượng chọn M2 và/hoặc là tổng tín dụng nền kinh tế. Mục tiêu trung gian là tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái, hoặc lãi suất thị trường đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một mục tiêu được lựa chọn gắn liền với những diễn biến kinh tế và TTTC trong từng giai đoạn phát triển, gắn liền với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Như vậy, để lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp, đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng về các diễn biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ định hướng phát triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Mục tiêu hoạt động Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động hay kiểm soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu trung gian, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Mục tiêu hoạt động có vai trò quan trọng đối với việc điều hành CSTT, đây là điểm khởi đầu trong cơ chế truyền tải tiền tệ, là biến số chủ yếu để NHTW thực thi CSTT. IMF đã chia mục tiêu hoạt động thành hai loại là mục tiêu hoạt động giá cả hay lãi suất ngắn hạn và mục tiêu hoạt động là khối lượng (tiền cơ bản), cụ thể như sau: + Gắn với mục tiêu hoạt động là giá cả nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. Thông thường NHTW qui định lãi suất trần và lãi suất sàn của NHTW trên thị trường liên ngân hàng nhằm tạo ra hành lang dao động cho lãi suất ngắn hạn trên thị trường theo mức mong muốn của NHTW, thông qua sự tác động của công cụ CSTT như nghiệp vụ thị trường mở v.v. Trong trường hợp việc chỉ đạo CSTT hầu hết thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối hơn là việc điều chỉnh lãi suất thì tỷ giá được xem như là mục tiêu hoạt động. + Gắn với mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ nghĩa là NHTW kiểm soát tiền cơ bản (MB), hoặc các cấu thành của nó, chẳng hạn như Dự trữ quốc tế ròng, Dự trữ của các NHTM, hoặc tài sản có trong nước ròng trên bảng cân đối của NHTW. + Đối với mục tiêu giá cả tiền tệ, việc kiểm soát lãi suất sẽ có hiệu quả trong điều kiện thị trường tiền tệ phát triển- thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản cao và hiệu quả, hệ thống NHTM tồn tại sự cạnh tranh, NHTW phải có sự tín nhiệm với thành viên thị trường. Sở dĩ phải có điều kiện như vậy là do lãi suất chỉ có tính nhạy cảm cao 18
  19. trong môi trường như vậy, khi đó bất cứ sự thay đổi nhỏ trong cung tiền của NHTW sẽ tác động đến sự biến động của lãi suất. Đối với mục tiêu là khối lượng điều kiện áp dụng có phần ngược lại, tức là có thể áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, kém hiệu qủa, khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng là thấp, nhất là trong điều kiện môi trường lạm phát cao. Tuy nhiên trong tình hình như vậy, một điều kiện tiên quyết là giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền phải có sự liên hệ chặt chẽ với nhauiii, và gắn với nó là mục tiêu trung gian là tổng tiền (tổng phương tiện thanh toán hoặc tổng tín dụng nền kinh tế). Sở dĩ mục tiêu khối lượng có hiệu quả trong điều kiện như vậy là do, khi đó chỉ có sự thay đổi khối lượng tiền mới tạo ra sức đẩy tiền tệ trong cơ chế truyền tải tiền tệ trong môi trường thị trường tiền tệ kém phát triển. 3). Nội dung cơ bản của CSTT Trong cơ chế thị trường, CSTT bao gồm 3 chính sách cơ bản. Đó là chính sách tín dụng; chính sách ngoại hối; chính sách đối với NSNN. Chính sách tín dụng Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quĩ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. Khi các TCTD thiếu phương tiện thanh toán thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn. NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ với các tổ chức tín dụng. Chính sách ngoại hối Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội. Chính sách ngoại hối được thể hiện trên các phương diện: (i) Chính sách hối đoái; (ii) Dự trữ ngoại hối và (iii) Tỷ giá hối đoái. Chính sách hối đoái: Chính sách hối đoái thường hướng vào việc ngăn chặn tích trữ ngoại hối trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW. Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào khả năng của nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền trong nước. Khi NHTW mua ngoại tệ sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ, gia tăng khối lượng tiền tệ và ngược lại. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW can thiệp vào thị trường, chủ động tác động vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định. 19
  20. Tỷ giá hối đoái: Phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu. Do tầm quan trọng của nó, nên NHTW rất quan tâm và khi cần thiết dùng nhiều biện pháp để ổn định tỷ giá hối đoái. Chính sách đối với ngân sách Ngân sách cân bằng hay không cân bằng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ. Trường hợp ngân sách cân bằng. Vẫn có thể tác động mạnh tới CSTT. Nếu CSTT nhằm chống lạm phát, thì ngân sách thăng bằng vẫn có thể làm tăng giá. Nếu CSTT nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. Trường hợp ngân sách thiếu hụt sẽ có 4 cách để tài trợ thiếu hụt. Đó là: vay dân; vay hệ thống TCTD và TTTC trong nước; vay NHTW; vay ở nước ngoài. Trong đó vay của NHTW sẽ làm tăng mạnh khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau. Nhưng trong trường hợp cần thiết, NHTW phải đảm bảo cung ứng phương tiện thanh toán cho Chính phủ. 2.2 Các công cụ của CSTT và sự lựa chọn Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn sử dụng các công cụ CSTT trong điều hành CSTT của các NHTW trên thế giới, IMF đã tổng kết và phân chia các công cụ CSTT thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền tệ gián tiếp. 4). Công cụ trực tiếp Là cách thức mà NHTW trực tiếp tác động thông qua các quy định để giới hạn mục tiêu giá cả (hoặc mục tiêu khối lượng) thường nhằm vào các chỉ tiêu trên bảng cân đối của ngân hàng thương mại. Các công cụ này thường được áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử dụng các điều kiện thị trường để điều tiết tiền tệ của NHTW còn hạn chế, như: kiểm soát trực tiếp lãi suất của nền kinh tế, hạn mức tín dụng, tín dụng chỉ định.  Ấn định lãi suất tiền gửi và tiền vay Nếu lãi suất qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Nhược điểm của biện pháp này là làm cho các TCTD mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2