intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc trưng hệ thống thể loại của văn chương yêu nước nửa sau thế kỉ XIX ở Việt Nam

Chia sẻ: Milu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

104
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

1. Cùng với sự thay đổi đội ngũ tác giả, sự thay đổi của chủ đề, đề tài cũng góp phần rất quan trọng tạo ra diện mạo mới cho hệ thống thể loại của văn chương yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc trưng hệ thống thể loại của văn chương yêu nước nửa sau thế kỉ XIX ở Việt Nam

  1. Đặc trưng hệ thống thể loại của văn chương yêu nước nửa sau thế kỉ XIX ở Việt Nam 1. Cùng với sự thay đổi đội ngũ tác giả, sự thay đổi của chủ đề, đề t ài c ũng góp phần rất quan trọng tạo ra diện mạo mới cho hệ thống thể loại của văn ch ương yêu nước nử a cuối thế kỷ XIX. Gần trọn nửa cuối XIX là thời gian Pháp đánh chiếm nước ta và nhân dân ta chống lại xâm lược từ N am c hí Bắc, cả ở kinh đô Huế và c ả ở vùng thôn quê. Văn thơ yêu n ước đi sát các phong trào, kêu gọi chiến đấu, tố cáo giặc Pháp, khêu gợi lòng căm thù, cổ vũ những lớp ngư ời sau xông lên thay thế những ng ười phía tr ước vừa ngã xuống. Hàng loạt nhà nho, quan lại hay thân sĩ đứng lên chống Pháp. Họ cầm gươm giết giặc mà c ũng cầm bút làm thơ văn, tr ước hết là để kêu gọi chống giặc và sau nữa l à để thổ lộ nỗi lòng. Văn chương không chỉ là phương tiện để trần t ình hướng nội mà còn là chiếc kênh giao tiếp để hướng đến nhân quần đại chúng, đi vào thực tiễn. Tính thời sự hay nói cách khác tính thời c hiến tính kịch chiến trở th ành một thứ "chủ â m" dễ nhận ra trên hầu khắp các thể loại văn chương yêu nước đ ương thời. Do vậy dễ hiểu vì sao những nhà yêu nư ớc c uối thế kỷ XIX đ ã để lại đủ thể loại: chiếu, biểu, hịch, th ư, câu đối, văn tế và nhi ều nhất là thơ cảm hoài, câu đ ối phúng viếng… Các tác giả văn chương yêu nư ớc mà trước hết và chủ yếu là các nhà nho trung ngh ĩa đã dùng những thể loại văn học t hích hợp với con người và hoàn cảnh của họ để nói cảm xúc tr ước nạn n ước.
  2. 2. Những thể văn thư ờng d ùng tr ước kia, đến giai đoạn này một số ít đ ược sử d ụng, một số vẫn còn thịnh hành, nhưng do lực lượng sáng tác là những sĩ phu yêu nước c ùng với sự thay đổi về đề tài, chủ đề mà ng ười ta trở lại với các thể phú, th ơ Đường luật, văn tế, hịch… là những thể có nhiều khả năng đi vào quần chúng. Không phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn này lại xuất hiện nhiều những bài Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (Nguyễn Đ ình Chiểu), H ịch đánh Tây (Lãnh C ồ), những bài Văn tếnghĩa sĩ trận vong lục tỉnh, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Tr ương Định (Nguyễn Đ ình Chiểu), những bài S ớ không nhận chức tuần phủ Nam Định (Đỗ Q uang), Phú kể lại việc giặc Pháp đáng Bắc kỳ (Phạm Văn Nghị) và rất nhiều thơ cảm hoài, thơ tuyệt mệnh, câu đối phúng viếng… Có thể nói, hễ có phong trào chống P háp là có hịch, cũng như các sự việc quan trọ ng đều có văn tế, câu đối phúng viếng… Đó đều là các thể văn chức năng đã được sử dụng nhiều ở quá khứ. Tuy nhiên nó không còn mang quá n ặng tính quan phương nghiêm ngặt, tính từ chương c hặt chẽ như trước kia nữa. Nhu cầu thời sự, đ òi hỏi phổ biến hóa vào q uần chúng k hiến cho các thể loại, trên cái nền di truyền bất biến của mình, đã có những điều c hỉnh cho phù hợp với thực tiễn phản ánh. Thể loại đạt đ ược vị trí rất to lớn là văn t ế. Đó là thể loại phản ánh sâu sắc t hái độ thẩm mỹ của con người thời đại này trư ớc hiện thực. Văn tế phát triển ở cuối t hế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và đ ạt đ ược nhiều thành tựu nhất vào những năm cuối t hế kỷ XIX. Như đ ã đ ược thừa nhận rộng rãi, tác giả tiêu biểu nhất trong lịch sử văn học là Nguyễn Đ ình Chiểu. Ông cũng là người đ ưa nghệ thuật v ăn t ế lên đ ỉnh cao và trở thành cái mốc lớn trong lịch sử văn học. C ũng cần phải nói thêm rằng, ph ương thức sử dụng văn tế trong truyền thống k hiến nó không trở thành một thể loại có vận mệnh b ình thường nh ư các thể loại k hác, “khôn vă n tế dại văn bia” nên chỉ c òn lại không nhiều số lượng các bài văn t ế trong lịch sử văn học. Nhưng đã còn lại, thì đ ó chính là những tác phẩm văn học t hực sự có giá trị cao cả về nội dung lẫn về nghệ thuật. Cả một thời đại anh dũng v à đau th ương c ủa dân tộc như thời đại Nguyễn Đ ình Chiểu sống chắc chắn có rất nhiều những b ài văn tế đ ã đ ược viết ra, nhưng trong số đó, vượt qua thử thách của t hời gian, những bài văn tế của ông đã tr ở thành bất hủ, thành những viên ngọc quí
  3. kết tinh từ nước mắt. Đây là t iếng khóc thống thiết, bi th ương c ủa Nguyễn Đ ình C hiểu, cũng là tiếng khóc của cả dân tộc tr ước sự hy sinh mất mát của những ng ười a nh hùng đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu và chiến bại một mất một c òn tr ước t hực dân Pháp. Văn tế Trư ơng Đ ịnh là tiếng khóc thương, cảm phục, ngợi ca, trân trọng của N guyễn Đ ình Chiểu và c ũng là c ủa đồng bào đ ối với người anh hùng đ ất Nam Bộ hy sinh vì nghĩa lớn, vì s ự sống c òn c ủa dân tộc. Người anh hùng đó đã dám đ i ng - ược lại chủ tr ương “hoà” c ủa triều đ ình, để c ùng nhân dân “chiến” Pháp: Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại. Trương Đ ịnh mất, đất trời tối sầm, lòng mọi ng ười nhao nhác buồn thương. S ự mất mát đó t hực không gì bù đ ắp nổi, bởi sự nghiệp vẫn c òn d ở dang ở phía tr ư- ớc. Nỗi đau đó như nhân lên gấp bội, bởi đó còn là nỗi bất hạnh của cả dân tộc mất ng ười anh hùng c ứu quốc, người dẫn dắt cuộc kháng chiến. Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh k hóc thư ơng và chiêu hồn cho những nghĩa sĩ ngã xuống trong chiến đấu chống Pháp xâm l ược, b ày t ỏ lòng căm thù s ục sôi đối với tội ác của lũ c ướp nước: Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ, Đất Biên Hoà đêm vắng trăng lờ, oan quỉ nhóm ngọn đèn thần hiu hắt. Song tiêu biểu nhất là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc , một tác phẩm đ ược xem là mẫu mực cổ điển cho loại văn này. Đây là bài văn khóc thư ơng cho những ng ười nông dân- ngh ĩa dân ngã xuống vì nghĩa lớn của dân tộc, lời nh ư chứa đầy nước mắt. Bài văn là những lời lâm ly, thống thiết, đau đớn nhất trong văn học trung đại viết về cái tao tác, đớn đau của những ng ười dân mất mát ng ười thân: Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng. Nhìn chợ Trư ờng Bình già tr ẻ hai hàng luỵ nhỏ. N hưng nỗi đau đó không làm lu mờ đi cái cảm hứng chính làm nên nét đẹp bi tráng c ủa bài văn tế là cảm hứng ngợi ca. Tuy đau th ương mà lại đầy kiêu hãnh, tự
  4. hào về những người anh hùng vô danh, áo vải chân trần vô c ùng d ũng mãnh trong c hiến đấu chống quân thù. Tác phẩm là một t ượng đài nghệ thuật bề thế hoành tráng k hông tiền khoáng hậu, khắc tạc n ên những hình tượng t ươi sáng và lộng lẫy bậc nhất về người nông dân Việt Nam trong văn học trung đại. N hững ng ười nghĩa sĩ vốn là những nông dân t hật thà, nghèo khó và cam p hận: Nhớ linh xưa: côi cút làm ăn, quen lo nghèo khó … Việc cuốc việc cày vi ệc bừa việc cấy tay vốn quen l àm … N hưng khi tổ quốc lâm nguy, họ đã t ự nguyện đứng lên, không sợ hy sinh, q uyết liệt chiến đấu với tất cả những gì họ có: Ngoài c ật một manh áo vải, nào đ ợi mang bao tấu, bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi n ài sắm dao tu nón gõ … Họ sẵn sàng ngã xuống tr ước làn đạn Tây dương, sẵn sàng hy sinh chứ nhất q uyết không chịu làm nô lệ nhục nhã d ưới á ch xâm lư ợc: Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Còn h ơn sống m à chịu tiếng đầu Tây, ở với man di rất khổ. Đây là thời đại đau thư ơng mà anh d ũng, thời đại của những ngư ời anh hùng c hiến bại. Văn tế mang thái độ thẩm mỹ tiêu biểu nhất của thời đại. Đó là tiếng khóc vĩ đại của dân tộc trong cảnh thất bại, bi th ương. Nó là tiếng khóc đau đớn, xót xa t iễn đ ưa những ngư ời anh hùng ngã xuống vì dân, vì nước. Trong văn tế của ông, ng ười đọc, ng ười nghe cảm nhận lòng căm thù hừng hực đ ối với quân xâm lược, t ình cảm thắm thiết giữa những ng ười đồng bào, mối cộng thông giữa người mất ngư ời c òn vì đại nghĩa. Cũng trong văn tế của ông vang lên lời ngợi ca bi tráng, t iếng đồng vọng hào hùng c ủa chiến công, của trận mạc. Cả tiếng thét că m thù s ục sôi, cả lời thề chiến đấu thiêng liêng, cả những trầm tư sâu lắng về nhân thế, về giang sơn đất nước … Q uả thực, đúng nh ư nhận định của Trần Ngọc V ương: "Những bản hoà thanh viết nên t ừ máu và nước mắt đó không khiến ai bi lụy, mà ngư ợc lại, xốc ng ười ta đứng lên v ươn tới. Không ai, với một thể loại hiểm hóc,
  5. trong một bối cảnh khắc nghiệt như ô ng, đã tạo ra đ ược một cái gì k ỳ diệu t ương tự"(1). Đ iều đáng chú ý trong văn học y êu nư ớc giai đoạn này và c ũng là điểm khác b iệt so với các giai đoạn tr ước đó là s ự xuất hiện của hiện t ượng thơ cảm hoài, thơ t uyệt mệnh và câu đ ối phúng viếng. Hầu như người yêu nư ớc nào biết làm thơ, tr- ước lúc hy sinh đều có th ơ tuyệt mệnh để lại. N hững năm nửa sau thế kỷ XIX là những năm đen tối nhất của lịch sử dân tộc. Trong điều kiện ta bại, địch thắng, n ước ta bị làm thuộc địa, dân ta bị làm trâu ngựa cho kẻ thù suốt một thời gian dài quá nửa thế kỷ, thì anh hùng t ất nhiên không p hải là những ng ười đánh thắng địch, đem lại độc lập thống nhất cho nú i sông, mà tr ước hết là những người chiến thắng mọi sự hèn nhát, nêu gư ơng bất khuất, bảo toàn vinh d ự dân tộc ngay trong khi chúng ta chiến bại. V à, như một qui luật đã được GS. Trần Văn Giàu khái quát: “T ự cổ chí kim người Việt Nam là những người lê n ngựa cầm thương, xuống ngựa cầm bút. Sĩ phu làm thơ văn, quần chúng cũng làm thơ văn. Thắng trận làm thơ văn; trư ớc giờ hành hình c ũng đủ can đảm, đủ b ình t ĩnh và cảm hứng để làm thơ văn. Có giấy bút hay không có giấy bút đều có thể làm t hơ văn hay để vận động cứu nước và đ ể cho tiết nghĩa đ ược lưu truyền”(2). Gương hi sinh lẫm liệt của các anh hùng ngh ĩa sĩ lại có sức thức tỉnh h àng ngàn người sống, đưa họ sung vào hàng ngũ cứu n ước. Trong tiếng nói cuối c ùng c ủa những con ng- ười sắp từ giã cuộc đời ấy, tuyệt nhiên không thấy có bóng dáng một t ư t ưởng ham sống sợ chết nào cả. Họ đi vào cái chết rất ung dung, thanh thản. Vừa là sản phẩm c ủa hoàn cảnh lúc bấy giờ, những gì mà cuộc đời và hành trạng họ bộc lộ vừa mang trong mình khuôn hình c ủa những người anh hùng kiệt hiệt trọng nghĩa quên thân ("ch ớ đem th ành bại luận anh h ùng") rất dễ gặp trong các mô típ văn ch ương xưa. Đó vừa là những hình ả nh thực tế vừa là chất liệu văn chương có tính biểu t ượng, t ính khái quát đ ã đ ược đúc kết thành truy ền thống. Chúng ta có thể bắt gặp những hình t ượng bất khuất ấy qua khá nhiều các b ài thơ, các câu đối của nhiều tác giả - trong đó chủ yếu tác giả là lãnh t ụ của nghĩa quân: Lâm chung th ời tác (Phan Đ ình P hùng), các bài thơ có nhan đ ề L âm hình thời tác c ủa Hồ Huân Nghiệp, Đặng Hữu P hổ, Nguyễn Duy Hiệu, Lê Trung Đ ình, Nguyễn Đức Huy…
  6. N guyễn Thông chép rằng: “Đến lúc sắp phải hành hình, Hồ Huân Nghiệp, (người Gia Định) rửa mặt, sửa khăn áo, ung dung đọc bốn câu thơ rồi chịu chém. Ai nấy cũng đều r ơi nước mắt. N ăm ấ y ông ba mươi sáu tuổi”(3). Bốn câu thơ c ủa Hồ Huân Nghiệp là: Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi, Toàn b ằng trung hiếu tác nam nhi. Thử thân sinh tử h à tu lu ận, Duy luyến cao đ ường bạch phát thuỳ. (Thấy việc nghĩa lẽ nào không d ũng cảm ra làm, Phải giữ trọn điều trung hiếu để xứng đáng là trang nam nhi. Thân này s ống hay chết chẳng cần kể đến làm gì, C hỉ thư ơng mẹ già phất phơ tóc bạc). N guyễn Hữu Huân là nhà yêu nước, nhà thơ kiên cư ờng, bất khuất. Ba lần dấy b inh đánh Tây mặc d ù tr ong hoàn cảnh rất ngặt nghèo. Trước giờ hành hình, ông r ất b ình t ĩnh, ung dung làm thơ để tỏ rõ chí khí và tâm trạng của ông đối với đất nước rồi cắn lưỡi tự sát không chịu để cho quân giặc chém đầu. Cuộc đời “ba phen khởi ngh ĩa” ấy d ù đã không thành công t rong sự nghiệp cứu nước nhưng tiếng thơ về tài năng c ủa ông thì vẫn còn mãi mãi. Người đời lưu truyền đôi câu điếu Nguyễn Hữu Huân: Anh hùng m ạc bả doanh thâu luận; Vũ trụ trư ờng khan tiết nghĩa l ưu. (Khuyết danh) D ịch nghĩa: (Không thể lấy việc được thua mà bàn luận về người anh hùng, Ở trong vũ trụ sẽ lưu mãi tiếng khen tiết nghĩa).
  7. Danh thơm, tiếng tốt là điều mà kẻ đang sống, ngư ời sắp chết phải quan tâm, cầu đ ược. Thật là cái đẹp của cả một triết lý về sự sống chết! Đ iếu Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Mẫn Đạt viết: Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa; Kiếm bạc Kiên Giang kh ấp quỉ thần. (Lửa hồng Nhật Tảo rung trời đất Kiếm rút Kiên Giang khóc quỉ thần). N guyễn Duy Cung biết sắp b ị xử tử vẫn không nao núng: Ninh vi trung ngh ĩa quỷ, Bất vi t àm phụ nhân. (Thà làm ma có hồn trung vía nghĩa, Không làm ngư ời đeo mặt ngựa đầu trâu). Có khi thỉnh thoảng trong những b ài thơ tuyệt mệnh của họ cũng có chút ngậm ng ùi, như ng tuyệt nhiên đó không phải là cái ngậm ngùi vì bản thân họ bị hy sinh, mà ngậm ngùi vì thấy họ chết đi giữa lúc nhân dân, xã t ắc vẫn c òn chìm trong máu lửa. Phan Đ ình P hùng lo nhất tr ước khi chết là thấy “dân chúng c òn đ ương đói k hổ k êu trời nh ư đàn nhạn không có chỗ ở. Bọn giặc c òn đóng đ ồn như đàn ong k hắp mọi nơi. Xa giá c ủa vua đang ở ngo ài quan san. Nhân dân b ốn bể như sống trong nư ớc sôi lửa bỏng”. Cái ngậm ngùi ấ y không làm cho chúng ta thấy họ yếu đ uối, mà trái lại, nó làm cho chúng ta thấy rõ quyết tâm chiến đấu của họ. Có thể t hấy tính chất chiến bại của quá tr ình đấu tranh kháng Pháp đã đ ược phản chiếu một cách rõ nét thông qua thơ văn. Màu s ắc bi thương ( bi thương đi kèm với bi hùng) và a i điếu trở nên một gam chủ trong sắc thái cảm xúc của h àng lo ạt tác phẩm văn học. Rất nhiều thơ, câu đối, liễn tuyệt mệnh; thơ, câu đ ối phúng viếng đ ược sáng tác trong nhiều thời khắc đầy trang trọng, bi ai. Các b ài thơ, câu đối có nhan đề mở đầu bằng các từ "khấp", "khốc", "viếng" xuất hiện với một số l ượng lớn: Phan Đ ình P hùng khóc Cao Thắng, Nguyễn Xuân Ôn khóc Nguyễn Ph ương, Nguyễn Thiện Thuật viếng Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết viếng Trần Bích San. Tính chất
  8. k hốc liệt bi thương c ủa một cuộc chiến không cân sức - c uộc đối đầu giữa hai p hương thức chiến tranh hoàn toàn chênh lệch nhau đ ã thổi vào trong thơ văn không k hí k ịch chiến, không khí chiến bại với tất cả sức nóng, sự bề bộn lẫm liệt bi tráng c ủa nó. Chỉ cần đọc câu đối của văn thân sĩ phu Nghệ Tĩnh viếng Phan Đ ình Phùng - câu đ ối gần như dài nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, sẽ thấy rõ đ iều đó (Anh hùng thành bại kể chi, Tấc dạ cô trung, tấm g ương nghĩa cả, Thề c ùng các bạn chu tuyền. Son mực thánh thần, đọ c sách lấy c ương thư ờng làm tr ọng. Giận vì lẽ nhà to sắp đổ, một cây chẳng chống được nào. Cung lạnh khói tan, cảnh non t hẳm ai không xót nỗi. Gặp vận rồng bay mây tối, ngậm ng ùi cuộc thế đổi thay; Thương ôi La Việt non sông, văn hiến trăm năm binh mã lo ạn; Trời đất cổ kim còn mãi, M ột d òng nước chảy, muôn trượng núi xa, ấy chốn nam nhi ngang d ọc; Lam Hồng gió tuyết, ngạo đông cho t ùng bách c ũng gầy. Tính sao đây sóng cả đang dâng, cột đá giữa d òng khó vững; Sao dời vật đổi, t ình cố hương ai chẳng chạnh lòng. Nguồn c ơn nhạn lạc gió gầm, ngao ngán lòng trời cay nghiệt; Thấy chửa t ùng mai khí tiết? Tinh thần một thác Đẩu Ng ưu cao!) (Hoàng Tạo dịch). Bên c ạnh những thể loại gắn với quan niệm “văn” chính thống nh ư t rên, t rong văn chư ơng yêu n ước nửa cuối X IX chúng ta còn thấy có mặt của một lực l ư ợng sáng tác đặc biệt với một số thể loại đặc biệt. Đó chính l à s ự xuất hiện của n hi ều b ài ca dao, nhi ều b ài vè có tính th ời sự và tính chiến đấu rất cao. Sự trở lại c ủa những thể loại đặc biệt trong văn học dân g ian như th ế này là xu ất phát từ một thực tế, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l ược trong giai đoạn n ày là cuộc kháng chiến của to àn dân, đ ứng đầu là nh ững sĩ phu yêu nư ớc nên thơ văn yêu nư ớc chống thực dân cũng là thơ văn c ủa to àn dân, l ực lượng s áng tác b ao g ồm từ những sĩ phu đến th ường dân trong đó dĩ nhiên l ực l ượng sáng tác q uan tr ọng nhất vẫn là nh ững sĩ phu y êu nư ớc. Khác với những thể loại văn vần của văn chương bác học, vè là một thứ văn vần kể chuyện. Tr ước đây th ường d ùng đ ể truyền c ho nhau nghe những chuyện lạ trong làng xóm, phản ánh những d ư luận, nêu ra một công luận về những chuyện đó
  9. ở một địa ph ương nhất định. Nông dân là tầng lớp đông đảo nh ưng lại sống phân tán. Họ sống trong làng, trong họ, vốn xa với vua quan, triều đ ình, ít biết việc vua, việc nước. Nông dân tò mò, thích biết chuyện, ham nghe vè, những ng ười “hiếu sự” t hường hay đặt vè. Ngược lại các nhà nho vốn nghiêm túc, không thích nói những c huyện nhiều khi không khỏi có tính bới móc “đôi lai, đôi mách” nê n không thích vè. Trước t ình hình đấu tranh đòi hỏi hình th ức thông tin nhanh và rộng, vè trở t hành lợi hại, có tác dụng tuyên truyền giáo dục nhiều lần sâu rộng hơn những bài t hơ chữ Hán. Nó đ ưa sự kiện kèm theo dư luận, tô đậm thêm bằng cảm xúc, ba y lên bằng t ưởng t ượng sáng tạo. Truyện kể rằng: t ên đ ốc phủ Ca ở Hóc Môn hung ác vô c ùng. Đ ể lập công với Tây, nó bắt trẻ con, con cháu những ng ười “đảng cựu” đánh Tây, bỏ vào cối giã gạo, lấy chày mổ quết nát x ương. Nhân dân căm thù, nổi lên giết c hết Đốc phủ Ca, treo đầu lên c ột đ èn chợ Hóc Môn. Từ đó Vè Quản Hớn đ ược truyền miệng trong dân gian. Chợ Hốc Môn ân oán nuốt hờn, Huyện Bình D ương tha nha thiết xỉ … Với chính sách “ăn c ướp có hệ thống” của bọn thực dân ph ương Tây thì nông dân là nạn nhân của cảnh đốt phá, chém giết mà c ũng là nạn nhân của nạn đóng góp. Họ không t iếc sức ủng hộ triều đ ình kháng chiến trong núi, nh ưng họ cũng không t hể tránh đ ược việc đóng góp cho triều đ ình tay sai hợp pháp. Để việc b ình đ ịnh đ ư- ợc nhanh chó ng, “thằng Tây”, “thằng tập” v à “tả đạo” thi nhau đốt phá, chém giết. N hân dân cõng già ẵ m trẻ chạy loạn: Chạy nh ư Hán như Hà Trốn đàng trong không kh ỏi Trốn đàng ngoài không khỏi (Vè Thất thủ kinh đô) Cảnh đốt phá, bắn giết c ướp bóc của thực dân Pháp và cảnh nhân dân chạy loạn, của cải, đồ lề bị ăn c ướp hoặc mất sạch. Tội ác của giặc ngoại xâm đ ã biến
  10. t hành một bức tranh thô s ơ như ng lại có những nét vẽ phác thật khoẻ trong Vè Th ất thủ k inhđô là vậy. Kẻ thù đi đến đâu là gieo tang tóc đau thương đến đó. Tiến sâu vào đất nước c húng ta, t ội ác của kẻ thù bày ra la liệt d ưới mỗi b ước đi của chúng. Cái làm cho ngư ời dân điêu đứng, sống không yên ổ n được là tình tr ạng loạn lạc, khô ng làm ăn, đ i lại đ ược, tiếp đến là c ảnh s ưu cao thuế nặng, là c ảnh phu phen. Vè đi p hu Cửa Rào k hông chỉ phổ biến ở vùng Nghệ An mà phổ biến ở cả nước với những cảnh hết sức thư ơng tâm: Từ ng ày có mặt thằng Tây Phu phen t ạp dịch hàng ngày kh ốn thâ n … N hững cảnh t ượng như trên thực sự là nh ững bản cáo trạng tố cáo tội ác mà kẻ thù ngo ại xâm gây nên. Hẳn nhiên b ản cáo trạng ấy không hề bỏ qu ên vai trò p hản bội nhục nhã c ủa giai cấp thống trị. Từ ngày bước vào con đ ường suy đồi, giai cấp này đã b ị nhân dân nguyền rủa thậm tệ, uy tín bị v ùi xuống b ùn đen. Tầng lớp vua quan mà đại diện là triều đ ình T ự Đức, hồi này mỗi ngày một bộc lộ bản chất p hản động vô sỉ của nó. Những bài vè dân gian oán trách vua Tự Đức rất nhiều: Non sông lệ thuộc đến bao g iờ? Chính tr ị nh à vua quá ng ẩn ngơ. … Của hết dân t àn trăm h ọ khổ, Mình rồng thuở ấy tỉnh hay m ơ? (Vè Cái thời Tự Đức) Trước khung cảnh khủng khiếp một cổ hai tròng, hai vai nhiều ách nh ư vậy, ng ười nông dân đã kêu van hết mọi cửa, nhẫn nhục đủ mọi cách mà c ũng không đ - ược ích gì. Họ chỉ mong ước có lại cảnh thái b ình trên là “chúa thánh tr ị vì” d ưới là “ vạn dân khang thái”. Họ chỉ mơ ước cảnh lại được làm ăn mư a thuận gió hoà, mu ối gạo giá rẻ, và tất nhiên trong cảnh thái b ình đó: Những lo ài gian ác
  11. Thì kiếm chốn lánh m ình Những lũ hôi tanh Thì cong đuôi biệt tích. Đó là mơ ư ớc hàng nghìn đời của ng ười dân Việt N am sống trên mảnh đất yêu c huộng hoà bình này! Rõ ràng là qua nội dung mà các bài vè ph ản ánh như trên chúng ta c ũng thấy: những điều mà ngư ời nông dân nói trong các bài vè thì ta c ũng gặp trong thơ văn các nhà khoa bảng ở một tấm lòng, một mạch cảm xúc, mà đó là mạch lớn lao nhất c ủa dân tộc: chống giặc triệt để , chống đầu hàng, chống thất bại chủ nghĩa, đánh q uyết liệt vào giặc và tay sai, c ỗ vũ, khơi gợi, ngợi ca, căm hờn… Hơn bất cứ một dòng văn học nào khác, tính chất chiến đấu của văn học yêu nư ớc tr ước hết thể hiện ở sự bóc trần bản chất tàn bạo, thâm hiểm của b è lũ thực dân c ướp nước, và những hành động đớn hèn b ỉ ổi của bọn quan lại đầu hàng bán nước. Văn thân yêu nước Hà Nội trong bài Hịch gửi cho văn thân Nam Đ ịnh nói: “ Lũ giặc Tây kia đến n - ước Nam ta, ng ười của bị vơ vét, đất đai bị chiếm giữ. Sáu tỉnh Nam kỳ từ lâu sa vào móng mỏ diều quạ, các hạt của miền Bắc gần đây lại bị nanh vuốt của h ùm beo”(4). Rồi trong nhiều tác phẩm khác nh ư bài Hịch của Tr ương Đ ịnh, Thư c ủa P han Đ ình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải, thơ c ủa Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Q uang Bích… c hỗ này hay chỗ khác, mạnh mẽ dữ dội hay kín đáo, chua xót đều có nói đến. Trong bài Phú kể lại việc Pháp đánh Bắc kỳ lần đầu, P hạm Văn Nghị kể: Kìa như tổng đốc, bố chánh, án sát, l ãnh binh Tiền bổng, gạo l ương, thực bao tá? Sao thấy thằng đầu trọc răng trắng, gối run như chứng phong kinh Sao thấy thằng mũi lõ tóc quăn mặt, xám nh ư hình lôi đả? Nghe Cửa Tiền rầm rầm pháo nổ, ngọn cờ theo gió phất xuôi Mở Cửa Hậu cho quân lui, bỏ giáo r ơi đ ường tơi tả. Đặc biệt ở nội dung tố cáo t hì vè đ ã gặp thơ trào phúng c ủa các nhà Nho, một dòng thơ mới phát triển mạnh từ cuối thế kỷ XIX. Một mặt trong th ơ trào phúng
  12. xuất hiện những bộ mặt hài hư ớc, những lời chế giễu không trang nghi êm mà trư ớc đây ta chỉ gặp trong vè. Đến Tam nguyên làng Y ên Đ ổ cũng phải từ bỏ lối “ôn tồn nghiêm nghị” khi vẽ ra cái mặt mày k ỳ dị và bêu diếu ngoại hiện quái đản của t ên đại tá thực dân “Ri-vi-e” trư ớc khi hắn đền tội ở Cầu Giấy: Mắt ông xanh lè, Mũi ông th ò lõ, Đít ông c ưỡi lừa, Mồm ông huýt chó… (Văn tế Ri-vi -e) Mặt khác, trong vè lúc đó lại thấy nhiều chữ nghĩa chứng tỏ dấu vết b àn tay nhà Nho, những ng ười bây giờ cảnh ngộ đã rất gần nông dân. S ự đồng t ình và đ ồng cảnh giữa hai tầng lớp tr ước đây có nhiều xa cách làm họ gặp nhau ở chỗ có nhu cầu chung kể lễ nổi khổ nhục v à những cảnh trái ngược. Đ iều đó trong thực tế đã mở một cửa thông cho văn chương bác học và văn chương b ình dân gặp nhau tr ên mảnh đất tố cáo hiện thực đau khổ nhục nhã c ủa cả dân tộc. Với ưu thế của một thể văn vần, vè có nhiều khả năng đi vào quần chúng. Đó k hông chỉ là những câu chuyện kể trong sinh hoạt h àng ngày c ủa quần chúng nhân dân trong làng trong xóm mà nó đ ã tr ở thành một thứ vũ khí sắc bén đấu tra nh với kẻ thù xâm lư ợc ở vào một thời điểm đặc biệt. Sự có mặt của những b ài ca dao, những bài vè có tính thời sự như trên làm cho văn học yêu nước nửa sau thế kỷ XIX trở thành thống nhất một cách kỳ lạ trong hàng ngũ những ng ười kiên quyết đánh giặc giữ nước, đồng thời làm cho văn học yêu nước có nhiều nội dung mới và phong p hú hơn. Những bài vè ấ y d ù có thể tính nghệ thuật chưa cao như ng thực sự là những “viên ngọc quí” vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học. Đó là những giá tr ị tinh thần mà dân tộc ta, nhân dân ta hình thành đ ược trong quá tr ình t ự ý thức về mình sâu s ắc hơn trong một hoàn cảnh ho àn toàn khác tr ước. Từ góc độ lịch sử văn học, sự xuất hiện và phát triển của thể loại văn ch ương đặc biệt này đ ã góp phần làm cho nền văn học dân tộc trở nên mang tính nhất thể hoá cao hơn. Đó là s ự nhất
  13. t hể hoá theo hướng hiện đại hoá và dân chủ hoá, làm mờ đi đ ường phân giới chia tách văn học bác học và văn học dân gian vốn rất rõ rệt trong quá khứ. N hìn chung văn học yêu n ước chống Pháp giai đoạn cuối thế kỷ XIX vẫn sử d ụng những thể loại cũ. Tuy có sự xuất hiện một số thể loại mới cộng vào hệ thống t hể loại cũ nhưng quan niệm văn học và tư tưởng thẩm mỹ cũ không vì vậy mà b ị t hay đổi, phủ định. Và, với các thể loại cũ như trên, tuy không có đóng góp đáng k ể về mặt sáng tạo thể loại, về các h ình thức biểu đạt mới, song chúng lại có những giá tr ị to lớn trong việc tuyên truyền chiến đấu, phê phán tố cáo xã hội, đấu trang chống ngoại xâm. Vấn đề đặt ra vẫn là vấn đề xã hội- c hính tr ị nóng hổi tính thời sự. Các tác phẩm có tính trữ t ình đậm đà, tính qu ần chúng rộng r ãi. Nó phản ánh đ ược những mẫu điển hình về thời cuộc, về dân tộc, về vẻ đẹp bi h ùng c ủa con người trong một thời đại đặc biệt. Đó chính l à b ộ phận văn chương luôn được nhân dân truyền tụng lưu giữ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2