intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương luận văn Thạc sĩ Khoa học cây trồng: Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô lai tại Huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ

Chia sẻ: Trần Minh Tấn | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:50

96
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn này với mục đích lựa chọn được 1 - 2 giống ngô lai mới có năng suất cao thích ứng với điều kiện đất đai, khí hậu của huyện Đoan Hùng - Tỉnh Phú Thọ để giới thiệu cho sản xuất. Mời các bạn cùng tham khảo luận văn để nắm chi tiết hơn nội dung nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương luận văn Thạc sĩ Khoa học cây trồng: Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô lai tại Huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ NGUYỄN THỊ NAM GIANG NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG,  PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI  TẠI HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ Ngành: Khoa học cây trồng Mã số ngành: 60.62.01.10 ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ   KHOA HỌC CÂY TRỒNG                                  Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LUÂN THỊ ĐẸP
  2. Thái Nguyên ­2016 MỤC LỤC 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cây ngô (Zea mays.L.) là một trong ba cây lương thực quan trọng của   nhiều nước trên thế  giới. Ngoài cung cấp lương thực cho con người và  thành phần hỗn hợp quan trọng trong thức ăn cho chăn nuôi, ngô còn là  nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm và công   nghiệp nhẹ. Hiện nay, ngô đang được quan tâm đặc biệt với vai trò là  nguồn nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học. Trên thế  giới, ngô (Zea mays.L) là một trong những cây ngũ cốc quan  trọng, diện tích đứng thứ  2 sau lúa mì; sản lượng và năng suất cao nhất   trong các 3 loại cây ngũ cốc quan trọng của thế  giới (Lúa mì, lúa gạo và  ngô). Diện  tích ngô đứng thứ  2 sau lúa mì nhưng sản lượng và năng suất  cao nhất trong các 3 loại cây ngũ cốc, năm 2013, diện tích trồng ngô thế  giới đạt 183,19 triệu ha, năng suất bình quân 55,2 tạ/ha, sản lượng 1016,74  triệu tấn. Trong đó Mỹ, Trung Quốc, Braxin là những nước đứng đầu về  diện tích và sản lượng (FAOSTAT, 2016) [26]. Hiện nay và trong những năm tới, ngô vẫn là cây ngũ cốc có vai trò   quan trọng ở nước ta. Phát triển sản xuất ngô được coi là chiến lược quan   trọng, vì cơ cấu nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng  ngành trồng trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi nên nhu cầu ngô để cung  cấp nguồn thức ăn cho gia súc, gia cầm rất lớn. So với năm 2000, năm  2013, diện tích trồng ngô ở nước ta đã tăng 60,3%, năng suất tăng 76,9% và   sản lượng tăng 158% (FAOSTAT, 2016) [26]. Tuy nhiên, nhu cầu sử  dụng ngô  ở  nước ta ngày càng tăng, do ngành   chăn nuôi phát triển. Theo hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, trong số  các nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi thì Việt Nam mới chủ  động  được cám gạo, còn các nguyên liệu khác phần lớn phụ  thuộc vào nhập 
  4. khẩu. Năm 2013, trong số  9 triệu tấn nguyên liệu nhập khẩu dùng để  sản  xuất thức ăn chăn nuôi có 4 triệu tấn khô dầu đậu tương, 1,9 triệu tấn ngô  và các thành phần khác như bột xương cá, bột mỳ… (Cục Chăn nuôi, 2015)  [1]. Năm 2014, lượng ngô nhập khẩu là 4,79 triệu tấn, tổng giá trị  nhập  khẩu là 1,22 tỉ  USD, tăng 82,09% so với năm 2013 (Tổng cục Hải Quan,   2015) [15]. Do vậy, để  đáp  ứng nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi cần có giải pháp  phát triển sản xuất ngô. Trong đó giống được coi là nhân tố  quan trọng   nhất quyết định đến nâng cao sản lượng và chất lượng nông sản. Giống tốt  sẽ  cho sản lượng ngô cao hơn giống bình thường từ  20­25% (Ngô Hữu   Tình, 2003) [12]. Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều giống ngô lai tốt phục vụ  cho sản xuất, các giống ngô lai này được nhập nội từ các công ty giống của  nước ngoài và chọn tạo trong nước. Để  chọn được giống tốt phù hợp với   điều kiện của từng vùng sinh thái thì việc khảo nghiệm đánh giá các giống   là khâu rất quan trọng trong chọn tạo giống mới. Đoan Hùng là một huyện Miền núi phía Bắc của tỉnh Phú Thọ, có diện  tích đất tự  nhiên là 30.261,34 ha. Trong đó, tỉ  trọng đất lâm nghiệp vẫn là   chủ  yếu (43,2%), đất sản xuất nông nghiệp chiếm 39%. Đất gồm 6 nhóm   chính, trong đó có 3 nhóm chiếm diện tích lớn là: Nhóm đất xám (AC)  chiếm 73,16%, đất phù sa (FL) chiếm 15,04%, đất đỏ (FR) chiếm 5,72%,…  Nhiệt độ  TB năm khoảng 23,30C, nhiệt độ  TB tối cao: 28,40C, nhiệt độ  TB tối thấp: 16,10C. Lượng mưa trung bình/ năm 1.644mm.  Với điều kiện tự nhiên như trên, Đoan Hùng có tiềm năng lớn để phát  triển sản xuất nông lâm nghiệp toàn diện. Năm 1995, với diện tích gieo  trồng cây lương thực (lúa, ngô) cả  năm trên 11.000 ha, tổng sản lượng   lương thực cây có hạt của huyện mới chỉ  đạt xấp xỉ  27.000 tấn. Đại hội  Đảng bộ huyện lần thứ XVIII (1995) đã nghị quyết mục tiêu phấn đấu đến 
  5. năm 2000, tổng sản lượng lương thực đạt 3 vạn tấn. Việc áp dụng các tiến  bộ kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh, cùng với chương trình cấp I hóa  các giống lúa, các giống ngô lai, lúa lai được đưa vào sản xuất thay thế dần   cho các giống địa phương đã được sử dụng từ quá lâu trên địa bàn, với diện  tích ngày càng tăng. Đoan Hùng cũng là huyện đầu tiên của tỉnh Vĩnh Phú  (cũ) ứng dụng thành công mô hình trồng ngô vụ Đông trên đất lầy thụt sau  thu hoạch lúa Mùa (vụ  Đông 1996). Kết quả, ngay từ  năm 1998, huyện đã  vượt mục tiêu 3 vạn tấn( đạt 3,15 vạn tấn), đến năm 2000 tổng sản lương   thực đạt trên 3,8 vạn tấn, năm 2005 đạt 4,6 vạn tấn. Từ năm 2005 đến nay,  Huyện  đã xác  định và tập trung chỉ   đạo phát triển sản xuất nông, lâm  nghiệp theo các chương trình trọng điểm để  tập trung nguồn lực đầu tư,  phát huy thế  mạnh của địa phương, trong đó chương trình phát triển cây  lương thực (lúa, ngô) được xác định là chương trình trọng điểm được  ưu   tiên   quan   tâm.   Giá   trị   sản   xuất   ngành   nông   lâm   nghiệp,   thuỷ   sản   tăng  trưởng liên tục và bền vững (5,3%/năm giai đoạn 2005­2010; 6% giai đoạn   2011­2013). Trên  địa bàn huyện, cây ngô được trồng trong cả  3 vụ: vụ  Xuân, vụ  Hè và vụ  Đông; thích hợp trên nhiều chân đất: đất soi bãi ven  sông, đất màu đồi, đất lúa 2 vụ sau thu hoạch lúa mùa, đất 1 vụ mùa... Diện  tích ngô hàng năm  ổn định khoảng 1.900 ­ 2.000 ha/năm, trong đó cây ngô   vụ  Đông diện tích từ  900­ 1.000 ha (chiếm khoảng 50%); năng suất ngô  không ngừng được nâng lên (năm 2005 đạt 36,83 tạ/ha, tăng lên 46,4 tạ/ha   năm 2010 và 48,81 tạ/ha vào năm 2012).  Trong giai đoạn 2010 ­ 2015, với xu thế chung của cả nước là diện tích   canh tác cây lương thực giảm dần do chuyển mục đích sử dụng sang đất ở,   xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ  XXI  (năm 2010) tiếp tục xác định với tiềm năng lợi thế  sẵn có, cần tập  trung chỉ đạo sản xuất nông lâm nghiệp theo các chương trình nông nghiệp 
  6. trọng điểm, trong đó chương trình phát triển cây lương thực được ưu tiên  để  đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn. Mục tiêu đặt ra là đến năm  2015, diện tích cây lương thực  ổn định là 9.000 ha, sản lượng lương thực  đạt 48,5 – 49 ngàn tấn. Trong đó, diện tích ngô toàn huyện ổn định ở 2.000  ha, năng suất đạt 50 tạ/ha, sản lượng đạt 10.000 tấn.  Để  góp phần làm tăng năng suất cũng như  sản lượng ngô, ngoài việc  áp dụng các biện pháp kỹ thuật, điều cần thiết là luôn phải thường xuyên  đánh giá, tuyển chọn các giống ngô lai mới có khả  năng thích nghi tốt với  điều kiện sinh  thái của vùng để  đạt năng suất cao nhất. Nghiên cứu tuyển  chọn các giống ngô lai mới là một đòi hỏi tất yếu trong những năm gần đây  và tương lai. Việc sử dụng các giống ngô lai mới có năng suất cao sẽ  nâng  cao năng suất, sản lượng ngô, góp phần bảo đảm an ninh lương thực của   Huyện. Chính vì những lý do đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu khả   năng sinh trưởng, phát triển của một số  giống ngô lai tại huyện Đoan   Hùng, tỉnh Phú Thọ”. 2. Mục đích và yêu cầu của đề tài 2.1. Mục đích Lựa chọn được 1 ­ 2 giống ngô lai mới có năng suất cao thích ứng với   điều kiện đất đai, khí hậu của huyện Đoan Hùng ­ Tỉnh Phú Thọ  để  giới  thiệu cho sản xuất. 2.2. Yêu cầu ­ Đánh giá các giai đoạn sinh trưởng, phát dục của các giống ngô lai thí  nghiệm trong vụ xuân tại xã Phương Trung và xã Chí Đám. ­ Đánh giá  một số  đặc điểm hình thái sinh lý  của các giống  ngô  thí  nghiệm. ­ Theo dõi tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ.
  7. ­ Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống   thí nghiệm. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài  3.1. Ý nghĩa khoa học ­ Kết quả  nghiên cứu của đề  tài là cơ  sở  khoa học để  nghiên cứu   định hướng, qui hoạch phát triển và chỉ   đạo sản xuất ngô trên địa bàn  huyện.  ­ Là tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên trong nghiên cứu chọn   tạo giống ngô, là cơ  sở  cán bộ  khuyến nông trong việc khuyến cáo người   dân sử dụng giống mới trong sản xuất.   3.2. Ý nghĩa thực tiễn         ­  Tuyển chọn 1­2 giống ngô lai mới có  năng suất lượng cao, chất   lượng tốt giới thiệu cho cơ  cấu giống ngô sản xuất  ở  tỉnh Phú Thọ  nói  chung và huyện Đoan Hùng nói riêng. ­ Kết quả  nghiên cứu của đề  tài góp phần chuyển đổi cơ  cấu cây   trồng, tăng vụ  nhằm khai thác hiệu quả  hơn quĩ đất, góp phần xoá đói,  giảm nghèo tăng thu nhập cho các hộ nông dân, tạo sản phẩm hàng hoá.
  8. CHƯƠNG I TỔNG QUAN TÀI LIỆU  1. Tinh hinh s ̀ ̀ ản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam 1.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới Hiện nay, ngô là cây lương thực đứng thứ  3 trên thế  giới sau lúa mì  và lúa nước với diện tích khoảng 183,29 triệu ha, sản lượng 1.021,61 triệu  tấn (năm 2014). Trong những năm gần đây nhờ  vào sự  phát triển của khoa  học kỹ thuật việc áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất đã làm tăng  năng suất và sản lượng ngô lên đáng kể. Bảng 1.1: Tình hình sản xuất ngô trên thế giới  giai đoạn 2010 ­ 2014 Diện tích Năng suất  Sản lượng Năm (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) 2010 162,32 51,55 820,62 2011 170,39 51,84 883,46 2012 178,55 48,88 872,79 2013 184,24 55,17 1016,43 2014 183,29 55,72 1.021,61 ( Nguồn: FAOSTAT, 9/2016)[26]
  9.        Số liệu Bảng 1.1 cho thấy diện tích trồng ngô từ 162,32 triệu ha (năm  2010) đến 183,29 triệu ha (năm 2014). Năng suất tăng không đáng kể  từ  51,55 tạ/ha (năm 2010) đến 55,72 tạ/ha (2014). Do diện tích tăng cho nên  sản lượng vẫn có xu hướng tăng qua các năm.  1.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam Ở  Việt Nam, cây ngô đã được trồng cách đây khoảng 300 năm và  được trồng trên những điều kiện sinh thái khác nhau của cả  nước. Là cây   lương thực quan trọng thứ hai sau cây lúa, là cây trồng chính để  phát triển  ngành chăn nuôi. Năng suất ngô  ở  nước ta trước đây rất thấp so với năng   suất ngô thế  giới, do sử dụng giống ngô địa phương và áp dụng khoa học   kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Sản xuất ngô ở  Việt Nam đã trải qua   nhiều bước thăng trầm và đến nay đã đạt được những thành tựu lớn. Bảng 1.2: Tình hình sản xuất ngô tại Việt Nam giai đoạn 2010 ­ 2014 Diện tích Sản lượng Năm Năng suất (tạ/ha) (nghìn ha) (nghìn tấn) 2010 1.126,9 40,9 4.606,3 2011 1.081,0 46,8 4.684,3 2012 1.118,2 42,9 4.803,2 2013 1.172,6 44,3 5.193,5 2014 1.178,6 44,1 5.202,5 2015 1.179,3 44,8 5.281,0 ( Nguồn: Tổng cục thống kê, website http://www.gso.gov.vn, 2015)[16] Qua bảng 1.2 cho thấy diện tích trồng ngô từ  1126,9  nghìn ha (năm  2010),  giảm xuống ở năm 2011, và tiếp tục tăng đến 1179,3 ha (năm 2015);  song năng suất  ngô tăng không  đáng kể. Những nguyên nhân chính làm  giảm năng suất ngô ở Việt Nam là do ngô chủ yếu được trồng trên đất dốc   (> 60% diện tích), sản xuất ở những vùng này phụ thuộc chủ yếu vào nước   trời, trong đó hạn hán là yếu tố  chính làm giảm năng suất ngô; Kỹ  thuật 
  10. canh tác vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ  thống, quy trình canh tác  giống mới vẫn còn chung chung chưa cụ  thể  từng giống, từng vùng, từng   thời vụ, cả  về phân bón, chăm sóc; Hạn chế về  giống, nhất là giống chịu  hạn, ít nhiễm sâu bệnh, thời gian ngắn, năng suất cao. Sản lượng ngô nước ta tăng dần qua các năm đặt 5281 nghìn tấn   (năm 2015), do nước ta đã chuyển đổi từ  sản xuất quảng canh sang thâm   canh, ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật và đưa giống mới vào sản xuất. 1.3. Tình hình sản xuất ngô ở tỉnh Phú Thọ. 1.3.1. Tình hình sản xuất ngô ở tỉnh Phú Thọ Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô tại Phú Thọ giai đoạn 2010­2015 Diện tích Năng suất  Sản lượng Năm (nghìn ha) (tạ/ha) (nghìn tấn) 2010 20,7 43,7 90,4 2011 21,4 44,1 94,3 2012 17,4 45,5 79,1 2013 18,6 45,4 84,0 2014 18,7 45,9 85,8 2015 19,2 46,7 89,6 ( Nguồn: Tổng cục thống kê, website http://www.gso.gov.vn, 2015) [16] Tình hình sản xuất ngô của Phú Thọ  từ  năm 2010 trở  lại đây có  nhiều thay đổi. Năm 2010, tổng di ện tích ngô toàn tỉnh là 20,7 nghìn ha,  năng suất 43,7 t ạ/ha, s ản l ượng ngô hạt đạ t 90,4 nghìn tấn. Diện tích   ngô giảm dần đến năm 2012 có 17, 4 nghìn ha do khó khăn về điều kiện  thời tiết cùng với việc dịch chuy ển c ơ  c ấu cây trồng, vì vậ y diện tích  gieo tr ồng ngô giảm đáng kể. Đến năm 2015 diện tích ngô tiếp tục tăng   19,2 nghìn ha, năng suất đạt 46,7 tạ/ha, s ản l ượ ng 89,6 nghìn tấn.
  11. 1.3.2. Tình hình sản xuất ngô tại huyện Đoan Hùng Với tổng diện tích đất tự nhiên là 30.285,21 ha, trong đó diện tích đất   nông, lâm nghiệp là 25.871,9 ha (chiếm 85,4 %). Đoan Hùng là huyện miền  núi có tiềm năng về  đất đai, lao động để  phát triển kinh tế  nông nghiệp.   Nhiều năm qua, huyện đã tích cực vận dụng sáng tạo các cơ  chế, chính  sách vào thực tế của địa phương nên đã đạt được nhiều thành tích trên mọi   mặt của lĩnh vực kinh tế, nổi bật là sản xuất cây lâm nghiệp, cây chè và  cây ăn quả, đặc biệt là sản phẩm bưởi đặc sản Đoan Hùng. Tuy nhiên,   những năm gần đây, do nhu cầu thực tiễn nhằm đảm bảo an ninh lương   thực, huyện cũng luôn xác định quan tâm  ưu tiên cho phát triển các cây  lương thực chính, trong đó tập trung cây lúa, cây ngô Bảng 1.4. Tình hình sản xuất ngô tại Đoan Hùng giai đoạn 2010 ­ 2015 Diện tích Năng suất  Sản lượng Năm (ha) (tạ/ha) (tấn) 2010 1.856,0 46,40 8.612,7 2011 1.935,0 47,23 9.139,3 2012 1.957,8 48,10 9.417,0 2013 1.907,7 47,29 9.021,8 2014 1.830,4 48,10 8.805,6 2015 1.723,9 51,9 8.947,0 (Nguồn: Chi cục thống kê huyện Đoan Hùng, 5/2015)[2] Số liệu bảng 1.4 cho thấy diện tích trồng ngô của huyện những năm  gần đây không ổn định, năm 2010 diện tích trồng ngô của huyện đạt 1.856   ha, tăng dần đến năm 2012 lại giảm dần đến năm 2015 còn 1.723,9 ha. Tuy  nhiên năng suất có xu hướng tăng. Năm 2010, năng suất chỉ  có 46,4 tạ/ha,   đến năm 2015 năng suất đạt là 51,9 tạ/ha (tăng 5,5 tạ/ ha). Có được thành   tựu trên cung với trình độ đầu tư thâm canh của người dân được cải thiện, 
  12. thì yếu tố  quan trọng nhất là việc đưa các giống ngô lai mới có năng suất   cao vào sản xuất rộng rãi. 2. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới và Việt Nam 2.1. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới Sản lượng cây lương thực toàn cầu đến năm 2050 cần vượt qua 400   triệu tấn mới đáp  ứng được nhu cầu của con người (FAO, 2009) [27]. Để  đạt được mục tiêu này, với quỹ đất sản xuất nông nghiệp có hạn thì việc   tăng năng suất cây trồng nói chung, cây ngô nói riêng là việc làm cấp thiết.   Trong các biện pháp kỹ  thuật tăng năng suất ngô, giống đóng vai trò chủ  đạo, giống  tốt sẽ  cho sản lượng ngô cao hơn giống bình thường từ  20 ­   25% (Ngô Hữu Tình, 2003) [12]. Do vậy, vấn đề  đặt ra cho các nhà khoa  học là cần nghiên cứu chọn tạo các giống ngô mới năng suất cao, khả năng  chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất thuận. Ngô là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về các  lĩnh vực di truyền học, công nghệ sinh học, cơ giới hóa, điện khí hóa và tin   học… vào công tác nghiên cứu và sản xuất (Ngô Hữu Tình, 1997) [10]. Tuy  nhiên, việc nghiên cứu cải tạo giống ngô mang tính chất khoa học mới thực  sự bắt đầu vào cuối thế kỷ 19. Nghiên cứu chọn tạo giống ngô lai là vấn đề quan trọng trong chiến lược  phát triển nông nghiệp của mỗi quốc gia, của mỗi khu vực. Có nhiều tổ chức  ngô lai trên thế giới gặt hái được những thành công rực rỡ trên lĩnh vực này:  Mỹ, Hy lạp, Úc... Sản phẩm ngô lai không những phục vụ trong nước mà còn  được đưa vào sản xuất ở nhiều nước khác trên thế giới, đã đem lại nguồn lợi   to lớn cho các quốc gia này. Ví dụ như công ty Syngenta và Mosanto, Bioseed  đã lai tạo ra nhiều giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt phổ biến trong  sản xuất hiện nay như  NK4300, NK54, NK67, NK6326, NK6654, Bioseed  9698, DK5252,…
  13. Bên cạnh việc nghiên cứu tạo giống ngô có năng suất cao các chuyên  gia tạo giống tại CIMMYT đã nghiên cứu phát triển ngô chất lượng Protein   QPM. Các nhà nghiên cứu đã và đang sử dụng phương pháp đánh dấu AND  giúp việc chuyển gen chất lượng Protein vào những giống ngô thường  ưu   tú. Cuộc cách mạng về ngô QPM được CIMMYT, một số nước và công ty  tư nhân nghiên cứu thành công ở Mỹ, Nam Phi, Braxin. Ngô QPM được đưa  vào sản xuất sẽ đem lại hiệu quả vô cùng to lớn khi dùng làm thức ăn cho   chăn nuôi và làm lương thực cho người.  Ở  Châu Á, có ba nước đang có   chương trình phát triển ngô QPM đó là Trung Quốc,  Ấn Độ, Việt Nam   (Trần Thị Thêm, 2007) [19]. Với sự  phát triển của khoa học công nghệ, công tác chọn tạo giống   ngô được trợ  giúp bởi nhiều kỹ  thuật mới, những kỹ  thuật mới này tập   trung vào hai lĩnh vực là nuôi cấy mô tế bào và tái tổ hợp AND. Nhờ  áp dụng công nghệ sinh học, các giống ngô mới có nhiều ưu thế  như  kháng sâu đục thân, kháng thuốc trừ  cỏ  mang lại nhiều lợi ích cho  người sản xuất. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi diện tích canh tác bị  thu hẹp, việc sử dụng các giống ngô biến đổi gen sẽ góp phần đáp ứng nhu   cầu ngô toàn cầu. Theo Graham Brookes (2011) [28] nếu không sử  dụng  giống ngô biến đổi gen thì diện tích trồng ngô  trên thế giới phải tăng thêm  5,63 triệu ha mới đáp ứng đủ nhu cầu ngô toàn cầu. Ngoài ra nhờ sử  dụng   các cây trồng biến đổi gen, thế  giới đã cắt giảm được khoảng 0,39 triệu  tấn thuốc trừ sâu và giảm khoảng 17,1 % các chất độc hại ra môi trường. Hiện nay có hơn 28 quốc gia trên thế  giới trồng cây công nghệ  sinh  học (CNSH) và tổng diện tích tăng lên hơn 100 lần, từ  1,7 triệu ha (năm   1996) lên 181,5 triệu ha (năm 2014) (Clive James, 2015) [24]. Tại Mỹ năm 2014, giống ngô chuyển gen chịu hạn Drought GardTM đã  được trồng 275.000 ha. Ngoài ra họ còn dự  định phân phối giống ngô chịu 
  14. hạn (DT), kháng sâu và côn trùng (Bt) cho các quốc gia ở khu vực châu Phi   vào  năm   2017  thông   qua  dự   án   “Sử   dụng   nước   hiệu  quả   tại   Châu   Phi  (WEMA)” (Clive James, 2015) [24]. Ngày nay công tác nghiên cứu chọn tạo giống ngô trên thế  giới vẫn  đang đượ c chú ý phát triển, với những kỹ thu ật hi ện đại để tạo ra những   giống ngô mới có những đặc điểm mong muốn đáp  ứng nhu cầu ngày  càng cao của con người.  2.2. Tình hình nghiên cứu ngô tại Việt Nam Từ những năm đầu của thập kỷ 90, với chính sách mở cửa, ngô lai ở  Việt Nam là một trong những cây hội nhập sớm nhất. Cuộc cách mạng về  ngô lai  ở  nước ta đã được nhà nước đặc biệt quan tâm. Năng suất và sản  lượng ngô  ở  Việt Nam đã có sự  chuyển biến rõ rệt do áp dụng thành tựu  về ngô lai vào sản xuất. Tuy nhiên cây ngô ở Việt Nam mới thực sự được  phát triển từ năm 1995 đến nay. Các nhà khoa học đã xây dựng quỹ gen ngô   Việt Nam bằng cách thu thập từ các quần thể địa phương và nhập các vật   liệu ngô từ  các nước, các cơ quan nghiên cứu trên thế giới dưới dạng vốn   gen của quần thể và giống lai. Đây là các vật liệu trong tạo dòng thuần để  tạo giống ngô lai có ưu thế lai cao. Ngô Hữu Tình (2009) [13] đã sử dụng phương pháp Fullsib, dạng cải  tiến của phương pháp sib để  tạo dòng và đã thành công trong việc tạo ra  một số dòng từ nguồn vật liệu là quần thể chọn lọc SB 2649. Bằng phương pháp lai đỉnh, Mai xuân Triệu và cs, (2000) [18] đã chọn  được dòng IL78 và IL68 có khả  năng kết hợp chung cao để  làm vật liệu   tạo giống ngô lai. Lương văn vàng và cs (2002) [23], từ 5 dòng tự phối S4 là L1, L2, L3,   L4 và L5, bằng phương pháp lai đỉnh với 2 cây thử là LVN10 và DF1 đã xác   định được 2 dòng ưu tú là L5 và L5 làm vật liệu tạo giống ngô lai.
  15. Ngô Hữu Tình và cs (2004) [14], bằng phương pháp tự  phối từ  các  giống ngô lai nhập nội có khả năng chịu hạn đã chọn được dòng T6 và T8  có khả năng kết hợp chung cao, là vật liệu tạo giống LVN99 có khả  năng  chịu hạn phục vụ sản xuất cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Viện nghiên cứu ngô thông qua đánh giá thực địa và phân lập genRpl  đã xác định được dòng C152, V272, C7N, Dekalbgold kháng bệnh gỉ sắt, các  dòng này được sử dụng làm vật liệu chọn tạo giống kháng bệnh gỉ sắt. Từ  109 tổ  hợp lai đã chọn được một số  tổ  hợp lai đạt năng suất 90 tạ/ha,  chống chịu bệnh gỉ  sắt khá (Bùi Mạnh Cường và cs, 2012) [3].   Từ  năm  2003 đến nay với sự mở rộng hợp tác quốc tế, các nhà tạo giống ngô Việt  Nam đã thu thập được nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau. Đến nay Viện nghiên cứu ngô đang lưu giữ 616 nguồn gen ngô là các  giống địa phương, giống thụ  phấn tự  do, quần thể, hơn 500 dòng tự  phối   đời cao và khoảng 300 dòng tự phối đời thấp. Nguồn nguyên liệu đa dạng  và phong phú cả  về  chủng loại (ngô tẻ, ngô nếp và ngô đường), phương  pháp chọn tạo (truyền thống, nuôi cấy bao phấn, sử dụng cây kích tạo đơn  bội, chuyển gen bằng công nghệ  sinh học) và đa dạng di truyền (Nguyễn  văn Tuất và cs., 2013) [21]. Nhờ  có nguồn vật liệu phong phú, một số  giống ngô lai thế hệ  mới  được chọn tạo bằng phương pháp truyền thống hoặc kết hợp giữa phương   pháp chọn tạo truyền thống và công nghệ sinh học như LVN885, LVN145,  LVN66, LVN61, LVN14, LVN36, LVN146, LVN154… đã được  ứng dụng  vào sản xuất. Các giống ngô lai thế  hệ  mới có nhiều  ưu điểm như  chịu  hạn, chống đổ, ít nhiễm sâu bệnh, chịu thâm canh, màu hạt đẹp thích ứng  với sản xuất hàng hóa. Giai đoạn 2011 ­ 2013 đã có 14 giống ngô được công nhận, trong đó có  4 giống được công nhận chính thức là LVN146, LVN66, LVN092 SB099; 
  16. 10   giống   được   công   nhận   sản   xuất   thử   là   LVN154,   LVN111,   LVN81,  LVN102, LVN152, LVN62, VS36, Nếp lai số 5, Nếp lai số 9 và Đường lai   20. Đặc điểm chung các giống mới được tạo ra trong giai đoạn này là thích   ứng   rộng   (cả   trong   và   ngoài   nước:   Nam   Trung   Quốc,   Thái   Lan,   Lào,  Campuchia), chống chịu tốt hơn với hạn, sâu bệnh, đổ  gãy, thời gian sinh  trưởng ngắn hoặc trung bình, tiềm năng năng suất cao, trong thí nghiệm có  thể  đạt tới 120 ­ 130 tạ/ha, chất lượng hạt tốt. Các giống ngô mới đang  được Viện, các Trung tâm trực thuộc, một số công ty hạt giống trong nước  thử  nghiệm rộng và chuyển giao đến người sản xuất trong cả  nước  (Mai  Xuân Triệu và cs., [18]. Kết   quả   “nghiên   cứu   chọn   tạo   giống   ngô   lai   QPM   năng   suất   cao,  chống chịu tốt phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi giai đoạn 2012 – 2016”  đã duy trì được 35 nguồn vật liệu và cải tạo được 550 tổ  hợp lai mới   được đánh giá  ở  vụ  Thu Đông 2012 và Xuân 2013. Kết quả  vụ  Thu Đông   2012 đã chọn lọc được 12 THL tốt và vụ Xuân 2013 chọn được 19 THL tốt   (Châu Ngọc Lý, Lê Quý Kha và cs, 2013) [5]. Ở   phía   Nam   đã   phát   triển   các   giống   ngô   lai   V98­1,   V98­2,   V­118,   VN112 với diện tích hàng năm là 2.000 ha tại các tỉnh Tây Nguyên và Đông  Nam Bộ. Đây là các giống có thời gian sinh trưởng ngắn, có tiềm năng năng   suất cao, có khả  năng phối hợp cao, cho năng suất cao. Đặc biệt giống lai  đơn V­118 cho năng suất cao trên 80 tạ/ha, thích hợp trồng trên đất lúa vụ  Đông Xuân đã được hoàn thiện và hiệu quả kinh tế của mô hình trồng ngô   lai trên đất lúa vụ  đông xuân  ở  Tây Nguyên vượt 33,06% ­ 38,12% so với  trồng lúa cùng vụ (Nguyễn văn Tuất và cs., 2013) [21].  Qua 2 năm thực hiện đề  tài “Nghiên cứu chọn tạo giống ngô lai cho   vùng thâm canh”,  kết quả 3 giống đã được Bộ  Nông nghiệp và Phát triển  
  17. nông   thôn   công   nhận   cho   phép   sản   xuất   thử   đó   là   LVN111,   LVN102,  LVN62 (Mai Xuân Triệu, 2013) [20] Không chỉ chú trọng công tác chọn tạo giống mới mà các nhà khoa học   còn quan tâm nghiên cứu cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác cho phù  hợp với yêu cầu của giống để tăng hiệu quả của quá trình sản xuất. Trong  vòng 20 năm qua các nhà khoa học đã nghiên cứu hoàn thiện và chuyển giao  quy trình kỹ thuật trồng ngô trên đất ướt. xây dựng quy trình công nghệ sản  xuất hạt giống ngô lai trên quy mô lớn, phạm vi toàn quốc.  Đến nay công tác chọn tạo giống ngô của Việt Nam đã đi vào chiều  sâu và có bài bản, nhờ vậy mà ngày nay chúng ta đã có hàng trăm dòng ngô   thuần với xuất xứ  và đặc tính khác nhau. Từ  những dòng này, hàng chục  giống ngô lai đã được tạo ra và đưa vào sản xuất. Không chỉ quan tâm đến  năng suất, công tác chọn tạo giống còn quan tâm đến những chỉ  tiêu khác  như  chọn tạo giống có chất lượng protein cao, giống chống chịu với điều  kiện bất thuận... Tóm lại: Cây ngô có vai trò quan trọng góp phần ổn định an ninh lương  thực quốc gia, đặc biệt thúc đẩy phát triển ngành chăn nuôi, tăng nguồn thu   nhập cho người dân. Là cây trồng ngắn ngày được sử  dụng nhiều trên đất  luân canh, có khả  năng thích  ứng rộng, có tiềm năng cho năng suất cao,  nhất là các giống ngô lai. Qua việc đánh giá tình hình sản xuất và tìm hiểu   về giống ngô để lựa chọn giống cho phù hợp, việc đánh giá thực trạng sản  xuất ngô, gắn với điều kiện ngoại cảnh của địa phương để  chọn giống   ngô lai thích hợp bổ sung vào cơ cấu giống là rất cần thiết.
  18. CHƯƠNG II VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu  Thí nghiệm tiến hành 9 giống ngô lai mới và 1 giống đối chứng  Loại  TT Tên giống TGST Cơ quan tác giả giống  1 NK4300 Lai đơn Trung bình Đối chứng  2 LVN255 Lai đơn Trung bình Viện nghiên cứu Ngô 3 LVN26 Lai đơn Trung bình Viện nghiên cứu Ngô 4 VN5885 Lai đơn Trung bình Viện nghiên cứu Ngô
  19. 5 PAC669 Lai đơn Trung bình Công ty TNHH Advanta Việt Nam 6 PAC558 Lai đơn Trung bình Công ty TNHH Advanta Việt Nam 7 PSC102 Lai đơn Trung bình Công ty CP BVTV I Trung ương 8 PSC747 Lai đơn Trung bình Công ty CP BVTV I Trung ương 9 GS9989 Lai đơn Trung bình Công ty CP Đại Thành Công ty TNHH Syngenta Việt  10 NK6639 Lai đơn Trung bình Nam ­ NK 4300 (đ/c) là giống ngô lai đã được công nhận giống và hiện đang  được người dân sử  dụng gieo trồng phổ  biến trong sản xuất nhiều năm  trên địa bàn huyện.  2.2. Nội dung nghiên cứu  ­ Nghiên cứu một số  giai  đoạn sinh trưởng và phát dục của các  giống ngô thí nghiệm. ­ Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, sinh lý.  ­ Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và khả  năng chống đổ  của các  giống ngô thí nghiệm ­ Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất  2.3. Địa điểm và thời gian thực hiện thí nghiệm: ­ Thí nghiệm được triên khai th ̉ ực hiên t ̣ ại xa Ph ̃ ương Trung và xã Chí  ̣ ̉ ̣ Đám, huyên Đoan Hùng, tinh Phu Tho. ́ ­ Đât đai: Thí nghi ́ ệm được tiến hành trên bãi ven sông (loại đất phổ  biến đối với diện tích ngô trồng hàng năm). ́ ̣ ­ Thi nghiêm được tiên hanh t ́ ̀ ừ thang 2 năm 2017 đên thang 6 năm 2017 ́ ́ ́   2.4. Phương phap nghiên c ́ ưu ́ ­ Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCBD), gồm  10 công thức, 3 lần nhắc lại. ­ Diện tích ô thí nghiệm: 14m2  (5m x 2,8m) 
  20. ­ Khoảng cách gieo trồng:  70cm x 25cm. ­ Số cây/ô: 80 cây ­ Mật độ: 57.000 cây/ha. SƠ ĐỒ BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM Lần  1,0 ­ 1,5m dải bảo vệ 6 8 9 2 5 10 4 1 3 7 Dải  I 0,8m (lối đi) bảo  Lần  Dải  4 5 10 7 1 2 8 3 6 9 vệ II bảo   0,8m (lối đi) vệ Lần  2 3 1 6 4 9 10 7 5 8 III 1,0 ­ 1,5m dải bảo vệ ­   Quy   trình   kỹ   thuật :   Áp   dụng   theo   Quy   chuẩn   quốc   gia   về   khảo   nghiệm   giá   trị   canh   tác   và   giá   trị   sử   dụng   giống   ngô   (QCVN01   ­   56:   2011/BNNPTNT) [8]. ̣ ự kiên t ­ Ngay gieo hat: d ̀ ́ ừ ngay 10 ­ 15/2/2016. ̀  * Làm đất: Đất được cày bừa kỹ, làm sạch cỏ dại, đảm bảo độ ẩm  đất lúc gieo khoảng 75 ­ 80% độ ẩm tối đa đồng ruộng. * Kỹ thuật gieo: ­ Mật độ: 5,7 vạn cây/ha (70 x 25cm), mỗi ô gieo 4 hàng.  ­ Gieo sâu 3 ­ 4 cm, mỗi hốc gieo 2 hạt, khi ngô có 3 ­ 4 lá thì tỉa lần 1,  đến 5 ­ 6 lá thì tỉa lần 2 và để mỗi hốc 1 cây. * Phân bón:   ­ Lượng phân bón cho 1 ha:  10 tấn phân chuồng + 140kg N + 70kg  P205 + 90kg K2O. ­ Cách bón:  + Bón lót: Toàn bộ phân chuồng và phân lân + 1/4 lượng đạm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
63=>0