intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu quản lý đa dạng sinh học tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình

Chia sẻ: Duyen Duyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:174

102
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Nghiên cứu quản lý đa dạng sinh học tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình" được nghiên cứu với mục đích: Đánh giá hiện trạng ĐDSH, công tác quản lý, bảo tồn ĐDSH làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm quản lý ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình. Để nắm vững nội dung đề tài mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu quản lý đa dạng sinh học tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo tồn đa dạng sinh học  được coi là một trong những nhiệm vụ  quan trọng và là trọng tâm đối với sự  phát triển trên toàn thế  giới. Với sự  phát triển nhanh chóng của kinh tế  xã hội cùng với sự  quản lý tài nguyên   sinh học còn yếu kém đã làm cho đa dạng sinh học (ĐDSH) bị suy thoái ngày  càng nghiêm trọng [11], [51], [59], [78]. Sự  mất mát về  ĐDSH hiện nay là  đáng lo ngại, nhiều loài động thực vật bị đe dọa và nguy cơ tuyệt chủng mà  nguyên nhân chủ yếu là do con người sử dụng tài nguyên không hợp lý. Do   đó, việc quản lý tài nguyên và bảo tồn ĐDSH là thực sự  cần thiết và cấp   bách [48], [60]. Nhận thức được giá trị  to lớn và tầm quan trọng của ĐDSH, năm  1993 Việt Nam đã phê chuẩn công  ước quốc tế  về  bảo tồn ĐDSH.   Năm  1995, Chính phủ đã phê duyệt và ban hành “Kế  hoạch hành động ĐDSH ở  Việt Nam”. Năm 2007, “Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH đến năm  2010 và định hướng đến năm 2020” được xây dựng và phê duyệt triển khai. Dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình  là một trong những hệ sinh  thái (HST) đại diện điển hình mang tính toàn cầu về  HST rừng trên núi đá   vôi có diện tích rộng lớn còn sót lại trên vùng đất thấp miền Bắc Việt Nam,  được các nhà khoa học trong nước và quốc tế  xác định là khu vực cần  ưu  tiên cho việc bảo tồn ĐDSH trên núi đá vôi [64], [73]. Nơi đây đã được các  cấp chính quyền của tỉnh Hòa Bình, các tổ chức, cá nhân quan tâm thực hiện  nhiều nghiên cứu về ĐDSH, quản lý tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và phát  triển sinh kế  cho cộng  đồng xung quanh [38], [39], [40], [41], [72]. Tuy 
  2. 2 nhiên, công tác bảo tồn ĐDSH ở đây vẫn đang gặp nhiều khó khăn và thách  thức, nguyên nhân là do nhu cầu sử  dụng tài nguyên ĐDSH tăng cao, mặt   khác do tầm quan trọng và giá trị trực tiếp của ĐDSH đối với cuộc sống của   con người rất lớn. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân thấp và năng lực  quản lý của các cơ quan chức năng còn hạn chế, cộng với các giải pháp bảo  tồn chưa cụ  thể, chưa sâu sát nên hiệu quả  bảo tồn ĐDSH  chưa cao làm  cho  tài nguyên ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình ngày  càng suy giảm thậm chí một số loài có nguy cơ biến mất. Để đánh giá hiện trạng và quản lý tài nguyên ĐDSH làm cơ sở đề xuất  một số  giải pháp bảo tồn ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa  Bình, nghiên cứu sinh thực hiện đề  tài “Nghiên cứu quản lý đa dạng sinh   học tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình”.      2. Mục tiêu của nghiên cứu Đánh giá hiện trạng ĐDSH, công tác quản lý, bảo tồn ĐDSH làm cơ  sở  đề  xuất các giải pháp nhằm quản lý ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây  Nam tỉnh Hòa Bình. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án  Ý nghĩa khoa học ­ Cung cấp bộ  số  liệu đầy đủ  nhất về  ĐDSH của dải núi đá vôi phía   Tây Nam tỉnh Hòa Bình. ­ Cung cấp số  liệu hiện trạng ĐDSH, nguồn lực và nhân lực để  quản  lý, bảo tồn ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình. ­ Đề  xuất giải pháp phù hợp phục vụ  việc quản lý dải núi đá vôi phía   Tây Nam tỉnh Hòa Bình.
  3. 3  Ý nghĩa thực tiễn ­ Tư  liệu của luận án góp phần vào công tác quản lý, sử  dụng, phát  triển bền vững tài nguyên ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh  Hòa Bình ­ Làm cơ  sở  cho việc đề  xuất các chính sách bảo tồn ĐDSH tại dải  núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình 4. Những đóng góp mới của luận án ­ Lần   đầu   tiên   có   sự   đánh   giá   tổng   hợp   về   hiện   trạng   tài   nguyên  ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình ­ Lập danh lục đầy đủ và hệ thống động vật và thực vật tại dải núi đá  vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình ­ Cung cấp nhiều số liệu phân tích tình hình quản lý tại dải núi đá vôi  phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình ­ Đề  xuất mở  rộng Khu BTTN Ngọc Sơn­ Ngổ  Luông thêm 3 xã Pù  Bin, Noong Luông, Vạn Mai thuộc huyện Mai Châu. ­ Đề xuất cơ sở khoa học và thực tiễn cho tổ chức quản lý, phát triển   bền vững ĐDSH tại dải núi đá vôi phía Tây Nam tỉnh Hòa Bình. 5. Bố cục luận án Luận án gồm 132 trang, 26 bảng, 8 hình, 36  ảnh màu, và được cấu  trúc thành 4 phần chính như  sau:  Đặt vấn đề  (3 trang), chương 1:  Tổng  quan (35 trang), chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu  (16 trang), chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận (76 trang), kết luận  ­ kiến nghị (2 trang).
  4. 4 Danh mục các công trình khoa học đã công bố  của tác giả  (5 công  trình), tài liệu tham khảo (100 tài liệu) và phần phụ  lục gồm: các câu hỏi  phỏng vấn, danh mục các hình ảnh, danh lục thực vật, danh lục động vật,...   tại khu vực nghiên cứu.
  5. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Một số khái niệm liên quan đến ĐDSH và bảo tồn đa dạng sinh học 1.1.1. Khái niệm về ĐDSH Năm   1989,  Quỹ   Bảo   vệ   thiên  nhiên   Quốc   tế   (WWF)   đã   định   nghĩa:  “ĐDSH là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật,   động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những   HST vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi trường’’. ĐDSH bao gồm 3 cấp  độ: Đa dạng nguồn gen, đa dạng loài và đa dạng HST. Trong đó, đa dạng loài  bao gồm toàn bộ các loài sinh vật sống trên Trái đất, từ vi khuẩn đến các loài  động vật, thực vật và các loài nấm. Ở mức độ vi mô hơn, ĐDSH bao gồm sự  khác biệt về  gen giữa các loài, khác biệt về  gen giữa các cá thể  cùng chung   sống trong một quần thể. ĐDSH còn bao gồm cả  sự  khác biệt giữa các quần  xã mà trong đó các loài sinh sống, và cả  sự  khác biệt của mối tương tác giữa   chúng với nhau [37]. Theo Công ước đa dạng sinh học thì ĐDSH là sự phong phú các sinh vật  sống gồm các hệ  sinh thái trên cạn, hệ  sinh  thái biển, các hệ  sinh thái nước   ngọt, và tập hợp các HST mà sinh vật chỉ là một bộ phận. ĐDSH bao gồm sự  đa dạng trong một loài (đa dạng gen) hay còn gọi là đa dạng di truyền, sự đa  dạng giữa các loài (đa dạng loài) và sự  đa dạng hệ  sinh thái (đa dạng HST).  Nói cách khác ĐDSH là sự  đa dạng của sự  sống  ở  các cấp độ  và các tổ  hợp   [3].
  6. 6 Theo luật ĐDSH năm 2008, ĐDSH là sự  phong phú về  nguồn gen, các  loài sinh vật và HST trong tự nhiên [21]. ĐDSH là sự  phong phú của tất cả các sinh vật sống trong tự nhiên trên   trái đất, từ các sinh vật nhỏ  bé nhất đến những sinh vật lớn nhất, từ Vi sinh   vật, Nấm, Thực vật, Động vật, các HST và môi trường chúng sinh sống. ĐDSH trực tiếp phục vụ đời sống của con người trong phát triển kinh   tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo…. Những giá trị  trực tiếp đó là giá trị  sử  dụng, tiêu thụ, và sản xuất ra các mặt hàng phục vụ  nhu cầu của con người.   ĐDSH và cảnh quan là nền tảng cho sự  phát triển các dịch vụ  hệ  sinh thái,   điều tiết nguồn nước, bảo vệ  môi trường đặc biệt trong giảm nhẹ  các tác  động bất lợi do biến đổi khí hậu hiện nay [25], [37]. 1.1.2. Bảo tồn ĐDSH Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại giữa  con người với các gen, các loài và các HST nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho  thế  hệ  hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng để  đáp ứng nhu cầu của các thế  hệ  mai sau.  Có nhiều phương pháp và công cụ  để  quản lý bảo tồn ĐDSH. Một số  phương pháp và công cụ  được sử  dụng để  phục hồi một số  loài quan trọng,   các dòng di truyền hay các sinh cảnh. Một số khác được sử dụng để sản xuất  một cách bền vững các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ  từ  các tài nguyên sinh   vật,… [7], [8], [9], [10], [12], [84], [96]. Có thể phân chia các phương pháp và  công cụ thành các nhóm như sau:
  7. 7 ­ Bảo tồn tại chỗ (in­situ conservation): Bảo tồn tại chỗ bao gồm các phương pháp và công cụ  nhằm mục đích  bảo vệ  các loài, các chủng và các sinh cảnh, các HST trong điều kiện tự  nhiên. Tùy theo đối tượng bảo tồn mà các hành động quản lý thay đổi. Thông  thường bảo tồn tại chỗ được thực hiện bằng cách thành lập các khu bảo tồn  và áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp [7], [8]. ­ Bảo tồn chuyển chỗ (ex­situ conservation): Bảo tồn chuyển chỗ bao gồm các biện pháp di dời các loài cây, con và các  sinh vật ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng [7], [8], [60]. Mục đích của  việc di dời này là để  nhân giống, lưu giữ, nhân nuôi vô tính hay cứu hộ  trong   trường hợp: (1) nơi sống bị suy thoái hay hủy hoại không thể  lưu giữ  lâu hơn  các loài nói trên, (2) dùng để làm vật liệu cho nghiên cứu, thực nghiệm và phát   triển sản phẩm mới, để  nâng cao kiến thức cho cộng đồng. Bảo tồn chuyển   chỗ bao gồm các vườn thực vật, vườn động vật, các bể nuôi thủy hải sản, các   ngân hàng giống… ­ Phục hồi (Rehabilitation): Bao gồm các biện pháp để dẫn đến bảo tồn tại chỗ hay bảo tồn chuyển  chỗ. Các biện pháp này được sử dụng để phục hồi lại các loài, các quần xã,  sinh cảnh, các quá trình sinh thái. Việc hồi phục sinh thái bao gồm một số  công việc như phục hồi lại các HST tại những vùng đất đã bị suy thoái bằng   cách nuôi trồng lại các loài bản địa chính, tạo lại các quá trình sinh thái, tạo   lại vòng tuần hoàn vật chất, chế độ thủy văn, tuy nhiên không phải là để sử  dụng cho công việc vui chơi, giải trí hay phải phục hồi đủ  các thành phần  
  8. 8 động thực vật như trước đã từng có [7], [60]. Một trong những mục tiêu quan  trọng trong việc bảo tồn sinh học là bảo vệ  các đại diện của HST và các   thành phần của ĐDSH. Ngoài việc xây dựng các KBT cũng cần thiết phải  giữ gìn các thành phần của sinh cảnh hay các hành lang còn sót lại trong khu  vực mà con người đã làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, và bảo vệ các khu  vực được xây dựng để  thực hiện chức năng sinh thái đặc trưng quan trọng  cho công tác bảo tồn ĐDSH. 1.1.3. Quản lý ĐDSH a. Khái niệm về quản lý ĐDSH  Quản lý ĐDSH là sự  quan tâm, chăm sóc đối với TNTN, các HST, các loài  và nguồn tài nguyên di truyền  ở  một địa phương, một vùng, một lưu vực,  những nơi có giá trị cao về bảo tồn [7]. Quản  lý  ĐDSH  là   công   việc  cần   thiết  phải  có   sự   tham  gia   của   nhiều  ngành: Các nhà sinh vật học, kinh tế  học, nhân chủng học, lâm nghiệp, nông   nghiệp, các nhà khoa học về  biển…và được nhiều tổ  chức quần chúng, các  cấp chính quyền cùng tham gia thì thành công sẽ đạt được kết quả vững chắc. b. Các công ước về quản lý và bảo tồn ĐDSH  Công ước ĐDSH: là thành quả chính của Hội nghị Thượng đỉnh về Môi  trường tại Rio de Janiero vào năm 1992. Chính phủ  Việt Nam đã ký Công  ước vào ngày 16/11/1994 và phê duyệt Kế hoạch Hành động ĐDSH quốc gia  vào tháng 12 năm 1995.
  9. 9  Công  ước Ramsar về  Đất ngập nước (ĐNN):  ban đầu tập trung vào bảo  tồn và sử  dụng khôn ngoan các khu ĐNN là sinh cảnh của các loài chim   nước quan trọng. Trọng tâm này ngày càng được mở  rộng và hiện nay   ĐNN được xác định rõ ràng là HST rất quan trọng cho bảo tồn ĐDSH nói  chung và cho sự tồn tại của con người nói riêng. Công ước Ramsar đã bắt   đầu được thực thi từ  năm 1975 và tính tới 04/04/2005, đã có 131 thành  viên tham gia ký kết vào Công ước và bảo vệ 1.150 khu ĐNN. Công  ước   này được bổ  sung bằng một Nghị định thư  tại Paris năm 1982. Việt Nam   đã tham gia vào Công  ước này từ  20/9/1988 và đã thành lập 4 khu ĐNN,  trong đó đáng chú ý là KBT Thiên nhiên Xuân Thủy đã được đưa vào danh  sách các Khu ĐNN có tầm quan trọng quốc tế đối với chim di cư [7].  Công  ước CITES: Công  ước về Buôn bán Quốc tế các loài động, thực vật  hoang dã nguy cấp, Công ước này là một công cụ để hỗ trợ các nước ngăn  chặn buôn bán quốc tế  bất hợp pháp và không bền vững động thực vật   hoang   dã.   Công   ước   CITES   được   hình   thành   vào   ngày   03/03/1973   tại  Washington với 13 thành viên ban đầu và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1975.  Hiện nay, có 164 quốc gia tham gia vào Công ước CITES. Để đáp ứng yêu  cầu quốc tế  về  tầm quan trọng của các loài hoang dã và vai trò của Việt   Nam trong hoạt động buôn bán động thực vật hoang dã tại Đông Dương,   Việt Nam đã tham gia vào Công  ước CITES và trở  thành thành viên chính  thức (Số 121) vào ngày 20 tháng 01 năm 1994. Khi nhận thức được là “mỗi  nhà nước chính là người bảo vệ tốt nhất động thực vật hoang dã của chính  nước  mình”, Công  ước  CITES sẽ  giúp thúc  đẩy hợp tác quốc tế  trong 
  10. 10 khuôn khổ luật pháp quốc tế. Việt Nam tham gia đầy đủ vào các Hội nghị  các nước thành viên được tổ  chức hai năm một lần để  quyết định những  vấn đề chính về thực hiện Công ước và duy trì liên lạc thường xuyên với   Ban Thư  ký Công  ước CITES và với nhiều nước thành viên khác. Năm  2004, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường  kiểm soát, buôn bán động vật, thực vật hoang dã đến năm 2010, tiếp đó là  nhiều văn bản pháp luật có liên quan [7]. c. Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên là một thỏa thuận đối tác bởi hai   hay nhiều bên, các bên tham gia có vai trò ngang nhau trong thương thảo, cam   kết và đi đến một chương trình thực thi hành động, chia sẻ  quyền lực và lợi   ích, đồng thời có trách nhiệm quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Người  sử  dụng tài nguyên và các chính quyền địa phương cùng nhau đàm phán thỏa  thuận đối tượng nào? để làm gì?  ở  đâu? khi nào? bằng cách nào? và mất bao  nhiêu?  trên một diện tích tài nguyên cụ  thể  được thực hiện và giám sát bởi   chính những người sử dụng tài nguyên [7].   Đồng quản lý là một biện pháp hiệu quả để duy trì và tăng cường chức  năng của rừng và đồng thời cung cấp sinh kế  cho các cộng đồng địa phương.   Để đồng quản lý TNTN hiệu quả , điều chủ yếu là có sự hỗ trợ toàn diện của   chính quyền tất cả các cấp (tỉnh, huyện, xã), có sự tuân thủ quy tắc có “sự tham   gia” và sự thỏa thuận của tất cả các bên liên quan và ban quản trị  nhiều thành   phần. 
  11. 11 1.2. Nghiên cứu về bảo tồn ĐDSH 1.2.1. Nghiên cứu quản lý bảo tồn ĐDSH trên thế giới a. Xác lập thứ bậc ưu tiên bảo tồn trên phạm vi toàn cầu  Trên thực tế, các nguồn lực giành cho công tác bảo tồn  còn hạn chế, vì vậy  để phân bổ các nguồn lực một cách phù hợp và thiết thực, cần phải xác định  được thứ tự ưu tiên, xây dựng chiến lược và lập kế hoạch trong bảo tồn một   cách hiệu quả. Nhiều tổ chức phi Chính phủ (NGO) đã tham gia vào quá trình   này nhằm xác định được các khu vực mà họ  muốn hướng các nguồn đầu tư  của mình vào đó [25], [75], [96], [97], có thể gộp thành 3 nhóm như sau:   Bảo tồn dựa trên các sinh cảnh đại diện: Hình thức này đã được một số  tổ chức bảo tồn như Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), tổ chức bảo tồn   tự nhiên (TNC),...sử dụng [25]. Trong đó, WWF đã xác định được 867 vùng sinh  thái trên toàn cầu. Khái niệm này được Tổ chức bảo tồn tự nhiên (TNC) sử dụng  như một phương pháp tiếp cận chủ đạo cho các hoạt động của mình, sau đó phát  triển thành “Global 200” nhằm kết hợp các kiểu sinh cảnh đặc trưng nhất trên  phạm vi toàn thế giới [88].  Bảo tồn dựa trên các tiêu chí về  loài: như  mức độ  phong phú của loài   (Species richness) và số  lượng các loài đặc hữu (Endemic species) được Tổ  chức Bảo tồn Quốc tế  (CI ­ Conservation International) và Tổ  chức Bảo tồn  Chim Quốc tế (BirdLife International) sử dụng. Phương pháp tiếp cận về loài   được tổ chức bảo tồn quốc tế CI sử dụng nhằm tập trung các nguồn lực vào   các khu vực có tính ĐDSH cao nhất, có mối đe dọa lớn nhất, đồng thời đưa ra 
  12. 12 khái niệm các điểm nóng về ĐDSH [79], [87], [88] và những vùng còn nguyên  vẹn được xem là vùng có giá trị ĐDSH cao [89]. BirdLife   cũng   đưa   ra   khái   niệm   về   các   vùng   chim   đặc   hữu   (EBA:   Endemic Bird Area) để áp dụng cho những nơi có ít nhất hai loài phân bố hẹp  (RRS: Ranger ­ restricted species), loài phân bố hẹp là loài có phạm vi phân bố  trên toàn cầu nhỏ hơn 50.000 km2. Bên cạnh đó BirdLife còn đưa ra khái niệm  về  các vùng chim quan trọng [6], [26], đó là những vùng có tầm quan trọng  quốc tế về bảo tồn chim, được xác định dựa trên tiêu chí về loài như: sự hiện   diện của các loài đe dọa, các loài phân bố   ở  một khu vực có diện tích hẹp,  hoặc là nơi tụ tập của nhiều loài [82]. Từ đó, Tổ chức bảo tồn quốc tế (CI),  BirdLife và Plant Life đã phối hợp nghiên cứu và đưa ra khái niệm các vùng  ĐDSH chính [85].  Bảo tồn dựa trên tiêu chí về  các mối đe dọa: để  xác định các mức đe  dọa tối thiểu hoặc các vùng biệt lập, được Tổ chức bảo tồn động thực  vật hoang dã  Quốc tế  (FFI) và Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã  (WCS) sử dụng [90]. b. Xác định các cảnh quan để bảo tồn Thuật ngữ  “cảnh quan”  (landscape) mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy  theo mục đích cụ  thể. Theo mục đích bảo tồn, thì cảnh quan có thể  hiểu là:  “Một vùng đất rộng lớn bao gồm nhiều đặc trưng khác nhau và được xem như  là kết quả  của một quá trình hình thành và biến đổi lâu dài” [100]. Đến nay  vẫn chưa có giải thích cụ thể nào về qui mô của cảnh quan, cũng như chưa có   định nghĩa nào về  việc xác định ranh giới của cảnh quan. Tuy nhiên, các nhà 
  13. 13 qui hoạch bảo tồn đã xác định ranh giới của cảnh quan dựa trên các yếu tố tự  nhiên như: lưu vực, vùng núi, ngọn núi, phạm vi phân bố  của một loài hoặc  nhóm loài [95]. Cho dù chưa có định nghĩa rõ ràng về  cảnh quan, nhưng việc xác định  các cảnh quan trong  ưu tiên bảo tồn đã giúp cho việc bảo vệ  và duy trì các  chức năng sinh thái của nó, đồng thời giúp cho việc xác định và thực thi các   chiến lược về  bảo tồn. Theo cách này, WWF (2004) đã đưa ra khái niệm về  tầm nhìn ĐDSH nhằm xác định các khu vực  ưu tiên bảo tồn trong phạm vi  một vùng sinh thái. WCS (2004) cũng đưa ra khái niệm về  loài đại diện cho   một vùng cảnh quan nhằm bảo vệ các giá trị ĐDSH trong từng vùng [91]. c. Xác định các khu vực để triển khai các hoạt động bảo tồn Bảo tồn thông qua việc thiết lập hệ thống các KBT là ý tưởng đầu tiên   xuất hiện  ở  Hoa Kỳ  từ  thế  kỷ  XIX bằng việc thành lập VQG Yellowstone   ngày 01 tháng 03 năm 1872 [89]. Bảo tồn ngày càng được chú trọng, mở  đầu là việc tổ  chức Hội nghị  Thế giới các VQG lần thứ nhất từ những năm 60 của thế kỷ XX; vấn đề đào  tạo chuyên sâu về quản lý động thực vật hoang dã cũng đã được quan tâm; các  giải pháp bảo tồn ĐDSH, các chương trình hỗ  trợ  bảo tồn bằng nhiều hình  thức khác nhau như hưởng lợi từ động vật hoang dã, con người và sinh quyển  cũng đã được triển khai. Điều đặc biệt quan trọng là cứ 10 năm một lần, hội   nghị  các VQG và KBT được tổ  chức, bắt đầu từ  việc hỗ  trợ  các KBT đến  việc chú ý nhiều đến các KBT ở những vùng nhiệt đới, việc gặp gỡ  của các  tổ  chức bảo tồn và các Chính phủ  tại các hội nghị  đã rút ra được nhiều kinh  
  14. 14 nghiệm từ thực tế cũng như cơ hội để các nước có tiếng nói chung về vấn đề  bảo tồn. Càng về  sau, hội nghị  càng chú trọng nhiều đến tình hình thực tiễn   của hoạt động bảo tồn, cụ thể là tại hội nghị lần V hiệp ước Durban về biến   đổi khí hậu toàn cầu và kế hoạch hành động được thông qua [43].  Có thể nói rằng, đến nay trên thế giới mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn,  thách thức, nhưng bảo tồn ĐDSH đã được quan tâm một cách toàn diện. Công   tác quản lý bảo tồn ĐDSH không chỉ  tập trung bảo vệ  tài nguyên, xây dựng   hệ thống các khu bảo tồn mà còn chú trọng đến giáo dục về quản lý và nâng   cao hiệu quả  trong điều hành cũng như  nhận thức bảo tồn, chú ý đến khía  cạnh xã hội nhân văn trong bảo tồn như  phối hợp bảo tồn, bảo tồn dựa vào  cộng đồng, chia sẻ  lợi ích từ  bảo tồn nhằm hướng đến đích cuối cùng là sử  dụng bền vững các thành phần của ĐDSH, chia sẻ các lợi ích có được từ việc   sử dụng các nguồn tài nguyên di truyền, một cách bình đẳng và công bằng. d. Phương thức tiếp cận được áp dụng trong quản lý bảo tồn ĐDSH  Nhằm đảm bảo phát triển bền vững (PTBV), nhiều ngành, nhiều tổ  chức liên quan đến sử  dụng tài nguyên thiên nhiên đang hình thành và xây   dựng những phương thức tiếp cận mới về quản lý, đó là [93], [94]: (1) Quản  lý hệ  sinh thái, (2) Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, (3)  Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên, (4) Bảo tồn và phát triển tổng hợp, (5)   Phát triển bền vững. Các phương thức tiếp cận nêu trên đều giống nhau trong việc nỗ  lực   tìm kiếm một số giải pháp tối ưu để  giải quyết mâu thuẫn và chia sẻ  quyền   lợi trong việc sử  dụng các nguồn TNTN, mà những quyền lợi này có thể  là 
  15. 15 giữa bảo tồn và phát triển, giữa cộng đồng địa phương và một quốc gia, hoặc   giữa   các   nhóm   người   có   liên   quan   trong   xã   hội.   Điểm   nổi   bật   trong   các   phương thức tiếp cận này là nâng cao vai trò của cộng đồng địa phương cũng  như  những nhóm người trong xã hội có liên quan đến TNTN (những người   hưởng lợi, những người bị  tác động). Các phương thức tiếp cận này đang  được hình thành và phát triển nhằm khắc phục những hạn chế  trong cách  quản lý áp đặt từ  trên xuống theo cách quan liêu bao cấp và đẩy mạnh cách  thức quản lý TNTN từ dưới lên. Những điểm khác biệt cơ bản giữa các phương thức tiếp cận là sự nhìn  nhận vấn đề, điểm trung tâm là tính ưu tiên của các phương pháp cụ thể được   ứng dụng. Ví dụ: phương pháp tiếp cận hệ  sinh thái quan tâm trước tiên là  tính toàn vẹn của HST và nhìn nhận con người là một bộ  phận của HST. Vì   vậy muốn đạt được mục đích cơ  bản trên thì phải tuân thủ  các nguyên tắc   của phát triển bền vững. Vì thế, phương pháp tiếp cận là làm sao tận dụng   được mọi thế mạnh của cộng đồng trong việc sử dụng và bảo vệ TNTN, để  có thể  chia sẻ  lợi ích một cách công bằng cho cộng đồng địa phương được   quan tâm trước tiên, nhưng tất nhiên đều phải gắn chặt với quyền lợi bảo tồn   thiên nhiên để đảm bảo sự hài hoà. Trong khi đó, phương pháp tiếp cận đồng  quản lý có nhiều đặc điểm giống với phương pháp tiếp cận dựa vào cộng   đồng, nhưng mang ý nghĩa rộng hơn, tức là quan tâm đến mọi đối tác, mọi   nhóm xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến tài nguyên, để  đạt được  mục đích là chia sẻ quyền lợi công bằng đồng thời không làm suy thoái TNTN  và bảo vệ ĐDSH.
  16. 16 Trên thế  giới, phát triển bền vững, đặc biệt là sự  tham gia của cộng   đồng là vấn đề được chú trọng trong quản lý, sử dụng ĐDSH ở dải núi đá vôi  nói riêng. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo nên sự thay đổi cần thiết cho sự  phát triển của xã hội sinh thái học bền vững. Thực tế  tại  New Zealand  cho  thấy,  vào những năm 1980, mạng lưới các VQG  ở  nước này bắt đầu phát  triển  và liên tục, vừa bảo vệ  các vùng nhỏ, vừa tạo ra các khu giải trí cho  cộng đồng. Ngoài   ra,   phục   hồi   rừng  nghèo  trên   núi   đá   vôi  như:   Viện   khoa   học  Quảng Tây và Quảng Đông ­ Trung Quốc đã nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt là  nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của một số  loài cây trên núi đá vôi:  Toona  sinensis,   Delavaya   toxocarpa,   Chukrasia   tabularis,   Excentrodendron   tonkinensis,…trong thời kỳ  1985 ­1998 [16]. Những nghiên cứu đó đã được  tổng kết sơ  bộ  sau nhiều hội thảo khoa học  ở  Học viện Lâm nghiệp Bắc   Kinh với sự  tham gia của nhiều nhà khoa học lâm nghiệp đầu ngành của  Trung Quốc, bên cạnh đó các hướng dẫn về kỹ  thuật phục hồi rừng trên núi  đá vôi đã được xây dựng, gồm một số nguyên lý: Là một trong những HST rất   nhạy cảm, có sự  cân bằng mỏng manh và điều kiện sống rất khắc nghiệt;   Tốc độ tăng trưởng của cây trên núi đá vôi rất chậm (trữ lượng gỗ bình quân 1  ha rừng nguyên sinh trên núi đá vôi chỉ bằng 1/2 trữ lượng gỗ bình quân rừng  nguyên sinh trên đất); HST núi đá vôi có tính chống chịu cao; HST núi đá vôi   có khả  năng phục hồi rất khó vì thiếu các yếu tố  lập địa cần thiết [1 6]. Tuy  nhiên, những nguyên lý phục hồi và phát triển rừng trên núi đá vôi chưa được   tổng kết một cách có hệ  thống nên việc áp dụng những hướng dẫn này cho  nhiều quốc gia khác gặp rất nhiều khó khăn.
  17. 17 1.2.2. Nghiên cứu bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam Theo đánh giá của Trung tâm giám sát bảo tồn thế giới (WCMC) (1992,  2003), Việt Nam được xếp thứ  16 trong số  các nước có ĐDSH cao nhất thế  giới [9]. Theo báo cáo quốc gia về ĐDSH Việt Nam năm 2011 thì hệ thực vật  Việt Nam đã ghi nhận 13.766 loài thực vật, trong đó có 11.373 loài thực vật  bậc cao có mạch, có 2256 chi, 305 họ chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi   và 5% tổng số họ thực vật trên thế giới, 2.393 loài thực vật bậc thấp chưa kể  các nhóm vi tảo ở nước [9], [58]. Về  hệ  động vật, ngoài các loài đặc hữu Việt Nam còn có nhưng loài  động vật mang tính chất hỗn hợp của hai khu hệ động vật Nam Trung Hoa và  Ấn Độ, Mã Lai [58], [60], [81]. Nhiều loài không những có giá trị cao về kinh  tế, mà còn có giá trị  bảo tồn  ở  Việt Nam và thế  giới, nhiều loài có tên trong   Sách Đỏ  Việt  Nam (2007) và Danh lục đỏ  IUCN (2012). Sự  phong phú về  thực vật và các hệ sinh thái là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật. Việt Nam   có đến 312 loài và phân Thú, 840 loài Chim, 317 loài Bò sát, 167 loài Lưỡng   cư, 7700 loài Côn trùng, 547 loài Cá nước ngọt, 2038 loài Cá biển và 9300 loài   Động vật không xương sống [9], [57]. Tuy nhiên, Việt Nam cũng trong tình trạng chung của toàn cầu là ĐDSH   đã và đang bị đe dọa và có chiều hướng suy giảm mạnh. Nguyên nhân của sự  mất mát ĐDSH được xác định bao gồm hai yếu tố  chính là do thiên tai và do   tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người [59], [80], [92]. Vì vậy, Việt  Nam đã có nhiều nỗ lực trong công tác nghiên cứu và quản lý bảo tồn ĐDSH,  trong đó phải kể đến các vấn đề quan trọng sau đây:
  18. 18 a. Sơ lược về tình hình nghiên cứu ĐDSH ở Việt Nam Các nghiên cứu ĐDSH thường được bắt đầu bằng những nghiên cứu cơ  bản để  có tiền đề  xây dựng luận chứng kinh tế­ kỹ  thuật (LCKT) cho các  KBT. Phần lớn LCKT được xây dựng bởi các cơ  quan chuyên môn, các Viện  nghiên cứu, các trường đại học như  Viện Điều tra Quy hoạch rừng, Viện  Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Trường đại học Lâm nghiệp…[6],[7]. Ngoài  các nghiên cứu liên quan đến LCKT còn phải kể  đến các nghiên cứu chuyên   sâu của các cơ quan nghiên cứu, Viện K hoa học và Công nghệ Quốc gia­ Đại  học QG Hà Nội, các tổ  chức trong và ngoài nước.  Các số  liệu trong nghiên  cứu này rất quan trọng và có giá trị, được các VQG và KBT sử  dụng để  biết  được sự đa dạng sinh vật mà mình đang quản lý. Một thành tựu nổi bật về  nghiên cứu ĐDSH là kết quả  điều tra về  tài  nguyên thực vật và động vật ở một số VQG và Khu BTTN và một số sinh cảnh  khác ngoài Khu BTTN nhờ sự phối hợp giữa các nhà khoa học của các cơ quan  nghiên cứu ở Trung ương, địa phương và ban quản lý các VQG, Khu BTTN [7],   [58]. Trong những thập kỷ của những năm đầu cuối thế kỷ XX, các nghiên cứu   về  ĐDSH phục vụ  cho việc xây dựng các luận chứng KTKT để  xây dựng hệ  thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu kinh phí nên số  liệu chưa được cập nhật, nhiều VQG và Khu BTTN chỉ có số liệu khi xây dựng  LCKT. Nhiều loài động vật, thực vật có trong thực tế nhưng chưa có tên trong 
  19. 19 danh lục hoặc ngược lại có tên trong danh lục nhưng lại không thấy trong thiên  nhiên. b. Chiến lược, chính sách bảo tồn ĐDSH Nhận thức được tầm quan trọng của sự  suy thoái tài nguyên ĐDSH,  Việt Nam đã sớm có những hành động tích cực trong công tác bảo tồn ĐDSH.   Theo thống kê từ năm 1958 đến nay, có tới vài trăm văn bản pháp luật do Nhà  nước và các ban ngành liên quan ban hành về vấn đề bảo tồn ĐDSH và các tài   liệu hướng dẫn thi hành lần lượt được ban hành [7],. Năm 1962, Cục Kiểm lâm được thành lập cùng với sự ra đời rừng cấm   đầu tiên  ở  Việt Nam là rừng cấm Cúc Phương [3], [6], [17], [45]. Năm 1985,  Chiến lược Bảo tồn Quốc gia của Việt Nam (NCS) được ban hành. Đây là   một chiến lược đầu tiên được xây dựng ở một nước đang phát triển. Và từ đó,  việc cải cách thể chế và luật pháp đã phát triển nhanh chóng với sự ra đời của  các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành liên quan đến bảo tồn và sử dụng  bền vững tài nguyên ĐDSH như: Luật bảo vệ và phát triển rừng 1991 (được  sửa đổi, bổ  sung năm 2004); Luật đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ  sung  năm 1998 và 2003); Luật bảo vệ môi trường năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung  năm 2005); Luật thủy sản năm 2003; và gần đây nhất, luật Đa dạng sinh học  được Quốc hội phê chuẩn tháng 11 năm 2008 [21]; Sách Đỏ  Việt Nam lần  đầu tiên được xuất bản năm 1992 (tái bản có những điều chỉnh cập nhật vào  năm 2000 và 2007) [13]. Ngoài ra, trong phong trào chung và tính cấp bách của toàn cầu về  bảo   tồn và phát triển bền vững, Việt Nam cũng đã tham gia ký kết nhiều công ước  
  20. 20 quốc tế  về  môi trường có liên quan, đặc biệt là: Công  ước Ramsar về  đất  ngập nước (1975), công  ước ĐDSH (1993) và Công  ước CITES về  buôn bán  quốc tế các loài động thực vật hoang dã nguy cấp (1994).  Trong giai đoạn 2005­2010, các quy hoạch, kế hoạch hành động quốc gia   về  bảo tồn ĐDSH đã được ban hành và tổ  chức thực hiện như  quy hoạch hệ  thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020, Quy hoạch hệ thống khu   bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020 [20]. Đặc biệt là kế  hoạch hành động  Quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ  tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 79/2007/QĐ­TTg ngày 31 tháng 5  năm 2007 [13]. Bên cạnh đó, các ngành các cấp tiếp tục triển khai Chiến lược,   Kế hoạch, chương trình khác có liên quan đến bảo tồn ĐDSH được phê duyệt  trước năm 2005 như Chương trình nâng cao nhận thức bảo tồn ĐDSH đến năm  2010, Kế  hoạch hành động Quốc gia về  tăng cường kiểm soát buôn bán động  thực vật hoang dã đến năm 2010, Chiến lược quản lý hệ  thống khu bảo tồn  thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010 [10],  Chiến lược phát triển lâm nghiệp  Việt Nam giai đoạn 2006 –2020” [20], Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai  đoạn 2011 – 2020” [21]. Hệ  thống các văn bản quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến  bảo vệ  ĐDSH tuy đã được hình thành nhưng còn có nhiều khiếm khuyết và   bất cập. Việt Nam là thành viên của Công  ước ĐDSH nhưng cho đến nay,   chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hoàn chỉnh để  đảm bảo thực hiện   Công  ước này. Các văn bản hiện hành mới chỉ  tập trung vào việc bảo tồn  ĐDSH, trong khi đó, Công ước ĐDSH nêu ra ba mục tiêu: (1)­ Bảo tồn ĐDSH; 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2