Đề bài: Hình ảnh người cha trong bài Cha tôi trích Đặng Dịch Trai ngôn hành lục<br />
Bài Mẫu Số 1:<br />
"Tình cha ấm áp như vầng thái dương<br />
Ngọt ngào như dòng nước trôi đầu nguồn"<br />
Có lẽ, với mỗi người con trong cuộc đời, tình cha thật ấm áp và thiêng liêng, những lời <br />
dạy của cha, của mẹ luôn đi theo suốt trong cuộc hành trình. Đặng Huy Trứ cũng có một <br />
người cha hết mực yêu thương con và luôn răn dạy cho ông những điều hay, lẽ phải ở <br />
đời. Bởi vậy, qua bóng dáng người cha của mình, ông đã viết nên câu chuyện "Cha tôi" <br />
đầy sâu sắc và thấm thía. Dư âm vang lại trong tâm khảm người đọc là hình ảnh người <br />
cha tuyệt vời, dạy bảo cho con những tầng sâu triết lí về lẽ may, rủi, được, mất ở đời.<br />
Lẽ thường, với mỗi người sinh thành, họ luôn mong con cái mình thành công trong sự <br />
nghiệp. Nhưng những thành công ấy không phải để ta huênh hoang, tự mãn, tỏ vẻ kênh <br />
kiệu mà là động lực để ta cố gắng phấn đấu. Đặng Huy Trứ lần đi thi với cha đầu tiên <br />
nhằm mục đích để quen trường thi thì đỗ cử nhân, điều này khiến mọi người ai cũng vui <br />
vẻ, đó là một niềm vui không chỉ với riêng gia đình mà cả dòng họ, xóm làng ai nấy cũng <br />
mừng ra mặt, vậy mà cha ông lại không mảy may vui vẻ, chỉ dựa vào gốc cây xoài mà <br />
khóc, nước mắt rơi ướt áo như là gia đình vừa gặp chuyện không may. Ông bày tỏ: "Có gì <br />
đáng vui đâu. Đỗ đạt cao là để dành cho người có phúc đức. Con tôi tính tình chưa già <br />
dặn, chưa có đức nghiệp gì... Cổ nhân đã nói "Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã !". <br />
Một lời bày tỏ khiêm tốn mà rất chân thành của một người từng trải, hết mực lo lắng cho <br />
con. Ông không cảm thấy vui vì con mau đỗ đạt mà lo sợ rằng con mình sẽ lấy đó làm tự <br />
kiêu mà thối chí, không cố gắng.<br />
Với ông: "Nào ngờ, mới một lần đi thi lại trúng thứ ba. Đó là do triều đình nuôi dưỡng, tổ <br />
tông tích đức, gia đình giáo dục mà được thế... Nhìn lên, tôi đội ơn tác thành của thiên tử, <br />
lại cảm kích công vun trồng của tổ tiên, chỉ sợ con tôi không báo đáp được nghĩa nặng ơn <br />
dày nên không cầm nổi nước mắt". Đó là người cha biết nhìn xa trông rộng, điềm tĩnh <br />
trước mọi việc, lo lắng cho tương lai của con cái mình. Vào năm 1947, nhà nước mở khoa <br />
thi tiếp theo, Đặng Huy Trứ năm nay đã 23 tuổi, dù đề thi rất khó, ít kẻ làm được nhưng <br />
ông lại tiếp tục thi đỗ. Người cha lại vô cùng lo lắng cho con mình, ông dù tin vào khả <br />
năng của con trai nhưng sợ con tự mãn sẽ làm hại chính mình. "Bậc đỗ đại khoa ắt phải <br />
là người phúc phận lớn. Con tôi đức độ ra sao mà được như vậy, chỉ làm cho tôi thêm lo <br />
lắng".<br />
Trước tin người anh làm quan trong triều vừa mất thì người cha vô cùng thương xót, đau <br />
buồn. Nhưng khi nghe tin con bị đánh trượt trong kì thi đình thì ông cho đó là lẽ thường và <br />
khuyên nhủ con trai. Người cha là một người rất khiêm tốn và vô cùng tâm lí, chưa bao <br />
giờ tỏ ra hài lòng hay khoe khoang với thành tích của con mình cũng không tỏ ra quá thất <br />
vọng khi còn bị đánh trượt. Ông luôn đưa ra những lời khuyên kịp thời, triết lí thể hiện sự <br />
chín chắn và kinh nghiệm của một người hiểu lẽ đời dành cho con. "Đã vào thi Đình thì <br />
không còn đánh trượt nữa, từ đời Lê đến nay như thế đã lâu mà nay con lại bị đánh trượt". <br />
Ông đã dạy cho Nguyễn Công Trứ về lẽ được mất ở đời, đi thi không nhất thiết phải đỗ <br />
đạt cao nhưng cần có những giá trị mà ta học được sau mỗi cuộc thi. Cái gì càng dễ có <br />
được mà không biết trân trọng, gìn giữ, trau dồi, rèn luyện thì cũng sẽ tuột dễ khỏi tầm <br />
tay. Thất bại không phải là điều đáng sợ mà cái đáng sợ là không thể đứng lên sau vấp <br />
ngã. Cần có ý chí và nghị lực trong cuộc sống để thành công sau những lần va vấp. Bằng <br />
những lời khuyên quý báu và vô cùng chân tình, người cha đã giúp Đặng Huy Trứ nhận ra <br />
lỗi lầm của mình để cố gắng hoàn thiện bản thân hơn.<br />
Quan niệm về học hành đỗ đạt thi cử và những triết lí của người cha để lại là vô cùng <br />
sâu sắc, nó có ý nghĩa giáo dục cho những thế hệ mai sau như chúng em. Ngày ngày cần <br />
phải cố gắng hơn, nỗ lực hơn nữa không được tự kiêu với những thành công mà mình <br />
đang có. Biết rèn luyện, trau dồi bản thân mỗi ngày, biết đứng lên sau những thất bại, <br />
"thất bại là mẹ thành công". Biết vươn mình sống như những đóa hoa hướng dương, luôn <br />
hướng về những điều tốt đẹp, vươn mình mạnh mẽ trước bão giông.<br />
Bài Mẫu Số 2:<br />
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ<br />
Gian khổ cuộc đời không nặng gánh bằng cha”<br />
Xưa nay thường hay thấy người ta viết về mẹ, về tình mẫu tử thiêng liêng hơn là viết về <br />
người cha, Đặng Huy Trứ là một trong số ít các nhà văn viết tác phẩm nói về hình ảnh <br />
người cha. Cha tôi là đoạn trích được rút ra tập ký Đặng Dịch Trai ngôn hành lục của tác <br />
giả, thông qua những dòng hồi tưởng về người cha đáng kính của mình, ông đã rút ra <br />
được nhiều nghĩ suy về căn nguyên việc phúc, họa ở đời người đặc biệt là trong chuyện <br />
khoa cử, chuyện chốn quan trường rối ren, đồng thời càng thêm thấm thía tình cảm cha <br />
con sâu nặng.<br />
Đặng Huy Trứ (18251874), hiệu là Tỉnh Trai, Vọng Tân, tự là Hoàng Trung, quê ở làng <br />
Thanh Lương, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông từng đỗ cử nhân và tiến <br />
sĩ, tuy nhiên do phạm húy mà bị đánh trượt và tước luôn cả học vị cử nhân, cả đời ông <br />
từng nhiều lần dâng lên triều đình những chính sách và tư tưởng tiến bộ tuy nhiên chưa <br />
lần nào được chấp thuận. Tác phẩm Đặng Dịch Trai ngôn hành lục được viết theo thể <br />
loại ký, đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, nội dung là những dòng hồi <br />
tưởng về người cha đáng kính của mình, qua đó thể hiện thái độ và tư tưởng của tác giả <br />
đối với cuộc sống đặc biệt là trong việc học hành, thi cử và tình cảm kính trọng mà ông <br />
dành cho người cha đáng kính của mình, một trí thức có nhân cách nhưng phải sống và <br />
chứng kiến sự suy tàn của chế độ phong kiến những năm giữa thế kỷ XIX. “Cha tôi” <br />
được trích từ trong tác phẩm này, mà nổi bật nhất là hình ảnh ông Đặng Văn Trọng với <br />
những chi tiết về lời nói, suy nghĩ và hành động mẫu mực của một trí thức đương thời.<br />
Trong đoạn trích có ba sự kiện tiêu biểu nhất, là những bước chuyển biến lớn trong <br />
quãng đường học vấn khoa cử của nhân vật “tôi”, tuy nhiên có một điều đặc sắc ở đây đó <br />
là đa số những suy nghĩ và tư tưởng của nhân vật “tôi” lại nằm trong cách ứng xử và nói <br />
chuyện của người cha. Những phản ứng của ông trước ba bước ngoặt cuộc đời của <br />
người con, từ việc thi đỗ rồi lại bị đánh rớt đã thể hiện một nhân cách và cái nhìn sâu sắc <br />
toàn diện về cuộc sống của người trí thức mẫu mực.<br />
Sự kiện đầu tiên là việc cha con nhân vật “tôi” cùng đi dự kỳ thi tú tài ở Phú Xuân, Huế, <br />
ban đầu khi xướng danh yết bảng, mọi người cứ ngỡ ông Đặng Văn Trọng đã đỗ ở vị trí <br />
thứ ba, nhưng bất ngờ thay Đặng Huy Trứ lại đỗ, vốn đây cũng là việc vui bất ngờ, lại có <br />
đôi chút ngại ngùng. Nhưng ông Đặng Văn Trọng không cho là thế, bởi con hơn cha là nhà <br />
có phúc, ông chu đáo tươm tất, chuẩn bị “bốn người bạn và giao cho anh Trần Huyền <br />
Phủ, con cô thứ hai đưa tôi vào trường thi”, quả lòng cha thương con đến vậy. Tuy nhiên <br />
có điều lạ lùng rằng, con đỗ cao nhưng ông chẳng lấy làm mừng vui tột độ, mà lạ giàn <br />
giụa nước mắt, tựa cây mà khóc, bởi ông có một mối lo, lo con chưa đủ già dặn, chưa trải <br />
việc đời, chưa đủ phúc đức để nhận lấy danh hiệu này, ông còn sợ đứa con trai của mình <br />
trẻ người non dạ, sớm đỗ đạt rồi sẽ kiêu căng tự mãn mà hỏng cả thánh ân của quân <br />
vương, rước họa vào thân. Trong mong ước của Đặng Văn Trọng, ông chỉ hi vọng con đi <br />
thi nhằm quen với khoa cử, lấy tiền đề cho sau này, may mắn đỗ tú tài thì cũng được về <br />
làng dạy học, đỡ đi cái ải phu phen, tạp dịch xa xôi, lòng người cha thương con chỉ dám <br />
mong vậy. Giờ đây khi con đã đỗ cao ông lại lo lắng không báo đáp được cho đất nước, <br />
rồi chảy nước mắt, quả hiếm có bậc trí thức, sĩ phu nào lại có cái suy nghĩ chu toàn, sâu <br />
xa đến vậy, chỉ khi đã từng trải, nhìn đủ mọi thói đời chua cay, ông mới có những mối lo <br />
toan thấm thía đến vậy. Ông vừa xứng đáng là một người cha tốt vừa là một người trí <br />
thức có nhân cách cao đẹp một lòng vì đất nước, không dám cô phụ ơn thiên tử.<br />
Bước ngoặt thứ hai trong cuộc đời của nhân vật “tôi” đó là vào năm năm sau, lúc này nhân <br />
vật “tôi” đã 23 tuổi, tiếp tục tiến vào kỳ thi Hội ở kinh thành, tuy khoa thi ấy đề thi rất <br />
khó nhưng bằng tài học vấn của mình Đặng Huy Trứ vẫn “làm đủ và được 7 phân”, thiên <br />
tử xem bài thi của ông thì “không nỡ vì một tì vết mà bỏ”, cho ông đỗ thứ 7. Khi tin báo <br />
đỗ về làng, ông Đặng Văn Trọng lại lần nữa rớt nước mắt “Bậc đỗ đại khoa ắt phải là <br />
người có phúc phận lớn. Con tôi có đức độ ra sao mà được như vậy, ắt chỉ làm tôi thêm lo <br />
lắng”. Một lần nữa hành động của ông lại khiến người ta phải suy nghĩ, phải chăng ông <br />
đã đoán được cái tương lai chẳng mấy tốt đẹp mà đâm chiều lo lắng đến vậy.<br />
Thật là như thế, Đặng Huy Trứ vì phạm húy trong bài thi mà bị truất cả bằng tiến sĩ lẫn <br />
bằng cử nhân, trong nhà thì bác ruột của Đặng Huy Trứ cũng vừa mất, chuyện này nối <br />
tiếp chuyện kia dường như đổ ập xuống dòng họ Đặng, không khí buồn bã bao trùm <br />
nhưng với vai trò người cha ông Đặng Văn Trọng chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng về việc <br />
buồn của con, nghe phong thanh đâu đây có tiếng thở dài “không có chuyện gì đáng kể”, <br />
ông rất bình tĩnh, khác hẳn với lúc con trai đỗ đạt ông lại xúc động mà chảy nước mắt, <br />
dường như những chuyện tai bay vạ gió vốn là lẽ thường ở đời, còn chuyện may mắn là <br />
phúc đức tổ tiên để lại, nếu chưa gì đã hưởng thì ấy không phải là điều hay ho. Đối với <br />
ông, cái chết của người anh mới là điều phải tiếc nuối khôn nguôi, bởi người đã ra đi thì <br />
làm sao còn gặp lại được nữa, cốt nhục tình thân từ đây chia lìa, so với việc công danh <br />
yết bảng kia thì to lớn hơn rất nhiều. Bởi học vị có thể bắt đầu lại từ đầu, hơn thế nữa <br />
Đặng Huy Trứ còn trẻ, với việc công danh suy cho cùng chỉ là vật ngoài thân, dòng họ <br />
Đặng vốn đã hưng thịnh cũng không cần phải thêm thắt gì nữa. Xét lại có thể thấy ông <br />
Đặng Văn Trọng là người xem trọng tình thân hơn tất thảy, từ nỗi lo lắng cho con trai, <br />
đến sự xót xa nuối tiếc khi người anh mất, điều đó cho thấy nhân cách cao đẹp của một <br />
người trí thức đương thời thật đáng kính biết bao.<br />
Sau mãn tang sự của anh trai, lúc này Đặng Văn Trọng lại mới khuyên bảo người con <br />
rằng chuyện lỗi lầm bị đánh trượt trong kỳ thi Đình, âu cũng là một bài học để rèn luyện <br />
tu thân dưỡng tính, đợi thời cơ làm lại từ đầu. Ông nhắc lại chuyện Phạm Văn Huy và <br />
Mai Anh Tuấn cũng từng bị cách cử nhân sau đều đỗ đạt cao để giáo dục người con phải <br />
biết học tập theo, đặc biệt khi phẩm hạnh của Đặng Huy Trứ còn chưa sánh được với hai <br />
nhân vật trên thì không có gì phải thoái nản hay chán chường, cái quan trọng nhất là biết <br />
sai và sửa chữa, điều đó mới là đáng quý. Những điều ông Đặng Văn Trọng dạy con, quả <br />
thực rất thấm thía và sâu sắc, trước là an ủi, xoa dịu sau là động viên, cổ vũ tinh thần, tình <br />
thương yêu con của ông hàm chứa sâu trong những lời giáo huấn đậm tính triết lý và nhân <br />
văn của một nho gia.<br />
Ông Đặng Văn Trọng là một người cha, một nhà trí thức có nhân cách cao đẹp và mẫu <br />
mực qua từng hành động lời nói. Những suy nghĩ của ông đều mang tính triết lý sâu sắc, <br />
bao gồm việc phải biết lo xa, phòng gần, đề cao tình thân trong gia đình. Dạy cho chúng <br />
ta phải biết nỗ lực phấn đấu không ngừng, sai thì nhận sai và làm lại từ đầu, không được <br />
phép kiêu căng tự phụ mà rước họa vào người, đặc biệt dù trong thất bại cay đắng cũng <br />
được nản chí, phải cố gắng vươn lên vượt qua số phận. Lời người cha dạy con lúc nào <br />
cũng thật sâu sắc và thấm thía biết bao, ông Đặng Văn Trọng xứng đáng là một trong <br />
những người cha đáng kính và mẫu mực nhất trên đời.<br />
<br />