Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
lượt xem 37
download
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
- 1. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi ph ối s ự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, b ắt ngu ồn t ừ quy lu ật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Vi ệt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần gi ới h ạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất c ả lĩnh v ực liên quan đ ến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và d ịch v ụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có h ội nh ập hay không mà là làm th ế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo đ ược l ợi ích dân t ộc, nâng cao đ ược s ự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các m ục tiêu phát tri ển kinh t ế- xã h ội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nh ất là Ngh ị quy ết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh t ế quốc t ế đã nh ấn m ạnh quan đi ểm: Ch ủ đ ộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy t ối đa n ội l ực, đ ồng th ời tranh th ủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hi ệu quả và bền v ững, đ ảm b ảo tính đ ộc l ập t ự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân t ộc, giữ gìn an ninh qu ốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, h ội nh ập c ủa Đ ảng và Nhà n ước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh t ế quốc t ế trong đi ều ki ện toàn c ầu hoá kinh t ế là m ột quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh t ế, tham gia phân công h ợp tác qu ốc t ế t ạo đi ều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, m ở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan h ệ kinh t ế qu ốc t ế. H ội nh ập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế gi ới, tìm ki ếm và t ạo l ập th ị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh t ế h ợp lý, phát tri ển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh t ế, của doanh nghi ệp và hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh t ế quốc t ế hi ệu qu ả, th ực hi ện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt đ ược nh ững k ết quả quan tr ọng nh ư: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp t ục chuyển dịch theo h ướng tăng t ỉ tr ọng c ủa công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghi ệp. Tỉ l ệ huy đ ộng v ốn cho đ ầu t ư phát tri ển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy đ ộng t ốt h ơn, đ ặc bi ệt trong khu v ực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực s ản xuất c ủa nhi ều ngành tăng lên. Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn m ột s ố t ồn t ại: - Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh t ế, Vi ệt Nam xếp th ứ 48/53 nước đ ược xem xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 n ước tham gia x ếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 gi ảm ti ếp 4 b ậc so v ới năm 2004 trong các nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế th ế giới - WEF) - Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thi ếu s ự chuẩn b ị để ứng phó hi ệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng. - Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất l ượng, mạng l ưới t ổ ch ức tiêu th ụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng th ấp h ơn so v ới các n ước trong khu vực và trên thế giới. - Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp ph ải s ự c ạnh tranh c ủa các n ước trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát tri ển các mặt hàng m ới đang g ặp khó khăn v ề v ốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ. - Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với m ức tăng đ ầu t ư, c ơ c ấu kinh t ế chuy ển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh c ủa ngành, s ản ph ẩm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong c ơ c ấu GDP, hệ th ống d ịch v ụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. C ơ c ấu lao đ ộng chuy ển d ịch 1
- rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nh ất là trong khu v ực nông nghi ệp, nông thôn. - Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều ti ến b ộ, v ốn trong n ước chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn v ốn đ ầu t ư tr ực ti ếp n ước ngoài (FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu t ư trực tiếp nước ngoài thu hút m ới ch ỉ b ằng 60% so với cùng kỳ năm 2001. - Hoạt động tài chính - tiền t ệ tuy có tiến bộ nh ưng ti ềm ẩn nhi ều r ủi ro, lãi su ất ti ền đ ồng quá cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh l ời của nền kinh t ế, làm tăng chi phí đ ầu vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản ph ẩm. Vốn huy đ ộng c ủa h ệ thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một t ỷ l ệ khá để cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về l ợi nhuận và làm gi ảm kh ả năng đ ề phòng rủi ro. Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nh ập kinh t ế quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến l ược t ổng th ể h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế c ủa quốc gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chi ến l ược của t ừng b ộ, ngành, đ ịa ph ương và doanh nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát tri ển các thành ph ần kinh t ế đ ưa vào cu ộc sống chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thi ếu đ ồng b ộ, nh ất quán, khó thực hiện. Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong đi ều ki ện h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà c ốt lõi c ủa nó là h ệ th ống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách c ạnh tranh c ần theo h ướng: gi ảm d ần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, ch ống h ạn chế c ạnh tranh, gi ảm thi ểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, h ạn chế kiểm soát độc quyền. Theo h ướng này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát đ ộc quy ền trong kinh doanh. Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như: - Cải thiện nhanh môi trường đầu t ư để thu hút đ ầu t ư trong nước, nh ất là đ ầu t ư n ước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quy ền c ủa Nhà n ước, đ ặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (đi ện, viễn thông, dịch v ụ c ảng bi ển, phí c ầu đ ường); giải quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc gi ải phóng m ặt b ằng, xây d ựng c ơ s ở h ạ tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn tr ọng và đ ảm b ảo quy ền l ợi c ủa nhà đầu tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp d ụng chung cho c ả đ ầu t ư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy định về điều ki ện đầu t ư và ưu đãi phù h ợp v ới t ừng đ ối tượng. - Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu c ầu c ủa quá trình h ội nh ập m ở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nh ất cho các thành ph ần kinh t ế; th ực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hi ệp định song ph ương và đa ph ương mà Vi ệt Nam đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai th ời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành ph ần kinh t ế ch ủ đ ộng trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc t ế. - Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nh ất là đ ối v ới các đ ối tác l ớn nh ư: EU, M ỹ, Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghi ệm quản lý tiên ti ến. - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều ch ỉnh c ơ c ấu đ ầu t ư nh ằm phát huy l ợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế; kh ắc ph ục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, d ứt khoát không đ ầu t ư vào nh ững công trình d ự án kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đ ầu t ư nh ư BOT, BT, phát hành trái phiếu công trình… - Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược t ổng thể h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế; tích cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong n ước đ ể n ước ta có th ể gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghi ệp nhà n ước, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đ ẩy m ạnh c ải cách th ể ch ế, tăng c ường hi ệu l ực của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách ti ền l ương, nâng cao trách nhi ệm, trình độ của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình h ội nh ập kinh t ế quốc tế đang đặt ra hiện nay. PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên 2
- 2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi ph ối s ự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, b ắt ngu ồn t ừ quy lu ật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Vi ệt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần gi ới h ạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất c ả lĩnh v ực liên quan đ ến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và d ịch v ụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có h ội nh ập hay không mà là làm th ế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo đ ược l ợi ích dân t ộc, nâng cao đ ược s ự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các m ục tiêu phát tri ển kinh t ế- xã h ội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nh ất là Ngh ị quy ết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh t ế quốc t ế đã nh ấn m ạnh quan đi ểm: Ch ủ đ ộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy t ối đa n ội l ực, đ ồng th ời tranh th ủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hi ệu quả và bền v ững, đ ảm b ảo tính đ ộc l ập t ự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân t ộc, giữ gìn an ninh qu ốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, h ội nh ập c ủa Đ ảng và Nhà n ước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh t ế quốc t ế trong đi ều ki ện toàn c ầu hoá kinh t ế là m ột quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh t ế, tham gia phân công h ợp tác qu ốc t ế t ạo đi ều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, m ở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan h ệ kinh t ế qu ốc t ế. H ội nh ập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế gi ới, tìm ki ếm và t ạo l ập th ị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh t ế h ợp lý, phát tri ển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh t ế, của doanh nghi ệp và hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh t ế quốc t ế hi ệu qu ả, th ực hi ện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt đ ược nh ững k ết quả quan tr ọng nh ư: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp t ục chuyển dịch theo h ướng tăng t ỉ tr ọng c ủa công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghi ệp. Tỉ l ệ huy đ ộng v ốn cho đ ầu t ư phát tri ển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy đ ộng t ốt h ơn, đ ặc bi ệt trong khu v ực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực s ản xuất c ủa nhi ều ngành tăng lên. Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn m ột s ố t ồn t ại: - Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh t ế, Vi ệt Nam xếp th ứ 48/53 nước đ ược xem xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 n ước tham gia x ếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 gi ảm ti ếp 4 b ậc so v ới năm 2004 trong các nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế th ế giới - WEF) - Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thi ếu s ự chuẩn b ị để ứng phó hi ệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng. - Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất l ượng, mạng l ưới t ổ ch ức tiêu th ụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng th ấp h ơn so v ới các n ước trong khu vực và trên thế giới. - Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp ph ải s ự c ạnh tranh c ủa các n ước trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát tri ển các mặt hàng m ới đang g ặp khó khăn v ề v ốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ. - Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với m ức tăng đ ầu t ư, c ơ c ấu kinh t ế chuy ển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh c ủa ngành, s ản ph ẩm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong c ơ c ấu GDP, hệ th ống d ịch v ụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. C ơ c ấu lao đ ộng chuy ển d ịch 3
- rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nh ất là trong khu v ực nông nghi ệp, nông thôn. - Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều ti ến b ộ, v ốn trong n ước chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn v ốn đ ầu t ư tr ực ti ếp n ước ngoài (FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu t ư trực tiếp nước ngoài thu hút m ới ch ỉ b ằng 60% so với cùng kỳ năm 2001. - Hoạt động tài chính - tiền t ệ tuy có tiến bộ nh ưng ti ềm ẩn nhi ều r ủi ro, lãi su ất ti ền đ ồng quá cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh l ời của nền kinh t ế, làm tăng chi phí đ ầu vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản ph ẩm. Vốn huy đ ộng c ủa h ệ thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một t ỷ l ệ khá để cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về l ợi nhuận và làm gi ảm kh ả năng đ ề phòng rủi ro. Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nh ập kinh t ế quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến l ược t ổng th ể h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế c ủa quốc gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chi ến l ược của t ừng b ộ, ngành, đ ịa ph ương và doanh nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát tri ển các thành ph ần kinh t ế đ ưa vào cu ộc sống chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thi ếu đ ồng b ộ, nh ất quán, khó thực hiện. Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong đi ều ki ện h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà c ốt lõi c ủa nó là h ệ th ống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách c ạnh tranh c ần theo h ướng: gi ảm d ần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, ch ống h ạn chế c ạnh tranh, gi ảm thi ểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, h ạn chế kiểm soát độc quyền. Theo h ướng này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát đ ộc quy ền trong kinh doanh. Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như: - Cải thiện nhanh môi trường đầu t ư để thu hút đ ầu t ư trong nước, nh ất là đ ầu t ư n ước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quy ền c ủa Nhà n ước, đ ặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (đi ện, viễn thông, dịch v ụ c ảng bi ển, phí c ầu đ ường); giải quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc gi ải phóng m ặt b ằng, xây d ựng c ơ s ở h ạ tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn tr ọng và đ ảm b ảo quy ền l ợi c ủa nhà đầu tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp d ụng chung cho c ả đ ầu t ư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy định về điều ki ện đầu t ư và ưu đãi phù h ợp v ới t ừng đ ối tượng. - Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu c ầu c ủa quá trình h ội nh ập m ở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nh ất cho các thành ph ần kinh t ế; th ực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hi ệp định song ph ương và đa ph ương mà Vi ệt Nam đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai th ời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành ph ần kinh t ế ch ủ đ ộng trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc t ế. - Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nh ất là đ ối v ới các đ ối tác l ớn nh ư: EU, M ỹ, Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghi ệm quản lý tiên ti ến. - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều ch ỉnh c ơ c ấu đ ầu t ư nh ằm phát huy l ợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế; kh ắc ph ục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, d ứt khoát không đ ầu t ư vào nh ững công trình d ự án kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đ ầu t ư nh ư BOT, BT, phát hành trái phiếu công trình… - Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược t ổng thể h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế; tích cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong n ước đ ể n ước ta có th ể gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghi ệp nhà n ước, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đ ẩy m ạnh c ải cách th ể ch ế, tăng c ường hi ệu l ực của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách ti ền l ương, nâng cao trách nhi ệm, trình độ của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình h ội nh ập kinh t ế quốc tế đang đặt ra hiện nay. PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên 4
- 3. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi ph ối s ự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, b ắt ngu ồn t ừ quy lu ật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Vi ệt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần gi ới h ạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất c ả lĩnh v ực liên quan đ ến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và d ịch v ụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có h ội nh ập hay không mà là làm th ế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo đ ược l ợi ích dân t ộc, nâng cao đ ược s ự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các m ục tiêu phát tri ển kinh t ế- xã h ội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nh ất là Ngh ị quy ết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh t ế quốc t ế đã nh ấn m ạnh quan đi ểm: Ch ủ đ ộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy t ối đa n ội l ực, đ ồng th ời tranh th ủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hi ệu quả và bền v ững, đ ảm b ảo tính đ ộc l ập t ự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân t ộc, giữ gìn an ninh qu ốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, h ội nh ập c ủa Đ ảng và Nhà n ước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh t ế quốc t ế trong đi ều ki ện toàn c ầu hoá kinh t ế là m ột quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh t ế, tham gia phân công h ợp tác qu ốc t ế t ạo đi ều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, m ở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan h ệ kinh t ế qu ốc t ế. H ội nh ập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế gi ới, tìm ki ếm và t ạo l ập th ị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh t ế h ợp lý, phát tri ển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh t ế, của doanh nghi ệp và hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh t ế quốc t ế hi ệu qu ả, th ực hi ện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt đ ược nh ững k ết quả quan tr ọng nh ư: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp t ục chuyển dịch theo h ướng tăng t ỉ tr ọng c ủa công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghi ệp. Tỉ l ệ huy đ ộng v ốn cho đ ầu t ư phát tri ển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy đ ộng t ốt h ơn, đ ặc bi ệt trong khu v ực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực s ản xuất c ủa nhi ều ngành tăng lên. Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn m ột s ố t ồn t ại: - Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh t ế, Vi ệt Nam xếp th ứ 48/53 nước đ ược xem xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 n ước tham gia x ếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 gi ảm ti ếp 4 b ậc so v ới năm 2004 trong các nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế th ế giới - WEF) - Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thi ếu s ự chuẩn b ị để ứng phó hi ệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng. - Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất l ượng, mạng l ưới t ổ ch ức tiêu th ụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng th ấp h ơn so v ới các n ước trong khu vực và trên thế giới. - Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp ph ải s ự c ạnh tranh c ủa các n ước 5
- trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát tri ển các mặt hàng m ới đang g ặp khó khăn v ề v ốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ. - Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với m ức tăng đ ầu t ư, c ơ c ấu kinh t ế chuy ển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh c ủa ngành, s ản ph ẩm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong c ơ c ấu GDP, hệ th ống d ịch v ụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. C ơ c ấu lao đ ộng chuy ển d ịch rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nh ất là trong khu v ực nông nghi ệp, nông thôn. - Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều ti ến b ộ, v ốn trong n ước chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn v ốn đ ầu t ư tr ực ti ếp n ước ngoài (FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu t ư trực tiếp nước ngoài thu hút m ới ch ỉ b ằng 60% so với cùng kỳ năm 2001. - Hoạt động tài chính - tiền t ệ tuy có tiến bộ nh ưng ti ềm ẩn nhi ều r ủi ro, lãi su ất ti ền đ ồng quá cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh l ời của nền kinh t ế, làm tăng chi phí đ ầu vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản ph ẩm. Vốn huy đ ộng c ủa h ệ thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một t ỷ l ệ khá để cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về l ợi nhuận và làm gi ảm kh ả năng đ ề phòng rủi ro. Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nh ập kinh t ế quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến l ược t ổng th ể h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế c ủa quốc gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chi ến l ược của t ừng b ộ, ngành, đ ịa ph ương và doanh nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát tri ển các thành ph ần kinh t ế đ ưa vào cu ộc sống chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thi ếu đ ồng b ộ, nh ất quán, khó thực hiện. Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong đi ều ki ện h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà c ốt lõi c ủa nó là h ệ th ống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách c ạnh tranh c ần theo h ướng: gi ảm d ần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, ch ống h ạn chế c ạnh tranh, gi ảm thi ểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, h ạn chế kiểm soát độc quyền. Theo h ướng này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát đ ộc quy ền trong kinh doanh. Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như: - Cải thiện nhanh môi trường đầu t ư để thu hút đ ầu t ư trong nước, nh ất là đ ầu t ư n ước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quy ền c ủa Nhà n ước, đ ặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (đi ện, viễn thông, dịch v ụ c ảng bi ển, phí c ầu đ ường); giải quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc gi ải phóng m ặt b ằng, xây d ựng c ơ s ở h ạ tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn tr ọng và đ ảm b ảo quy ền l ợi c ủa nhà đầu tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp d ụng chung cho c ả đ ầu t ư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy định về điều ki ện đầu t ư và ưu đãi phù h ợp v ới t ừng đ ối tượng. - Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu c ầu c ủa quá trình h ội nh ập m ở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nh ất cho các thành ph ần kinh t ế; th ực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hi ệp định song ph ương và đa ph ương mà Vi ệt Nam đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai th ời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành ph ần kinh t ế ch ủ đ ộng trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc t ế. - Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nh ất là đ ối v ới các đ ối tác l ớn nh ư: EU, M ỹ, 6
- Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghi ệm quản lý tiên ti ến. - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều ch ỉnh c ơ c ấu đ ầu t ư nh ằm phát huy l ợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế; kh ắc ph ục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, d ứt khoát không đ ầu t ư vào nh ững công trình d ự án kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đ ầu t ư nh ư BOT, BT, phát hành trái phiếu công trình… - Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược t ổng thể h ội nh ập kinh t ế qu ốc t ế; tích cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong n ước đ ể n ước ta có th ể gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghi ệp nhà n ước, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đ ẩy m ạnh c ải cách th ể ch ế, tăng c ường hi ệu l ực của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách ti ền l ương, nâng cao trách nhi ệm, trình độ của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình h ội nh ập kinh t ế quốc tế đang đặt ra hiện nay. PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên Lịch sử của toàn cầu hoá Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá). Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị học, toàn cầu hoá chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước dựa trên những cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru nhất. Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị trường tự do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Điều này dẫn tới sự chuyên môn hoá không ngừng của các nước trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng như tạo ra áp lực chấm dứt hàng rào thuế quan bảo hộ và các rào cản khác. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm tiêu chuẩn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ 19 thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn cầu hoá". Cùng với thời kỳ bành trướng của đế quốc Anh (Pax Britannica) và việc trao đổi hàng hoá bằng các loại tiền tệ có sử dụng tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn công nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và luật cân bằng chung của Jean-Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi thương mại một cách hiệu quả, và bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng sẽ tự động được điều chỉnh. Việc thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công nghiệp hoá chính khoảng giữa năm 1850 và năm 1880, mặc dù chính xác khi nào các nước này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh cãi. 7
- "Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Ý nghĩa của toàn cầu hóa Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20. "Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là: Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến bộ • trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu, Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các • thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế. Xem bài nói riêng về toàn cầu hoá kinh tế Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử • dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau. Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia • đang phát triển. Khái niệm này cũng chia sẻ một số tính chất với khái niệm quốc tế hoá và có thể dùng thay cho nhau được, mặc dù có một số người thích dùng "toàn cầu hoá" để nhấn mạnh sự mờ nhạt của ý niệm nhà nước hay biên giới quốc gia. 8
- Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội.... Rõ ràng cần phân biệt toàn cầu hoá kinh tế với khái niệm rộng hơn là toàn cầu hoá nói chung. Khái niệm chủ nghĩa toàn cầu, nếu chỉ được sử dụng trong phạm vi kinh tế, có thể được xem là trái ngược hẳn với khái niệm chủ nghỉa kinh tế quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ. Nó có liên quan đến khái niệm chủ nghĩa tư bản không can thiệp và chủ nghĩa tân tự do. Các dấu hiệu của toàn cầu hoá Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh sự tồn tại của một số xu hướng. Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế • giới Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài • Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ • như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá • phẩm như phim ảnh hay sách báo. Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn • đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo. Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng • hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá. Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp • ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế • Gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép • Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu • Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế • Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia • Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý • các giao dịch quốc tế Gia tăng số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. luật bản quyền • Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm: 9
- Thúc đẩy thương mại tự do • o Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có o Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản o Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ • o Hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia (nói chung là thắt chặt hơn) o Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước (v.d. bằng sáng chế do Việt Nam cấp có thể được Mỹ thừa nhận) Có khá nhiều thảo luận mang tính học thuật nghiêm túc quanh việc xem toàn cầu hoá là một hiện tượng có thật hay chỉ là một sự đồn đại. Mặc dù thuật ngữ này đã trở nên phổ biến, nhiều học giả lý luận rằng các tính chất của hiện tượng này đã từng được thấy ở một thời điểm trước đó trong lịch sử. Tuy vậy, nhiều người cho rằng những dấu hiệu làm người ta tin là đang có tiến trình toàn cầu hoá, bao gồm việc gia tăng thương mại quốc tế và vai trò ngày càng lớn của các tập đoàn gia quốc gia, thực sự không rõ ràng như ta tưởng. Do vậy, nhiều học giả thích dùng thuật ngữ "quốc tế hoá" hơn là "toàn cầu hoá". Để cho đơn giản, vai trò của nhà nước và tầm quan trọng của các quốc gia lớn hơn nhiều trong khái niệm quốc tế hoá, trong khi toàn cầu hoá lại loại trừ vai trò các nhà nước quốc gia theo bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, các học giả này xem biên giới quốc gia, trong một nghĩa rộng, còn lâu mới mất đi, do vậy tiến trình toàn cầu hoá căn bản này vẫn chưa thể xảy ra, và có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra vì dựa trên lịch sử thế giới người ta thấy rằng quốc tế hoá sẽ không bao giờ biến thành toàn cầu hoá — chẳng hạn như trường hợp Liên hiệp châu Âu và NAFTA hiện tại. Tác động của toàn cầu hoá Khía cạnh kinh tế Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh chính trị phía dưới), quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế. Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều và dễ dàng hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này đã góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước. Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ 10
- Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra: Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và • văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá; Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy • thương mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế, thông tin tạo ra chính kiến và vì thế một vài tập đoàn truyền thông lớn, chủ yếu là phương Tây có thể tạo ra (và làm giả) thông tin đưa đến dân chúng. Sự độc quyền trong lĩnh vực văn hoá và thông tin này được xem như một sự " Mỹ hoá " thế giới. Mỗi người nhìn toàn cầu hoá theo một kiểu khác nhau. Có hai xu hướng chính: nỗ lực che dấu những khác biệt về bản sắc, thay vì để lộ ra. • cảm giác toàn cầu hoá sẽ mang lại sự tự do cá nhân, ngay cả khi điều đó đi • cùng với một sự đồng nhất hoá toàn cầu một cách tương đối. Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng nhất hoá việc dùng "tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của global English), một thứ tiếng Anh nghèo nàn do những người không phải là người Anglo-Saxon dùng khi họ ở nước ngoài. (Lưu ý là "tiếng Anh toàn cầu" không phải là tiếng Anh cơ bản như trong phiên bản Wikipedia bằng tiếng Anh đơn giản). Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở cấp độ thế giới: thay vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối hợp để có thể dẫn đến việc chọn một thứ tiếng có quy luật rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng, phần lớn các nước đều chọn dạy tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nước khác! Do sự bắt chước một cách máy móc và sự trơ ì chính trị, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ của thế giới và được gọi là "tiếng Anh toàn cầu" ("globish") vì các yếu tố cơ bản của tiếng Anh Oxford đã bị biến dạng về phát âm, ngữ pháp, từ vựng, v.v.). Đối với một số những người nói tiếng Anh, "tiếng Anh toàn cầu" là kết quả của chủ nghĩa đế quốc về ngôn ngữ của nước họ. Vấn đề là liệu có thể dễ dàng cho rằng các nỗ lực hướng đến việc dạy tiếng Anh thay vì giảng dạy các thứ tiếng khác sẽ làm giảm chất lượng của các ngôn ngữ khác hay không (như tiếng Pháp lai Anh - franglais). ===Khía cạnh chính trị===ghio Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay. 11
- Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn "quốc tế". Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới. Phản ứng xung quanh toàn cầu hoá Chống toàn cầu hoá Bài chính: "Chống toàn cầu hoá". Các nhà hoạt động xã hội vì lợi ích cộng đồng coi một số khía cạnh của toàn cầu hoá là nguy hại. Phong trào này không có tên gọi thống nhất. "Chống toàn cầu hoá" là thuật ngữ mà báo chí hay dùng nhất. Ngay chính các nhà hoạt động xã hội như Noam Chomsky đã cho rằng tên này không có ý nghĩa gì cả vì mục tiêu của phong trào là toàn cầu hoá sự công bằng. Trên thực tế, có một tên phổ biến là "phong trào đòi công bằng toàn cầu". Nhiều nhà hoạt động xã hội cũng tập hợp dưới khẩu hiệu "có thể có một thế giới khác", từ đó ra đời những tên gọi như altermondisme hay altermondialisation, đến từ tiếng Pháp. Có rất nhiều kiểu "chống toàn cầu hoá" khác nhau. Nói chung, những phê phán cho rằng kết quả của toàn cầu hoá hiện không phải là những gì đã được hình dung khi bắt đầu quá trình tăng cường thương mại tự do, cũng như nhiều tổ chức tham gia trong hệ thống toàn cầu hoá đã không xét đến lợi ích cho các nước nghèo cũng như giới lao động. Các lý luận kinh tế của các nhà kinh tế theo học thuyết thương mại công bằng thì cho rằng thương mại tự do không giới hạn chỉ đem lại lợi ích cho những ai có tỷ lệ vốn lớn (v.d. người giàu) mà không hề đếm xỉa đến người nghèo. Nhiều nhà hoạt động xã hội "chống toàn cầu hoá" coi toàn cầu hoá là việc thúc đẩy chương trình nghị sự của những người theo chủ nghĩa tập đoàn, một chương trình này nhằm mục tiêu giới hạn các quyền tự do cá nhân dưới danh nghĩa lợi nhuận. Họ cũng cho rằng sự tự chủ và sức mạnh ngày càng tăng của các tập đoàn dần dần hình thành nên các chính sách chính trị của nhà nước quốc gia. Một số nhóm "chống toàn cầu hoá" lý luận rằng toàn cầu hoá chỉ đơn thuần là hình thức đế quốc, là một trong những lý do căn bản dẫn đến chiến tranh Irac và là cơ hội kiếm tiền của Mỹ hơn là các nước đang phát triển. Một số khác cho rằng toàn cầu hoá áp đặt một hình thức kinh tế dựa trên tín dụng, kết quả là dẫn tới các nợ nần và khủng hoảng nợ nần chồng chất không tránh khỏi. 12
- Sự phản đối chủ yếu nhắm vào sự toàn cầu hoá không kiểm soát (như trong các chủ nghĩa tân tự do và tư bản tự do tuyệt đối) do các chính phủ hay các tổ chức gần như chính phủ (như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) chỉ đạo và không chịu trách nhiệm đối với quần chúng mà họ lãnh đạo mà thay vào đó gần như chỉ đáp ứng lợi ích của các tập đoàn. Rất nhiều các cuộc hội thảo giữa các vị bộ trưởng tài chính và thương mại các nước trong trục toàn cầu hoá đã gặp phải những phản kháng rầm rộ, đôi khi cũng có bạo lực từ các đối tượng chống đối "chủ nghĩa toàn cầu tập đoàn". Phong trào này quy tụ nhiều thành phần, bao gồm các nhóm tín ngưỡng, các đảng phái tự do dân tộc, các đảng phái cánh tả, các nhà hoạt động vì môi trường, các hiệp hội nông dân, các nhóm chống phân biệt chủng tộc, các nhà chủ nghĩa xã hội tự do và các thành phần khác. Đa số theo chủ nghĩa cải cách (hay ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng mang tính nhân bản hơn) và một thiểu số tương đối thuộc thành phần cách mạng (ủng hộ một hệ thống nhân bản hơn chủ nghĩa tư bản). Nhiều người đã chê trách sự thiếu thống nhất và định hướng của phong trào, tuy nhiên một số khác như Noam Chomsky thì cho rằng sự thiếu tập trung hoá kiểu này trên thực tế có thể lại là một sức mạnh. Những người phản đối bằng phong trào công bằng toàn cầu đã tổ chức các cuộc gặp mặt quốc tế lớn ở những thành phố nhỏ thay vì những trung tâm đô thị lớn như trước đây. Ủng hộ toàn cầu hoá (chủ nghĩa toàn cầu) Những người ủng hộ toàn cầu hoá dân chủ có thể được gọi là những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu. Họ cho rằng giai đoạn đầu của toàn cầu hoá là hướng thị trường, và sẽ được kết thúc bởi giai đoạn xây dựng các thiết chế chính trị toàn cầu đại diện cho ý chí của toàn thể công dân thế giới. Sự khác biệt giữa họ với những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu khác là họ không định nghĩa trước bất kỳ hệ tư tưởng nào để định hướng ý chí này, mà để cho các công dân được tự do chọn lựa thông qua một tiến trình dân chủ. Những người ủng hộ thương mại tự do dùng các học thuyết kinh tế như lợi thế so sánh để chứng minh thương mại tự do sẽ dẫn đến một sự phân phối tài nguyên hiệu quả hơn, với tất cả những ai tham gia vào quá trình tìm kiếm lợi ích từ thương mại. Thương mại tự do sẽ cho những nhà sản xuất tại các nước một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn. Đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các nguồn tư bản, từ đó đem lại lợi ích cho người lao động trên toàn thế giới; cũng như cạnh tranh giữa nguồn nhân công trên toàn thế giới sẽ mang lại lợi ích cho các nhà tư bản và trên hết là cho người tiêu thụ. Nói chung, họ cho rằng điều này sẽ dẫn đến giá thành thấp hơn, nhiều việc làm hơn và phân phối tài nguyên tốt hơn. Toàn cầu hoá đối với những người ủng hộ dường như là một yếu tố dẫn đến phát triển kinh tế cho số đông. Chính từ điều này mà họ chỉ nhìn thấy trong sự truyền thông hoá khái niệm "toàn cầu hoá" một cố gắng biện minh đầy cảm tính và không duy lý của chủ nghĩa bảo hộ kinh tế. 13
- Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do cá nhân và những người ủng hộ chủ nghĩ tư bản tự do tuyệt đối cho rằng mức độ tự do cao về kinh tế và chính trị dưới hình thức dân chủ và chủ nghĩa tư bản ở phần thế giới phát triển sẽ làm ra của cải vật chất ở mức cao hơn. Do vậy họ coi toàn cầu hoá là hình thức giúp phổ biến nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản. Họ phê phán phong trào chống toàn cầu hoá chỉ sử dụng những bằng chứng vụn vặt để biện minh cho quan điểm của mình, còn họ thì sử dụng những thống kê ở quy mô toàn cầu. Một trong những dẫn chứng này là tỉ lệ phần trăm dân chúng ở các nước đang phát triển sống dưới mức 1 đôla Mỹ (điều chỉnh theo lạm phát) một ngày đã giảm một nửa chỉ trong hai mươi năm [1]. Tuổi thọ gần như tăng gấp đôi ở các nước đang phát triển kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai và bắt đầu thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển nơi ít có sự cải thiện hơn. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã giảm ở các khu vực đang phát triển trên thế giới [2]. Bất bình đẳng trong thu nhập trên toàn thế giới nói chung đang giảm dần [3]. Nhiều người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng phản đối Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế với lý luận rằng những tổ chức này đều tham ô, quan liêu do các nhà nước kiểm soát và cung cấp tài chính, chứ không phải các tập đoàn kinh doanh. Nhiều khoản cho vay chỉ đến tay những lãnh đạo độc tài không thực hiện bất kỳ một cải cách nào, rốt cuộc chỉ dân thường là những người phải trả những khoản nợ này về sau. Một số nhóm đặc biệt như các liên đoàn thương mại của thế giới phương Tây cũng phản kháng sự toàn cầu hoá vì mâu thuẫn quyền lợi. Tuy nhiên, thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt qua khỏi quy mô biên giới quốc gia, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, và như vậy phong trào được biết đến trước đây với tên gọi phong trào chống toàn cầu hoá từ nay đã biến thành một phong trào chung của các phong trào vì toàn cầu hoá; họ tìm kiếm, thông qua thử nghiệm, các hình thức tổ chức xã hội vượt qua khỏi khuôn khổ nhà nước quốc gia và nền dân chủ đại diện. Do đó, cho dù các lý lẽ của phe chống toàn cầu hoá lúc ban đầu có thể bị bác bỏ thông qua các thực tế về quốc tế hoá như ở trên, song sự xuất hiện của một phong trào toàn cầu là không thể chối cãi và do đó chúng ta có thể nói về một tiến trình thực sự hướng tới một xã hội nhân bản ở quy mô toàn cầu của tất cả các xã hội 4. TBKTSG) - Hội nhập kinh tế thế giới đã giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm và nâng thu nhập trong những năm gần đây. Đến nay, Việt Nam là một trong những quốc gia hưởng lợi từ toàn c ầu hóa. Tuy nhiên, toàn cầu hóa có nhiều hệ quả khác ngoài thương mại và đầu tư. Trong nhiều trường hợp thì những hệ quả này nằm ngoài chọn lựa của một quốc gia. Ví dụ, sự ấm lên của trái đất giờ đây đã được nhìn nhận là một mối nguy trước mắt và lớn hơn so với vài năm trước. Những thay đổi lớn về điều kiện khí hậu, bệnh tật và mực nước biển có thể mang lại nhiều thách thức nghiêm trọng 14
- trong một hoặc hai thập niên sắp tới. Việt Nam thực tế là một trong những quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng nhất trên thế giới, do khu vực ĐBSCL và một số khu vực khác hiện không cao hơn mực nước biển bao nhiêu. Chỉ cần mực nước biển dâng cao khoảng nửa mét thì sẽ có nhiều vùng đất trồng lúa bị ngập mặn và gây lụt trên diện rộng. ĐBSCL cũng bị những hoạt động phát triển ở thượng nguồn sông Mêkông đe dọa, một số con đập có thể sẽ làm thay đổi dòng chảy và lượng phù sa, khiến hoạt động canh tác nông nghiệp trở nên khó khăn hơn. Việt Nam không thể làm gì để thay đổi những xu hướng này trừ việc nghiên cứu và chuẩn bị chuyển đổi phương pháp canh tác nông nghiệp và có lẽ nên chuyển những nông hộ hiện nay sang các hoạt động phi nông nghiệp ở những vùng ít bị đe dọa hơn. (Việc xây dựng những con đê ngăn biển có thể tác dụng với các thành phố, nhưng sẽ không hiệu quả đối với những vùng đất nông nghiệp rộng lớn). Sự chuyển dịch lao động này dù sao cũng xảy ra, nhưng có lẽ cần chủ động đẩy anh nếu tốc độ thay đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn nh so với dự báo hiện nay. Một cách để đối phó khía cạnh hội nhập thế giới bất đắc dĩ này là cân nhắc tác động tiềm tàng từ sự thay đổi của khí hậu lên Việt Nam và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu để có cách thức giảm nhẹ những tác động này. Một thí dụ khác về tác động của toàn cầu hóa là giá lương thực. Khi ngày càng có nhiều ngũ cốc và những loại cây trồng được dùng để chế biến cồn và dầu sinh học, giá lương thực sẽ gia tăng. Năm 2007, giá gạo theo đô la đã tăng 30%. Nhà xuất khẩu lương thực có thể có lợi nhưng chi phí đối với người tiêu dùng trong nước sẽ tăng. Trung Quốc gần đây cho biết sẽ áp đặt thuế xuất khẩu lên ngũ cốc để giữ giá lương thực thành thị thấp hơn, dù rằng sẽ gây thiệt hại cho nông dân trồng ngũ cốc. Mặc dù Việt Nam sẽ có lợi từ xu hướng này do xuất khẩu lương thực, áp lực tăng giá lương thực sẽ đưa đến những hành động tương tự. 15
- Ví dụ thứ ba về những kết nối toàn cầu không Kiều hối sẽ giúp cải thiện mong muốn là bệnh tật. SARS đã là một cảnh tình hình tiêu dùng và giáo dục báo sớm về những gì có thể xảy ra khi xuất hiện cơ bản của người thân, hoặc một loại bệnh mới. Trong trường hợp SARS, ngược lại cũng có thể là động thiệt hại đã được hạn chế trong vài tháng và mọi cơ khiến những người thân chuyện sớm trở về bình thường với tương đối ít này không muốn làm việc. ca tử vong. Tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ xuất hiện các căn bệnh khác. Các phương tiện truyền thông đề cập nhiều đến một dòng virus cúm gia cầm có nguy cơ gây đại dịch. Nếu loại H5N1 hiện nay hay một số loại virus mới khác học được cách lây lan hiệu quả từ người sang người, thì chúng có thể gây ra hàng trăm triệu cái chết, bằng hoặc qua mặt đại dịch cúm năm 1918 với 50 triệu người chết trong khi dân số thế giới chỉ bằng một phần tư hiện nay. Tổn thất kinh tế từ thảm họa trên có thể tính bằng ngàn tỉ đô la. Phản ứng của Việt Nam đối với virus H5N1 không gây đại dịch là khá tốt, nhưng thế giới này khá nhỏ bé và nếu Indonesia, Campuchia, Trung Quốc, Bangladesh hoặc Ai Cập không chế ngự được virus này, thì có khả năng nó sẽ tiến hóa ở đó và lây lan ra khắp thế giới. Để đối phó với mối đe dọa này đòi hỏi phải có một hệ thống y tế công mạnh và tổ chức cộng đồng chặt chẽ, kể cả dự trữ đầy đủ lương thực và thuốc men. Đây sẽ là một thách thức cho bất kỳ xã hội nào, dù giàu hay nghèo, trừ khi phát triển được loại vắc xin hay thuốc chữa trị hiệu quả, mà có thể phải mất vài năm nữa. Cũng cần có công nghệ tương tự để đối phó với chủ nghĩa khủng bố sinh học, là mối đe dọa đáng ngại trong thập niên sắp tới. Một lĩnh vực khác mà toàn cầu hóa khó kiểm soát là di trú. Việt Nam quen với suy nghĩ cho rằng mình là nơi xuất phát, và có nhiều người Việt Nam muốn làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều người ở Campuchia và Lào có thể muốn làm việc ở Việt Nam. Việc sử dụng lao động Trung Quốc ở một số dự án của Việt Nam là một bằng chứng. Mặc dù nhiều nước ngăn cấm việc di cư, nhưng thực tế rất khó để đóng cửa biên giới hoàn toàn khi người lao động muốn làm việc và doanh nghiệp muốn thuê lao động. Luồng di dân to lớn có thể có tác động quan trọng, tích cực lẫn tiêu cực, lên số lượng lao động nội địa tăng thêm và cả xã hội. Liệu Việt Nam sẽ ủng hộ những quy định cởi mở hơn để có nhiều người ra nước ngoài làm việc hơn, hay muốn có nhiều biện pháp kiểm soát trong nước để không cho lao động bên ngoài vào Việt Nam (có thể) làm việc, đổi lại sẽ có ít cơ hội hơn cho lao động Việt Nam ở nước ngoài? Hay lao động vẫn cứ lưu chuyển bất kể luật nói gì? Một vấn đề khác liên quan nhưng không hoàn toàn giống là tình trạng “chảy máu chất xám”. Nhiều quốc gia thấy nhân lực trẻ có trình độ tốt nhất của mình tìm cách ra nước ngoài làm việc. Thông thường những lao động có trình độ này luôn được chào đón ở nước khác, nên khó có thể cấm đoán buộc họ phải ở lại trong nước. Nhưng khi đã không có những chính sách ràng buộc sự đi lại này, thì 16
- KHÔNG THỂ không hội nhập với thế giới và không gặp phải vấn đề này. Vấn đề lớn đến đâu còn tùy vào nhiều biến số. Một là tỷ lệ lao động có trình độ muốn làm việc ở nước ngoài. Ở một số hòn đảo vùng Caribe, hơn ba phần tư sinh viên đi làm ở nơi khác sau khi tốt nghiệp. Ở những nước lớn hơn có thể chỉ là vài phần trăm. Tổn thất tương đối càng nhỏ, thì tác động của xu hướng di dân càng ít. Hai là ở một số nước, sau một thời gian lưu trú ở nước ngoài, dân di c ư thường hồi hương mang theo họ những mối quan hệ, công nghệ và kỹ năng quý giá. Điều này đã xảy ra ở Đài Loan và Hàn Quốc, và dường như đang diễn ra ở Trung Quốc và Ấn Độ. Nếu những người di cư tích lũy được những kỹ năng quan trọng và khả năng tiếp cận vốn và thị trường, sau đó hồi hương, thì sẽ rất tốt cho quê nhà của họ. Vấn đề thứ ba là tình trạng di cư của lao động ngành y tế, một dạng lao động đặc biệt khan hiếm. Trong khi một số nơi quản lý tốt vấn đề này, cụ thể là Philippines nơi đào tạo số lượng y tá nhiều hơn cả yêu cầu trong nước, thì nhiều nước khác lại không có năng lực sản xuất dôi dư loại kỹ năng cần thiết này. Một cách giải quyết là đào tạo nhân viên y tế theo hướng chuyên biệt theo nhu cầu cụ thể của đ ịa phương, thay vì cứ lặp lại cách đào tạo cũ, vốn chỉ để thỏa mãn nhu cầu của các n ước giàu mà thôi. Tóm lại, tình trạng chảy máu chất xám có thể vừa xấu vừa tốt, tùy vào việc nó được quản lý như thế nào, quy mô và thành phần của nó ra sao. Còn một vấn đề nữa đó là kiều hối. Kiều hối là tiền của người lao động ở nước ngoài gửi về quê nhà. Các ước tính mới đây cho thấy lượng kiều hối toàn cầu là khoảng 300 tỉ đô la, hơn cả lượng FDI đổ vào các nước đang phát triển và hơn hẳn tiền viện trợ. Theo một số ước tính, lượng kiều hối về Việt Nam là 10% GDP. Có thể xem đây là suất sinh lợi từ đầu tư cho giáo dục, khi lao động di cư “hoàn trả” cho xã h ội bằng cách gửi tiền về cho người thân. Và suất sinh lợi này thường khá hấp dẫn. Nếu những người bà con nhận tiền để mua hàng hóa chịu thuế nhập khẩu, thuế doanh thu hay giá trị gia tăng thì một phần kiều hối sẽ đi vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, những người ra đi thường là rất năng nổ và có khả năng cải thiện tổ chức, chứ không chỉ sản xuất ra hàng hóa. Tiền họ gửi về sẽ giúp cải thiện tình hình tiêu dùng và giáo dục cơ bản của người thân, hoặc ngược lại cũng có thể là động cơ khiến những người thân này không muốn làm việc. Phải chăng những nước tăng trưởng chậm có lượng kiều hối cao là vì thành quả ban đầu không tốt hay do chính lượng kiều hối này gây ra? Hay do cả hai? Phân tích kinh tế về hai lĩnh vực này sẽ cho câu trả lời. Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh nên vấn đề phân tích này không cấp bách, mà vấn đề là làm thế nào để sử dụng kiều hối một cách hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn hoặc đồng đều hơn. Vấn đề cuối cùng (trong bài này) của hội nhập toàn cầu có lẽ là văn hóa. Mỗi quốc gia đều có nền văn hóa độc đáo riêng của mình. Nhưng văn hóa là một thực tế sống động, nó cho và nhận với nền văn hóa khác và cũng tự làm mới mình. Quá trình này đã diễn ra nhiều thế kỷ nay. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận vô vàn thông 17
- tin trên mạng điện tử và sự dễ dàng đi lại ngày nay khiến cho các luồng văn hóa trở nên lớn hơn, nhanh hơn và dễ dàng hòa trộn hơn so với trước đây. Nhiều nước đưa ra những nguyên tắc về nội dung văn hóa địa phương để nó không bị lấn át. Xã hội Việt Nam là một xã hội tương đối mở và có nhiều Việt kiều. Những chuyến viếng thăm, điện thoại, e-mail, việc tiếp cận với phim ảnh, âm nhạc và ý tưởng qua mạng điện tử, tất cả sẽ khiến cho việc xác định đâu là “Việt Nam đích thực”, đâu là vay mượn trở nên khó khăn. Đây không phải là vấn đề gì to lớn đối với một nền văn hóa sống động, sẵn sàng thích nghi với những ý tưởng phù hợp và chối bỏ những ý tưởng lệch lạc t ừ bên ngoài. Tuy nhiên, nó có thể tạo ra một cảm giác bất an và thiếu tự tin về văn hóa. Có lẽ, chúng ta đang hướng đến một nền văn hóa toàn cầu hoặc chúng ta sẽ bấu víu lấy những biểu trưng và thực tiễn văn hóa của địa phương mình. Nếu văn hóa quốc gia là điều kiện tiên quyết cho bản sắc quốc gia, thì có thể cần phải cân đối giữa sự mở cửa chọn lọc với một nền văn hóa địa phương sống động. Điểm cốt lõi của bài viết này là nêu ra nhiều lĩnh vực mà ở đó hội nhập toàn cầu không còn là vấn đề chọn lựa, và chúng sẽ có những tác động quan trọng ở đâu trong nước. Cách giải quyết không phải là cố gắng thu mình né tránh mà là ý thức được những vấn đề tiềm tàng, để đưa ra những cách thức ứng phó phù hợp. Thông thường các vấn đề này khó tránh khỏi dù muốn hay không. Nhưng khi có thể tránh khỏi ở một chừng mực nào đó thì nên đối mặt và ứng phó với nó hơn là theo chủ nghĩa cô lập. Một đất nước với truyền thống hiếu học, khả năng khuyến khích những tranh luận thẳng thắn các vấn đề này, cũng như khả năng phối hợp những bài học từ tranh luận và kinh nghiệm thực tiễn vào chính sách sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề này tốt hơn một quốc gia không có các đặc tính trên. Sự ổn định trong hội nhập toàn cầu giống như sự thăng bằng của một người đang chạy xe đ ạp trên đường, chứ không phải đang sụp vào vũng lầy. DAVID DAPICE (Quý Tâm biên dịch) 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế: Chương 2 - ThS. Trương Khánh Vĩnh Xuyên
53 p | 358 | 80
-
Báo cáo: Định hướng chung về hội nhập kinh tế quốc tế
13 p | 275 | 72
-
Hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và Toàn cầu hóa kinh tế: Phần 1
143 p | 185 | 38
-
Chuyên đề: Hội nhập kinh tế quốc tế - PGS.TS Bùi Huy Nhượng
93 p | 178 | 25
-
Bài giảng Định hướng chung về hội nhập kinh tế quốc tế - Lương Hoàng Thái
13 p | 173 | 24
-
Hội nhập kinh tế quốc tế: Tất yếu khách quan của đổi mới
17 p | 151 | 22
-
Những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - Th.S Nguyễn Thị Phương Mai
6 p | 158 | 18
-
Bài giảng Hội nhập kinh tế quốc tế - Chương 1: Tổng quan về hội nhập kinh tế quốc tế
12 p | 87 | 12
-
Tư duy mới về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam trong bối cảnh mới
9 p | 134 | 10
-
Bài giảng Hội nhập kinh tế quốc tế - Chương 2: Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế
6 p | 63 | 10
-
Nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sau 30 năm đổi mới
14 p | 128 | 9
-
Bài giảng Hội nhập kinh tế quốc tế - Chương 6: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
17 p | 43 | 8
-
Bài giảng Hội nhập kinh tế quốc tế (International economic integration) - Chương 1: Tổng quan về hội nhập kinh tế quốc tế
14 p | 16 | 6
-
Bài giảng Hội nhập kinh tế quốc tế (International economic integration) - Chương 6: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
22 p | 23 | 5
-
Bài giảng Hội nhập kinh tế quốc tế (International economic integration) - Chương 2: Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế
15 p | 12 | 5
-
Phân tích xu hướng các nguồn thu thuế của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở so sánh với các nước trong khu vực
18 p | 6 | 2
-
25 năm hợp tác trong EWEC góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
9 p | 5 | 2
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế và việc vận dụng ở Việt Nam
8 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn