intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra

Chia sẻ: Sdgsxf Sdgsxf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

855
lượt xem
133
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp: Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động môi giới thương mại và pháp luật, thực trạng các quy định hoạt động Việt Nam,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Những quy định của luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------***------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM NĂM 2005 VỀ MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Sinh viên thực hiện : Ngô Thúy Hoài Lớp : Anh 15 - K45E - KTĐN Khóa : 45 Giáo viên hƣớng dẫn : GS.TS.NGND. Nguyễn Thị Mơ Hà Nội, tháng 5 năm 2010
  2. Mục lục Lời mở đầu............................................................................................................. 1 Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động môi giới thương mại và pháp luật về hoạt động môi giới thương mại ................................................................. 4 1.1 Hoạt động môi giới thương mại ................................................................... 4 1.1.1 Khái niệm về hoạt động môi giới thương mại ........................................... 4 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động MGTM .............................................................. 6 1.1.3 Phân biệt hoạt động MGTM và một số hoạt động trung gian thương mại khác .................................................................................................................. 9 1.1.4 Vai trò của hoạt động môi giới thương mại ............................................ 13 1.2 Pháp luật về hoạt động môi giới thương mại .............................................. 16 1.2.1 Sự cần thiết phải có pháp luật điểu chỉnh hoạt động môi giới thương mại ....................................................................................................................... 17 1.2.2 Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động môi giới thương mại ....................................................................................................................... 18 Chương 2. Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động môi giới thương mại, tình hình thực thi các quy định về hoạt động môi giới thương mại và những vấn đề đặt ra ................................................................................ 22 2.1 Thực trạng các quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động MGTM ............................................................................................ 22 2.1.1 Cách hiểu của Luật về hoạt động MGTM ............................................... 22 2.1.2 Các quy định cụ thể về hoạt động MGTM .............................................. 23 2.2 Thực trạng hoạt động môi giới thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua .................................................................................................................... 25 2.2.1 Nhận xét chung về những kết quả tích cực .............................................. 25 2.2.2 Tình hình hoạt động môi giới thương mại trong lĩnh vực chứng khoán ... 28 2.2.3 Tình hình hoạt động môi giới thương mại trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản ......................................................................................................... 38 2.3 Những vấn đề đặt ra ................................................................................... 52 2.3.1 Khung pháp luật cho hoạt động môi giới thương mại chưa đầy đủ ......... 52 2.3.2 Các thương nhân môi giới hoạt động chưa chuyên nghiệp ..................... 58 i
  3. Chương 3. Giải pháp và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động môi giới thương mại nhằm phát triển hoạt động môi giới thương mại trong thời gian tới ................................... 59 3.1 Dự báo sự gia tăng của hoạt động môi giới thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới ...................................................................................................... 59 3.1.1 Cơ sở dự báo .......................................................................................... 59 3.1.2 Số liệu dự báo ........................................................................................ 60 3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động môi giới thương mại ....................................................................................................... 63 3.2.1 Cần ban hành văn bản dưới luật về hoạt động môi giới thương mại ....... 63 3.2.2 Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động môi giới thương mại trong Luật thương mại Việt Nam năm 2005 .................................................... 63 3.2.3 Sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán năm 2006, Luật kinh doanh BĐS năm 2006 ................................................................................................................ 67 3.3 Các kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động môi giới thương mại phát triển ........................................................................................................................... 72 3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước.................................................................... 72 3.3.2 Kiến nghị đối với các chủ thể tiến hành hoạt động môi giới thương mại. 74 Kết luận ................................................................................................................ 78 Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................................. 80 Danh mục chữ cái viết tắt.................................................................................... 85 Danh mục bảng biểu ............................................................................................ 86 Phụ lục 1 .............................................................................................................. 87 Phụ lục 2 .............................................................................................................. 88 Phụ lục 3 .............................................................................................................. 89 Phụ lục 4 .............................................................................................................. 90 Phụ lục 5 .............................................................................................................. 91 ii
  4. Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Thị Mơ đã dành nhiều thời gian và công sức hướng dẫn tôi tỉ mỉ, tận tình trong suốt thời gian tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học Ngoại thương đã tận tâm dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại đây. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè, những người đã luôn ủng hộ và khích lệ, động viên tôi. Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2010 Sinh viên Ngô Thúy Hoài iii
  5. Lời mở đầu 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hoạt động thương mại ở nước ta ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Các giao dịch thương mại do đó cũng được mở rộng, trở nên phức tạp; một giao dịch thương mại có thể liên quan đến rất nhiều lĩnh vực. Khi đó, người mua, người bán muốn tiết kiệm thời gian và công sức tìm kiếm đối tác giao dịch thường nhờ đến người môi giới thương mại. Chính vì vậy, người môi giới thương mại có vai trò thúc đẩy hoạt động thương mại diễn ra nhanh chóng. Nhận thức được vai trò của người môi giới đối với sự phát triển của thương mại, Luật thương mại năm 2005 đã đưa hoạt động môi giới vào đối tượng điều chỉnh của Luật. Các luật chuyên ngành khác như Luật chứng khoán năm 2006, Luật kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật hàng hải năm 2005… cũng quy định về hoạt động môi giới trong các lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại hiện nay vẫn chưa có sự hiểu biết đầy đủ về những quy định của pháp luật đối với hoạt động môi giới thương mại. Thêm vào đó, từ khi Luật thương mại 2005 ra đời đến nay, hoạt động môi giới thương mại đã phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề mới cần có sự xem xét để điều chỉnh. Vậy Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định như thế nào về môi giới thương mại? Thực tiễn áp dụng Luật này trong bốn năm qua đã nảy sinh những vấn đề gì? Những vấn đề gì cần được sửa đổi, bổ sung để các quy định về môi giới thương mại sát với thực tiễn hơn, giúp hoạt động này ngày càng phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước? Xuất phát từ nhu cầu thiết yếu đó, tôi chọn vấn đề “Những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại. Thực tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra.” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 1
  6. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại, đồng thời phân tích việc áp dụng Luật trong thực tế và chỉ ra những bất cập trong các quy định đó cũng như những vấn đề phát sinh trong thực tiễn áp dụng; đề tài đề xuất giải pháp và kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung để các quy định về môi giới thương mại của Luật này hoàn thiện hơn, mang tính khả thi cao hơn, phù hợp với thực trạng hoạt động thương mại hiện nay ở Việt Nam. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã nêu trên, khóa luận này thực hiện các nhiệm vụ sau:  Làm rõ những vấn đề cơ bản về môi giới thương mại như khái niệm, đặc điểm, vai trò… của môi giới thương mại trong hoạt động thương mại;  Phân tích những quy định của Luật thương mại năm 2005 về môi giới thương mại, tập trung chỉ ra những bất cập trong các quy định này của Luật;  Chỉ ra thực trạng áp dụng những quy định về môi giới thương mại của Luật thương mại 2005 trong hoạt động môi giới chứng khoán và môi giới bất động sản;  Làm rõ những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi những quy định về môi giới thương mại của Luật thương mại năm 2005;  Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định về môi giới thương mại trong Luật thương mại năm 2005 và giải pháp gỡ bỏ những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của Luật thương mại Việt Nam 2005 về môi giới thương mại và những văn bản dưới luật có liên quan. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này cũng bao gồm các vấn đề về môi 2
  7. giới thương mại trong Luật thương mại năm 1997, Luật chứng khoán năm 2006 và Luật kinh doanh bất động sản năm 2006. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung, khóa luận nghiên cứu những quy định của Luật thương mại năm 2005 về môi giới thương mại. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu những quy định có liên quan đến môi giới thương mại của Luật thương mại 1997. Về mặt thời gian, khóa luận tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến hoạt động môi giới thương mại kể từ khi Luật thương mại năm 2005 ra đời và dự báo về sự phát triển của hoạt động môi giới thương mại trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa và phương pháp so sánh luật học. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung khóa luận bao gồm ba chương: Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động môi giới thương mại và pháp luật về môi giới thương mại. Chương 2. Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về môi giới thương mại, tình hình thực thi các quy định về hoạt động môi giới thương mại và những vấn đề đặt ra. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động môi giới thương mại nhằm phát triển hoạt động môi giới thương mại trong thời gian tới. 3
  8. Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động môi giới thương mại và pháp luật về hoạt động môi giới thương mại 1.1 Hoạt động môi giới thương mại 1.1.1 Khái niệm về hoạt động môi giới thương mại “Môi giới” là “chủ thể (một cá nhân, một nhóm, một tổ chức, một hãng…) làm trung gian cho hai hoặc nhiều chủ thể khác để những chủ thể này có thể tạo được quan hệ trong giao tiếp, trong hoạt động kinh doanh”1. Cũng có thể hiểu, “môi giới là người làm trung gian giúp hai bên tiếp xúc, trao đổi việc gì đó”2. Như vậy, có thể hiểu hoạt động môi giới là hoạt động kết nối người mua và người bán, giúp người mua và người bán gặp nhau để họ tiến hành các giao dịch nhằm thực hiện mục đích của mình. Từ đó suy ra, môi giới thương mại (MGTM) là hoạt động trung gian giúp các bên tiếp xúc với nhau nhằm thực hiện các hoạt động thương mại. Theo Điều 45, Luật thương mại Việt Nam năm 1997, hoạt động MGTM là một trong mười bốn hành vi thương mại (xem phụ lục 1). Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan (khoản 1, Điều 5, Luật thương mại Việt Nam năm 1997). Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội (khoản 2, Điều 5, Luật thương mại Việt Nam năm 1997). 1 Từ điển Tiếng Việt, truy cập ngày 08/03/2010, http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn . 2 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, tr1134, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 4
  9. Theo Điều 93 Luật thương mại Việt Nam năm 1997, người môi giới thương mại là thương nhân làm trung gian cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Có thể thấy, Luật thương mại Việt Nam năm 1997 hiểu hoạt động thương mại theo nghĩa rất hẹp. Do đó, phạm vi hoạt động của người MGTM cũng chỉ thuộc lĩnh vực mua bán hàng hóa và cung ứng các dịch vụ liên quan đến việc mua bán hàng hóa. Trong thời gian Luật thương mại năm 1997 có hiệu lực, nhiều hoạt động môi giới nằm ngoài sự điều chỉnh của Luật nhưng lại được quy định trong các văn bản luật khác như: Bộ luật hàng hải năm 1990 quy định về hoạt động môi giới hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định về hoạt động môi giới bảo hiểm… 3 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 cũng có cách hiểu tương tự Luật thương mại năm 1997 về khái niệm người môi giới thương mại. Điều 150 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định rõ rằng, “môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”. Điểm khác biệt là ở chỗ, trong Luật thương mại Việt Nam năm 2005, khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở rộng hơn rất nhiều so với Luật thương mại năm 1997. Theo khoản 1, Điều 3, Luật thương mại năm 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt 3 Nguyễn Thanh Thủy (2009), Những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động trung gian thương mại, thực tiễn áp dụng và những vấn đề phát sinh., tr8-9, Đại học Ngoại thương Hà Nội. 5
  10. động nhằm mục đích sinh lợi khác. Có thể thấy, theo Luật này, khái niệm “hoạt động thương mại” được hiểu rất rộng. Sự mở rộng của khái niệm “hoạt động thương mại” nói trên phù hợp với xu hướng phát triển của thương mại và cách hiểu của các nước trên thế giới về thuật ngữ này. Sự mở rộng như thế cũng tạo cơ sở pháp lý cho các nhà môi giới khi họ thực hiện những hoạt động MGTM. Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận, hoạt động MGTM là hoạt động thương mại, trong đó một người đóng vai trò là trung gian giúp người mua và người bán hoặc các chủ thể khác gặp nhau để họ tiến hành đàm phán, ký kết các hợp đồng thương mại. 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động MGTM Từ cách hiểu về hoạt động MGTM như trên, có thể rút ra các đặc điểm sau đây của hoạt động MGTM: Thứ nhất, hoạt động MGTM là hoạt động được thực hiện trong lĩnh vực thương mại. Đặc điểm này giúp phân biệt hoạt động môi giới trong những lĩnh vực không nhằm mục đích sinh lợi với hoạt động môi giới thương mại nhằm mục đích sinh lợi. Khái niệm “thương mại” đã được pháp luật của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Những điều ước quốc tế song phương và đa phương (ví dụ: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới) đều xác định hoạt động thương mại không chỉ bao gồm hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ mà còn bao gồm cả những hoạt động liên quan đến đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ4. Chính sự phong phú của các hoạt động thương mại đã dẫn đến tính đa dạng, phức tạp của hoạt động trung gian thương mại. 4 Tô Cẩn (2005), Khóa đào tạo về GATS/WTO tại thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, 31/03/2005, truy cập ngày 09/03/2010, http://www.nciec.gov.vn/index.nciec?265. 6
  11. Thứ hai, hoạt động MGTM là loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện theo phương thức giao dịch qua trung gian. Hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại thông thường có hai bên tham gia. Hoạt động môi giới thương mại có ba bên tham gia: bên thuê dịch vụ môi giới thương mại, bên môi giới thương mại và bên thứ ba. Bên môi giới có thể hỗ trợ cho bên thuê dịch vụ môi giới trong việc gặp gỡ, giao dịch với bên thứ ba. Mục đích của bên môi giới thương mại là nhận được thù lao mà bên thuê dịch vụ môi giới sẽ trả cho họ. Thứ ba, trong hoạt động MGTM, song song tồn tại hai mối quan hệ phát sinh trên cơ sở của hai hợp đồng. Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa bên thuê dịch vụ môi giới và bên môi giới thương mại, quan hệ này phát sinh trên cơ sở hợp đồng môi giới được ký giữa người thuê môi giới và người môi giới. Quan hệ thứ hai phát sinh giữa bên thuê dịch vụ môi giới và bên thứ ba, quan hệ này dựa trên cơ sở hợp đồng do hai bên ký kết với nhau (có thể là hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ). Thông thường, người môi giới đóng vai trò là người giới thiệu bên thuê dịch vụ môi giới với bên thứ ba và không tiến hành giao dịch với bên thứ ba. Thứ tư, bên môi giới thương mại phải có tư cách pháp lý độc lập với bên thuê dịch vụ môi giới và bên thứ ba. Trong hoạt động MGTM, bên môi giới thương mại đóng vai trò là một thương nhân độc lập với bên thuê dịch vụ môi giới và bên thứ ba. Bên môi giới cung ứng dịch vụ cho bên thuê dịch vụ môi giới để nhận tiền thù lao. Bên môi giới không phải là nhân viên làm công ăn lương của bên thuê dịch vụ môi giới. Bên môi giới có thể là cá nhân hoặc tổ chức5. 5 Nguyễn Thanh Thủy (2009), Những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động trung gian thương mại. Thực tiễn áp dụng và những vấn đề phát sinh., tr11-12, Đại học Ngoại thương Hà Nội. 7
  12. Thứ năm, quan hệ giữa bên môi giới và bên thuê dịch vụ môi giới là quan hệ hợp đồng từng lần, ngắn hạn. Người môi giới là cầu nối giữa các bên mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ. Mỗi một người môi giới chủ yếu hoạt động trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định và bên thuê dịch vụ môi giới cũng không cố định. Hơn nữa, cũng chỉ trong những trường hợp cụ thể, khi các bên không đủ thời gian hoặc kinh nghiệm..., họ mới nhờ đến vai trò của người môi giới. Ví dụ, khi muốn thuê tàu để chở hàng hóa xuất khẩu, người bán hàng cần nhờ đến người môi giới để tìm kiếm người chuyên chở; trong trường hợp khác, khi người bán hàng không có nhu cầu xuất khẩu hàng hóa mà chỉ tiêu thụ trong nội địa, người đó sẽ không cần đến dịch vụ môi giới thuê tàu. Tính chất của công việc môi giới (như đã phân tích ở trên) dẫn đến mối quan hệ dựa trên hợp đồng từng lần, ngắn hạn giữa bên thuê dịch vụ môi giới và bên môi giới. Thứ sáu, người môi giới không đại diện cho quyền lợi của một bên nào. Theo Điều 150, Luật thương mại Việt Nam năm 2005, người môi giới thương mại là “thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Như vậy, người môi giới là một trung gian đơn thuần, đứng giữa người mua và người bán, không đại diện cho quyền lợi của bên nào. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người môi giới được quy định trong hợp đồng đã ký kết giữa bên thuê dịch vụ môi giới và bên môi giới. Thứ bảy, người môi giới không đươc tham gia vào việc thực hiện hợp đồng giữa các bên trừ khi được bên thuê dịch vụ môi giới ủy quyền. Theo khoản 4, Điều 151, Luật thương mại Việt Nam năm 2005, bên môi giới thương mại “không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có ủy quyền của bên được môi giới”. Trong thực tế, do hoạt động thương mại ngày càng phức tạp, phong phú và đa dạng, người 8
  13. được môi giới muốn tiết kiệm thời gian và công sức thường ủy quyền cho người môi giới thực hiện một số công việc khác ngoài việc kết nối người mua và người bán. Ví dụ: người môi giới trong lĩnh vực hàng hải có thể tham gia vào việc giao nhận hàng, làm thủ tục hải quan; người môi giới trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa có thể thay mặt chủ hàng thu tiền hàng… 1.1.3 Phân biệt hoạt động MGTM và một số hoạt động trung gian thương mại khác Người trung gian thương mại và các hoạt động của họ là đối tượng quan tâm của pháp luật các nước trên thế giới. Điểm chung nhận thấy trong các văn bản pháp luật nước ngoài là khó có thể tìm thấy một định nghĩa chính thức về hoạt động trung gian thương mại, nhưng thay vào đó có thể tìm thấy khá nhiều quy định về từng loại người trung gian tham gia giúp đỡ để các bên xác lập, thực hiện các giao dịch thương mại6. Ví dụ, Điều 1.201 Luật thương mại Hoa Kỳ định nghĩa: “Đại diện là người đại lý, nhân viên công ty hoặc hiệp hội, người được ủy thác trông nom, người thực hiện, người quản lý tài sản, và bất kỳ người nào được trao quyền hành động hộ người khác”; Điều 2.210 của Luật trên có viết: “Một bên có thể thực hiện hay với bổn phận của mình thông qua một sự ủy thác, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc bên khác có những quyền ưu tiên trong việc giữ nguyên bản việc thực thi bổn phận, thực hiện các hành vi trong hợp đồng”. Quan niệm của các nước về hoạt động trung gian thương mại và các loại hình của hoạt động này có thể mang những khía cạnh khác nhau, nhưng cơ bản vẫn mang những điểm giống nhau. Có thể hiểu về người trung gian thương mại như sau: “Trung gian thương mại là thương nhân thực hiện các 6 Nguyễn Thị Vân Anh (2007), Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, tr18-19, Trường Đại học Luật Hà Nội. 9
  14. giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân khác được xác định theo sự ủy thác”7. Luật thương mại Việt Nam năm 1997 không có điều nào quy định khái niệm về hoạt động trung gian thương mại, chỉ có các quy định về những loại hình của hoạt động này. Ví dụ: Quy định về Đại diện cho thương nhân (Điều 83), Môi giới thương mại (Điều 93), Ủy thác mua bán hàng hóa (Điều 99), Đại lý mua bán hàng hóa (Điều 111). Khoản 11, Điều 3, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại”. Như vậy, theo Luật thương mại Việt Nam 2005, có bốn loại hình trung gian thương mại, đó là: Đại diện cho thương nhân, Môi giới thương mại, Ủy thác mua bán hàng hóa, Đại lý thương mại. Dưới góc độ kinh tế, bên đại diện, bên môi giới, bên nhận ủy thác, bên đại lý đều là người đảm nhiệm khâu phân phối hàng hóa từ người cung cấp đến người tiêu dùng; và các hoạt động trung gian thương mại nói trên đều là những phương thức phát triển kinh doanh. Dưới góc độ pháp lý, bốn loại hình trung gian thương mại được đề cập đến trong Luật thương mại năm 2005 có những điểm khác nhau. Cụ thể:  Hoạt động MGTM và hoạt động Đại diện cho thương nhân (xem Bảng 1) Theo Điều 141, Luật thương mại Việt Nam năm 2005: “Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được 7 Phạm Duy Liên (2005), Sử dụng trung gian thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tr6-7, Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội. 10
  15. hưởng thù lao về việc đại diện”. Hình thức này thường xuất hiện khi quy mô hoạt động kinh doanh chưa lớn, việc đặt văn phòng đại diện là không có lợi, hoặc bên giao đại diện gặp nhiều khó khăn về mặt nhân sự. Bảng 1: So sánh hoạt động MGTM và hoạt động Đại diện cho thương nhân Hoạt động MGTM Hoạt động Đại diện cho thương nhân Bên môi giới hỗ trợ cho bên được môi Bên đại diện thực hiện các hoạt động thương mại giới trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng cho bên giao đại diện. mua bán hàng hóa; bên môi giới đóng vai trò là cầu nối để người mua và người bán gặp gỡ nhau. Bên môi giới không tham gia vào việc Bên đại diện được ủy quyền để thay mặt bên thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, giao đại diện thực hiện giao dịch thương mại với bên trừ trường hợp có ủy quyền của bên được môi thứ ba. giới. Bên môi giới không đại diện cho quyền Bên đại diện làm việc theo sự chỉ dẫn của bên lợi của bên nào. giao đại diện, đại diện cho quyền lợi của bên giao đại diện. Bên môi giới thực hiện hoạt động môi Bên đại diện thực hiện các hoạt động thương mại giới với danh nghĩa của chính mình. với danh nghĩa của bên giao đại diện. Quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh Quyền hưởng thù lao đại diện phát sinh từ thời từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp điểm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đại diện. đồng với nhau (trừ trường hợp có thỏa thuận khác). Hợp đồng môi giới thương mại không Hợp đồng đại diện cho thương nhân phải được nhất thiết phải lập thành văn bản. lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật). Nguồn: Tác giả tổng hợp từ những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005.  Hoạt động MGTM và hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa (xem Bảng 2) Theo Điều 155, Luật thương mại Việt Nam năm 2005: “Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc 11
  16. mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao ủy thác”. Bảng 2: So sánh hoạt động MGTM và hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa Hoạt động MGTM Hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa Bên môi giới đóng vai trò là cầu nối để người Bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán mua và người bán gặp nhau, là trung gian trong việc hàng hóa cho bên ủy thác. đàm phán, giao kết hợp đồng; không tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên (trừ khi được ủy quyền). Bên môi giới hoạt động với danh nghĩa của Bên nhận ủy thác hoạt động với danh nghĩa chính mình, không đại diện cho quyền lợi của bên nào của chính mình, đại diện cho quyền lợi của bên ủy trong các bên được môi giới. thác. Bên môi giới có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về Bên nhận ủy thác có nghĩa vụ liên đới chịu tư cách pháp lý của bên được môi giới, không chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ. ủy thác, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra. Hợp đồng môi giới thương mại không nhất Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa phải thiết phải lập thành văn bản. được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005.  Hoạt động MGTM và hoạt động Đại lý thương mại (xem Bảng 3) Điều 166, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”. Như vậy, hoạt động đại lý thương mại không chỉ liên quan đến việc mua bán hàng hóa đơn thuần mà còn bao gồm cả việc cung ứng các dịch vụ kèm theo (ví dụ: dịch vụ trong lĩnh vực vận tải, bảo hiểm, giao nhận hàng hóa, hải quan, giám định…). 12
  17. Bảng 3: So sánh hoạt động MGTM và hoạt động Đại lý thương mại Hoạt động MGTM Hoạt động Đại lý thương mại Bên môi giới đóng vai trò là người trung gian Bên đại lý là người trung gian trong trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng của các bên được việc mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý môi giới. hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng. Bên môi giới hoạt động với danh nghĩa của chính Bên đại lý hoạt động với danh nghĩa mình, không đại diện cho quyền lợi của bên nào, không của chính mình; đứng tên trên hợp đồng, là tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên (trừ trường chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa, cung hợp được ủy quyền). ứng dịch vụ. Quan hệ giữa bên môi giới và bên được môi giới Quan hệ giữa bên đại lý và bên giao đại là quan hệ hợp đồng từng lần, ngắn hạn. lý là quan hệ hợp đồng dài hạn. Bên môi giới không có quyền quyết định giá bán Đại lý bao tiêu có quyền quyết định giá hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các bên được môi giới. bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Hợp đồng môi giới không nhất thiết phải lập thành Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản. văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005. 1.1.4 Vai trò của hoạt động môi giới thương mại Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, nhu cầu mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các chủ thể trong nền kinh tế ngày càng tăng, yêu cầu về chất lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng khắt khe. Số lượng thương nhân cung cấp các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường rất nhiều; người có nhu cầu mua các hàng hóa, dịch vụ lại không thể nắm bắt hết các thông tin về sản phẩm cũng như về doanh nghiệp cung cấp sản phẩm đó; người có nhu cầu bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ cũng gặp khó khăn trong việc tìm thấy người mua và thuyết phục họ tin tưởng vào chất lượng sản phẩm của mình. Chính vì vậy, các nhà môi giới thương mại xuất hiện với vai trò là người kết nối giúp 13
  18. người mua và người bán gặp gỡ nhau, thương lượng về các điều kiện giao dịch và cuối cùng đi tới giao kết hợp đồng. Vai trò quan trọng của hoạt động MGTM trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua những điểm sau: Thứ nhất, hoạt động môi giới thương mại mang lại nhiều lợi thế cho các thương nhân trong việc tìm kiếm đối tác giao dịch. Người môi giới thương mại thường hiểu biết, nắm vững tình hình thị trường, pháp luật và tập quán địa phương. Nhờ vào mối quan hệ rộng, người môi giới có cơ hội tìm hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động kinh doanh của thương nhân và sản phẩm mà thương nhân đó cung cấp. Do đó, người môi giới có thể giới thiệu cho người mua và người bán gặp nhau, đẩy nhanh quá trình tìm hiểu lẫn nhau giữa các đối tác, thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. So với việc tự “mò mẫm” tham gia vào thị trường, việc sử dụng người môi giới thương mại có thể giúp các bên thuê môi giới giảm bớt rủi ro, tiết kiệm thời gian và công sức tìm hiểu đối tác. Người môi giới thương mại là những tổ chức, cá nhân có các điều kiện nhất định về cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp… Chính vì vậy, họ có khả năng đẩy mạnh các giao dịch thương mại, thậm chí giúp mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với giá có lợi cho bên thuê môi giới. Sử dụng người môi giới thương mại (cũng như những người trung gian thương mại khác) là một hình thức của phân công lao động. Do sự chuyên môn hóa, người môi giới thương mại sẽ xây dựng mạng lưới quan hệ rộng, thu lượm các kiến thức, kinh nghiệm quý giá trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Các nhà sản xuất chuyên tâm vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà mình có thế mạnh, tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Như vậy, người môi giới thương mại giúp cho tất cả các hoạt động sản xuất, phân phối, tiêu dùng đều đạt hiệu quả. 14
  19. Thông qua việc sử dụng dịch vụ môi giới thương mại, các nhà kinh doanh có thể hình thành mạng lưới tiêu thụ hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên phạm vi rộng, tạo điều kiện cho để mở rộng, chiếm lĩnh thị trường. Trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế nói riêng, người môi giới thương mại đóng vai trò là cầu nối để các nhà xuất nhập khẩu ở các nước khác nhau có thể dễ dàng ký kết hợp đồng với nhau. Các nhà môi giới thương mại nắm được nhiều thông tin về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, có hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán kinh doanh của các nước. Nhờ đó, họ có thể trợ giúp bên mua và bên bán vượt qua các rào cản, tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng thương mại quốc tế. Thứ hai, hoạt động môi giới thương mại thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoạt động môi giới thương mại khiến cho lượng hàng hóa lưu thông tăng, giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong một nước và giữa các quốc gia phát triển mạnh. Ngày 21/9/1953, Liên minh quốc tế của những người đại lý và môi giới thương mại (International Union of Commercial Agents and Brokers – viết tắt là IUCAB) ra đời. Sự kiện này cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động môi giới thương mại nói riêng và trung gian thương mại nói chung trong thương mại quốc tế. Hiện nay, thành viên của IUCAB bao gồm 20 hiệp hội của các nhà đại lý thương mại và môi giới độc lập, đại diện cho gần 47.000 hãng đại lý thương mại với 1,2 triệu đại lý trải suốt Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ8. Nhờ vào hoạt động môi giới thương mại, quá trình lưu thông hàng hóa được đẩy mạnh. Người tiêu dùng có cơ hội tiếp cận nhiều chủng loại hàng hóa với mẫu mã, chất lượng đa dạng; có cơ hội so sánh sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau. Điều này dẫn đến yêu cầu đối với chất lượng sản 8 47,000 commercial agents in Europe, North and South America. Who are they?, truy cập ngày 16/03/2010, http://www.iucab.nl/nl/page3.asp (website của Liên minh quốc tế của những người đại lý và môi giới thương mại). 15
  20. phẩm, dịch vụ của khách hàng ngày càng cao, kích thích các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau nhằm đổi mới, phát triển sản phẩm, dịch vụ của mình để thu hút khách hàng. Thứ ba, hoạt động môi giới thương mại góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định an ninh, trật tự xã hội. Các loại hình hoạt động thương mại phát triển dẫn đến thị trường ngày càng phức tạp, có sự tham gia của nhiều chủ thể; hàng hóa được mua bán, cũng vô cùng phong phú, đa dạng. Thị trường lại chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, bao gồm điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán, pháp luật… Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn mới phát triển, thông tin và các yếu tố cấu thành thị trường đều chưa hoàn hảo. Vì những lí do trên, các thương nhân tham gia mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thường gặp khó khăn trong việc tìm hiểu các thông tin như nguồn gốc, chất lượng, tình trạng pháp lý… của hàng hóa, dịch vụ. Thông qua các cá nhân và tổ chức môi giới chuyên nghiệp, các chủ thể tham gia vào thị trường có cơ hội được cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin về hàng hóa, dịch vụ. Điều này giúp ổn định đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thứ tư, hoạt động môi giới thương mại góp phần đẩy mạnh sự đổi mới chính sách pháp luật của Nhà nước. Sự hình thành và phát triển của hoạt động môi giới thương mại hỗ trợ đắc lực cho nhu cầu giao dịch ngày càng đa dạng và phức tạp của các chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu về quản lý hoạt động môi giới. Thêm vào đó, thông qua các giao dịch môi giới trên thị trường, những điểm không phù hợp với thực tế của các quy định pháp luật sẽ bộc lộ. Đây là cơ sở để Nhà nước sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp thị trường hoạt động hiệu quả và ổn định. 1.2 Pháp luật về hoạt động môi giới thương mại 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2