intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa

Chia sẻ: Thom Nguyễn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:86

175
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đạo đức nói chung và những phẩm chất đạo đức nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lao động sản xuất của, khi cá nhân có những phẩm chất đạo đức trong lao động thì hoạt động lao động sẽ đạt hiệu quả cao, đời sống của người lao động ngày càng được đảm bảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa

  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Về lý luận Chuẩn mực đạo đức   ra đời và tồn tại một cách khách quan trong cuộc  sống, nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi của con người. Xét về  phương diện xã  hội cũng như phương diện hành vi của mỗi cá nhân, đạo đức là sự thể hiện quan  hệ   ứng xử và hành vi của con người, đem lại lợi ích cho con người, cho người   khác và xã hội. Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ  phức  tạp, đa dạng nó tồn tại đan xen nhau. Mặt khác do trình độ  nhận thức của mỗi  người cũng khác nhau, họ sống trên những lãnh thổ khác nhau nên về tập tục, lợi  ích, văn hóa, trình độ  phát triển cũng khác nhau. Để  duy trì sự  tồn tại và phát  triển, mỗi xã hội phải xây dựng những nguyên tắc chuẩn mực sống, trên cơ  sở  đó con người tự ý thức tự hành động. Đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan,   nhưng lại là vấn đề có tính lịch sử. Trong xã hội nào cũng cần hình thành những   nguyên tắc sống để con người tự nguyện tuân theo, nhằm bình ổn trật tự xã hội,  duy trì sự  tồn tại của xã hội và của mỗi cá nhân. Trong đời sống, có những  nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi thời đại, ở đâu có con người thì  ở  đó có quan hệ  đạo đức, đó là (sống thiện, yêu quý lao động, trung thực, sự  thủy chung, lòng nhân hậu, lòng biết ơn và sự tôn kính đối với tổ tiên, …) Đạo đức giúp cho cá nhân hoàn thiện nhân cách của mình. Những con  người có đức hạnh bao giờ cũng có những phẩm chất đạo đức cao quý. Những  giá trị đạo đức khi đã được hình thành ở cá nhân thì có tác động trở lại đối với xã   hội theo hướng tích cực. Trong xã hội, con người tồn tại với tư cách là những cá nhân. Sự đa dạng,   phong phú, nhiều vẻ của cái riêng đang đặt ra yêu cầu phải có những chuẩn mực   1
  2. đạo đức trong việc khẳng định những giá trị và hướng dẫn hành vi đạo đức cho   cá nhân trong những điều kiện cụ  thể. Phẩm chất đạo đức của cá nhân người  lao động được biểu hiện ở sự tổng hợp những tính cách đáp ứng yêu cầu chung   của xã hội. Phẩm chất đạo đức người lao động chứa đựng trong đó những nội   hàm của những nguyên tắc, quy tắc đạo đức xã hội, những phẩm chất đạo đức  của người lao động là cơ sở quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển nhân  cách của người lao động, giúp cho người lao động tích cực trong hoạt động lao   động tạo tạo điều kiện đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Mặt khác  nó còn là những tính cách mang ý nghĩa tâm lý, đạo đức của riêng mỗi người lao  động, nghiên cứu nắm vững các phẩm chất đạo đức này giúp cho các nhà quản   lý lao động, lãnh đạo các doanh nghiệp có cơ  sở  để  tổ  chức, quản lý và điều  hành người lao động một cách tốt nhất, đem lại hiệu quả  năng suất lao động  cao. 1.2. Về thực tiễn Đạo đức nói chung và những phẩm chất đạo đức nói riêng có vai trò hết  sức quan trọng trong hoạt động lao động sản xuất của, khi cá nhân có những   phẩm chất đạo đức trong lao động thì hoạt động lao động sẽ  đạt hiệu quả cao,   đời sống của người lao động ngày càng được đảm bảo. Bên cạnh đó  người lao  động là lực lượng chính, chiếm số lượng đông và trực tiếp tạo ra các sản phẩm.   Với vị  trí đó người lao động có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động   động lao động và đối với các doanh nghiệp. Để  tổ  chức và phát huy hiệu quả  khả năng của người lao động, ngoài việc đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu   lao động các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần thiết phải nắm vững và giáo dục có  hiệu quả nhất các phẩm chất đạo đức đối với người lao động 2
  3. Trong điều kiện nền kinh tế  thị  trường, cùng với quá  trình công nghiệp   hoá, hiện đại hoá đất nước và công cuộc hội nhập, phát triển. Việt Nam hiện là  thành viên của tổ chức thương mại thế giới do đó trên thị trường có sự sự cạnh  tranh gay gắt, vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ  đổi mới về  cơ  cấu tổ  chức, thiết bị công nghệ mới vào trong quá trình quản lý sản xuất mà các doanhh  nghiệp quan tâm đến số  lượng và chất lượng của đội ngũ lao động để  có đủ  điều kiện cạnh tranh đứng vững trên thương trường. Ngày nay, thông qua các   phong trào thi đua sản xuất của các tổ  chức công đoàn trong các doanh nghiệp  phát động thực hiện, những tiêu chí về  phẩm chất đạo đức của người lao động   đã được cụ  thể  hóa và được đông đảo người lao động trong các công đoàn học  tập. Người lao động Việt Nam dù là lao động chân tay hay lao động trí óc, ở bất   kỳ  các lĩnh vực hoạt động nào trong quốc doanh, ngoài quốc doanh…đề  năng  động, sáng tạo, mạnh dạn đổi mới, tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ,   thích  ứng dần với cơ chế  thị trường và hội nhập với cơ  chế  thị trường và kinh  tế  quốc tế, đóng góp vào sự  nghiệp đổi mới đất nước thì vai trò của người lao  động ngày càng trở  nên to lớn, nắm bắt được vấn đề  này công ty cổ  phần mía  đường Lam Sơn đã không ngừng đổi mới cơ  cấu tổ  chức, trang thiết bi, dây  truyền máy móc hiện đại vào trong sản xuất. Tuy nhiên để  hoạt động lao động   đạt   hiệu quả  cao hơn nữa phải xem xét đến chất lượng nguồn lao động tại  doanh nghiệp, nó được biểu hiện cụ  thể   ở  phẩm chất đạo đức của người lao  động, thông qua việc nghiên cứu nắm bắt kịp thời những phẩm chất đạo đức   của người lao động tại doanh nghiệp để  có những phương pháp tổ  chức lao   động khoa học, đúng người, đúng việc đem lại hiệu quả cao trong sản xuất. Mặt khác, Đảng ta luôn xác định: “Nguồn lao động dồi dào, con người  Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo   3
  4. dục, có khả năng nắm bắt khoa học và công nghệ”. Đội ngũ lao động có vai trò  quan trọng trong sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc phát  huy được các phẩm chất đạo đức người lao động trong doanh nghiêp, cùng với   việc cải tiến khoa học công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp ngày đứng vững  và phát triển trên thi trường nhưng các phẩm chất đạo đức của người lao động,   chưa được các doanh nghiệp đánh giá và phát huy một cách đầy đủ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì một số các phẩm chất  đạo đức của người lao động vẫn còn những điểm chưa tốt cần được khắc phục,   hiện nay công tác tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất đạo đức của người  lao  động vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Đồng thời do tác động từ mặt trái   của nền kinh tế thị trường, một số giá trị truyền thống, phẩm chất đạo đức của  người lao động có phần bị  mai một. Một bộ  phận người lao động có lối sống  thực dụng, thiếu trách nhiệm trong công việc, thiếu tác phong công nghiệp cần  thiết ảnh hưởng đến hiệu quả trong sản xuất. Xuất phát từ  những cơ  sở  lý luận và cơ  sở  thực tiễn trên, tôi lựa chon   “Thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ  phần   mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng các phẩm chất đạo đức và các  yếu tố  tác động đến  phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ  phần mía đường Lam  Sơn – Thanh Hóa, từ đó đề xuất một số biện pháp và kiến nghị  nhằm góp phần  nâng cao đạo đức của người lao động. 3.Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
  5. Nghiên cứu thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại  Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa. 3.2. Khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu 181 lao động tại Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn –  Thanh Hóa trong đó có: 91 lao động nam, 90 lao động nữ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về đạo đức và  phẩm chất đạo đức. 4.2. Thực trạng các phẩm chất đạo đức của người lao động tại Công ty cổ phần   mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa 4.3. Đề xuất một số biện pháp và kiến nghị  để góp phần  nâng cao đạo đức của   người lao động và hiệu quả lao động. 5. Phạm vi nghiên cứu Nhân cách con người  nói chung và người lao động nói riêng có những  phẩm chất đao đức khác nhau nhưng  ở  đề  tài này tôi chỉ  nghiên cứu sáu phẩm   chất đạo đức cơ  bản sau: Tính trung thực; tính nguyên tắc; tôn trọng danh dự;   lòng nhân ái; thái độ lao động và học tập không ngừng, giữ gìn vệ  sinh, bảo vệ  môi trường. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu, điều tra 181 người lao động tại Công ty  cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa. Đề  tài được tiến hành nghiên cứu từ  tháng 3 năm 2012 đến tháng 6 năm  2012 6.Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 6.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết 5
  6. Tiến hành nghiên cứu tài liệu có liên quan đến vấn đề  nghiên cứu sau đó  phân tích thành bộ  phận theo lịch sử thời gian để  có thể  hiểu vấn đề  một cách  toàn diện. 6.1.2. Phương pháp phân loại hệ thống hóa lý thuyết Sử dụng phương pháp này để sắp xếp các tài liệu khoa học, theo hệ thống lôgíc  chặt chẽ. 6.2.  Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 6.2.1. Phương pháp điều tra Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra là phương pháp chủ  đạo. Để  sử  dụng phương pháp này tôi xây dựng phiếu điều tra với một hệ  thống câu hỏi   đóng và mở. Sau đó thu thập và xử lý số liệu. 6.2.1. Phương pháp quan sát Chúng tiến hành quan sát người lao động khi họ  đang làm việc. Quan sát   mọi hành vi, thái độ, cử  chỉ, lời nói … của họ. Tiến hành quan sát ở nhiều thời  điểm khác nhau và ghi chép mọi diễn biến tâm lý và phẩm chất đạo đức của   người lao động để bổ sung cho những vấn đề cần nghiên cứu sâu. 6.2.3. Phương pháp đàm thoại Tôi dùng phương pháp đàm thoại để trò chuyện với người lao động tại Công  ty cổ phần mía đường Lam Sơn – Thanh Hóa  nhằm thu thập thêm thông tin cụ thể  về những vấn đề cần nghiên cứu, để góp phần nhằm tăng độ tin cậy và sức thuyết  phục của kết quả nghiên cứu của phiếu điều tra. 6.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia Sử  dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia vấn đề  nghiên cứu, như  xây   dựng phiếu điều tra, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu v.v…. 6.2.5. Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm 6
  7. Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề  nghiên cứu   của các tác giả trong các giai đoạn, từ đó tổng kết vấn đề ở những điểm chính, trọng   tâm làm cơ sở cho vấn đề nghiên cứu. 5.3. Phương pháp toán thống kê Chúng tôi sử dụng các phương pháp toán thống kê toán học để xử lý phiếu  điều tra nhằm thu thập số liệu về mặt định lượng cho những biểu hiện định tính  qua phiếu điều tra. Để  từ  đó có cơ  sở  phân tích, khẳng định lý giải các vấn đề  nghiên cứu.  \ PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1  NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC  1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Trên thế giới Từ xa xưa, vấn đề giáo dục đạo đức đã được các nhà giáo dục lỗi lạc như:  7
  8. Khổng Tử, J.A. Cômenxki, Petxtalôđi, K. Đ.Usinxki...quan tâm nghiên cứu và  đánh giá cao. Ngày nay xã hội có nhiều biến đổi thì vấn đề  giáo dục giáo dục đạo đức   cho người lao đông, đặc biệt là giáo dục phẩm chất đạo đức đạo đức càng được   quan tâm nghiên cứu. ­ Bungari vào năm 1977­ 1978, trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên   đã tiến hành nghiên cứu một số đề tài khoa học về đạo đức và giáo dục đạo đức  cho thanh niên. Các nhà khoa học đã đề  cập đến vấn đề  định hướng giá trị  cho  thanh niên nói chung, trong đó có các giá trị  đạo đức: lí tưởng cộng sản, chủ  nghĩa, đạo đức cộng sản , tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa… ­ Tại Nga nhà xuất bản giáo dục Matxcơva đã xuất bản cuốn: “ Giáo dục  đạo cho học sinh ­ những vấn đề  lí luận” của tác giả  N.I.Bônđưrev. Tác giả  đã  đề  cập tới một số  vần đề: Lí luận giáo dục đạo đức cộng sản chủ  nghĩa cho   thanh niên, chỉ  ra nội hàm khái niệm của đạo đức cộng sản và đề  xuất những   con đường tiến hành giáo dục đạo đức cho người lao động nói riêng và thanh   niên nói chung. 1.1.2. Ở Việt Nam Từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế kinh tế, vai trò của người lao động ngày  càng được đề cao, đặc biệt là vai trò trong lao động sản xuất tạo ra của cải vật   chất nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần phát triển kinh tế  cải thiện đời  sống vật chất và tinh thần. Hàng năm cứ đến ngày 1 tháng năm hàng năm nước   ta hưởng  ứng tích cực ngày quốc tế  lao động, nhiều hoạt động được tổ  chức   (văn hóa, thể dục thể thao…) Các công trình nghiên cứu cấp nhà nước cũng rất   chú trọng đến việc nghiên cứu sự phát triển nhân cách của con người ­ mục tiêu,   động lực của sự phát triển kinh tế ­ xã hội. 8
  9. Đề tài giáo dục đạo đức cũng như đề tài giáo dục đạo đức đã có khá nhiều  tác giả nghiên cứu. Ta có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau đây: Năm 1995, công trình nghiên cứu cấp Nhà nước của Viện Khoa học Giáo  dục do Mặc Văn Trang (chủ  biên) “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay,  phương hướng và biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”  đề tài đã phản ánh  thực trạng lối sống hiện nay của sinh viên (SV) và đã nêu lên những căn cứ khoa  học, đã xây dựng hệ  thống biên pháp hữu hiệu để  giáo dục lối sống cho SV   trong các trường cao đẳng, đại học. Tác giả  Nguyễn Văn Phúc với “   Quan hệ  giữa thẩm mỹ và đạo đức trong cuộc sống và nghệ  thuật” (Nxb KHXH, Hà Nội  năm 1996). Ngày 18 tháng 10 năm 1996, Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã tổ  chức hội thảo   khoa  học   tại   Hà   Nội   về   chủ   đề  “Định  hướng  giáo   dục   đạo  đức   trong   các  trường đại học” và đã thu hút đông đảo các nhà khoa học, các nhà giáo lão thành,  các nhà các bộ quản lý giáo dục tham gia. Năm 1999 tác giả  Võ Đăng Khoa, trường Cao đẳng Sư  Phạm Nha Trang ­  Khánh Hoà đã nghiên cứu đề tài: Tổ chức giáo dục đạo đức cho sinh viên thông  qua các hoạt động ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang – Khánh Hoà. Năm 1995, công trình nghiên cứu cấp Nhà nước của Viện Khoa học Giáo  dục do Mặc Văn Trang (chủ  biên) “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay,   phương hướng và biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” đề tài đã phản ánh  thực trạng lối sống hiện nay của sinh viên (SV) và đã nêu lên những căn cứ khoa  học, đã xây dựng hệ  thống biên pháp hữu hiệu để  giáo dục lối sống cho SV   trong các trường cao đẳng, đại học. Tác giả  Nguyễn Văn Phúc với  “   Quan hệ  giữa thẩm mỹ và đạo đức trong cuộc sống và nghệ thuật” (Nxb KHXH, Hà Nội  năm 1996). 9
  10.  Ngày 18 tháng 10 năm 1996, Bộ Giáo dục ­ Đào tạo đã tổ  chức hội thảo   khoa học  tại   Hà  Nội   về   chủ   đề  “Định hướng giáo dục  đạo  đức  trong  các   trường đại học” và đã thu hút đông đảo các nhà khoa học, các nhà giáo lão thành,  các nhà các bộ quản lý giáo dục tham gia.   Năm 1999 tác giả Võ Đăng Khoa, trường Cao đẳng Sư Phạm Nha Trang ­  Khánh Hoà đã nghiên cứu đề tài: Tổ chức giáo dục đạo đức cho sinh viên thông   qua các hoạt động ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang ­ Khánh Hoà.  Năm 2007, Tiến sĩ Trịnh Duy Huy, Trường Đại Học Hồng Đức đã nghiên  cứu đề  tài cấp cơ  sở: “Một số  nội dung, yêu cầu về  giáo dục đạo đức để  hình   thành và phát triển nhân cách ở học sinh sinh viên Trường Đại Học Hồng Đức ”,  tác giả đã đề cập đến những nội dung cơ bản và những yêu cầu cần thiết trong   công tác giáo dục đạo đức cho SV trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước và của  nền kinh tế thị trường hiện nay. Năm 2009, TS Trịnh Duy Huy đã công bố tài liệu “  Xây dựng đạo đức mới   trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa”. Tác giả đã tập trung  xem xét tác động của kinh tế thị trường đối với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện   nay và thực trạng đạo đức ở nước ta, từ đó đề xuất một số  giả pháp  góp phần   hạn chế tiêu cực của kinh tế thị trường đối với giáo dục đạo đức. Trong các Tạp chí cũng xuất hiện nhiều bài viết về  giáo dục đạo đức nói  riêng và giáo dục nhân cách cho học người lao động nói chung, như: “ Sự  tác   động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đạo đức người cán bộ quản lý”   của Nguyễn Tĩnh Gia 1997 (Tạp chí nghiên cứu lí luận); “ Định hướng xã hội   chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta trong giai   đoạn hiện nay” (tạp chí Triết học số  2. 1997) “Hình thành và phát triển nhân   cách trong nền kinh tế  thị  trường”  của GS Lê Đức Phúc (Tạp chí Đại học và  giáo dục chuyên nghiệp số  7 .1996); “ Khía cạnh đao đức của sự  nghiệp công   10
  11. nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” (tạp chí Triết học, số 3. 1995) 1.2. Cơ sở lý luận của đề tài 1.2.1. Các khái niệm công cụ của đề tài 1.2.1.1.  Khái niệm đạo đức Để  tồn tại và phát triển, con người ngay từ  thời nguyên thủy đã có quan   hệ gắn bó chặt chẽ với nhau trong tổ chức bày đàn thị tộc, bộ lạc…Các quan hệ  đơn giản của xã hội ban đầu chưa có giai cấp, theo tiến trình phát triển của loài  người ngày càng trở nên phong phú và phức tạp, đòi hỏi mỗi cá nhân trong cộng  đồng phải thường xuyên tự giác điều chỉnh thái độ, hành vi của mình trong cách   ứng xử, giao tiếp sao cho phù hợp với qui tắc chuẩn mực, qui tắc của xã hội,  không vi phạm đến nhu cầu lợi ích của người khác. Trong trường hợp đó cá   nhân được tập thể, cộng đồng coi là người có đạo đức. Ngược lại những cá  nhân biểu hiện thái độ, hành động   chỉ  vì lợi ích của riêng mình, gây tổn hại  nghiêm trọng đến lợi ích cuả  người khác, của cộng đồng …bị  xã hội chê trách,   phê phán thì cá nhân đó bị coi là người thiếu đạo đức. Trong đời sống xã hội, đòi hỏi tất yếu mỗi người phải ý thức được ý  nghĩa, mục đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những   hoạt động đó bao giờ  cũng có sự  chi phối của những quan hệ giữa các cá nhân,  cá nhân và xã hội. Những mối quan hệ  đó quy định giới hạn nhất định nhằm   đảm bảo lợi ích của cộng đồng và xã hội. Những qui định này tự giác tạo thành  động lực cho sự phát triển xã hội, đó là các qui tắc chuẩn mực hoàn toàn tự giác  trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả cá  quan hệ xã hội. Vậy có nhiều cách hiểu theo các khía cạnh khác nhau về đạo đức Theo tác giả  Trần Hậu Kiêm (Đạo đức học, NXB chính trị  Quốc Gia):   Đạo đức học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống 11
  12. những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời tồn  tại và biến đổi theo nhu cầu của xã hội. Nhờ  đó con người tự  giác điều chỉnh   hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích xã hội, với hạnh phúc của con người   và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người. Theo tác giả  Phạm Khắc Chương: Đạo đức là hệ  thống những nguyên  tắc, những quy tắc, chuẩn mực, biểu hiện sự tự giác trong mối quan hệ giữa con   người với con người, giữa con người với xã hội, với tự  nhiên và với bản thân   mình. Đạo đức là toàn bộ các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá   cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ với xã hội và quan hệ với tự   nhiên. Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong   quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên   và với cả bản thân mình. 1.2.1.2. Khái niệm phẩm chất đạo đức Trong xã hội con người tồn tại với tư cách là cá nhân, sự  đa dạng, phong   phú nhiều vẻ  của cái riêng đang đặt ra yêu cầu phải có những chuẩn mực đạo  đức trong việc khẳng định những giá trị  và định hướng hành vi đạo đức trong  điều kiện cụ thể. Như vây: Phẩm chất đạo đức là cốt lõi của đạo đức cá nhân, nó tổng hợp   những tính cách đáp ứng yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội. Phẩm chất đạo đức của cá nhân chứa đựng trong đó những nội hàm của  những nguyên tắc, quy tắc đạo đức xã hội. Mặt khác, nó còn là những tính mang   ý nghĩa tâm lý, đạo đức riêng của con người. Chúng là một bộ  phận cấu thành   nên nhân cách của con người. 1.2.1.3. Khái niệm lao động 12
  13. Theo từ  điển tiếng Việt lao động là “Hoạt động có mục đích của con   người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Ví dụ  như lao động chân tay, lao động nghệ thuật…”. Hay: Theo Bộ luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:  Lao động là họat động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất   và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả  cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Lao động là hoạt động mà còn người thực hiện. Không có lao động con   người ta sẽ lâm vào cảnh “Nhàn cư vi bất thiên”. Vì sao mỗi người sinh ra đều   như nhau nhưng thông qua lao động, kết cục thì có người trở thành người thành  đạt, có người lại thất bại, không ai thuê mướn. Lao động bao gồm: Lao động   chân tay (lao động thủ công) là lao động trong đó con người sử dụng chân tay, cơ  bắp là chủ yếu để thực hiện công việc và lao động trí óc là loại lao động phức   tạp, sử dụng trí óc là chủ yếu. Đối tượng lao động: Là bộ  phận của giới tự  nhiên mà lao động của con  người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng của  lao động có hai loại…Loại thứ nhất có sẵn trong tự  nhiên như  các khoáng sản,   đất, đá, thủy sản. Thứ hai đã qua chế biến nghĩa là có sự tác động của đối tượng   lao động trước đó. 1.2.1.4.  Khái niệm Người lao động Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm người lao động, trong đó: Theo nghĩa rộng người lao động là người làm công ăn lương. Công việc  của người lao động là theo thỏa thuận, xác lập giữa người lao động và chủ thuê   lao động. Thông qua kết quả  lao động như  sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh   thần cung cấp mà người lao động được hưởng lương  từ người chủ thuê lao động. 13
  14. Theo nghĩa hẹp người lao động là người làm các việc mang tính thể chất,  thường trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp . Bộ  luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ  nghĩa Việt Nam cho rằng:  Người lao động là người đến tuổi lao động (15 tuổi), có khả  năng lao động,   đang có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động. Luật lao động cũng qui định rõ ràng, cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của  người lao động khi tham gia lao động, qui định về  hợp đồng lao động, các chế  độ chính sách đãi ngộ… Từ góc độ kinh tế học, người lao động là những người trực tiếp cung cấp   sức lao động – một yếu tố sản xuất mang tính người và cũng là một dạng dịch  vụ, hàng hóa cơ  bản của nền kinh tế. Những người đang lao động là những  người có cam kết lao động, sản phẩm lao động đối với tổ chức. 1.2.2. Một số lý luận cơ bản về đạo đức và các phẩm chất đạo đức 1.2.2.1 Một số lý luận cơ bản về đạo đức * Cấu trúc của đạo đức Khi phân tích cấu trúc đạo đức người ta xem xét nó dưới nnhiều góc độ.   Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn: Xét  đạo đức theo mối quan hệ  giữa ý thức đạo đức và hoạt động thì hệ  thống đạo  đức được hợp thành từ hai yếu tố là ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu   xét nó trong quan hệ  giữa người với người thì ta nhìn ra quan hệ  đạo đức. Nếu  xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến với  cái đặc thù và cái dơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo  đức cá nhân. ­ Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức 14
  15. Đạo đức là sự  thống nhất biện chứng giữa ý thức đạo đức và thực tiễn   đạo đức. Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, hành vi   phù hợp với những quan hệ  đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao   hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người. Trong quan hệ  giữa người với người đều có những ranh rới của hành vi và giá trị đạo đức. Đó   là ranh giới của cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỉ và tinh thần tập   thể. Về  mặt giá trị  của hành vi đạo đức cũng có ranh giới: lao động là hành vi  thiện, ăn bám, bóc lột là vô nhân đạo. Ngay cả trong hành vi thiện, mức độ giá trị  của nó không phải lúc nào cũng ngang nhau, mà nó cũng có những thang bậc nhất  định ( cao cả, tốt, được). Ý thức đạo đức là sự  thể  hiện thái độ  nhận thức của   con người trước hành vi của mình trong sự  đối chiếu với hệ  thống chuẩn mực   hành vi và những nguyên tắc đạo đức xã hội đặt ra; nó giúp con người tự  giác  điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự  giác, tự  nguyện những nghĩa vụ  đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc, tình cảm đạo đức của con   người. Tóm lại, ý thức đạo đức (về  mặt cấu trúc) gồm tri thức đạo đức, tình   cảm đạo đức và ý chí đạo đức. Mọi ý thức đạo đức được thể hiện thông qua thực tiễn đạo đức. Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do  ảnh hưởng của niềm  tin, ý thức đạo đức , là quá trình thực hiện hoá ý thức đạo đức trong cuộc sống.   Ở đây, các hành vi đạo đức vừa là biểu hiện của nhận thức và tình cảm đạo đức  cá nhân, vừa bị  chi phối bởi các chuẩn mực và quy tắc của xã hội. quan niệm  của cá nhân về  nghĩa vụ  đối với xã hội và đối với người khác là tiền đề  của   hành vi đạo đức cá nhân. Sự  lựa chọn tự  do trong  ứng xử  giữa người này với   người khác là do những tính cách quyết định. 15
  16. Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn luôn có quan hệ biện chứng với nhau, bổ  sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của con người, của một giai cấp, của   một chế độ xã hội và của một thời đại lich sử. Ý thức đạo đức phải được thể  hiện bằng những hành động thì mới đem  lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có thực tiễn đại đức thì  ý thức đạo đức không đạt tới giá trị. Thực tiễn đạo đức được biểu hiện như sự  tương trợ, giúp đõ, cử  chỉ  nghĩa hiệp, hành động nghĩa vụ…Thực tiễn đạo đức   là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy sinh trên cơ  sở  của ý   thức đạo đức. ­ Quan hệ đạo đức Hệ  thống những quan hệ  xác định giữa con người và con người giũa cá   nhân và xã hội về  mặt đạo đức là quan hệ  đạo đức. Quan hệ  đạo đức là một  dạng quan hệ  xã hội, là yếu tố  tạo nên tính hiện thực của bản chất xã hội con  người. Các quan hệ  đạo đức không chỉ  hình thành nên giữa các cá nhân mà còn  giữa cá nhân với xã hội, với những mặt riêng biệt của xã hội (chẳng hạn: với lao  động, với văn hoá tinh thần) trong chừng mực những mặt này liên quan đến các   lợi ích, chứa đựng trong các mối quan hệ này. Quan hệ  đao đức được hình thành và phát triển như  những quy luật tất  yếu của xã hội, nó “tiềm ẩn” trong những quan hệ xã hội. Quan hệ đạo đức tồn   tại một cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các thời kỳ lịch sử và chính nó  là một trong những cơ sở để hình thành nên ý thức đạo đức. Tóm lại, ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là những  yếu tố tạo nên cấu trúc của đạo đức. mỗi yếu tố không tồn tại độc lập mà liên  hệ  tác động lẫn nhau, tạo nên sự  vận động, phát triển và chuyển hoá bên trong  của hệ thống đạo đức. 16
  17. ­Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân Đạo đức xã hội là sự  phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác   định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng  nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện tồn tại xã hội ấy. Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở  cộng đồng về  lợi ích và hoạt   động của cá nhân thuộc cộng đồng. Nó tồn tại như là hệ  thống kinh nghiệm xã   hội mang tính phổ biến của đời sống đạo đức của cộng đồng. Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ  của cộng đồng,  phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng   lẻ của tồn tại xã hội về lợi ích và hoạt động của các cá nhân. Trong quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình, các cá nhân  thu nhận đạo đức xã hội như là hệ  thống kinh nghiệm xã hội, những lý tưởng,  chuẩn mực, tư  tưởng, đánh giá đạo đức đã được hình thành nên trong lịch sử  cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân. Trước mắt cá nhân, đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà trong   cuộc sống của mình cá nhânn tất yếu phải nhận thức, tiếp thu và thực hiện. Đạo  đức xã hội và đạo đức cá nhân là sự thống nhất biện chứng giữ cái chung và cái  riêng, giữa cái phổ  biến, cái đặc thù và cái đơn nhất. Đạo đức cá nhân là biểu  hiện độc đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm hết thảy mọi nội dung,   đặc điểm của đạo đức xã hội. Mỗi cá nhân lĩnh hội, tiếp thu đạo đức xã hội   khác nhau và  ảnh hưởng đến đạo đức xã hội cũng khác nhau. Đạo đức xã hội  không thể  là tổng số  giản đơn của đạo đức các cá nhân, mà nó là tổng hợp   những nhu cầu phổ biến được đúc kết từ đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội trở  thành cái chung của một giai cấp, một cộng đồng xã hội, một thời đại nhất định,  nó duy trì và củng cố  bằng những phong tục, tập quán, truyền thống, những di   17
  18. sản văn hoá vật chất và tinh thần, được biến đổi và phát triển thông qua hoạt   động sản xuất tinh thần và giao tiếp xã hội.   Quan hệ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là quan hệ giữa những chuẩn  mực chung mang tính phát triển đặc thù trong xã hội với những phẩm chất hành  vi, những yêu cầu cụ thể hằng ngày, quan hệ giữa lý tưởng xã hội và hiện thực   của cá nhân, giữa trí tuệ, tri thức xã hội với tình cảm, ý chí và năng lực hoạt  động đạo đức cụ thể của cá nhân. * Bản chất của đạo đức. Theo quan điểm của C.Mác – Ăngghen, cơ sở của đạo đức xét đến cùng là   lợi ích xã hội và qui luật phát triển của lịch sử. Đạo đức là một hình thái ý thức  xã hội phản ánh quy luật phát triển xã hội dưới hình thái giá trị ­ giá trị đạo đức.  Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh những chuẩn mực giá trị đạo đức chung của  con người còn có chuẩn mực phản ánh lợi ích, vị  trí, vai trò của mỗi giai cấp.   Quan điểm Mác xít khẳng định: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh   tồn tại xã hội về mặt đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất   giai cấp đồng thời mang tính nhân loại. Là một hình thái ý thức xã hội đạo đức phản ánh tồn tại xã hội – tức phản   ánh những điều kiện vật chất hiện thực mà trong đó con người sống và hoạt   động. Nó là tính thứ  hai so với tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Vì   vậy, khi tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo, tồn tại xã hội   khác nhau thì có các kiểu đạo đức khác nhau như đạo đức cộng xã nguyên thủy,  đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư  bản chủ  nghĩa và  đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, trong đó trực tiếp và tập trung nhất là  phản ánh quan hệ  lợi ích giữa người với người – mặt biểu hiện của quan hệ  18
  19. sản xuất. Bởi lẽ quan hệ sản xuấ đó là quan hệ  là quan hệ  vật chất nền tảng,   cơ  sở  của quan hệ  đạo đức và các quan hệ  xã hội. Lợi ích, mặt bểu hiện của  quan hệ sản xuất là lợi ích vật chất – động lực xét đến cùng của mọi hoạt động   ở con người. C.Mác chỉ rõ rằng “lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là nguyên  tắc của toàn bộ đạo đức”; nghĩa là cơ sở và nguyên tắc của đạo đức chính là sự  công bằng về lợi ích giữa người với người. Trong quan hệ sản xuất, thì đạo đức   bị phản ánh và bị quy định bởi yếu tố quan trọng nhất là quan hệ  sở  hữu về  tư  liệu sản xuất vì nó là yếu tố  quyết định quan hệ  ttổ  chức quản lý và quan hệ  phân phối; đồng thời quan hệ sở hữu là yếu tố quyết định bản chất của một chế  độ xã hội nhất định. Do đó, để có một nền đạo đức thực sự thì phải thiết lập sự  công bằng về quyền của mọi người đối với tư liệu sản xuất tức xác lập chế độ  công hữu bằng cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ  nghĩa, xây dựng thành  công xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Đạo đức không thể  tách rời khỏi cuộc sống của con người, bằng hành  động thực tế và quan hệ xã hội, đồng thời qua kinh nghiệm lịch sử của mình để  xây dựng nên những tiêu chuẩn giá trị của đạo đức. Bản chất của đạo đức phải  là sự phản ánh giá trị cao đẹp của của đời sống con người trong mối tương quan   giữa người với con người, giữa cá nhân và xã hội Bản chất của đạo đức không phải là cái gì có sẵn, hoặc thiên định. Nếu   không có con người và xã hội loài người thì không có đạo đức nào cả. Vì vậy   đạo đức là một hình thái ý thức xã hội của con người. Đạo đức bị  chi phối bởi  trách nhiệm của con người tới hoàn cảnh sống, trước đồng loại. Do đó đạo đức   là sản phẩm tổng hợp của những yếu tố khách quan và những nhân tố chủ quan.  Mặt khách quan là những hiện thực được phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ  19
  20. quan là những nỗ lực vươn tới của con người, nhằm đạt đến những giá trị  đạo  đức đích thực. Đạo đức không phải là một cái gì bất biến, khi định ra những quy tắc,  nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, người ta thường dựa vào điều kiện xã hội, nên   đạo đức cũng luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Ở đây  vấn đề  cần bàn đến là xu hướng và tính chất biến đổi của đạo đức trong đời   sống con người. Quy luật của sự biến đổi bao giờ  cũng theo xu hướng tiến bộ  và sáng tạo ra những giá trị  mới. Đó cũng vì do lực lượng sản xuất xã hội ngày  càng phát triển và hoàn thiện nên đạo đức tất yếu cũng phải được phát triển  ngày càng  hoàn thiện trên cái nền tảng ấy. Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức  cũng mang bản chất giai cấp. Bởi mỗi giai cấp có lợi ích, địa vị khác nhau do tồn  tại xã hội, quan trọng nhất là quan hệ  kinh tế  của mỗi giai cấp quy định. Cho   nên mỗi giai cấp có quan niệm chuẩn mực riêng về đạo đức. Bản chất giai cấp của đạo đức được thể hiện trước hết ở đạo đức xã hội   chia thành hai nền đạo đức đối lập nhau. Đạo đức của giai cấp thống trị chi phối  đời sống đạo đức xã hội. Để  bảo vệ  cho lợi ích thống trị, giai cấp thống tri do  Nhà nước của nó tiến hành định ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức nhằm  điều chỉnh hành vi đối với các thành viên trong giai cấp mình; đồng thời áp đặt   buộc các thành viên khác phải thừa nhận nền đạo đức của giai cấp thống trị  chèn ép. Nó tồn tại như  cái không chính thống, không phổ  biến bằng đạo đức  của giai cấp thống trị. Đúng như  Ph. Ăngghen đã viết: “và cũng như  xã hội cho   tới nay  đã phát triển trong sự đối lập của giai cấp, đạo đức luôn luôn là đạo đức  của giai cấp. Cho nên, hoặc giả nó bênh vực sự  thống trị, hoặc giả khi giai cấp   bị trị đã trở nên khá nạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và   tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”. Mặc dù đạo đức của  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2