intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Trọng tài - phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam

Chia sẻ: Sdgsxf Sdgsxf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

271
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp: Trọng tài - phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam gồm 3 chương trình bày về các nội dung, Chương 1: Tổng quan về trọng tài và giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài, chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam, chương 3: Một số biến pháp nhằm kiến nghị nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Trọng tài - phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Tên đề tài: TRỌNG TÀI – PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở VIỆT NAM Họ và tên sinh viên : HÀ THỊ HOÀN Lớp : TRUNG 2 Khoá : K41F – KTĐN Số điện thoại : 0983 606 849 Giáo viên hướng dẫn : GS., TS. NGUYỄN THỊ MƠ HÀ NỘI, 11/ 2006
  2. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi chúng ta thực hiện mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn mang tính chất bƣớc ngoặt. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, bất cứ một quốc gia nào đứng riêng lẻ cũng không thể tồn tại đƣợc. Chính từ nhận định này mà Đảng và nƣớc ta đang hết sức nỗ lực xây dựng nền kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế mở, hội nhập với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế khu vực, đã tham gia ký kết nhiều hiệp định hợp tác phát triển kinh tế song phƣơng và đa phƣơng. Trong quá trình hội nhập, thành tích lớn nhất mà Việt Nam đạt đƣợc là việc trở thành thành viên của WTO vào ngày 07/11/2006 vừa qua. Trong quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại, tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Có thể dễ dàng giải thích điều này do các bên có sự khác biệt nhau về ngôn ngữ, văn hóa, tập quán, trình độ, quyền và lợi ích; đó là còn chƣa nói đến những gian lận trong quan hệ hợp tác. Giải quyết những tranh chấp này một cách thỏa đáng là điều mong mỏi của các bên tham gia. Tuy nhiên, đạt đƣợc sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên không phải là đơn giản. Việc giải quyết tranh chấp có thể đƣợc tiến hành thông qua thƣơng lƣợng, hòa giải, trung gian, trọng tài, hay tòa án nhƣng cách giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài vẫn đƣợc ƣa thích nhất bởi nó có nhiều ƣu việt so với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa hiểu biết tƣờng tận về cách giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, thậm chí có ngƣời không biết đến cơ chế giải quyết tranh chấp này. Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý đến điều khoản về giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói riêng, do đó, khi tranh chấp xảy ra thƣờng rơi vào thế bất lợi. Chính vì vậy tôi chọn
  3. đề tài này nhằm làm rõ phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là một trong những phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc ƣa chuộng trong kinh doanh quốc tế hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ các phƣơng thức giải quyết tranh chấp chủ yếu trong kinh doanh quốc tế hiện nay, đề tài chú trọng phân tích phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài với ý nghĩa là một phƣơng thức đƣợc ƣa chuộng trong việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong kinh doanh quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là các quy định về giải quyết tranh chấp giữa các thƣơng nhân trong kinh doanh quốc tế thông qua các phƣơng thức, trong đó có phƣơng thức trọng tài. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn chỉ ở việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế giữa các thƣơng nhân với nhau, không nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp giữa các nhà nƣớc. Thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam bằng trọng tài chủ yếu là xem xét thực tiễn giải quyết tranh chấp của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu của khóa luận chủ yếu là phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp, thống kê, so sánh, kết hợp nghiên cứu tài liệu với tình hình thực tế ở mức độ cho phép. 5. Bố cục của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chƣơng:
  4. Chƣơng 1: Tổng quan về trọng tài và giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài Chƣơng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài trong thời gian tới Tôi xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo Khoa Kinh tế ngoại thƣơng đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học đại học và quá trình nghiên cứu khóa luận vừa qua. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn của mình tới GS.,TS. Nguyễn Thị Mơ - ngƣời đã định hƣớng và hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn VIAC đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu để viết khóa luận.
  5. DANH MỤC NHỮNG TỬ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN AAA Hiệp hội trọng tài Mỹ ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM Diễn đàn hợp tác Á - Âu APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dƣơng FTAC Hội đồng trọng tài Ngoại thƣơng ICC Phòng thƣơng mại Quốc tế ICSID Trung tâm Quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tƣ MAC Hội đồng trọng tài Hàng hải Pháp lệnh Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại 2003 Quy tắc 1993 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 20/08/1993 Quy tắc 1996 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 15/04/1996 Quy tắc 2004 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 UNCITRAL Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế USD Đô-la Mỹ VIAC Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam WTO Tổ chức Thƣơng mại Thế giới
  6. CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ 1. Tranh chấp là gì ? Trong nền kinh tế thị trƣờng, các nhà kinh doanh có quan hệ kinh tế thƣơng mại rất chặt chẽ và khăng khít với nhau. Họ đều muốn xây dựng lòng tin, duy trì các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại với các đối tác lâu dài nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thƣơng mại của họ đƣợc ổn định và phát triển. Tuy nhiên, đôi khi, vì nhiều lí do chủ quan và khách quan khác nhau, các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng và mâu thuẫn, dẫn đến các tranh chấp kinh tế, thƣơng mại. Để hiểu thế nào là tranh chấp kinh tế, thƣơng mại cần phải hiểu rõ khái niệm tranh chấp. Tranh chấp là sự xung đột, mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi giữa hai hay nhiều chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật mà trong quá trình tranh giành đó, ai cũng cho rằng mình là đúng, lợi ích của mình cần đƣợc bảo vệ. Khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ do pháp luật điều chỉnh, những mâu thuẫn, bất đồng giữa họ thƣờng phát sinh từ, hoặc có liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của một bên, khi mà bên kia, hoặc cho rằng mình có quyền yêu cầu bên này phải làm một nghĩa vụ để tạo ra một lợi ích cho mình, hoặc cho rằng những thiệt hại mà mình phải gánh chịu là do lỗi của bên này... trong khi bên này lại không cho là nhƣ vậy. Tranh chấp xảy ra trong mọi mối quan hệ xã hội. Tranh chấp là một hiện tƣợng khách quan, nó tồn tại ngoài ý thức của các chủ thể. Xã hội ngày càng phát triển, mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, do đó, tranh chấp phát sinh cũng ngày càng nhiều và phức tạp. Có thể nói, tranh chấp gắn với
  7. hoạt động xã hội loài ngƣời và yêu cầu đặt ra là phải tìm ra cơ chế giải quyết những tranh chấp ấy. 2. Tranh chấp thƣơng mại Mặc dù tranh chấp xảy ra trong mọi mối quan hệ xã hội, có thể là tranh chấp trong chính trị, ý thức hệ, nhân sinh quan, văn hóa, khoa học, kinh tế, thƣơng mại... Nhƣng loại hình tranh chấp phổ biến nhất là tranh chấp về kinh tế, tranh chấp xảy ra trong hoạt động thƣơng mại. Cũng có thể nói đa số các tranh chấp phát sinh đều có mối liên quan chặt chẽ đến lợi ích kinh tế, đến lợi nhuận trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động thƣơng mại nói riêng. Tranh chấp thƣơng mại có thể là tranh chấp giữa các quốc gia hoặc tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh. Trong giới hạn của khóa luận này, ngƣời viết chỉ nghiên cứu về tranh chấp thƣơng mại phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh. Đó là các tranh chấp thƣơng mại liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp - là tranh chấp trong kinh doanh. Tranh chấp thƣơng mại là tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến các hoạt động thƣơng mại. Vậy hoạt động thƣơng mại là gì? Khái niệm này đƣợc hiểu khác nhau tùy từng nƣớc khác nhau, phụ thuộc vào nhận thức về thƣơng mại cũng nhƣ về trình độ phát triển của nền kinh tế. Trƣớc đây, hoạt động thƣơng mại đƣợc hiểu là hoạt động mua và bán hàng hóa hữu hình nhằm mục đích thu lợi nhuận. Cho đến nay, khái niệm này đã đƣợc mở rộng ra cả với khu vực dịch vụ - hàng hóa vô hình. Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) cho rằng hoạt động thƣơng mại là tất cả các hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận, bất kể đó là hàng hóa, dịch vụ hay sở hữu công nghiệp, đầu tƣ... Chính vì vậy, WTO đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của mình sang các lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tƣ với việc ban hành các Hiệp định đa biên nhƣ GATT (thƣơng mại hàng hóa), GATS (thƣơng mại
  8. dịch vụ), TRIPS (các khía cạnh thƣơng mại liên quan đến sở hữu trí tuệ), TRIMS (các khía cạnh thƣơng mại liên quan đến đầu tƣ). Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động thƣơng mại cũng đƣợc hiểu khác nhau theo từng thời kỳ. Nói cách khác, khái niệm này đƣợc xem xét ở trạng thái động, đƣợc hiểu theo nghĩa ngày càng rộng hơn. Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 1997 quy định: “hoạt động thƣơng mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thƣơng mại của thƣơng nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thƣơng mại và các hoạt động xúc tiến thƣơng mại khác nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội. Dịch vụ thƣơng mại gồm những dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hóa. Xúc tiến thƣơng mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thƣơng mại” (Điều 5 Khoản 2). Đây là một khái niệm về hoạt động thƣơng mại hẹp. Nằm trong phạm vi đƣợc coi là hoạt động thƣơng mại, đƣợc Luật Thƣơng mại năm 1997 điều chỉnh chỉ bao gồm 14 hành vi. Đến năm 2005, Luật Thƣơng mại của Việt Nam đã mở rộng hơn nội hàm của khái niệm hoạt động thƣơng mại bằng quy định: “hoạt động thƣơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục địch sinh lợi khác” (Điều 3 Khoản 1). Đây là một sự đổi mới vƣợt bậc trong cách hiểu về khái niệm hoạt động thƣơng mại, phù hợp với cách hiểu của Luật mẫu UNCITRAL: “Khái niệm thƣơng mại cần phải đƣợc giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thƣơng mại, dù có hợp đồng hay không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thƣơng mại bao hàm nhƣng không chỉ giới hạn đối với các giao dịch sau đây: bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối đại diện thƣơng mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tƣ vấn thiết kế cơ khí, li-xăng, đầu tƣ, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhƣợng,
  9. liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ” (Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL). 3. Tranh chấp trong kinh doanh quốc tế Trong thực tế, ở phạm vi trong nƣớc ngƣời ta không phân biệt khái niệm tranh chấp thƣơng mại với khái niệm tranh chấp trong kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu là do không có sự phân biệt rõ giữa khái niệm kinh doanh và thƣơng mại. Ở một số nƣớc, có sự đồng nhất cách hiểu về hai khái niệm này. Pháp luật Việt Nam hầu nhƣ đồng nhất hai khái niệm kinh doanh và thƣơng mại: đó là các hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi nhuận. Tranh chấp thƣơng mại và tranh chấp trong kinh doanh là những tranh chấp gắn liền với hoạt động kinh doanh - thƣơng mại của doanh nghiệp. Do không có sự phân định hai khái niệm kinh doanh và thƣơng mại nên khi đƣa ra những loại hình tranh chấp thuộc thẩm quyền xét xử của trọng tài thƣơng mại, Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam 2003 cho rằng hoạt động thƣơng mại là hoạt động của các cá nhân, tổ chức kinh doanh mà xét về mặt bản chất, đó cũng là hoạt động của doanh nghiệp. Điều 2 Khoản 3 Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam 2003 quy định: "hoạt động thƣơng mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thƣơng mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thƣơng mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thê mua, xây dựng, tƣ vấn, kỹ thuật, li- xăng, đầu tƣ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng bộ và các hành vi thƣơng mại khác theo quy định của pháp luật". Tuy nhiên, ở phạm vi quốc tế, các hoạt động thƣơng mại lại đƣợc tiếp cận khác. Ở phạm vi quốc tế, các mối quan hệ xã hội phát sinh thƣờng và chủ
  10. yếu đƣợc chia thành hai nhóm quan hệ: Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các quốc gia với nhau và nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các doanh nghiệp với nhau. Tranh chấp thƣơng mại quốc tế là những tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia với nhau khi các quốc gia tiến hành hoạt động thƣơng mại ở phạm vi quốc tế, còn tranh chấp trong kinh doanh quốc tế là những tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp, các công ty ở các nƣớc khác nhau với nhau khi các doanh nghiệp, công ty này thực hiện các hoạt động kinh doanh, thƣơng mại. 4. Tranh chấp trong kinh doanh quốc tế là tranh chấp chủ yếu liên quan đến hoạt động của các thƣơng nhân trong thƣơng mại quốc tế. Thƣơng nhân là một khái niệm khá quen thuộc trong pháp luật thƣơng mại của các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng nhƣng lại còn rất xa lạ đối với những nƣớc có nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp. Ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, Pháp, Đức... thƣơng nhân là một thuật ngữ, một từ dùng để chỉ những ngƣời mà hoạt động của họ mang hai đặc điểm. Thứ nhất, ký kết các hợp đồng thƣơng mại và tiến hành các hoạt động kinh doanh khác một cách thƣờng xuyên nhằm mục đích thu lợi nhuận. Thứ hai, nhân danh bản thân mình để thực hiện các hoạt động kinh doanh đó, nghĩa là, thƣơng nhân là những ngƣời hoạt động kinh doanh độc lập. Việc đƣa ra khái niệm thƣơng nhân là rất quan trọng bởi thƣơng nhân sẽ chịu quy chế quản lý riêng. Quy chế quản lý thƣơng nhân đƣợc đƣa ra nhằm tạo điều kiện cho thƣơng nhân hoạt động thuận lợi hơn, đồng thời cũng đƣa ra những điều kiện ràng buộc thƣơng nhân, bảo vệ những ngƣời không phải là thƣơng nhân. Thƣơng nhân có thể là cá nhân hoặc tập thể. Trong một số trƣờng hợp Nhà nƣớc cũng đƣợc coi là một thƣơng nhân đặc biệt.
  11. Các thƣơng nhân là cá nhân chính là các tự nhiên nhân hay còn gọi là các thể nhân mà với tƣ cách là chủ sở hữu một xí nghiệp, hoạt động nhƣ các nhà kinh doanh, các nhà buôn riêng lẻ. Thông thƣờng họ tiến hành kinh doanh những hoạt động không đòi hỏi phải có một số vốn lớn. Còn các pháp nhân là các thƣơng nhân tập thể, thƣờng tồn tại dƣới hình thức là các hội, các công ty, các hãng kinh doanh khác nhau và là chủ sở hữu của một hoặc một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải bất kì cá nhân hay tập thể nào đều có thể trở thành thƣơng nhân. Để đƣợc thừa nhận là thƣơng nhân, cần phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định do Pháp luật từng nƣớc đƣa ra. Theo các nƣớc phƣơng Tây, có hai điều kiện: điều kiện liên quan đến con ngƣời và điều kiện liên quan tới công việc, tới hoạt động, nghề nghiệp của ngƣời đó. Về điều kiện liên quan tới con ngƣời, luật pháp của hầu hết các nƣớc đều có quan điểm tƣơng đối thống nhất: thƣơng nhân phải là những ngƣời có năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Tuổi có năng lực hành vi do luật của từng nƣớc quy định khác nhau. Về điều kiện liên quan tới hoạt động của thƣơng nhân, luật pháp của các nƣớc quy định không giống nhau. Luật của Nhật quy định thƣơng nhân là “một ngƣời nhân danh bản thân mình tham gia vào các giao dịch thƣơng mại nhƣ một nhà kinh doanh”. Theo quy định này thì một thƣơng nhân tham gia vào việc mua bán với một cửa hàng hoặc một hình thức tƣơng tự hoặc một ngƣời tiến hành kinh doanh về hầm mỏ cũng đƣợc coi là thƣơng nhân. Luật của Mỹ quy định thƣơng nhân là những ngƣời “thực hiện nghiệp vụ với những hàng hóa thuộc chủng loại nhất định hoặc thực hiện những nghiệp vụ bằng cách khác nhau nào đó và xét về tính chất nghiệp vụ của mình, họ đƣợc coi nhƣ là những ngƣời có kiến thức hoặc có kinh nghiệm đặc
  12. biệt trong những nghiệp vụ hoặc đối với những hàng hóa là đối tƣợng của các hợp đồng thƣơng mại”. Luật của Pháp quy định thƣơng nhân là tất cả những ngƣời ký hợp đồng thƣơng mại, thực hiện các hợp đồng thƣơng mại và coi việc ký và thực hiện các hợp đồng thƣơng mại đó là nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình. Từ khái niệm trên luật Thƣơng mại Pháp đƣa ra 3 tiêu chuẩn:  Thực hiện các hành vi, các hoạt động thƣơng mại  Nhân danh bản thân mình để thực hiện các hành vi thƣơng mại đó, với tƣ cách là một ngƣời độc lập  Coi đó là nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình Từ 3 tiêu chuẩn này, Bộ luật Thƣơng mại Pháp liệt kê ra một danh mục dài những hành vi đƣợc coi là hành vi thƣơng mại. Cũng từ 3 tiêu chuẩn trên, luật Thƣơng mại Pháp không thừa nhận những ngƣời làm một số nghề nhất định là thƣơng nhân. Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005 quy định “thƣơng nhân bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký kinh doanh”, trong đó hoạt động thƣơng mại đƣợc hiểu là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. II. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ 1. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế thƣờng gặp
  13. Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khi tranh chấp xảy ra các bên thƣờng sử dụng một hoặc kết hợp các phƣơng thức giải quyết sau: thƣơng lƣợng trực tiếp giữa các bên, qua trung gian, thông qua hòa giải viên, thông qua bộ máy tƣ pháp - kiện ra tòa án hoặc trọng tài. 1.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng trực tiếp giữa các bên Thƣơng lƣợng là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đang tranh chấp với nhau sẽ trực tiếp thƣơng lƣợng để giải quyết tranh chấp. Nếu thƣơng lƣợng thành công thì đồng nghĩa với việc giải quyết đƣợc tranh chấp đã phát sinh. Thƣơng lƣợng trực tiếp giữa các bên là phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣờng đƣợc áp dụng. Ƣu điểm của phƣơng pháp này là: các bên có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh gọn, ít tốn kém; các bên tranh chấp có thể tập trung vào vấn đề chính của việc giải quyết tranh chấp, tránh đƣợc những vấn đề mang tính thủ tục, hình thức; bảo vệ đƣợc uy tín, vị thế của các nhà kinh doanh cũng nhƣ giữ đƣợc bí mật kinh doanh cho các bên; giữ đƣợc hòa khí, mối quan hệ hữu hảo giữa các bên. Thƣơng lƣợng trực tiếp có thể đƣợc tiến hành bằng cách hai bên trực tiếp gặp nhau để thỏa thuận thƣơng lƣợng hoặc trao đổi thông qua thƣ từ, các phƣơng tiện truyền thông dƣới hình thức khiếu nại và trả lời khiếu nại. Thƣơng lƣợng bằng cách hai bên trực tiếp gặp gỡ nhau khi có tranh chấp phát sinh. Khi gặp nhau hai bên đều có thể bộc lộ ý định của mình một cách thẳng thắn, nêu hết đƣợc ý kiến của mình, nắm bắt và thấu hiểu đƣợc nguyện vọng của bên kia và do đó các bên có thể giải quyết đƣợc tranh chấp. Tuy nhiên, thƣơng lƣợng bằng cách gặp nhau trực tiếp thƣờng rất tốn kém chi phí và thời gian. Vì vậy, các bên thƣờng lựa chọn cách này khi có điều kiện thuận lợi và đối với những tranh chấp phức tạp, có giá trị lớn hoặc sau khi thƣơng lƣợng bằng khiếu nại và trả lời khiếu nại chƣa đạt đƣợc kết quả.
  14. Thƣơng lƣợng bằng cách khiếu nại và trả lời khiếu nại (đƣợc gọi ngắn là khiếu nại). Thông thƣờng, bên bị vi phạm gửi đơn khiếu nại kèm theo các chứng từ làm bằng chứng cho bên vi phạm và bên vi phạm trả lời đơn khiếu nại đó. Khi tiến hành khiếu nại bên vi phạm, bên bị vi phạm cần chú ý đến hai thủ tục pháp lý không thể thiếu là Đơn khiếu nại và thời hạn khiếu nại. Trong thực tế các bên thƣờng tiến hành khiếu nại trƣớc khi đi kiện ra tòa hoặc trọng tài và khiếu nại là bắt buộc khi trong hợp đồng có quy định. Khi đó khiếu nại sẽ là cơ sở cho tòa án hoặc trọng tài chấp nhận đơn kiện để xét xử. Khiếu nại có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khiếu nại kịp thời bảo vệ quyền lợi cho bên khiếu nại, góp phần đảm bảo cho quá trình kinh doanh bình thƣờng của các nhà kinh doanh quốc tế. Mặt khác, thông qua khiếu nại và giải quyết khiếu nại có thể đánh giá đƣợc sự thiện chí, uy tín của đối phƣơng, từ đó đƣa ra quyết định về giao dịch sau này giữa hai bên. 1.2. Giải quyết tranh chấp qua khâu trung gian Giải quyết tranh chấp qua khâu trung gian là việc các bên thống nhất chọn ra một ngƣời thứ ba - ngƣời trung gian (thƣờng là các chuyên gia, những ngƣời có kiến thức, am hiểu, cả hai bên đều biết) có chức năng nhƣ một nhà ngoại giao con thoi với nhiệm vụ tìm ra điểm tới hạn mà hai bên tham gia trong vụ tranh chấp đều có thể chấp nhận đƣợc. Ở đây không có sự gặp gỡ tay ba giữa các bên và ngƣời trung gian - ngƣời thứ ba mà ngƣời thứ ba sẽ họp với từng bên, lắng nghe và phân tích cho các bên để các bên có thể đi đến một điểm nút chung mà các bên chấp nhận để giải quyết tranh chấp. 1.3. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng hòa giải Hòa giải là phƣơng pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên đƣơng sự thông qua ngƣời thứ ba gọi là hòa giải viên.
  15. Khi có tranh chấp phát sinh mà chƣa thƣơng lƣợng hoặc thƣơng lƣợng không đƣợc thì bất kỳ bên nào cũng có quyền đề nghị giải quyết tranh chấp bằng hòa giải và giới thiệu hòa giải viên. Nếu bên kia đồng ý thì hai bên cùng chọn hòa giải viên. Hòa giải viên đƣợc các bên chọn ra sẽ điều khiển quá trình hòa giải. Hòa giải có thể đƣợc tiến hành bằng hai cách: Một là, các bên tự thỏa thuận với nhau về hòa giải, cùng nhau chỉ định hòa giải viên và tiến hành hòa giải không bắt buộc phải tuân theo nguyên tắc hòa giải nào. Hai là, các bên thỏa thuận hòa giải theo quy tắc hòa giải của tổ chức nghề nghiệp hoặc tổ chức trọng tài nào đó, ví dụ, hai bên có thể thỏa thuận tranh chấp sẽ đƣợc hòa giải theo quy tắc hòa giải của Phòng Thƣơng mại Quốc tế ICC. Hòa giải là không bắt buộc và các bên có thể bỏ qua bƣớc hòa giải và đƣa ngay tranh chấp ra tòa án hay trọng tài thƣơng mại giải quyết. Nhƣng nếu hợp đồng có quy định tranh chấp trƣớc hết đƣợc giải quyết bằng thƣơng lƣợng và hòa giải thì hòa giải cũng trở thành bắt buộc. Hòa giải không phƣơng hại đến quyền kiện ra tòa án hay trọng tài thƣơng mại. Nếu hòa giải không thành công thì bên có quyền lợi bị vi phạm đƣơng nhiên vẫn có quyền đƣa tranh chấp ra giải quyết tại tòa án hay trọng tài. Chức năng của hòa giải viên là đọc kỹ vụ tranh chấp, nghiên cứu pháp luật có liên quan từ đó soạn thảo ra một khuyến nghị về cách thức giải quyết tranh chấp và chuyển nó thành thỏa thuận giải quyết tranh chấp rồi gửi cho hai bên. Trong thỏa thuận không đƣợc kết luận bên nào đúng, bên nào sai. Sau khi cả hai bên đồng ý, bản thỏa thuận này sẽ trở thành thỏa thuận giữa hai bên. Trong phƣơng thức giải quyết tranh chấp này, có sự gặp gỡ tay ba giữa hòa giải viên và các bên tham gia tranh chấp. Trong buổi gặp gỡ này, ba bên có thể thay đổi bản thỏa thuận đã đƣợc hòa giải viên thảo ra.
  16. Hiện nay, ở Việt Nam chƣa áp dụng phƣơng thức này nhƣ là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp độc lập. 1.4. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng tòa án Tòa án là cơ quan tƣ pháp của một nƣớc đƣợc lập ra để xét xử các tranh chấp phát sinh giữa các thƣơng nhân của nƣớc đó. Tuy nhiên, tòa án cũng có thể xét xử tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế. Tòa án bất kỳ nƣớc nào cũng không có thẩm quyền đƣơng nhiên đối với tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế. Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử nếu các bên liên quan có thỏa thuận quy định tranh chấp phát sinh sẽ đƣợc đƣa ra tòa án. Nếu hợp đồng không có thỏa thuận trọng tài, tranh chấp phát sinh có thể đƣợc hai bên đƣa ra tòa án và tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Về mặt bản chất pháp lý, tòa án khác tất cả các cơ quan xét xử khác: Tòa án là bộ máy tƣ pháp, là công cụ của Nhà nƣớc, là công cụ của cơ quan công quyền. Vì vậy, đối với các tranh chấp liên quan đến thƣơng nhân của hai nƣớc khác nhau, việc giải quyết tranh chấp bằng tòa án mang màu sắc chính trị, tòa án nƣớc nào cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nƣớc, công dân của nƣớc đó. Tòa án của bất kỳ nƣớc nào cũng chỉ tuân thủ luật tố tụng của nƣớc mình, nghĩa là nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử, tiến hành xét xử theo đúng luật tố tụng của nƣớc tòa án. Còn khi giải quyết tranh chấp, tòa án phải áp dụng luật thực chất điều chỉnh hợp đồng. Tòa án xét xử theo nguyên tắc công khai và xét xử theo hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Tại phiên họp xét xử, bên nguyên và bên bị phải có mặt để bảo vệ quyền lợi của mình. Bên bị có quyền nhờ luật sƣ bào chữa. Nếu bên thua kiện
  17. không đồng ý với bản án của tòa án thì có quyền kháng cáo lên tòa án cấp trên theo thủ tục phúc thẩm. Theo nguyên tắc công khai, khi một vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra xét xử, không chỉ có các bên tranh chấp, các thành phần liên quan đƣợc mời mà bất cứ ai muốn tham gia phiên xét xử cũng đƣợc, ngoại trừ những vụ liên quan đến bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng thì phải xét xử kín. Trong trƣờng hợp này phải có ý kiến của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Phán quyết của tòa án tại nƣớc sở tại có tính cƣỡng chế cao do tòa án có cơ quan cƣỡng chế thi hành. Việc thi hành phán quyết của tòa án nƣớc ngoài lại liên quan đến tính hiệu lực của phán quyết của toà án. Việc cƣỡng chế thi hành án là rất khó khăn vì phán quyết của tòa án chỉ có hiệu lực trong quốc gia. Nếu muốn có hiệu lực ở ngoài thì phải tuân theo trật tự thi hành án của tòa án nƣớc sở tại. Một số nƣớc nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan... giao việc xét xử các tranh chấp thƣơng mại cho tòa án thƣờng, còn lại đa số các nƣớc thành lập tòa án thƣơng mại với tƣ cách là một tòa chuyên trách trong hệ thống các cơ qua tƣ pháp để giải quyết các tranh chấp thƣơng mại. Nhƣng tòa án thƣơng mại này chỉ xét xử các tranh chấp thƣơng mại theo trình tự sơ thẩm. Nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo thì bản án đó sẽ đƣợc xét xử lại theo trình tự phúc thẩm ở Tòa thƣợng thẩm (phúc thẩm) dân sự nhƣ các tranh chấp dân sự. Một trong những tòa án thƣơng mại tiêu biểu ở các nƣớc kinh tế thị trƣờng là Tòa án thƣơng mại Pháp. Tòa án thƣơng mại Pháp đƣợc thành lập rất sớm, từ năm 1808. Đây là một tòa chuyên trách và chỉ xét xử theo trình tự sơ thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, nếu các bên tranh chấp kháng cáo thì vụ việc có thể đƣợc xét xử theo trình tự phúc thẩm tại tòa án dân sự nhƣ một vụ tranh chấp dân sự thông thƣờng. Mỗi tòa án thƣơng mại ở Pháp có ít nhất một chánh án và hai thẩm phán. Chánh án và thẩm phán của các tòa án thƣơng mại
  18. ở Pháp đều là các thƣơng gia và đƣợc bầu từ các thƣơng gia nổi tiếng trong vùng theo một quy chế riêng, khác với trình tự bầu các thẩm phán ở các tòa án thƣờng. Chánh án và các thẩm phán ở Tòa thƣơng mại có nhiệm kỳ 3 năm và có thể đƣợc bầu hai nhiệm kỳ liên tiếp. Một đặc điểm rất đặc biệt là các thẩm phán đều làm việc tự nguyện, không hƣởng lƣơng và bất kỳ một khoản thù lao nào. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng làm cho việc xét xử tranh chấp tại các tòa án thƣơng mại ở Pháp ít có tình trạng tiêu cực hoặc thiên vị. Do vậy, phần lớn các vụ tranh chấp thƣơng mại trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế đƣợc xét xử khách quan, chính xác. Các bản án của tòa án thƣơng mại ở Pháp cũng vì thế mà đƣợc thực hiện một cách tự nguyện, nhanh chóng hơn so với nhiều nƣớc khác. 1.5. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài thương mại Xu hƣớng hiện nay các bên thƣờng giao tranh chấp cho trọng tài thƣơng mại xét xử vì việc giải quyết bằng trọng tài thƣơng mại có rất nhiều ƣu điểm, lợi thế so với phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ đƣợc nghiên cứu kĩ trong phần tiếp theo. III. TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI – PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ ĐƢỢC ƢA CHUỘNG 1. Khái niệm về trọng tài thƣơng mại Trọng tài là quyền quyết định của một ngƣời thứ ba đối với một tranh chấp phát sinh. Trọng tài khác với trung gian và hoà giải ở chỗ trọng tài đƣa ra phán quyết. Trọng tài là một định chế cử một tƣ nhân giải quyết sự bất hoà cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp.
  19. Nhƣ vậy, đặc điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là: trọng tài là một cá nhân - ngƣời ngoài toà án, đƣợc các bên thoả thuận lựa chọn, có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh giữa các bên đƣơng sự với nhau. Nhƣ vậy, có thể hiểu trọng tài nhƣ sau: Trọng tài là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp mà theo đó hai hay nhiều bên tranh chấp giao cho một bên thứ ba đứng ra phân xử vụ tranh chấp và phán quyết của bên thứ ba này có giá trị chung thẩm đối với các bên đƣơng sự. Trọng tài thƣơng mại là trọng tài có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp trong lĩnh vực thƣơng mại. 2. Thẩm quyền xét xử của trọng tài thƣơng mại Trong nền kinh tế thị trƣờng, việc lựa chọn các phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của các bên đƣơng sự. Trọng tài là một trong các phƣơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trƣờng, vì vậy, bất cứ một tranh chấp nào cũng có thể đƣợc đƣa đến trọng tài nếu nhƣ có thỏa thuận của các bên. Cũng giống nhƣ tòa án, trọng tài không có thẩm quyền đƣơng nhiên đối với một vụ tranh chấp cụ thể trong kinh doanh quốc tế. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên trong vụ tranh chấp có tồn tại một thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận theo đó các bên đƣơng sự nhất trí giao vụ tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh có liên quan đến hợp đồng cho một loại trọng tài cụ thể nào đó giải quyết. Trọng tài là nội dung đầu tiên trong trình tự, thủ tục trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không có những nội dung tiếp sau của trình tự, thủ tục trọng tài. Điều đó có nghĩa là, tố tụng trọng tài chỉ đƣợc hình thành trên cơ sở có một thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp.
  20. Thỏa thuận trọng tài phải đƣợc lập thành văn bản dƣới hình thức là một điều khoản nằm trong hợp đồng hoặc có thể là một văn bản thỏa thuận riêng (điều khoản bổ sung về thỏa thuận trọng tài). Khi nằm trong hợp đồng, thỏa thuận trọng tài thƣờng có tên là Điều khoản trọng tài. Các bên hoàn tự do lựa chọn một tổ chức trọng tài để xét xử tranh chấp, nhƣng sau khi đã đƣợc lựa chọn trong thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài sẽ ràng buộc các bên và trọng tài đƣợc lựa chọn trở thành cơ quan tài phán có thẩm quyền đối với vụ tranh chấp đƣợc chỉ định, không phụ thuộc vào sự phản đối về thẩm quyền của một trong các bên đã có thỏa thuận trọng tài. Trọng tài cũng có thẩm quyền xét xử nếu có Điều ƣớc quốc tế ràng buộc các bên phải đƣa tranh chấp ra giải quyết tại cơ quan trọng tài. Nhƣ vậy nếu không có thỏa thuận giữa các bên giao tranh chấp cho trọng tài thƣơng mại giải quyết thì trọng tài không có thẩm quyền đối với tranh chấp đó. Từ đó có thể nói thẩm quyền xét xử của trọng tài là thẩm quyền đƣợc giao cho. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để tòa án một nƣớc công nhận và cho thi hành ở nƣớc mình phán quyết của trọng tài đƣợc tuyên ở nƣớc ngoài. Thỏa thuận trọng tài sẽ bác bỏ thẩm quyền xét xử của tòa án với tranh chấp có liên quan. Thỏa thuận trọng tài sẽ giúp khẳng định giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài: có giá trị chung thẩm đối với các bên đƣơng sự. Việc công nhận và đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là hết sức cần thiết bởi một thỏa thuận trọng tài không những là cơ sở cho việc phát sinh một hoạt động trọng tài mà nó còn có ý nghĩa đối với hiệu lực của phán quyết trọng tài. Nếu các bên đã thỏa thuận chọn phƣơng thức giải quyết bằng con đƣờng trọng tài thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận đó. Khi một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ này thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án giúp đỡ để buộc bên cùng thỏa thuận với mình phải chấp hành thỏa thuận trọng tài. Trong mọi trƣờng hợp, các bên không thể đƣa ngay vụ việc ra tòa án
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1