intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại doanh nghiệp truyền thông Vĩ An

Chia sẻ: Tri Nhân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài được nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng một mô hình thông tin hỗ trợ doanh nghiệp trong thời kỳ cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại doanh nghiệp truyền thông Vĩ An

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, sự phát triển công nghệ thông tin (CNTT) - cùng với nó là sự bùng nổ thông tin - đã đem đến những thay đổi lớn lao trong đời sống xã hội. Nhân loại đã và đang bước sang một xã hội mới – xã hội thông tin. Một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội thông tin là sử dụng ngày càng nhiều thông tin, kiến thức, trí tuệ vào sản xuất. Các yếu tố này có hàm lượng cao trong sản phẩm. Thông tin trở thành yếu tố của lực lượng sản xuất. Do đó, xã hội thông tin là môi trường để hình thành một ngành công nghiệp mới, ngành công nghiệp sản sinh ra chính thông tin và các dòng thông tin được truyền tải trên các mạng – đó là những nhà cung cấp nội dung thông tin. Xu thế chung của thế giới đã tác động đến Việt Nam, dẫn đến việc ra đời hàng loạt doanh nghiệp truyền thông (DNTT), hoạt động như những nhà cung cấp thông tin. Những nhà cung cấp thông tin đóng vai trò hết sức quan trọng trong thời kỳ bùng nổ thông tin bởi khả năng kiểm soát thông tin của người sử dụng bị hạn chế do tính xác thực của thông tin thiếu đảm bảo. Điều này là thách thức lớn cho các tổ chức, đơn vị cung cấp thông tin, DNTT. Cơ quan thông tin phải là nơi thu thập, tìm kiếm và cung cấp thông tin có giá trị cho người dùng tin, nâng cao khả năng tiếp cận, kiểm soát nguồn tin có giá trị cho họ. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình tăng cường hội nhập kinh tế thế giới, nên nhu cầu thông tin về kinh tế, xã hội, tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới ngày càng lớn. Các doanh nghiệp cũng như các địa phương trên cả nước mà đặc biệt là thủ đô Hà Nội càng ngày càng có nhu cầu lớn về nguồn thông tin mang giá trị cao trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật…do đó các nhà cung cấp thông tin hay các DNTT lại càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
  2. 2 Mặt khác, thị trường luôn tồn tại quy luật cạnh tranh, mỗi cơ quan thông tin muốn tồn tại và phát triển phải luôn không ngừng nâng cao nguồn lực thông tin, nâng cao chất lượng các sản phẩm và dịch vụ thông tin để đủ sức cạnh tranh với các nhà cung cấp thông tin khác, thu hút được người dùng tin. Từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại doanh nghiệp truyền thông Vĩ An” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài về xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin trong các cơ quan thông tin nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ không phải là một đề tài mới mẻ. Ở trong nước đã có một số công trình nghiên cứu, điều tra khảo sát thực tiễn tại một số các cơ quan thông tin – thư viện (TT - TV). Cụ thể như: - Luận văn cao học ngành Thư viện Thông tin: “Xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu tin tại Trung tâm thông tin khoa học – Viện khoa học công an” của Nguyễn Thị Liên Hoa tại ĐH Văn hóa Hà Nội. - Luận văn cao học ngành Thư viện Thông tin: “Tổ chức và quản lý khai thác nguồn lực thông tin tại Trung tâm TT- TV Đại học Quốc gia Hà Nội” của học viên Trần Hữu Huỳnh tại ĐH Văn hóa Hà Nội. - Luận văn cao học ngành Thư viện Thông tin: “Quản lý và khai thác nguồn tài liệu địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” của Huỳnh Tới tại ĐH Văn hóa Hà Nội. Các đề tài này chủ yếu tập trung khảo sát nguồn lực thông tin trong các cơ quan hay trung tâm TT – TV, thuộc sự quản lý nhà nước, hoạt động phi lợi nhuận do đó tính cạnh tranh giữa các cơ quan, trung tâm TT – TV không thể hiện rõ ràng. Trong khi đó, đối với các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp tư nhân, để tồn tại và phát triển, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược phát triển của doanh nghiệp mình sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Qua
  3. 3 nghiên cứu, tôi có thể khẳng định, từ trước đến nay chưa có báo cáo, luận văn cao học chuyên ngành TT - TV nào nghiên cứu mô hình thông tin trong các doanh nghiệp, cụ thể là DNTT. Vì vậy đề tài này là đề tài hoàn toàn mới, không trùng lặp với đề tài nghiên cứu nào ở trong nước. Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc khẳng định vai trò cũng như xu hướng phát triển của ngành thông tin nói riêng và khoa học TT – TV nói chung trong sự phát triển kinh tế xã hội ngày nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng một mô hình thông tin hỗ trợ doanh nghiệp trong thời kỳ cạnh tranh và hội nhập quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề: - Nghiên cứu nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An; - Nghiên cứu đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin của DNTT Vĩ An; - Khảo sát, đánh giá việc xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An; - Đề xuất những giải pháp khả thi nhằm xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. 4. Giả thuyết nghiên cứu Như chúng ta đã biết, điều bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm là tìm biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Đối với ngành công nghiệp cung cấp thông tin, sự cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn, bởi trong xã hội thông tin, thông tin luôn không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng.
  4. 4 Trong khi đó, mỗi sản phẩm hay dịch vụ thông tin đều có “chu trình sống” riêng. Mỗi sản phẩm hay dịch vụ đều trải qua ba giai đoạn: từ hình thành ý tưởng, đến giai đoạn ra đời, phát triển và giai đoạn bão hòa và suy thoái. Do đó, cơ quan thông tin phải thường xuyên khảo sát chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin hay nguồn lực thông tin của cơ quan để kịp thời có biện pháp xử lý đối với mỗi sản phẩm và dịch vụ thông tin. Từ thực tế đó, tôi đặt ra giả thuyết xu hướng cho đề tài là bất cứ DNTT nào cũng phải không ngừng nâng cao chất lượng thông tin nếu không muốn bị thất bại trong cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể, trong phạm vi đề tài này, DNTT Vĩ An phải xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin một cách có hiệu quả nhất để đáp ứng tối đa nhu cầu tin của người dùng tin, khẳng định doanh nghiệp là nhà cung cấp thông tin có uy tín. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu: tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng việc xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. 5.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về không gian nghiên cứu: nghiên cứu tại DNTT Vĩ An ở Hà Nội. - Phạm vi về thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 – 2009. 6. Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ, để khẳng định vai trò của nguồn lực thông tin trong các cơ quan TT - TV nói chung và trong các DNTT nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: - Phương pháp quan sát thực tế;
  5. 5 - Phương pháp phỏng vấn các chuyên gia; - Phương pháp điều tra xã hội học; - Phương pháp thống kê; phân tích; tổng hợp tài liệu. 7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài - Về mặt khoa học: đề tài cho thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, từ việc nghiên cứu lý luận về những thay đổi trong nhu cầu tin của người dùng tin trong điều kiện mới để xây dựng nguồn thông tin đáp ứng tối đa nhu cầu đó. - Về mặt ứng dụng: trên cơ sở khảo sát thực trạng, đề tài đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin; xây dựng và phát triển thương hiệu của nhà cung cấp thông tin truyền thông. 8. Dự kiến kết quả nghiên cứu Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực trạng nguồn lực thông tin, thực trạng xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. Đề tài nhằm xây dựng mô hình nhà cung cấp thông tin, ngoài các cơ quan thông tin của nhà nước, đáp ứng tối đa nhu cầu tin ngày càng đa dạng của xã hội. 9. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm ba chương như sau: Chương 1: Nguồn lực thông tin và vai trò của DNTT trong sự phát triển kinh tế xã hội Chương 2: Thực trạng xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An
  6. 6 NỘI DUNG Chương 1 NGUỒN LỰC THÔNG TIN VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC THÔNG TIN TẠI DOANH NGHIỆP TRUYỀN THÔNG VĨ AN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 1.1. Nguồn lực thông tin 1.1.1. Khái niệm thông tin Thuật ngữ thông tin (tiếng Anh- Information) có nguồn gốc từ thuật ngữ Latin - Infomatio, có nghĩa là diễn giải, thông báo. Theo nghĩa thông thường, thông tin được xem như một đối tượng có nội dung, một quá trình trao đổi giữa con người và môi trường để con người dễ dàng thích nghi với môi trường. Con người tồn tại luôn bị chi phối và chịu sự tác động của thế giới. Cũng chính vì vậy, việc nhận thức được thế giới là mục đích quan trọng của con người. Thông tin chính là chiếc cầu nối giữa thế giới với con người. Khái niệm thông tin xuất hiện lần đầu tiên từ những năm 40 của thế kỷ XX khi nhà bác học người Mỹ C.Shannon đưa ra lý thuyết thông tin. Cho tới nay, khái niệm thông tin đã được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông tin là một khái niệm phức tạp, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin. Năm 1948, bài báo “Một lý thuyết toán về truyền thông” công bố trên tạp chí Bell System Technical của C.Shannon đã đặt nền tảng cho lý thuyết thông tin. Theo C. Shannon, thông tin là quá trình liên hệ nhằm loại bỏ sự bất định. Thông tin là kết quả của phản ánh song không phải vì thế mà đánh đồng giữa thông tin và phản ánh. Thông tin còn tác động tới hành vi của chủ thể thông qua việc tiếp nhận và sử dụng thông tin. Từ đây, thông tin trong hệ thống xã hội được xem là tri thức được diễn đạt trong các thông điệp có khả
  7. 7 năng nâng cao tính trật tự, tính đa dạng nội tại của hệ thống. Như vậy, thuộc tính cơ bản của thông tin là đối lập với bất định và ngẫu nhiên đã được C. Shannon xác định trong lý thuyết thông tin toán học thì cũng phản ánh tính trật tự, tính tổ chức của các hệ thống. Mối quan hệ này làm cho "cách tiếp cận thông tin" trở nên có tính phổ biến khi nghiên cứu và xử lý các vấn đề về tổ chức, quản lý trong các hệ thống xã hội. Theo từ điển Random House Dictionary of English language, thông tin là tri thức được giao lưu hoặc được thu nhận có liên quan đến một sự kiện hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Trong khi từ điển Oxford English định nghĩa, thông tin là tri thức, là tin tức. Còn trong cuốn Guide to concept and term in data processing, thông tin là ý nghĩa mà con người muốn diễn đạt hoặc nhận thức ra, là sự biểu đạt các sự việc và ý tưởng bằng các phương tiện trình bày đã được quy định. Theo từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết, thông tin là tri thức được truyền từ người này qua người khác bằng lời nói, chữ viết hay bằng một phương tiện nào đó. Như vậy thông tin giúp con người hiểu biết thêm về một đối tượng, làm giảm độ bất ổn định về đối tượng. Nếu ta có một lượng thông tin nhiều bao nhiêu về sự vật, hiện tượng nào đó thì tính không ổn định hay nói cách khác là độ bất ổn định của sự vật, hiện tượng đó giảm đi bấy nhiêu. Thông tin chính là bộ phận tri thức được sử dụng để định hướng, để tác động tích cực, để điều khiển, nghĩa là, thông tin nhằm mục đích duy trì, hoàn thiện và phát triển hệ thống. Trong các hệ thống xã hội, thông tin xã hội là phần tri thức luân chuyển, vận động tuần hoàn không ngừng thông qua các quá trình thu thập, xử lý, bảo quản, tìm kiếm, phân phối và sử dụng. Ở phạm vi nghiên cứu của luận văn này, thông tin được hiểu là các số liệu, kiến thức phản ánh bản chất sự vật, hiện tượng và được chuyển tải tới người tiếp nhận thông qua một phương tiện nào đó.
  8. 8 1.1.2. Khái niệm nguồn lực thông tin Cũng như khái niệm thông tin, cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm nguồn lực thông tin. Song cho đến nay, nội hàm của khái niệm nguồn lực thông tin vẫn chưa xác định rõ ràng. Theo từ điển giải nghĩa về thông tin học, “ở dạng chung nhất, nguồn lực thông tin được hiểu như là tổ hợp các thông tin nhận được và tích lũy được trong quá trình phát triển khoa học và hoạt động thực tiễn của con người, để sử dụng nhiều lần trong sản xuất và quản lý xã hội. Nguồn lực thông tin phản ánh các quá trình và hiện tượng tự nhiên được ghi nhận trong kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học và trong các dạng tài liệu khác của hoạt động nhận thức và thực tiễn.” Trong khi đó, theo tài liệu hướng dẫn của UNESCO về việc xây dựng, phê duyệt và vận hành chính sách thông tin quốc gia lại định nghĩa: “nguồn lực thông tin bao gồm các dữ liệu thể hiện dưới dạng văn bản, số, hình ảnh hoặc âm thanh được ghi lại trên phương tiện theo quy ước và không theo quy ước, các sưu tập, những kiến thức của con người, những kiến thức của tổ chức và ngành CNTT”. Có người cho rằng, nguồn lực thông tin là vốn tài liệu trong các cơ quan thông tin. Có ý kiến lại cho rằng, nguồn lực thông tin không chỉ bao hàm các nguồn lực về tài liệu mà còn gồm cả các thành phần khác như nhân lực thông tin, tài lực thông tin… Tuy nhiên, chúng tôi đồng ý với quan điểm, nguồn lực thông tin phản ánh những hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, để sử dụng nhiều lần trong các quá trình sản xuất và quản lý xã hội. Đồng thời, nguồn lực thông tin được thể hiện dưới dạng tài liệu với nhiều hình thức khác nhau: văn bản, số, âm thanh, hình ảnh… Căn cứ vào sở hữu, nguồn lực thông tin có thể phân ra ở cấp toàn cầu, quốc gia, khu vực, địa phương, ngành, từng cơ quan, đơn vị, cá nhân. Trong
  9. 9 đó, nguồn lực thông tin cá nhân có thể hiểu như nguồn lực thông tin của các hãng, các tổ chức, cá nhân được thành lập và hoạt động bằng tiền của các tổ chức, cá nhân đó. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn thường quan niệm khái niệm “nguồn lực thông tin” chỉ dùng trong các cơ quan thông tin, thư viện. Song ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, bất cứ một tổ chức, doanh nghiệp nào cũng cần đến thông tin để phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình. Do đó, mỗi doanh nghiệp đều có một bộ phận thông tin có chức năng thu thập, xử lý, khai thác thông tin phục vụ cho lĩnh vực của mình. Chẳng hạn, nguồn lực thông tin của trường đại học dân lập, của một công ty, một DNTT. 1.2. Doanh nghiệp truyền thông Vĩ An 1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp truyền thông Truyền thông là quá trình trao đổi thông tin giữa các thực thể. Thông tin có thể được trao đổi thông qua hệ thống các ký hiệu hoặc không cần đến ký hiệu (sự thấu cảm). Truyền thông cũng là một ngành học nghiên cứu các quá trình trao đổi thông tin. Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những gì người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ. Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục tiêu. Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm, hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này
  10. 10 được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin. Doanh nghiệp truyền thông là các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động nhằm tạo ra môi trường tương tác thông tin giữa các cá nhân, tổ chức với nhau, nhằm truyền bá, phổ biến thông tin tới đối tượng tiếp nhận thông qua một phương tiện cụ thể. Dựa trên các phương tiện chuyển tải thông tin, chúng ta thấy có rất nhiều cơ quan truyền thông như: Đài truyền hình, Hãng thông tấn xã…Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, đối tượng nghiên cứu là DNTT Vĩ An là một đơn vị chuyên tổng hợp thông tin, cung cấp thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau về lĩnh vực cụ thể để cung cấp cho mỗi đối tượng khách hàng. DNTT Vĩ An hoạt động như một nhà cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thông tin. Trên thị trường thế giới về thông tin và các dịch vụ và sản phẩm thông tin, người ta có thể chia chúng thành các bộ phận chính, đặc trưng cho các nước phát triển và không phụ thuộc vào kênh truyền tin, nghĩa là được phổ biến cả trên Internet, như sau: - Bộ phận thông tin doanh nghiệp (thị trường chứng khoán, tài chính, thương mại, kinh tế, thống kê) bao gồm: + Thông tin chứng khoán và tài chính: thông tin về giá cổ phiếu, tỷ giá ngọai tệ, thị trường hàng hóa và tiền tệ, đầu tư, giá cả,… do các thị trường chứng khoán, các cơ sở chuyên về thông tin chứng khoán và thị trường, các công ty môi giới, nhà băng cung cấp; + Thông tin kinh tế và thống kê xã hội: thông tin về chỉ số kinh tế, dân số, xã hội dưới dạng chuỗi động thái, mô hình dự báo và đánh giá,…do các cơ quan nhà nước, các công ty nghiên cứu và tư vấn về nhu cầu của thị trường cung cấp;
  11. 11 + Thông tin thương mại: thông tin về các hãng, công ty, tập đoàn, về hướng hoạt động và sản phẩm của chúng, về giá cả, tình hình tài chính, các mối quan hệ, các hợp đồng… + Tin tức trong lĩnh vực kinh tế và kinh doanh do các bộ phận thông tin chuyên dạng cung cấp. - Bộ phận thông tin chuyên môn (thông tin khoa học công nghệ, thông tin chuyên dạng, các tài liệu cấp 1) bao gồm: + Thông tin chuyên ngành: thông tin và dữ liệu chuyên cho luật sư, bác sỹ, dược sỹ,…; + Thông tin khoa học và công nghệ: thông tin tư liệu, thư mục, tóm tắt, tra cứu và các dữ liệu trong lĩnh vực các khoa học cơ bản và ứng dụng, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội, các ngành nghề sản xuất và các lĩnh vực hoạt động của con người; + Dịch vụ của các tổ chức hỗ trợ cho việc tiếp cận đến nguồn thông tin cấp 1 (kể cả dưới dạng sao chụp tài liệu): thông qua thư viện và các bộ phận chuyên trách, khả năng có được và nhận được tài liệu gốc theo dịch vụ mượn giữa các trung tâm TT - TV. - Bộ phận thông tin đại chúng và tiêu dùng (tin tức, các dịch vụ trên cơ sở phương tiện viễn thông toàn cầu hiện đại) bao gồm: + Tin tức và sách báo: thông tin của các hãng thông tấn báo chí, tạp chí điện tử, sách tra cứu, bách khoa toàn thư; + Thông tin tiêu dùng và giải trí, hướng vào việc sử dụng tại gia và không mang tính công vụ: tin tức địa phương, dự báo thời tiết, bảng giờ tàu xe, các trò chơi, thông tin về tỷ giá hối đoái, cho thuê ôtô,… Loại thông tin này được phổ biến dưới dạng các ấn phẩm truyền thống hoặc theo kênh truyền hình (tài liệu đa phương tiện), đài phát thanh, và trong vài năm gần đây- thông qua mạng máy tính và trước hết là qua Internet.
  12. 12 - Bộ phận thông tin xã hội-chính trị: là thông tin phục vụ cho các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội. Một điểm cần lưu ý là, việc phân chia thị trường thông tin ra thành các bộ phận nói trên hoàn toàn mang tính ước lệ. Tuy nhiên, sự phân chia này là cần thiết, bởi việc làm này cho phép cấu trúc hóa thị trường trên cơ sở nhóm người dùng tin với các vấn đề mà họ phải giải quyết, tức là cho phép xác định phạm vi mà một tổ chức thông tin có thể định hướng vào. Dựa trên sự phân chia thị trường thông tin như nói trên mà DNTT Vĩ An đã xây dựng nguồn lực thông tin cũng như các sản phẩm và dịch vụ thông tin phù hợp để cung cấp theo nhu cầu của người dùng tin. 1.2.2. Khái quát về doanh nghiệp truyền thông Vĩ An 1.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Vĩ An DNTT Vĩ An – đơn vị chuyên cung cấp thông tin chọn lọc từ các phương tiện thông tin truyền thông như báo, tạp chí, website. DNTT Vĩ An hoạt động theo các quy định về báo chí, là doanh nghiệp có chức năng, nhiệm vụ như sau: - Dịch vụ tổng hợp thông tin kinh tế, xã hội từ báo chí, tuyên truyền cho doanh nghiệp; - Dịch vụ cập nhật thông tin, CSDL cho website doanh nghiệp; - Đại lý kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông; - Dịch vụ nghiên cứu, phân tích thị trường; - Tiếp thị, xúc tiến thương mại; - Kinh doanh thương mại điện tử, dịch vụ quảng cáo thương mại; - Xây dựng và phát triển website cho doanh nghiệp; - Dịch vụ đào tạo CNTT; - Đào tạo truyền thông: kỹ năng viết, biên tập tin cho báo, trang tin điện tử; kỹ năng tổ chức sự kiện, quan hệ quần chúng; kỹ năng phân tích thị trường, điểm báo.
  13. 13 Chức năng và nhiệm vụ của DNTT là một trong những yếu tố quy định nội dung nguồn lực thông tin của doanh nghiệp. Để xây dựng được nguồn lực thông tin, trước hết doanh nghiệp phải dựa trên chức năng, nhiệm vụ của chính doanh nghiệp mình. Chức năng, nhiệm vụ và định hướng phát triển của DNTT, bản chất và phạm vi nguồn tin mà họ có ý định xây dựng cần phải được thể hiện trong chính sách phát triển nguồn tin. Tất cả những yếu tố đó có tác động trực tiếp đến nguồn lực thông tin của doanh nghiệp. Qua vốn tài liệu hay nguồn thông tin thu thập của doanh nghiệp thể hiện được chức năng của nó, vì vậy việc lựa chọn nguồn thông tin tất yếu dựa trên cơ sở khái quát chức năng và nhiệm vụ của đơn vị. 1.2.2.2. Cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực của Vĩ An * Về cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp truyền thông Vĩ An bao gồm Ban Giám đốc và 5 phòng chức năng như sau: Ban Giám đốc: Gồm Giám đốc và 01 Phó Giám đốc - Phòng Biên tập: 20 người - Phòng Kinh doanh: 11 người - Phòng Hành chính: 6 người - Phòng Kế toán: 6 người - Phòng Website: 5 người Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp truyền thông Vĩ An Ban Giám đốc Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Biên tập Kinh Hành Kế toán Website doanh chính
  14. 14 * Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban: - Ban Giám đốc: Chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động của doanh nghiệp và chỉ đạo các đơn vị chức năng thực hiện đúng nguyên tắc, chế độ của nhà nước; Làm việc với các cơ quan có liên quan, ký các quyết định thuộc thẩm quyền; Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật nhằm phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp; Trực tiếp lãnh đạo công tác tổ chức bộ máy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. - Phòng Biên tập: Xây dựng nguồn lực thông tin cho doanh nghiệp; Chịu trách nhiệm về sản phẩm và dịch vụ thông tin của doanh nghiệp; Đào tạo nhân viên về kỹ năng biên tập và báo chí; Giải quyết mọi yêu cầu của khách hàng liên quan đến nội dung sản phẩm và dịch vụ thông tin. - Phòng Kinh doanh: Khai thác và tìm kiếm các khách hàng cho Công ty, Phụ trách công tác chăm sóc khách hàng; Xây dựng các phương án kinh doanh cho Công ty. - Phòng Hành chính: Giúp lãnh đạo Công ty trong công tác quản lý về bộ máy hành chính; Giúp lãnh đạo Công ty theo dõi việc thực hiện kế hoạch công tác của các phòng và làm báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động của Công ty; Giúp ban lãnh đạo Công ty thực hiện tốt công tác quản lý nhân sự trong đơn vị theo quy định của Công ty; Thực hiện các công việc về hành chính, tổ chức và quản trị Công ty. - Phòng Kế toán: Thực hiện tốt về công việc quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư trang thiết bị của doanh nghiệp theo đúng quy định; Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo quyết toán, công khai tài chính theo quy định của doanh nghiệp; Chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty về công tác tài chính kế toán, đảm bảo chế độ chính sách, theo quy định của Giám đốc. - Phòng Website: Quản trị website của Công ty; Chịu trách nhiệm về nội dung thông tin trên website; Quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp
  15. 15 trên cộng đồng online, Xây dựng và khai thác các dịch vụ thông tin thông qua website. * Nguồn nhân lực của Công ty Là một doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp truyền thông Vĩ An luôn quan tâm đến công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực cho Công ty. Doanh nghiệp có 50 nhân viên, đều có trình độ đại học trở lên. Cụ thể: có 2 thạc sỹ , 48 cử nhân về các chuyên ngành như báo chí, kinh tế, ngoại ngữ… Theo khảo sát, 100% cán bộ làm công tác xử lý thông tin đều có nghiệp vụ báo chí, tốt nghiệp ở ngành báo chí, thông tin. Do đó, họ rất thành thạo về nghiệp vụ báo chí cũng như các thao tác tìm kiếm và xử lý thông tin. Thêm vào đó, họ cũng có trình độ về tin học, điều này hỗ trợ nhiều trong hoạt động của họ. Riêng đội ngũ biên tập viên tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp là những người tốt nghiệp chuyên ngành ngoại ngữ. Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực nội tại của đơn vị và đồng thời cũng là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến nguồn lực thông tin của chính đơn vị đó. Đối với DNTT, đội ngũ những người làm công tác thu thập thông tin, xử lý thông tin được gọi là biên tập viên. Người quản lý hay giám đốc của doanh nghiệp phải đánh giá được thực chất trình độ, năng lực nhân viên của mình để có chính sách phát triển nguồn tin hợp lý. Khâu biên tập tin để cho ra những sản phẩm thông tin cuối cùng có thể nói là khâu nghiệp vụ quan trọng do đó đòi hỏi người biên tập phải thành thạo về nghiệp vụ và có sự am hiểu về nhiều lĩnh vực mới có thể xử lý tốt thông tin thu thập được. 1.3. Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại Vĩ An 1.3.1. Đặc điểm người dùng tin tại Vĩ An Người dùng tin là đối tượng mà hoạt động thông tin hay DNTT hướng tới, do đó cần phải tập trung nghiên cứu đầy đủ đối tượng người dùng tin nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu tin của họ.
  16. 16 Người dùng tin cũng là yếu tố trung tâm của hoạt động thông tin bởi vì, người dùng tin sử dụng kết quả của hoạt động thông tin, sử dụng các sản phẩm và dịch vụ thông tin của doanh nghiệp. Đồng thời, người dùng tin cũng đánh giá các sản phẩm và dịch vụ thông tin thông qua các chỉ số về mức độ phù hợp hay không phù hợp, có thông tin phản hồi về hiệu quả sử dụng các sản phẩm và dịch vụ thông tin tới DNTT để họ điều chỉnh các sản phẩm và dịch vụ thông tin phù hợp với nhu cầu. Các DNTT cũng như các cơ quan thông tin, với mục tiêu để phục vụ tốt hơn cho khách hàng của mình, họ phải phân chia người dùng tin thành các nhóm khác nhau. Mỗi nhóm người dùng tin sẽ có những đặc điểm nhu cầu tin khác nhau, do đó cần phải phân nhóm để tạo ra các sản phẩm phù hợp với từng đối tượng. Người ta có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau để phân chia người dùng tin, tuy nhiên để xác định nhu cầu của một đối tượng thì phải dựa vào tính chất lao động của đối tượng đó, hay nói cách khác đó là tiêu chí nghề nghiệp. Ngoài ra, người ta thường chọn nghề nghiệp làm tiêu chí phân chia là vì nhu cầu tin là một hiện tượng nằm trong cấu trúc tâm lý của con người, luôn luôn bị ảnh hưởng bởi đặc điểm tâm lý. Khi đặc điểm tâm lý thay đổi thì nhu cầu tin cũng thay đổi. Mặc dù có nhiều yếu tố tác động đến đặc điểm tâm lý song hoạt động chủ đạo của con người quyết định đến đặc điểm tâm lý là hoạt động lao động. Việc tìm hiểu đặc điểm người dùng tin của Công ty truyền thông Vĩ An đã được nghiên cứu thông qua kết quả của quá trình điều tra, nghiên cứu nhu cầu tin của người dùng tin tại doanh nghiệp. Để xác định nhu cầu tin, Công ty đã xây dựng mẫu phiếu điều tra (Phụ lục 3). Kết quả điều tra với tổng số phiếu phát ra là 90 phiếu, số phiếu thu về là 86 phiếu. Trình độ học vấn của người dùng tin được trình bày ở bảng 1.1.
  17. 17 Bảng 1.1: Trình độ học vấn của người dùng tin Tổng số Nam Nữ Trình độ học vấn Số người % Số người % Số người % Tiến sỹ 13 15.2 10 76.9 3 23.1 Thạc sỹ 36 41.9 24 66.6 12 33.4 Cử nhân 35 40.7 21 60 14 40 Trình độ học vấn và năng lực chuyên môn của đội ngũ người dùng tin là một yếu tố đặc biệt quan trọng, cấu thành nên chất lượng của người dùng tin. Dựa trên những đặc điểm về trình độ nhận thức và năng lực chuyên môn để cơ quan cung cấp thông tin phù hợp với trình độ của họ, có như vậy thông tin sử dụng mới đạt hiệu quả cao. Kết quả khảo sát cho thấy, người dùng tin của doanh nghiệp Vĩ An đều là những người có trình độ học vấn cao do đó thông tin cung cấp cho những đối tượng này phải có giá trị thực tiễn cao, đảm bảo về số lượng và chất lượng nội dung thông tin cũng như phải đảm bảo độ tin cậy và chính xác. Đồng thời khảo sát cũng cho thấy, người dùng tin của doanh nghiệp Vĩ An hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng hầu hết là những nhà quản lý, lãnh đạo, họ muốn cung cấp thông tin để hỗ trợ cho hoạt động quản lý, ra quyết định của mình. Các lĩnh vực hoạt động của người dùng tin tại Vĩ An được thể hiện ở bảng 1.2. Bảng 1.2: Các lĩnh vực hoạt động của người dùng tin Tổng số Nam Nữ Lĩnh vực hoạt động Số Số Số % % % người người người Quản lý nhà nước 38 44.2 35 92.1 3 7.9 Quản lý doanh nghiệp 29 33.7 24 82.7 5 17.3 Nghiên cứu 19 22.1 17 89.5 2 10.5
  18. 18 Đối tượng người dùng tin của Vĩ An không chỉ là các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong nước mà còn có số lượng lớn các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam do đó ngôn ngữ sử dụng của người dùng tin cũng hết sức đa dạng. Ngoài tiếng Việt là chủ đạo, thì ngôn ngữ nước ngoài được người dùng tin sử dụng nhiều nhất là tiếng Anh. Trong tổng số 86 người được hỏi có 25 người sử dụng tiếng Anh (chiếm 29.1%); tiếp đến là tiếng Trung có 8 người sử dụng (chiếm 9.2%) và tiếng Pháp có 3 người sử dụng (chiếm 3.5%). Bảng 1.3, tổng hợp số liệu về loại ngôn ngữ mà người dùng tin quan tâm và sử dụng. Bảng 1.3: Ngôn ngữ người dùng tin sử dụng Ngôn ngữ Tổng số người Tỷ lệ (%) Tiếng Việt 50 58,2 Tiếng Anh 25 29,1 Tiếng Trung 8 9,2 Tiếng Pháp 3 3,5 Độ tuổi của người dùng tin phần nào phản ánh mức độ năng động, tiềm năng phát triển, sự ảnh hưởng tới tâm lý sử dụng tin của người dùng tin. Số liệu về độ tuổi của người dùng tin, theo thống kê qua phiếu điều tra được trình bày tại bảng 1.4. Bảng 1.4: Độ tuổi của người dùng tin có cấu trúc theo thứ tự Nữ Nam Tổng số Độ tuổi Số Số Số người % % % người người 21 – 30 5 71.4 2 28.6 7 8.2 31 – 40 8 66.6 4 33.4 12 13.9 41 – 50 8 21.1 30 78.9 38 44.2 51 - 60 8 27.6 21 72.4 29 33.7
  19. 19 Theo khảo sát tại DNTT Vĩ An, chúng ta thấy đối tượng người dùng tin chủ yếu là các nhà quản lý. Nếu căn cứ vào đặc điểm nghề nghiệp và cấp quản lý, đối tượng khách hàng tiêu biểu của doanh nghiệp có thể được chia thành các nhóm như sau: + Các cơ quan trung ương, có các khách hàng như: Bộ Tài chính; Bộ Giáo dục; Bộ Công nghiệp; Bộ Thuỷ sản; Cục Kiểm lâm; Kho bạc Nhà nước Trung ương; Đài Truyền hình Việt Nam; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. + Ở các địa phương: UBND TP Hà Nội; UBND TP Hải Phòng; UBND tỉnh Bình Dương; UBND tỉnh Quảng Ninh; UBND tỉnh Khánh Hoà… + Các tổ chức quốc tế: Đại sứ quán Australia tại Việt Nam; Đại sứ quán Indonesia tại Việt Nam, Văn phòng Hội đồng Anh tại Việt Nam; Quỹ Động vật Hoang dã thế giới – WWF; Cisco System Vietnam; Công ty truyền thông FCR của Pháp, Công ty bảo hiểm AON, Hiệp hội các doanh nghiệp Hong Kong kinh doanh tại Việt Nam. + Các doanh nghiệp: Công ty phân phối ô tô AMEC… Như vậy, khách hàng chủ yếu là các nhà quản lý, nhà lãnh đạo. Họ có nhu cầu thông tin rất lớn, nội dung nhu cầu tin của nhà quản lý đa dạng, phong phú bởi vì muốn nắm vững đối tượng quản lý thì họ phải cần mọi thông tin về đối tượng quản lý, môi trường, các vấn đề liên quan. Đồng thời, thông tin phải sâu, gắn với lĩnh vực quản lý, sâu vì phải hiểu đối tượng. Các nhà quản lý thường có ít thời gian để tiếp cận thông tin, do đó yêu cầu thông tin phải mang tích phân tích, tổng hợp cao, ngắn gọn, súc tích, có giá trị cao. Nội dung thông tin càng hay, càng hấp dẫn, cập nhật thì giá trị càng cao. Thông tin mang lại lợi ích kinh tế lớn lao, thậm chí trong những trường hợp cụ thể, thông tin còn được coi là vô giá. 1.3.2. Đặc điểm nhu cầu tin tại Vĩ An 1.3.2.1. Khái niệm nhu cầu tin Nhu cầu tin là những đòi hỏi mang tính khách quan về tiếp nhận và sử dụng tin để giải quyết một vấn đề trong hoạt động của con người. Con người
  20. 20 càng tham gia nhiều hoạt động bao nhiêu thì nhu cầu tin càng nhiều bấy nhiêu. Hoạt động càng phức tạp thì càng đòi hỏi nhiều thông tin. Những người hoạt động trong lĩnh vực nhiều rủi ro thì nhu cầu tin càng nhiều hơn, bởi vì nhờ có thông tin họ sẽ lượng trước được những rủi ro có thể sẽ xảy ra. Nắm vững nhu cầu thông tin, đáp ứng kịp thời, đầy đủ và chính xác là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị thông tin cũng như các doanh nghiệp cung cấp thông tin. Nhu cầu thông tin là nhu cầu khách quan của người dùng tin về những thông tin cần thiết cho công việc của họ. Nó tùy thuộc vào từng nhóm người dùng tin, vào bản chất công việc và nhiệm vụ mà người dùng tin phải hoàn thành. Chất lượng của việc đáp ứng nhu cầu tin lại phụ thuộc vào sự nắm bắt những đặc điểm của những nhu cầu, yêu cầu dùng tin đó. Yêu cầu tin càng rõ rang, cụ thể thì việc thỏa mãn nhu cầu tin càng nhanh chóng và hiệu quả. Vì thế, nếu không nắm chắc nhu cầu tin sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình hoạt động của nhà cung cấp thông tin, từ khâu bổ sung đến khâu cung cấp sản phẩm, gây lãng phí tiền của và công sức. Theo Dervin [15], nhu cầu tin là trung tâm trong quá trình khai thác, sử dụng thông tin của người dùng tin. Dervin đã xây dựng biểu đồ giữa các thành tố: người dùng tin, nhu cầu tin, các hệ thống thông tin và các sản phẩm, dịch vụ thông tin. Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa người dùng tin, nhu cầu tin và các sản phẩm thông tin Người dùng tin Nhu cầu tin Sản phẩm Nguồn thông tin
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0