Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Xây dựng chương trình đạo tạo hướng dẫn viên Aerobic tại trường Đại học Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh
lượt xem 8
download
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm tìm ra những nội dung, yêu cầu, kiến thức cần thiết để xây dựng chương trình đào tạo hướng dẫn viên Aerobic 4 Cấp độ khác nhau, có trình độ phù hợp với yêu cầu xã hội, có sự khác biệt với các chương trình đào tạo một số quốc gia trên thế giới và của Liên đoàn Thể dục thế giới, phù hợp nhu cầu thực tiễn của Việt Nam tại trường Đại học Thể dục Thể Thao TP. Hồ Chí Minh. Có thể ứng dụng vào trong công tác đào tạo Hướng dẫn viên môn Aerobic cho Liên đoàn Thể dục TP. Hồ Chí Minh và Liên đoàn Thể dục Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Xây dựng chương trình đạo tạo hướng dẫn viên Aerobic tại trường Đại học Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN TRUNG KIÊN XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO HƯỚNG DẪN VIÊN AEROBIC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HOC ̣ TP. Hồ Chí Minh, năm 2018
- 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN TRUNG KIÊN XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO HƯỚNG DẪN VIÊN AEROBIC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nganh: Giáo d ̀ ục hoc̣ Ma sô: ̃ ́ 9140101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HOC ̣ Cán bộ hướng dẫn: HD 1: PGS.TS Nguyễn Tiên Tiến HD 2: GS.TS Nguyễn Xuân Sinh TP. Hồ Chí Minh, năm 2018 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào của tác giả khác. Tác giả
- MỤC LỤC Trang
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BVHTTDL Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch CĐ Cao đẳng CDIO Conceive Design Implement – Operate CĐR Chuẩn đầu ra CLB Câu lạc bộ CTĐT Chương trình đào tạo ĐH Đại học CDR_A Chuẩn đầu ra cấp cao CDR_B Chuẩn đầu ra trung cấp CDR_C Chuẩn đầu ra cơ bản CDR_D Chuẩn đầu ra sơ cấp GS.TS Giáo sư tiến sĩ HLV Huấn luyện viên HDV Hướng dẫn viên KHHL Kế hoạch huấn luyện KN Kỹ năng NK Năng khiếu PC Phong cách PGS.TS Phó giáo sư tiến sĩ PPHL Phương pháp huấn luyện SDB Sự đảm bảo SHLCT_A Sự hài lòng chương trình đào tạo Cấp độ 4 SHLCT_B Sự hài lòng chương trình đào tạo Cấp độ 3 SHLCT_C Sự hài lòng chương trình đào tạo Cấp độ 2 SHLCT_D Sự hài lòng chương trình đào tạo Cấp độ 1 STT Sự tự tin TC Tính cách TDTT Thể dục thể thao TH Tiểu học THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh TS Tiến sĩ
- YC Yêu cầu VĐV Vận động viên
- DANH SÁCH CÁC BẢNG TT NỘI DUNG BẢNG TRANG Bảng 1.1 Phân loại các hình hình thức đào tạo Những định nghĩa chính thức về Giới thiệu, Giảng dạy và Bảng 1.2 Sử dụng Chuẩn đầu ra Cấp độ 3 theo phương pháp CDIO cho ngành Bảng 1.3 kỹ sư cơ khí tại Học viện Công nghệ Machassusette (MIT), Hoa kỳ [90] Bảng 3.1 Ý kiến của chuyên gia về 34 biến thang đo sơ bộ ban đầu. Bảng 3.2 Hình thức trả lời bảng câu hỏi Hệ số tin cậy của Cronbach's Alpha về thực trạng nhu cầu Bảng 3.3 học tập và công tác giảng dạy môn Aerobic tại các trường học ở TP. Hồ Chí Minh. Bảng 3.4 KMO and Bartlett's Test Kết quả phân tích nhân tô về khảo sát nhu cầu tập Aerobic Bảng 3.5 đối với công tác giảng dạy của hướng dẫn viên Kết quả thống kê về thực trạng nhu cầu học tập của học Bảng 3.6 viên Bảng 3.7 Tính cách của HVD trong công tác giảng dạy môn Aerobic Bảng 3.8 Kỹ năng của HDV trong công tác giảng dạy Aerobic Bảng 3.9 Phong cách của HDV trong công tác giảng dạy môn Aerobic Bảng 3.10 Yêu cầu của HDV trong công tác giảng dạy Aerobic Chuẩn đầu ra Cấp độ 4 theo phương pháp CDIO cho Bảng 3.11 chương trình đào tạo HDV các cấp Aerobic tại trường ĐH TDTT TP.HCM Mô tả hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo chuẩn Bảng 3.12 đầu ra CTĐT Cấp độ 1 Mô tả hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo chuẩn Bảng 3.13 đầu ra CTĐT Cấp độ 2 Mô tả hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo chuẩn Bảng 3.14 đầu ra CTĐT Cấp độ 3. Mô tả hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo chuẩn Bảng 3.15 đầu ra CTĐT Cấp độ 4. Bảng 3.16 Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia về CĐR Cấp độ 1 Bảng 3.17 Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia về CĐR Cấp độ 2 Bảng 3.18 Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia về CĐR Cấp độ 3 Bảng 3.19 Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia về CĐR Cấp độ 4 Kết quả khảo sát ý kiến cơ quan tuyển dụng lao động về Bảng 3.20 CĐR Cấp độ 1 Kết quả khảo sát ý kiến cơ quan tuyển dụng lao động về Bảng 3.21 CĐR Cấp độ 2 Kết quả khảo sát ý kiến cơ quan tuyển dụng lao động về Bảng 3.22 CĐR Cấp độ 3 Kết quả khảo sát ý kiến cơ quan tuyển dụng lao động về Bảng 3.23 CĐR Cấp độ 4
- TT NỘI DUNG BẢNG TRANG Kết quả phỏng vấn về lựa chọn nội dung chương trình Cấp Bảng 3.24 độ 1 Kết quả phỏng vấn về việc lựa chọn nội dung chương trình Bảng 3.25 Cấp độ 2 Kết quả phỏng vấn về việc lựa chọn nội dung chương trình Bảng 3.26 Cấp độ 3 Kết quả phỏng vấn về việc lựa chọn nội dung chương trình Bảng 3.27 Cấp độ 4 Thống kê số lượng học viên tham gia chương trình học Bảng 3.28 HDV Aerobic tại trường ĐH TDTT TP.HCM Thống kê số lượng học viên tham gia chương trình học Bảng 3.29 HDV Aerobic của trường ĐH TDTT TP.HCM tại tỉnh Đồng Nai Kết quả ý kiến của học viên về cấu trúc và kiến thức Cấp Bảng 3.30 độ 1 Bảng 3.31 Kết quả ý kiến của học viên về kỹ năng Cấp độ 1 Kết quả ý kiến học viên về phương pháp kiểm tra, tổ chức Bảng 3.32 Sau 130 thực hiện Cấp độ 1 Kết quả ý kiến của học viên về cấu trúc và kiến thức Cấp Bảng 3.33 Sau 132 độ 2 Bảng 3.34 Kết quả ý kiến của học viên về kỹ năng Cấp độ 2 Sau 133 Kết quả ý kiến học viên về phương pháp kiểm tra, tổ chức Bảng 3.35 Sau 134 thực hiện Cấp độ 2 Kết quả ý kiến của học viên về cấu trúc và kiến thức Cấp Bảng 3.36 Sau 135 độ 3 Bảng 3.37 Kết quả ý kiến của học viên về kỹ năng Cấp độ 3 Kết quả ý kiến học viên về kiểm tra, phương pháp tổ chức Bảng 3.38 thực hiện Cấp độ 3 Kết quả ý kiến của học viên về cấu trúc và kiến thức Cấp Bảng 3.39 Sau 138 độ 4 Bảng 3.40 Kết quả ý kiến của học viên về kỹ năng Cấp độ 4 Kết quả ý kiến học viên về kiểm tra, phương pháp tổ Bảng 3.41 Sau 140 chứcthực hiện Cấp độ 4 Kết quả ý kiến phản hồi của nhà quản lý có học viên tham Bảng 3.42 gia chương trình đào tạo
- DANH SÁCH CAC BI ́ ỂU ĐỒ TT NỘI DUNG BIỂU ĐỒ TRANG Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ % các chuyên gia được khảo sát Biểu đồ 3.2 Nguyên nhân học viên tham gia lớp hướng dẫn viên Aerobic Biểu đồ 3.3 Nhu cầu tham gia học môn Aerobic Biểu đồ 3.4 Động cơ tham gia giảng dạy môn Aerobic Biểu đồ 3.5 Sự hiểu biết về Aerobic của học viên Biểu đồ 3.6 Tham gia tập luyện môn Aerobic của học viên Biểu đồ 3.7 Thâm niên giảng dạy Aerobic của các học viên Biểu đồ 3.8 Nhu cầu tham gia lớp học của học viên Biểu đồ 3.9 Nguyên nhân tham gia công tác giảng dạy Aeobic Biểu đồ 3.10 Sự phát triển phong trào Aerobic tại địa phương Biểu đồ 3.11 Số CLB, trường học tổ chức giảng dạy môn Aerobic Biểu đồ 3.12 Số lượng giáo viên, HDV tham gia giảng dạy Aerobic Biểu đồ 3.13 Trình độ chuyên môn Aerobic của hướng dẫn viên Biểu đồ 3.14 Số lượng học sinh tham gia tập luyện thường xuyên Biểu đồ 3.15 Nguồn kinh phí dành cho môn Aerobic tại các đơn vị Biểu đồ 3.16 Tính cách của HDV trong công tác giảng dạy Aerobic Phong cách của HDV trong công tác giảng dạy Biểu đồ 3.17 Aerobic Những kỹ năng của HDV trong công tác giảng dạy Biểu đồ 3.18 Aerobic Những yêu cầu của HDV trong công tác giảng dạy Biểu đồ 3.19 Aerobic Thông tin về học hàm, học vị của người được phỏng Biểu đồ 3.20 vấn Biểu đồ 3.21 Ý kiến của chuyên gia về CĐR Cấp độ 1 Biểu đồ 3.22 Ý kiến của chuyên gia về CĐR Cấp độ 2 Biểu đồ 3.23 Ý kiến của chuyên gia về CĐR Cấp độ 3 Biểu đồ 3.24 Ý kiến của chuyên gia về CĐR Cấp độ 4 Thông tin về trình độ học vấn người được phỏng vấn Biểu đồ 3.25 CĐR Biểu đồ 3.26 Ý kiến của của cơ quan tuyển dụng lao động Cấp độ 1 Biểu đồ 3.27 Ý kiến của của cơ quan tuyển dụng lao động Cấp độ 2 Biểu đồ 3.28 Ý kiến của cơ quan tuyển dụng lao động Cấp độ 3 Ý kiến của của cơ quan tuyển dụng lao động Cấp độ Biểu đồ 3.29 4 Biểu đồ 3.30 Kết quả tham gia khóa đào tạo của học viên Cấp độ 1 Biểu đồ 3.31 Kết quả tham gia khóa đào tạo của học viên Cấp độ 2
- TT NỘI DUNG BIỂU ĐỒ TRANG Biểu đồ 3.32 Kết quả tham gia khóa đào tạo của học viên Cấp độ 3 Biểu đồ 3.33 Kết quả tham gia khóa đào tạo của học viên Cấp độ 4 Biểu đồ 3.34 Ý kiến về cấu trúc, kiến thức chương trình Cấp độ 1 Biểu đồ 3.35 Ý kiến về kỹ năng của chương trình Cấp độ 1 Biểu đồ 3.36 Ý kiến về kiểm tra, phương pháp tổ chức thực hiện Cấp độ 1 Biểu đồ 3.37 Ý kiến về cấu trúc, kiến thức chương trình Cấp độ 2 Biểu đồ 3.38 Ý kiến về kỹ năng của chương trình Cấp độ 2 Biểu đồ 3.39 Ý kiến về kiểm tra, phương pháp tổ chức thực hiện Cấp độ 2 Biểu đồ 3.40 Ý kiến về cấu trúc, kiến thức của chương trình Cấp độ 3 Biểu đồ 3.41 Ý kiến về kỹ năng của chương trình Cấp độ 3 Biểu đồ 3.42 Ý kiến về kiểm tra, phương pháp tổ chức thực hiện Cấp độ 3 Biểu đồ 3.43 Ý kiến về cấu trúc, kiến thức của chương trình Cấp độ 4 Biểu đồ 3.44 Ý kiến về kỹ năng của chương trình Cấp độ 4 Biểu đồ 3.45 Ý kiến về kiểm tra, phương pháp tổ chức thực hiện Cấp độ 4 So sánh 4 cấp của chương trình về ý kiến phản hồi của học Biểu đồ 3.46 viên Sự hài lòng của nhà quản lý về chương trình đào tạo có học Biểu đồ 3.47 viên sau khi tham gia chương trình học. DANH SÁCH HÌNH, SƠ ĐỒ TT NỘI DUNG HÌNH, SƠ ĐỒ TRANG Hình 1.1 Các bước của công tác đào tạo Hình 1.2 Sơ đồ quy trình CDIO Hình 1.3 Chuẩn đầu ra CDIO Sơ đồ 2.1 Quy trình lập phiếu khảo sát của đề tài Sơ đồ 2.2 .Mô hình chương trình đào tạo hướng dẫn viên Aerobic
- 11 PHẦN MỞ ĐẦU Đầu tư cho Thể dục thể thao là đầu tư cho con người, cho sự phát triển của đất nước. Tăng tỉ lệ chi ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất thể dục, thể thao và đào tạo vận động viên thể thao thành tích cao; Đồng thời phát huy các nguồn lực của xã hội để phát triển Thể dục thể thao, phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức xã hội trong quản lý, điều hành các hoạt động Thể dục thể thao. Đặc biệt trong giai đoạn gần đây, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực ngành không ngừng được đẩy mạnh với nhiều kế hoạch và hình thức như đào tạo Đại học và Sau đại học đối với nhân lực ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý cho cán bộ ngành ở quận huyện, phường xã. Aerobic (Thể dục Nhịp điệu) là hình thức tập luyện phổ biến, nó được xem là phương pháp tập tuyệt vời để nâng cao sức khoẻ cho mọi người. Từ “Aerobic” được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1875 do Bác sĩ người Pháp Pasteur giải nghĩa rằng Oxy cần cho cuộc sống tức là “Aerobic”. Theo gốc Hy Lạp, từ này mang nghĩa chính là “Oxy cho cuộc sống” (Oxygen for life). Nhu cầu tập luyện Aerobic tại các phòng tập của các câu lạc bộ, các trung tâm chăm sóc sức khỏe là rất lớn, đặc biệt tại các trường phổ thông từ những trường Mầm non, Tiểu học, Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông, Trung học Chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học. Hiện nay theo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh [86] thì tại TP. Hồ Chí Minh có khoảng 1830 trường Mầm non, Nhà trẻ, Nhóm trẻ công lập và tư thục; 498 trường Tiểu học công lập và tư thục; 259 trường THCS và 188 trường THPT. Đại đa số các trường Mầm non, Tiểu học và THCS đều có nhu cầu tập luyện Aerobic. Trường Đại học TDTT TP.HCM, là một ngôi trường đào tạo trong lĩnh vực Thể dục thể thao chuyên nghiệp với hơn 40 năm phát triển, mỗi năm nhà trường đào tạo được rất nhiều sinh viên Chính quy và Vừa làm vừa học. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều trường đào tạo ra Cử nhân TDTT như: ĐH Sư phạm TP.HCM, ĐH Sư phạm TDTT TP.HCM, ĐH Quốc tế Hồng Bàng,…Tuy nhiên, đa số những sinh viên tốt nghiệp với tâm lý thường có xu hướng tìm các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, Trung học Phổ thông hoặc về các Sở, ngành thuộc lĩnh vực TDTT, rất hiếm khi chịu đứng lớp giảng dạy tại các trường Mầm non, Tiểu học. Do đó, lượng giáo viên vừa thừa và vừa thiếu. Thừa là rất nhiều sinh viên ra trường không có việc làm, nhưng vừa thiếu là không có giáo viên giảng dạy tại các trường Mầm non và tiểu học. Hiện nay, nhiệm vụ giảng dạy này do lực lượng giáo viên thuộc các Công ty tư nhân, các Trung tâm tư nhân và các CLB tư nhân đảm nhiệm, nhưng lực lượng tham gia giảng dạy thì vừa yếu vừa thiếu nghiệp vụ chuyên môn, chưa được đào tạo sâu… Đặc biệt là một số người tham gia đứng lớp, nhưng chưa bao giờ được tham dự qua các lớp chuyên môn, chỉ được hướng dẫn một hoặc vài bài tập rồi đứng lớp hướng dẫn giảng dạy, cho nên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến người học. Đây là một mối hiểm họa vô cùng to lớn, vì sản phẩm của họ tạo ra là những động tác, bài tập rèn luyện thể chất ảnh hưởng trực tiếp đến con người, mà lại là những trẻ em. Trẻ em là tương lai của đất nước với cấu trúc cơ thể đang phát triển rất nhanh và mạnh mẽ, nếu tác động không đúng và chính xác sẽ để lại những di chứng, hay tổn thương
- 12 nghiêm trọng đến hình thái, chức năng, cũng như cơ quan vận động của cơ thể, nếu đó là những bài tập sai. Bản thân tham gia góp ý và giảng dạy một số tiết trong chương trình đào tạo hướng dẫn viên Aerobic tại một số trung tâm, câu lạc bộ, Hội Aerobic TP.HCM của Liên đoàn Thể dục TP.HCM và đặc biệt là Liên đoàn Thể dục Việt Nam, nhưng chưa thấy có một đơn vị chuyên môn nào, tổ chức chương trình học tập cho một lớp học cho học viên một cách đầy đủ và chính xác. Cho nên, cần phải có một nơi đứng tổ chức một chương trình các lớp học để học viên được tham gia nâng cao kiến thức, nhưng phải đảm bảo kiến thức, đúng chức năng và phải đảm bảo tính khoa học. Liên đoàn Thể dục Việt Nam cũng có phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo mở các lớp bồi dưỡng môn Aerobic cho các tỉnh, thành trước các kỳ Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc, nhưng với thời gian quá ngắn, tài liệu đơn giản, người tham dự thì không phải là những giáo viên, huấn luyện các đội, cho nên hiệu quả không cao. Hội Aerobic TP.HCM thuộc liên đoàn Thể dục TP.HCM cũng thường mở các lớp đào tạo hướng dẫn viên môn Aerobic, nhưng chỉ đào tạo về chuyên môn kỹ năng giảng dạy, thiếu những phần kiến thức lý luận, phương pháp giảng dạy cơ bản và nền tảng dành cho các giáo viên giảng dạy môn Aerobic. Tổ chức này không đủ chức năng pháp lý đào tạo các lớp học cho các cá nhân ngoài tỉnh. Trường Đại học TDTT TP. Hồ Chí Minh có đủ chức năng và quyền hạn trong việc tổ chức các lớp học mang tính nghiệp vụ chuyên môn cao, đảm bảo tính pháp lý theo quy định của Nhà nước. Cho nên, việc xây dựng chương trình đào tạo và phối hợp tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn có trình độ cao, là một việc hết sức dễ dàng nhưng mang lại hiệu quả cao trong xã hội. Từ những vấn đề trên chúng tôi chọn hướng nghiên cứu: “Xây dựng chương trình đào tạo hướng dẫn viên Aerobic tại trường Đại học Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh”. Mục đích nghiên cứu: Nhằm tìm ra những nội dung, yêu cầu, kiến thức cần thiết để xây dựng chương trình đào tạo hướng dẫn viên Aerobic 4 Cấp độ khác nhau, có trình độ phù hợp với yêu cầu xã hội, có sự khác biệt với các chương trình đào tạo một số quốc gia trên thế giới và của Liên đoàn Thể dục thế giới, phù hợp nhu cầu thực tiễn của Việt Nam tại trường Đại học Thể dục Thể Thao TP. Hồ Chí Minh. Có thể ứng dụng vào trong công tác đào tạo Huớng dẫn viên môn Aerobic cho Liên đoàn Thể dục TP. Hồ Chí Minh và Liên đoàn Thể dục Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Đánh giá thực trạng nhu cầu học tập và công tác giảng dạy môn Aerobic tại các trường học, câu lạc bộ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam Việt Nam. 2. Xây dựng và ứng dụng các chương trình đào tạo hướng dẫn viên môn Aerobic tại trường Đại học Thể dục Thể Thao TP. Hồ Chí Minh. 3. Đánh giá hiệu quả chương trình đào tạo hướng dẫn viên môn Aerobic của Trường ĐH TDTT TP. Hồ Chí Minh. Giả thuyết khoa học của đề tài: Không có sự khác biệt về nhu cầu tham gia tập luyện giữa các đối tượng môn Aerobic (Câu lạc bộ, Mầm non, Tiểu học, THCS,...); về chất lượng đào tạo giữa các đối
- 13 tượng tham gia học tập; cũng như về chất lượng giảng dạy của chương trình đào tạo các Cấp độ. Có sự khác biệt về nhu cầu chuyên môn cho đội ngũ hướng dẫn viên Aerobic giữa các đơn vị quản lý (Câu lạc bộ, Mầm non, Tiểu học, THCS,...), cũng như có sự khác biệt về chương trình giảng dạy và phân cấp hướng dẫn viên. Có sự hài lòng của các hướng dẫn viên Aerobic sau khi tham gia chương trình học của từng Cấp độ và sự hài lòng của các nhà quản lý có học viên tham gia chương trình đào tạo Hướng dẫn viên Aerobic CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU I. 1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển môn Aerobic: II. 1.1.1. Lịch sử phát triển môn Aerobic thế giới: Từ thời Hy Lạp cổ đại, môn Thể dục được xem là một trong những môn thể thao đầu tiên trong các kỳ Đại hội Olympic cổ đại. Lúc bấy giờ, đã có các bài tập Thể dục, các bài tập nhảy múa nhằm giúp con người nâng cao thể chất, đã có rất nhiều các hệ thống bài tập ra đời và phát triển cùng với sự phát triển xã hội. Thật ra từ thời cổ đại đã có các điệu nhảy và các bài tập Thể dục, lúc bấy giờ được ứng dụng để phát triển cơ thể, tạo tư thế cơ thể ngay ngắn, khoẻ đẹp, uyển chuyển trong các bước đi và các cử động trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra các bài tập đó còn giúp cho việc phát triển các tố chất như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự khéo léo.[69] Dần dần theo thời gian và sự tiến bộ của khoa học, với thành tựu ngày càng rực rỡ và sự ứng dụng những thành tựu của khoa học vào chuyên môn nên Thể dục ngày càng được xã hội chú ý nhiều hơn. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã có nhiều hệ thống Thể dục khác nhau được thành lập như: Hệ thống Thể dục của Đức, của Thụy Điển và nhiều nhà Thể dục lớn như Spinda, Miulera, Canđôva... Trong hệ thống các bài tập này đều không chú ý đến phụ nữ, họ được chỉ dẫn những bài tập như nam giới mà không tính toán đến sự khác nhau về tâm, sinh lý giữa nam và nữ. [56] Aerobic là hình thức tập luyện phổ biến, nó được xem là phương pháp tập tuyệt vời để nâng cao sức khoẻ cho mọi người. Từ “Aerobic” được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1875 do Bác sĩ người Pháp Pasteur giải nghĩa rằng Oxy cần cho cuộc sống tức là “Aerobic”. Theo gốc Hy lạp, từ này mang nghĩa chính là “Oxy cho cuộc sống” (Oxygen for life).[39] Chỉ mãi đến những năm 20 và 30 của thế kỷ XX Zenebvactebin (Giennépvastabin) và người kế tục của mình là Becemencendir (Người Mỹ) dưới ảnh hưởng của hệ thống Thể dục Thụy Điển và hệ thống Z. Đemenhi của Pháp, đã hình thành và đưa ra các phương pháp tạo điều kiện phát triển tối ưu tư thế, vẻ đẹp trong dáng đi và cử động của người phụ nữ. Một trong những ảnh hưởng lớn nhất cho sự phát triển của Thể dục của giai đoạn này là hệ thống của Fran – Dencap. Ông đã cố gắng đưa ra mối liên hệ nhất định giữa nỗi đau khổ của con người, sự chịu đựng và tính hài hước để giảm nhẹ nó. Chính công việc đó của ông và đồng nghiệp đã giúp cho việc đặt cơ sở của lý luận diễn tả, thể hiện tình cảm qua hành động của môn múa Ballet và kịch câm. Đây chính là nền tảng của việc sáng lập ra một hướng mới trong Thể dục đó là Aerobic. [57]
- 14 Đặc biệt sau chiến tranh Thế giới thứ hai, cuộc sống xã hội của nhiều nước trở nên xấu đi rất nhiều và nhiệm vụ được đặt ra lúc đó là làm sao có các bài tập Thể dục ngoài việc nâng cao thể chất của con người, còn giúp con người giải tỏa được các nỗi buồn phiền, căng thẳng trong cuộc sống thường ngày. Các nhà chuyên môn Thể dục của các nước Châu Âu đã thử nghiệm đưa âm nhạc lồng vào làm nhạc nền cho các bài tập Thể dục và đã nhanh chóng đi đến những thành công, được công chúng yêu thích và tập luyện rộng rãi. Sau nhiều tranh luận, đến khoảng 10 năm đầu của thế kỷ XX, Aerobic bắt đầu phát triển chính thống với sự giúp đỡ của âm nhạc và mang đầy tính nghệ thuật. Aerobic ở những nước khác nhau, có những tên gọi cũng khác nhau như: Thể dục – Jazz, Thể dục – Pop, Thể dục – mốt, Thể dục – làm gọn người, môn Thể dục múa hay đơn giản là Aerobic. Một trong những nhiệm vụ chính của Aerobic, là làm cho người tập khỏe mạnh nhanh nhẹn và hoạt bát hơn. Những năm 60 thế kỷ XX, Kenneth H.Cooper bắt đầu tập luyện cho các nhóm sinh viên… đến năm 1968 lại mở rộng thêm cho 1 số khác. Năm 1970, Jacki Sorensen viết cuốn sách mang tên “Chương trình tập luyện vũ điệu Aerobic” trên cơ sở từ Kenneth H.Cooper. Đây là chương trình dùng những bài tập từ Canađa, hoạt động với âm nhạc và giới thiệu một vài bước nhảy hiện đại, và đó là những lớp đầu tiên chỉ dành cho nữ. [40] Sau đó ở Mỹ, Phyllis C.Jacobson phát triển phương pháp tập luyện mới với tên gọi là “Hooked on Aerobic” nhịp độ của bài chậm và vừa. Với sự cải tiến này Aerobic đã trở thành nội dung tập luyện theo hình thức lớp. Không chỉ có tác dụng về rèn luyện sức khỏe, nó còn có tác dụng rõ về giảm cân và săn chắc cơ bắp. Ở Châu Âu Monica Beckman là những người đầu tiên mở lớp dạy có kết hợp với các bước nhảy Jazz.[39] Trong phong trào đó là, bà Jane Fonda là một trong những người có công lao rất lớn với việc quảng bá môn Aerobic trên phương tiện thông tin đại chúng. Lúc đầu, bà Jane Fonda chỉ nghe nhạc và ghép những động tác Thể dục và nhảy múa vào khớp với âm nhạc. Sau đó, bà dần dần hình thành những bài tập với nhạc, bà đã cấp tốc mở những lớp tập luyện Aerobic cho thanh niên ở những câu lạc bộ, lúc đầu bà không thu tiền. Dần dần, Aerobic đã trở thành một nhu cầu cần thiết đối với phụ nữ Châu Âu và cho tới nay, Aerobic đã phát triển rộng khắp các quốc gia trên hành tinh chúng ta đều tập luyện những bài tập này. Bà đã đưa ra chương trình tập Aerobic trong cuốn sách và băng video của mình. Thành công lớn tiếp theo ở những năm 80 là lần đầu tiên quy định về cuộc thi Aerobic đã được giới thiệu. Cơ sở của các bước nhảy Aerobic là các bước nhảy Jack, chống sấp và đá lăng cao, cuộc thi đơn giản như vậy được tổ chức lần đầu tiên tại Mỹ vào 1985. Sau đó một số quốc gia khác như Canađa, Nhật Bản, Brazil cũng bắt đầu tổ chức thi Aerobic của quốc gia và quốc tế.[40] Aerobic là môn thi pha trộn, bởi nó bao gồm các chuyển động như nhiều hoạt động thể thao khác như Jack và nhảy hiện đại, Thể dục dụng cụ, Thể dục nhào lộn, tuy vậy nó đã có bản sắc riêng của mình. Năm 1994, FIG đã công nhận Aerobic là một môn thi đấu mới của gia đình Thể dục và đã mở lớp bồi dưỡng cho Trọng tài – Huấn luyện viên; cũng trong năm này, Giải Vô địch Sport Aerobic Thế giới lần thứ I đã được tổ chức tại Pháp. Đến cuối năm 2006, đầu năm 2007 môn Sport Aerobic được Liên đoàn Thể dục Thế giới (FIG) đổi tên là Aerobic Gymnastic.[95] Hàng năm các giải Vô địch thế giới môn Aerobic luôn được tổ chức, bên cạnh đó các giải châu lục và các khu vực trên toàn thế giới luôn thường xuyên được tổ chức.
- 15 Aerobic luôn là môn nằm trong hệ thống thi đấu của các giải thế giới như: Suzuki Cup, Indoor Games, World Games và môn Aerobic đang phấn đấu đưa vào thi đấu chính thức của Olympic. [95] III. 1.1.2. Sự phát triển môn Aerobic tại Việt Nam: Năm 1984 trong đợt tập huấn về Thể dục Nghệ thuật tại TP. Hồ Chí Minh, chuyên gia người Bungary đã giới thiệu về loại hình tập luyện Thể dục mới đang thịnh hành tại Mỹ đã giới thiệu khái quát và 1 số dạng động tác cụ thể. Tiếp sau đó, thông qua sách báo và băng hình gửi về từ Mỹ một số huấn luyện viên, giáo viên Thể dục ( Bà Huỳnh thị Lài – Nhà thiếu nhi Thành phố, bà Trịnh Trang Thanh – Quận 1, ông Trần Việt Hoàng – HLV Thể dục Nhào lộn…) đã tìm hiểu và tiến hành tổ chức tập luyện môn này với tên gọi Thể dục nhịp điệu. (Tài liệu lớp Hướng dẫn viên Aerobic năm 1999). [39] Các thầy cô, sau khi nghiên cứu nội dung và chương trình tập luyện, đã tổ chức lớp tập huấn để giới thiệu và hướng dẫn môn mới cho phong trào tập luyện tại TP.HCM nói riêng và các tỉnh thành lân cận như: Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, Vũng Tàu,… Phong trào tập luyện Aerobic đã được phát triển rất mạnh trong những năm sau đó và được tổ chức Hội thi hàng năm. Các tỉnh thành khác cũng tổ chức tập luyện và thi đấu như Hà Nội, Tiền Giang… Bài thi giai đoạn đó là những bài tập gồm những động tác Thể dục kết hợp âm nhạc hiện đại thời bấy giờ, gồm các giai điệu Cha cha cha, Bebop, Model Talking, …[39] Trong giai đoạn này, một số quận nội thành được đầu tư mạnh mẽ, các VĐV Quận 1 trong TP.HCM được tiếp cận với hình thức tập luyện và thi đấu tập mới do chuyên gia Pháp Mr.Cao Minh Hùng (Việt Kiều – Hạng ba giải Vô địch Thế giới lần đầu tiên tại Pháp), trực tiếp huấn luyện. Tháng 12 năm 1994, lần đầu tiên đội tuyển Sport Aerobic đã được thành lập gồm các thành viên 1 HLV (Hứa Mỹ Ý) và các VĐV (Đỗ Thị Thu Nhi, Nguyễn Thị Thanh Hiền, Lê Thùy An và Phạm Thị Hồng Trang) với bài nhạc “Cái Trống Cơm” tham dự giải Vô địch thế giới lần thứ nhất tổ chức tại Pháp, tuy không đạt được thứ hạng nhưng cũng đã gây bất ngờ và được giới chuyên môn đánh giá cao về trình độ và phong cách trình diễn của các VĐV Việt Nam lần đầu tiên tại giải Thế giới với một môn Thể thao hoàn toàn mới trên thế giới. Đây là sự cố gắng, đóng góp lớn của ông Trần Thanh Ngữ – Nguyên Giám đốc Trung tâm TDTT Quận 1 TP.HCM, đây cũng chính là cái nôi để phát triển phong trào môn Aerobic tai Việt Nam. [39] Tháng 7/1995 Tại giải vô địch Thế giới “SUZUKI WORLD CUP” Tại Nhật Bản do HLV Trần Việt Hoàng và các VĐV Bùi Huỳnh Quốc Thắng, Vũ Điền An, Trương Huy Văn tham gia với thành tích thứ hạng 10 thế giới. Đây là bước ngoặc lớn để khẳng định trình độ VĐV Việt Nam trên đấu trường Quốc tế. Năm 1996, Liên đoàn Thể dục TP.HCM đã tổ chức giải Vô địch Sport Aerobic lần đầu tiên và đã thu hút rất nhiều vận động viên của các tỉnh và các quận huyện TP.HCM tham gia tiếp theo những năm sau đó giải vẫn thường xuyên được tổ chức hàng năm với hai hệ thống giải Aerobic đồng đội và Sport Aerobic. Trong thời gian này, Tổng cục Thể dục Thể thao đã in và ban hành luật Sport Aerobic chu kỳ I từ năm 1994 1998. Tiếp theo các năm sau Bộ môn Thể dục – Uỷ ban TDTT Việt Nam cũng thường xuyên cập nhật luật Sport Aerobic theo chu kỳ (4 năm), mời chuyên gia của FIG hướng dẫn bồi dưỡng và tập huấn cho cán bộ, huấn luyện viên Aerobic Việt Nam.[41]
- 16 Tháng 7/1997 đội tuyển Việt Nam xếp hạng thứ 5 (trong 40 quốc gia tham d ự) trên thế giới về đồng đội (3 người) do HLV Trần Việt Hoàng hướng dẫn với các VĐV: Vũ Điền An, Bùi Huỳnh Quốc Thắng, Diệp Tuấn Cường, Phạm Thị Hồng Trang tại giải Vô địch thế giới môn Sport Aerobic lần thứ IV tổ chức tại thành phố Perth của Australia năm 1997. Từ những năm 1999, Bộ môn Thể dục – Uỷ ban TDTT Việt Nam cũng thường xuyên mời chuyên gia của FIG sang mở lớp bồi dưỡng và tập huấn cho cán bộ, huấn luyện viên của Việt Nam tại câu lạc bộ Phan Đình Phùng quận 3. Các chuyên gia người Pháp đã hướng dẫn và giảng dạy phương pháp huấn luyện môn Sport Aerobics trong 7 ngày. Hơn 100 huấn luyện viên của các tỉnh thành trong cả nước về tập trung học tập. Từ những năm 2000, phong trào tập luyện môn Sport Aerobic đã phát triển rộng khắp cả nước, một số tỉnh thành bắt đầu tham gia như: Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Hải Phòng, Khánh Hòa, Phú Yên, Trà Vinh, Tiền Giang,… Trong xu thế hội nhập, khi FIG ban hành bộ Luật mới, thì Bộ môn Thể dục – UBTDTT Việt Nam đã dịch và ban hành để áp dụng cho các cuộc thi Sport Aerobics ở Việt Nam. Đầu năm 2000, Bộ luật Sport Aerobics chu kỳ 2001 – 2004 đã được Bộ môn Thể dục – Uỷ ban TDTT Việt Nam dịch sang tiếng Việt giới thiệu và ban hành, cũng chính năm này lớp học trọng tài theo đúng luật Quốc tế. [71] Từ những năm 2000 đến 2002, đội tuyển Sport Aerobic Việt Nam tham gia giải Vô địch Sport Aerobic thế giới tại các nước: Đức, Ý, Nga,… nhưng chưa đạt được thành tích cao. Tháng 07 năm 2000 đội tuyển Sport Aerobic Việt Nam tại Giải Sport Aerobic Vô địch Đông Nam Á lần 1 tại Indonesia các vận động viên Việt Nam đã giành được nhiều thành tích: Trịnh Hồng Thanh (HCV đơn nữ), Diệp Tuấn Cường – Trịnh Hồng Thanh (HCB đôi nam nữ), Nguyễn Tấn Thành (HCV Đơn nam), Phạm Thị Hồng Trang – Thái Anh Tuấn – Nguyễn Tấn Thành (HCV ba người). Bắt đầu từ những năm 2000, Hội Aerobic TP.HCM trực thuộc Liên đoàn Thể dục TP.HCM phối hợp với Sở TDTT TP.HCM thường xuyên tổ chức các giải Aerobic dành cho học sinh vào tháng 03 hàng năm, Giải Aerobic thiếu nhi vào ngày 01 tháng 06 hàng năm và giải Vô địch Aerobic và Sport Aerobic vào tháng 08 hàng năm. Năm 2001, lớp trọng tài Quốc tế môn Sport Aerobic đầu tiên được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Đây là lần đầu tiên, những trọng tài chuyên nghiệp môn Sport Aerobic của Việt Nam được chứng nhận đẳng cấp quốc tế: bà Nguyễn Kim Lan, bà Nguyễn Thanh Mai, bà Phan Thanh Liên, bà Phan Thanh Lan, bà Nguyễn Thị Cẩm Vân, bà Nguyễn Thị Thanh Thúy, bà Dương Xuân Trang, bà Bùi Thị Ngọc Bích, bà Nguyễn Anh Minh, bà Nguyễn Ngô Hồng Đào, ông Nguyễn Tri Khanh, ông Nguyễn Trung Kiên,… Năm 2002, môn Sport Aerobic chính thức đưa vào hệ thống các môn thi đấu của Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc và Giải vô địch Sport Aerobic Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần IV được tổ chức tại Nhà hát Bến Thành, quận I TP.HCM với các đơn vị tham gia: Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Trà Vinh, TP.HCM. [85] Trong giải Đại hội Thể dục Thể thao Đông Nam Á (Sea Game) lần thứ 22 tổ chức tại Việt Nam tháng 12 năm 2003, đây là lần đầu tiên môn Sport Aerobic được đưa vào thi đấu trong Đại hội. Đội tuyển Sport Aerobic gồm các huấn luyện viên: Trần Việt Hoàng, Nguyễn Thị Tuyết Mai và chuyên gia người Bulgaria là cô Tina với thành tích xếp nhất toàn đoàn 3 HCV, 1 HCB trong bộ 4 huy chương: Đơn nữ Trịnh Hồng Thanh (HCV), Mai Bích Lâm (HCB), Đơn nam: Trần Minh Khôi (HCB), Đôi nam – nữ: Nguyễn Tấn
- 17 Thành Nguyễn Thị Thanh Hiền (HCV), Bài 3 người: Nguyễn Tấn Thành Khưu Tấn Phát – Thái Anh Tuấn (HCV). [87] Môn Aerobic đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào thi đấu tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần VI – 2004, Điều lệ của Giải tiếp cận gần với Luật Sport Aerobics của FIG. Các đơn vị tham gia bài thi lứa tuổi cấp II chia thành 4 cụm thi đấu Cụm I: Hải Phòng; Cụm II: Huế; Cụm III: Lâm Đồng; Cụm IV: Đồng Tháp. Có 11 đơn vị tham gia thi bài lứa tuổi cấp III tại vòng chung kết ở Huế. TP. Hồ Chí Minh cái nôi của phong trào đã đứng nhất toàn đoàn với 3 HCV – 1 HCB, thứ nhì là Thừa Thiên Huế với 3 HCV – 1 HCĐ. Sau khi tổ chức thành công chương trình thi đấu môn Aerobic tại Hội khỏe Phù Đổng lần VI. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã duy trì thi đấu môn Aerobic tại các kỳ Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc tiếp theo: Lần VII năm 2008 tại Phú Thọ, lần VIII năm 2012 tại Cần Thơ, lần IX năm 2016 tại Nghệ An. [88] Tuy nhiên, trong thời gian gần đây thành tích của các VĐV Việt Nam đã không còn duy trì được thành tích đã đạt được trước đây: + Trong giải Đại hội Thể dục Thể thao Đông Nam Á (Sea Game) lần thứ 23 tổ chức tại Philippin tháng 11 năm 2005. Đội tuyển Sport Aerobic chỉ đạt HCB và HCĐ. + Trong giải Đại hội Thể dục Thể thao Đông Nam Á (Sea Game) lần thứ 25 tổ chức tại Thái Lan tháng 12 năm 2007. Đội tuyển Aerobic Gymnastics (các VĐV thuộc đơn vị Hải Phòng) chỉ đạt duy nhất 1HCV còn lại HCB và HCĐ. [95] Thành tích thi đấu của các vận động viên đội tuyển Aerobic bị giảm sút là do chương trình đào tạo các tuyến trẻ không đáp ứng được thành tích và thiếu hẳn lực lượng kế thừa. Trình độ của các huấn luyện viên trong giai đoạn này còn thiếu và yếu những phương pháp huấn luyện hiện đại, không được thường xuyên cập nhật và học hỏi chương trình huấn luyện của quốc tế. 1.1.3 Đặc điểm về môn Aerobic: * Khái niệm môn Aerobic:[40] Aerobic là một hệ thống các bài tập thể dục được chọn lọc, sáng tạo và phân định về mức độ tập luyện phù hợp với âm nhạc và thực hiện trong một chế độ nhất định, nhằm tập luyện phát triển sức chịu đựng của người tập. * Đặc điểm môn Aerobic: Môn Aerobic là một trong những loại hình của môn Thể dục cho nên đặc điểm chung của môn Aerobic cũng gần giống với đặc điểm môn Thể dục, đó là có thể hình thành từng bước, có phân biệt và chọn lọc từng mặt và từng phần hợp thành động tác (phương hướng, biên độ, tốc độ, lực, nhịp độ, nhịp điệu và cách thức phối hợp động tác,...). Đặc điểm quan trọng của Aerobic là khả năng tác động có chọn lọc và riêng biệt đến cấu trúc và chức năng cơ thể. Cụ thể là, có thể tác động không những đến từng nhóm cơ, mà cả đối với từng mặt riêng biệt trong trạng thái hoạt động của cơ như: phát lực, thả lỏng, kéo giãn của cơ,... Nhờ đó Aerobic có thể sử dụng để phát triển thể lực chung, chuẩn bị chuyên biệt cho một số hoạt động mang tính chất ngành nghề riêng biệt, cũng như để khắc phục một cách có hiệu quả những khuyết tật trong sự phát triển của các cơ quan vận động. Những đặc điểm về phương pháp giảng dạy của Aerobic như: Sự tác động toàn diện lên cơ thể người tập, sự sử dụng rộng rãi các động tác khác nhau, khả năng điều chỉnh chính xác lượng vận động, khả năng tác động có lựa chọn lên các hệ thống cơ quan và bộ phận cơ thể khác nhau, tùy thuộc vào nhiệm vụ giáo dục, có thể thay đổi phương
- 18 pháp thực hiện bài tập, khả năng kết hợp với nhạc đệm, khả năng quy định chặt chẽ quá trình sư phạm. [39] * Tác dụng cơ bản của môn Aerobic: Giúp tim hoạt động có năng suất tốt và khỏe mạnh hơn, kiểm soát được trọng lượng của cơ thể, làm tăng các tế bào hồng cầu, tạo điều kiện cho oxy lưu thông cung cấp đến toàn bộ cơ thể. Hạn chế các nguy cơ liên quan đến vấn đề tim mạch, phát triển các nhóm cơ và tăng độ linh hoạt của cơ, hạn chế những thói quen tác động ảnh hưởng bệnh tăng huyết áp. Bài tập Aerobic làm gia tăng số lượng kháng thể của người tập và quá trình giải phóng năng lượng trong vận động nhanh hơn, làm tăng khả năng dự trữ năng lượng dưới dạng phân tử như chất béo và cacbohydrat bên trong cơ bắp làm tăng sức bền ở cơ. [40] * Phân loại bài tập Aerobic: Aerobic được chia theo các chức năng khác như: + Phát triển sức khoẻ. + Chữa bệnh và ứng dụng. + Aerobic thi đấu. Aerobic dùng để phát triển sức khoẻ, tùy theo lứa tuổi được chia thành các loại như sau: + Aerobic dành cho trẻ em (thiếu nhi, nhi đồng) + Aerobic dành cho thanh thiếu niên. + Aerobic dành cho những người trung niên và cao tuổi. Aerobic dùng cho chữa bệnh và ứng dụng: + Bài tập Aerobic có thể được sử dụng rộng rãi trong chữa bệnh TDTT chủ yếu trong các bệnh về tim mạch và hô hấp, giải tỏa bệnh căng thẳng về thần kinh và các chấn thương của cơ quan vận động (khớp, thoái hóa…).[42] + Các dạng Aerobic có thể được tiến hành trong nhà, ngoài trời hoặc dưới nước + Bài tập Aerobic có thể thực hiện ở các tư thế khác nhau như đứng, ngồi, quỳ, nằm. Ngoài ra có thể tập với các dụng cụ khác nhau như (ghế, bóng, tạ, gậy, bục). Aerobic đồng đội dùng cho thi đấu phong trào, được chia theo lứa tuổi như sau: + Dành cho nhi đồng (lứa tuổi từ 4 đến 6 tuổi) + Dành cho thiếu nhi (từ 7 đến 11 tuổi) + Dành cho thiếu niên (từ 12 đến 17 tuổi) + Dành cho thanh niên (từ 18 tuổi trở lên) Aerobic đồng đội thi đấu Hội khỏe Phù Đổng dành cho học sinh: + Dành cho thiếu nhi (từ 7 đến 9 tuổi) + Dành cho thiếu nhi (từ 9 đến 11 tuổi) + Dành cho thiếu niên (từ 12 đến 15 tuổi) + Dành cho thanh niên (từ 16 đến 18 tuổi) [39] Aerobic Gymnastics thi đấu đỉnh cao dành cho các giải chuyên nghiệp của quốc gia, khu vực, châu lục và quốc tế: gồm các nội dung: đơn nam, đơn nữ, đôi nam nữ, nhóm 3 người, nhóm 5 người, Aerobic Dance và Aerobic Step (8 người); được phân chia thành các nhóm tuổi như sau:
- 19 + Lứa tuổi Phát triển quốc gia (từ 7 đến 9 tuổi) + Lứa tuổi Nhóm I (từ 9 đến 11 tuổi) + Lứa tuổi Nhóm II (từ 12 đến 14 tuổi) + Lứa tuổi Nhóm III (từ 15 đến 17 tuổi) + Nhóm thanh niên (trên 18 tuổi) [73] IV. 1.2. Nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực: V. 1.2.1. Khái niệm nguồn nhân lực: Tiếp cận dựa trên khả năng lao động của con người: Nguồn nhân lực bao gồm tất cả những người có cơ thể phát triển bình thường có khả năng lao động. Tiếp cận dựa vào khả năng lao động và giới hạn tuổi lao động: Nguồn nhân lực bao gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động không kể đến trạng thái có việc làm hay không có việc làm. Tiếp cận theo cách hiểu của các nhà kinh tế: Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng của con người của một quốc gia có trong một thời kỳ nhất định. Tiềm năng đó bao gồm tổng hòa năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách của con người đáp ứng một cơ cấu do nền kinh tế xã hội đòi hỏi (về số lượng, chất lượng và cơ cấu). [27] Như vậy, khi nghiên cứu về nguồn nhân lực không chỉ xem xét về mặt số lượng mà phải xem xét cả về mặt chất lượng nguồn nhân lực bao gồm sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn lành nghề, năng lực, phẩm chất và thái độ lao động của cá nhân người lao động, cũng như phải xem xét cả về mặt cơ cấu nguồn nhân lực. Trong đó ngành Thể dục thể thao (TDTT) cũng không ngoại lệ, chất lượng nguồn nhân lực của ngành TDTT còn phụ thuộc vào cơ cấu đội ngũ chủ chốt, trình độ, năng lực tổ chức và quản lý, khả năng phối hợp để thực hiện các mục tiêu đặt ra. [26] VI. 1.2.2. Khái niệm về quản lý nguồn nhân lực “Quản lý nguồn nhân lực là tìm mọi cách tạo thuận lợi cho mọi người trong tổ chức hoàn thành tốt các mục tiêu chiến lược và các kế hoạch của tổ chức, tăng cường cống hiến của mọi người theo hướng phù hợp với chiến lược của tổ chức, đạo đức và xã hội”. [26] Ở Cấp độ vi mô tổ chức ở đây là: tổ, khu, phòng ban, đơn vị, doanh nghiệp. Và các hoạt động quản lý nguồn nhân lực ở cấp độ này bao gồm các hoạt động tuyển mộ tuyển chọn, bố trí lực lao động trong tổ chức, tổ chức đào tạo và phát triển lao động… nhằm đảm bảo một lực lượng lao động đáp ứng được yêu cầu công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng. Ở Cấp độ vĩ mô thì tổ chức ở đây có thể là địa phương, quốc gia, có thể là khu vực và quốc tế. Và hoạt động quản lý nguồn nhân lực ở đây bao gồm một số hoạt động như quyết định các chính sách quốc gia, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bổ sử dụng lao động toàn xã hội. Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật lao động và kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động… Và các hoạt động trên nhằm tạo ra một lực lượng lao động đủ về số lượng và cao về chất lượng, có cơ cấu hợp lý đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
- 20 Như vậy, quản lý nguồn nhân lực là một quá trình phải được xem xét trong mối quan hệ không thể tách rời giữa các quá trình: Phát triển nguồn nhân lực, phân bố nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực. TDTT cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển TDTT và tạo nên những thành tích thể thao. [26] VII. 1.2.3. Vai trò của nguồn nhân lực: Ngày nay, khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng thì một trong những yêu cầu để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới, là phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng được những yêu cầu của trình độ phát triển của khu vực, của thế giới, của thời đại. Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công hay không thành công trong phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Ðể phát triển nguồn nhân lực cần thực hiện nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có việc nghiên cứu đào tạo, đánh giá nguồn nhân lực với các nội dung như chất lượng, cơ cấu, kết quả làm việc... tuỳ theo mục đích, yêu cầu mà việc đào tạo, đánh giá phải đáp ứng. Tóm lại, khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội, con người đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực của ngành TDTT nói riêng không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có, mà nó còn phải bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và phong cách làm việc... Tất cả các yếu tố đó, ngày nay đều thuộc về chất lượng nguồn nhân lực và được đánh giá là một chỉ tiêu tổng hợp là văn hoá lao động.[28] VIII. 1.3. Cơ sở lý luận về công tác đào tạo: IX. 1.3.1. Khái niệm chương trình đào tạo: Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chương trình đào tạo: Theo từ điển Giáo dục học, khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là: “Văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo”. [68]
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục: Phát triển kỹ năng dạy học hợp tác cho giáo viên trung học cơ sở
173 p | 269 | 87
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục: Quản lí giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới
176 p | 367 | 76
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam (qua các môn Tự nhiên và Xã hội, Khoa học)
27 p | 303 | 64
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Sử dụng trò chơi dân gian nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học miền núi Đông Bắc
155 p | 247 | 61
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục: Quá trình dạy học và phát triển lớp ghép tiểu học
25 p | 197 | 22
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục: Phát triển kỹ năng dạy học hợp tác cho giáo viên trung học cơ sở
24 p | 147 | 21
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Xây dựng và sử dụng thí nghiệm kết nối máy tính trong dạy học chương “Dao động cơ” Vật lí 12 trung học phổ thông
226 p | 91 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ giáo dục thể chất tại Đại học Đà Nẵng
222 p | 24 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy học phân hóa cho sinh viên ngành Giáo dục Thể chất các trường Đại học Sư phạm
266 p | 15 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Tổ chức hoạt động khám phá khoa học theo định hướng giáo dục STEM cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
325 p | 25 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo cho sinh viên đại học ngành Giáo dục mầm non
295 p | 20 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Dạy học môn Giáo dục học quân sự ở các trường đại học trong quân đội theo tiếp cận năng lực
294 p | 18 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Xây dựng chương trình tập luyện môn Thể dục aerobic ngoại khóa cho sinh viên nữ trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
213 p | 24 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục thể chất ở trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột
261 p | 14 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Dạy học môn Giáo dục học quân sự ở các trường đại học trong quân đội theo tiếp cận năng lực
28 p | 12 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy học phân hóa cho sinh viên ngành Giáo dục Thể chất các trường Đại học Sư phạm
27 p | 12 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo cho sinh viên đại học ngành Giáo dục mầm non
27 p | 14 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Tổ chức hoạt động khám phá khoa học theo định hướng giáo dục STEM cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
28 p | 19 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn