intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

78
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án: (1) Khám phá các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng; (2) đánh giá mức độ tác động của các yếu tố đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng; (3) đề xuất một số giải pháp phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới. Sau đây là tóm tắt của luận án.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng

  1. 1 TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU 1. Lý do chọn đề tài Ngành xây dựng là ngành sản xuất vật chất có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Nó tạo nên cơ sở vật chất cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế của đất nước. Hơn thế nữa, đầu tư xây dựng gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ hiện đại nên góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật đối với các ngành sản xuất vật chất. Phát triển doanh nghiệp xây dựng còn có mối quan hệ tác động mạnh mẽ tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và quỹ tích lũy nói riêng với nguồn vốn đầu tư, tài trợ của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng. So với các ngành sản xuất khác, xây dựng có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc thù, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng. Đặc thù sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng là có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian sử dụng lâu dài, cơ cấu lao động không đồng đều, kiến trúc đặc trưng, có giá trị lớn đòi hỏi các nhà xây dựng phải dự đoán trước xu hướng tiến bộ xã hội để tránh bị lạc hậu. Phong cách kiến trúc và kiểu dáng một sản phẩm cần phải phù hợp với văn hóa dân tộc. Trên thực tế, đã có không ít các công trình xây dựng trở thành biểu tượng của một quốc gia và do đó chất lượng của các công trình xây dựng cũng phải được đặc biệt chú ý. Nó không chỉ ảnh hưởng tới tuổi thọ của công trình mà còn ảnh hưởng tới sự an toàn cho người sử dụng. Phát triển doanh nghiệp xây dựng chính là quan tâm đến sản phẩm xây dựng mang tính tổng hợp phát huy tác dụng về chính sách nhà nước, nguồn tài chính, nguồn nhân lực, kết nối thị trường, môi trường, công nghệ, kiến trúc xây dựng,... Nó rất đa dạng nhưng lại mang tính độc lập, mỗi một công trình được xây dựng theo một thiết kế, kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại một địa điểm nhất định, nơi sản xuất ra sản phẩm cũng đồng thời là nơi sau này khi sản phẩm hoàn thành được đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Những đặc điểm này có tác động lớn tới quá trình phát triển doanh nghiệp xây dựng.
  2. 2 Phát triển các doanh nghiệp xây dựng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, bởi vì nó tạo ra cơ sở vật chất để phát triển đô thị, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập quốc dân. Để Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp, hiện đại, cần phải đổi mới các doanh nghiệp xây dựng theo bước đột phá hướng hiện đại trên thế giới, phát triển doanh nghiệp xây dựng đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại mà không ảnh hưởng đến nhu cầu phát triển tương lai. Trên thế giới đối với phát triển doanh nghiệp là một khái niệm không mới, có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến phát triển doanh nghiệp như lĩnh vực xây dựng, ngành công nghiệp xây dựng,… Song song với sự quan tâm ngày càng tăng trong việc phát triển doanh nghiệp nhỏ đã có một sự gia tăng trong phạm vi, chất lượng và chiều sâu nghiên cứu của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Vương quốc Anh (Curran, 1989). Cơ sở của các nghiên cứu hiện tại đã được thực hiện trên các vấn đề về định nghĩa, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế đặc biệt là tạo việc làm, phát triển doanh nghiệp, mô hình tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và những kỹ thuật tốt nhất để thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ (Timberg, 1992). Nhưng vấn đề đặt ra là phát triển các doanh nghiệp ở địa phương bị tác động bởi những yếu tố nào. Đồng thời, những yếu tố nào có khả năng tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay. Tuy các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh khác nhau như: ngành công nghiệp xây dựng, tác động của các dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ khá hạn chế trong bối cảnh các nước đang phát triển (Timberg, 1992). Điển hình là nghiên cứu khảo sát các yếu tố tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Khan (2004); Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, (2012); Chowdhury, Islam, Alam, (2013). Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được nghiên cứu ở các khía cạnh như các yếu tố khả năng doanh nhân, hỗ trợ tài chính, kết nối thị trường, hỗ trợ chính sách nhà nước, công nghệ phù hợp, cơ sở hạ tầng đầy đủ. Từ vấn đề đặt ra, định hướng nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xây dựng, tác giả sử dụng mô hình của Chowdhury, Islam, Alam (2013) để làm sáng tỏ lý thuyết trong nghiên cứu doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng. Với những lý do
  3. 3 trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng”. 2. Tính cấp thiết và khoảng trống nghiên cứu phát triển doanh nghiệp Neck (1977) đưa ra một mô hình khái niệm để phân tích hỗ trợ cho việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến Gibb (1993) đã phát triển một khung khái niệm cho việc đánh giá sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh các nước khu vực miền Trung và Đông Âu. Sau này các khung lý thuyết hình thành và phát triển, điển hình một số công trình nghiên cứu thực nghiệm về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước đang phát triển vẫn tiếp tục áp dụng nghiên cứu như Bangladesh (Rahman, 2004; Khan, 2012; Chowdhury, Islam, Alam, 2013) và tăng trưởng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Kenya (Wekesa Bunyasi; Henry Bwisa and Gregory, 2014). Nghiên cứu thực nghiệm các yếu tố tác động đến sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Bangladesh của Chowdhury, Islam, Alam, (2013) cho thấy có 06 yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp bao gồm: các khả năng của các doanh nhân (CE), hỗ trợ tài chính (F), hỗ trợ của chính phủ (G), công nghệ phù hợp (T), kết nối thị trường/nhu cầu cho các sản phẩm (M), cơ sở hạ tầng đầy đủ (I). Môi trường nghiên cứu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Bangladesh cũng phù hợp với tình trạng phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam. Đặc biệt, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trường hợp nghiên cứu doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng thì vận dụng mô hình nghiên cứu của Chowdhury, Islam, Alam (2013) phải điều chỉnh lại một số yếu tố và bổ sung thêm một số yếu tố mới để phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng. Vì vậy, mô hình này chưa quan tâm đến yếu tố nguồn nhân lực, môi trường, kiến trúc xây dựng. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu của mô hình Chowdhury, Islam, Alam (2013), đồng thời với phân tích thực trạng và những vấn đề đặc thù phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng, các yếu tố này được sử dụng nghiên cứu định tính nhằm tìm hiểu và phát triển mới với tình hình phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng, với phương pháp định lượng nhằm kiểm định lại kết quả nghiên cứu định tính. Kết quả nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh
  4. 4 Sóc Trăng nhằm đưa ra một số giải pháp phát triển doanh nghiệp thời gian tới tại tỉnh Sóc Trăng. 3. Mục tiêu nghiên cứu  Khám phá các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng  Đánh giá mức độ tác động của các yếu tố đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng.  Đề xuất một số giải pháp phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng.  Phạm vi nghiên cứu của luận án là các doanh nghiệp xây dựng đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.  Phạm vi thời gian: Dữ liệu dùng để thực hiện luận án được thu thập bao gồm dữ liệu thứ cấp từ các công trình nghiên cứu được công bố trên tạp chí, Niên giám thống kê tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh. Dữ liệu sơ cấp thu được thông qua các bảng khảo sát 257 doanh nghiệp xây dựng và được thiết kế phù hợp với vấn đề cần nghiên cứu. 5. Những đóng góp mới của luận án Những đóng góp của luận án thể hiện qua các mặt sau: 1) Luận án đã góp một phần vào vận dụng lý thuyết phát triển doanh nghiệp nhằm làm sáng tỏ trường hợp nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng. 2) Luận án đã góp phần phát hiện một số yếu tố mới bổ sung vào mô hình phát triển doanh nghiệp xây dựng Sóc Trăng 3) Luận án đề xuất một số giải pháp phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới.
  5. 5 6. Kết cấu luận án Luận án nghiên cứu với những nội dung chính được chia thành 5 chương cụ thể như sau. Tổng quan về nghiên cứu Chương 1: Cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự phát triển các doanh nghiệp xây dựng. Chương 2: Phương pháp nghiên cứu. Chương 3: Phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng. Chương 4: Thực trạng về phát triển các doanh nghiệp tỉnh Sóc Trăng. Chương 5: Giải pháp phát triển doanh nghiệp xây dựng tỉnh Sóc Trăng thời gian tới. Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Các phụ lục
  6. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG TỈNH SÓC TRĂNG Mục đích của chương này là phát triển lý thuyết các khái niệm nghiên cứu trong luận án. Phân tích một số mô hình hiện tại có liên quan đến việc thúc đẩy và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, doanh nghiệp xây dựng nói riêng, đồng thời đánh giá các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp. Một số giả thuyết cũng được phát triển liên quan đến các vấn đề nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu được đặt ra ở trên. 1.1 Một số khái niệm và phát triển doanh nghiệp 1.1.1 Doanh nghiệp và doanh nghiệp xây dựng Doanh nghiệp: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Luật doanh nghiệp quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) theo Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006). Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối
  7. 7 đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Doanh nghiệp xây dựng: Doanh nghiệp xây dựng cũng là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân kinh doanh các sản phẩm đặc biệt (sản phẩm có giá trị lớn, thời gian sản xuất dài) trên thị trường xây dựng để đạt được mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Doanh nghiệp xây dựng hình thành trên cơ sở pháp lý của mỗi quốc gia, phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định. Trong kinh tế thị trường sự đa dạng, phong phú của loại hình doanh nghiệp xây dựng là một tất yếu khách quan nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế (Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11). 1.1.2 Khái niệm phát triển doanh nghiệp Một khái niệm có thể được mô tả như là một sự trình bày tổ chức có trật tự, hay cách mô tả về một hệ thống và hiện tượng. Trong khi một khái niệm có thể đơn giản hoá quá trình giải quyết vấn đề thì nó lại thiếu chính xác để đưa ra các dẫn xuất có hệ thống. Đứng trên nguyên tắc phân loại - trong đó mô tả hiện tượng thực nghiệm bằng cách lắp chúng thành một tập hợp. Tuy nhiên, không chặt chẽ, do đó tính ứng dụng của nó cho các nghiên cứu trong tương lai là hạn chế (Nachmias, Nachmias, 1991: 40-41). Ngược lại, các mô hình là một công cụ để trợ giúp tư duy hợp lý (Buffa, Dyer,1977: 10; Saaty và Alexander, 1981: 4-5; Williams, 1990: 3). Cụ thể, mô hình là một bài thuyết minh đơn giản của một hệ thống hoặc hiện tượng phức tạp (Buffa, Dyer, 1977: 10). Như mô hình toán học gồm các ký hiệu đại số hoặc mô hình các hệ thống kinh tế Hoa Kỳ (Williams, 1990: 3; Nachmias and Nachmias, 1991: 50). Trước tiên tiến hành tìm hiểu khái niệm phát triển doanh nghiệp. Khái niệm đánh giá phát triển doanh nghiệp Gibb (1993) đã phát triển một khung khái niệm cho việc đánh giá sự phát triển doanh nghiệp trong bối cảnh các nước khu vực miền Trung và Đông Âu. Khái niệm thể hiện sự tồn tại của bộ phận doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào: • Văn hóa; • Sự khởi đầu và tồn tại của doanh nghiệp; • Sự tăng trưởng doanh nghiệp;
  8. 8 • Hỗ trợ cơ sở hạ tầng. Chính sách, hoạt động hỗ trợ, tổ chức, và nhu cầu của các doanh nghiệp nhỏ để hỗ trợ và của xã hội cho các doanh nghiệp nhỏ. Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cả từ quan điểm vĩ mô cũng như từ quan điểm cụ thể cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng ngành. Neck (1977) đã đưa ra một mô hình khái niệm để phân tích hỗ trợ cho việc phát triển các doanh nghiệp. Như thể hiện mô hình khái niệm có ba yếu tố quan trọng, đó là: Quản lý, Tổ chức và Môi trường. Có hai bước trong mô hình: Bước 1: Giai đoạn bắt đầu Để phân tích sự cần thiết nghiên cứu và phù hợp của các yếu tố chính Bước 2: Hoạt động khắc phục hậu quả Để có biện pháp khắc phục cần thiết, dựa trên những phát hiện trong giai đoạn bắt đầu nhằm có hành động khác để hỗ trợ có hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, mô hình cung cấp khung khái niệm cho việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ bằng cách cải thiện các kỹ năng, kiến thức và thái độ của chủ doanh nghiệp nhỏ, hỗ trợ của các đại lý. Gibb and Manu (1990) đã phát triển một mô hình trong bối cảnh phát triển doanh nghiệp nhỏ, hiệu quả của tổ chức hỗ trợ, là phụ thuộc vào tình hình, có thể được đánh giá theo mức độ phù hợp giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các tổ chức hỗ trợ về con người, cấu trúc và quy trình làm việc. Giả thuyết cơ bản được sử dụng để kiểm tra mô hình, theo Gibb, Manu (1990: 19), là: “các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp càng có mức độ phù hợp về mặt con người, cấu trúc và quy trình làm việc, thì khả năng tác động càng lớn”. Mô hình này đã được thử nghiệm thực nghiệm trong nền kinh tế Ghana chỉ ra rằng tổ chức hỗ trợ có mối quan hệ mật thiết nhất với phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ về nguồn nhân lực, và cấu trúc quy trình làm việc sẽ đạt được hiệu quả nhất. Hossain (1998) trong kết quả báo cáo đã nhấn mạnh phát triển doanh nghiệp chính là rào cản pháp lý, điều kiện pháp luật và trật tự nghèo đói của xã hội, là một số trong những vấn đề khác có tác động đến bất lợi về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
  9. 9 Qudus, Rashid (2000) cũng cho rằng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phải đối mặt với vô số các trở ngại quan liêu khi bắt đầu xây dựng một doanh nghiệp. Rahman (2004) đã chỉ ra rằng các khó khăn phát triển doanh nghiệp là ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangldesh: thiếu các kỹ năng ở tất cả các cấp độ, thiếu tổ chức công nghiệp, kích thước giới hạn của thị trường và tốc độ tăng trưởng thấp, và thiếu chính sách đúng đắn và mang tính xây dựng, trình độ công nghệ nghèo nàn. Khan (2012) phát triển doanh nghiệp là cách tiếp cận từ các phần tử kết hợp bao gồm: kinh doanh, hỗ trợ tài chính, chính sách phù hợp và thể chế, các mối liên kết, công nghệ phù hợp và mối quan hệ thị trường/nhu cầu cho các sản phẩm. Chowdhury, Islam, Alam (2013) cho rằng phát triển doanh nghiệp chính là đo lường sự tăng trưởng của doanh nghiệp và giả định rằng có mối quan hệ tích cực giữa các yếu tố tăng trưởng được mô tả như khả năng của các doanh nhân, hỗ trợ tài chính, hỗ trợ chính phủ, công nghệ phù hợp, mối quan hệ thị trường/nhu cầu cho các sản phẩm, cơ sở hạ tầng đầy đủ. Cùng với khái niệm phát triển doanh nghiệp chính là sự tăng trưởng của doanh nghiệp được Gladys N. Wekesa Bunyasi; Bwisa, Gregory (2014) tiếp tục đưa ra khung khái niệm phát triển doanh nghiệp tiếp cận thông tin kinh doanh là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển độc lập của doanh nghiệp vừa và nhỏ và tăng trưởng là biến phụ thuộc được đo lường về lợi nhuận và doanh thu bán hàng thu được từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cuối cùng, theo quan điểm tác giả vận dụng và đề nghị làm sáng rõ khái niệm phát triển doanh nghiệp: phát triển doanh nghiệp xây dựng chính là đo lường sự tăng trưởng của doanh nghiệp và có mối quan hệ tác động giữa các yếu tố đến tăng trưởng, được mô tả như nguồn vốn kinh doanh, nguồn nhân lực, thị trường, công nghệ phù hợp, kiến trúc xây dựng, môi trường và chính sách nhà nước. 1.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển doanh nghiệp Nghiên cứu các yếu tố có tác động đến sự phát triển doanh nghiệp là cơ sở khái niệm. Mặc dù, không có nhiều công trình nghiên cứu cơ sở về những hạn chế của sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là loại hình doanh nghiệp vừa và
  10. 10 nhỏ, nhưng có một số lớn lượng nghiên cứu phát triển doanh nghiệp như (Bannock, 2002; Batra, Tan, 2003; Chowdhury, 2007) đã chỉ ra những thách thức mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đối mặt thường xuyên. Doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau về các đặc điểm như hạn chế nguồn nhân lực (nguồn vốn, nhân lực, công nghệ), chiến lược và cấu trúc linh hoạt (Hudson, 2001; Quian, Li, 2003; Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, 2012). Người ta có thể tranh luận rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ lệ thất bại cao hơn do các hạn chế về tài chính, công nghệ và con người. Một số nghiên cứu điển hình về phát triển doanh nghiệp như (Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, 2012; Chowdhury, 2007; Mintoo, 2006; Marsden, 1992; Steel, 1994) đã ủng hộ lập luận này. Thiếu nguồn vốn là một nhân tố tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều quan trọng nhất đối với việc mở rộng và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là sự khan hiếm nghiêm trọng các nguồn vốn cần thiết (Chowdhury, 2007). Nguồn nhân lực con người gắn liền với trình độ giáo dục và kinh nghiệm của họ (Chowdhury, Amin, 2011); Shapero, Sokol (1982); Gnyawali, Fogel (1994) báo cáo rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển có thể gặp vô số trở ngại như thiếu các cơ sở đào tạo, thiếu kỹ năng cần thiết trong việc bắt đầu và quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có công nhân có tay nghề cao và có kinh nghiệm với giáo dục đại học có thể sẽ hiệu quả hơn (Hewitt, Wield, 1992; Batra, Tan 2003). Các nghiên cứu khác (Lee, 2001, Yousuf, 2003, Camp, Anderson, 2000) tìm ra rằng khả năng công nghệ thấp là một hạn chế lớn trong phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khan (2004) cho rằng các khó khăn sau đây tác động đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangldesh: (a) thiếu các kỹ năng ở tất cả các cấp độ, (b), thiếu tổ chức công nghiệp, (c) kích thước giới hạn của thị trường và tốc độ tăng trưởng thấp, và (d) thiếu chính sách đúng đắn và mang tính xây dựng, trình độ công nghệ nghèo nàn. Trường hợp nghiên cứu này cho thấy thiếu các kỹ năng ở tất cả các cấp độ, thiếu tổ chức công nghiệp thì ở các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam là không phù hợp; phần lớn các kỹ năng nghề nghiệp của nhân viên, kỹ sư, kiến trúc sư và cả nhân công đều được đào tạo đúng ngành nghề, đồng thời được làm việc
  11. 11 trong môi trường ngành xây dựng nhiều năm. Nhưng kích thước giới hạn thị trường, thiếu chính sách đúng đắn và trình độ công nghệ đối với nền kinh tế chuyển đổi như ở Việt Nam thì phát triển các doanh nghiệp xây dựng là vấn đề cần được quan tâm và vận dụng vào nghiên cứu để phát triển doanh nghiệp xây dựng Sóc Trăng. Một số công trình nghiên cứu trước như Qudus, Rashid (2000) cho rằng các nhà kinh doanh ở doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phải đối mặt với vô số các trở ngại quan liêu khi bắt đầu xây dựng một doanh nghiệp. Begum (1993) báo cáo về mức trung bình những nỗ lực của chính phủ và chính sách các ưu đãi đã làm chậm quá trình tăng trưởng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Ngân hàng phát triển Châu Á (2009) đã nêu bật những khó khăn sau đây như: hạn chế tiếp cận tài chính, khan hiếm tín dụng trung và dài hạn, hạn chế kết nối với thị trường, thiếu hệ thống thông tin xếp hạng tín dụng cho khách hàng vay. Thiếu sót trong thị trường nội bộ là nguyên nhân chính của thất bại doanh nghiệp nhỏ và vừa, và xoay quanh các kỹ năng quản lý, kiến thức tài chính, thiếu chuyên môn trong tiếp thị và quản lý nguồn nhân lực (Ligthelm and Cant, 2002). Không cần phải đề cập đến các yếu tố tiếp thị như không có khả năng tiến hành nghiên cứu thị trường, sản phẩm hoặc dịch vụ kém, hiểu sai xu hướng khách hàng và nhu cầu cũng tác động đến phát triển của doanh nghiệp nhỏ. Jahangir H. Khan, Abdul Kader Nazmul, Md. Farooque Hossain, Munsura Rahmatullah (2012) đưa ra mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp bao gồm: Doanh nhân (E), hỗ trợ tài chính (F), chính sách phù hợp và thể chế (P), các mối liên kết (L), công nghệ phù hợp (T), và mối quan hệ thị trường/nhu cầu cho các sản phẩm (M), và f là định dạng của các mô hình, D là mục tiêu hoặc tăng trưởng của doanh nghiệp. Mô hình có dạng D = f (E, F, P, L, T, M,............). P là mẫu số nguyên tố là viết tắt của phần cứng và phần mềm của tổ chức là chịu trách nhiệm cho sự phát triển doanh nghiệp). Rõ ràng từ những nghiên cứu mà một số cải cách là cần thiết để hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangladesh. Các tổ chức thích hợp tham gia vào quá trình này sẽ phải hoạt động một cách gắn kết và hợp tác. Tất cả đều phải tham gia bình đẳng và sự hỗ trợ chính phủ nên bao gồm sự hợp tác của các tổ chức khác có liên quan. Do đó, nhóm tác giả
  12. 12 của mô hình này đã gợi ý nghiên cứu tiếp theo nhằm điều chỉnh và bổ sung mới các yếu tố trong mô hình cho phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Tiếp theo nghiên cứu của Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah (2012) là nghiên cứu của nhóm tác giả Chowdhury, Islam, Alam (2013) tiếp tục nghiên cứu mô hình các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Bangladesh. Mô hình bao gồm: các khả năng của các doanh nhân (CE), hỗ trợ tài chính (F), hỗ trợ chính phủ (G), công nghệ phù hợp (T), kết nối thị trường/nhu cầu cho các sản phẩm (M), cơ sở hạ tầng đầy đủ (I) và f là định dạng của các mô hình, D là mục tiêu hoặc phát triển doanh nghiệp. Mô hình có dạng: D = f (CE, F, G, T, M, I) Mô hình này dựa trên giả định rằng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào giải quyết những vấn đề còn hạn chế đến phát triển doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangladesh phải đối mặt với nhiều trở ngại tác động đến sự phát triển và tăng trưởng. Những trở ngại này làm cho các doanh nghiệp địa phương ngày càng khó khăn. Nếu chúng có thể được cải thiện, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cung cấp cho nền kinh tế địa phương những cơ hội tăng trưởng đáng kể. Nhìn chung, cũng giống nghiên cứu của Khan (2004) được Jahangir H. Khan, Abdul Kader Nazmul, Md. Farooque Hossain, Munsura Rahmatullah (2012) tiếp tục kế thừa các yếu tố như khả năng của các doanh nhân, hỗ trợ tài chính, cơ sở hạ tầng đầy đủ, hỗ trợ chính phủ, công nghệ phù hợp, kết nối thị trường. Nếu chúng ta vận dụng các yếu tố này vào nghiên cứu phát triển doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu kế thừa một số yếu tố sẽ phù hợp với điều kiện phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam như yếu tố hỗ trợ chính phủ có thể chuyển thành yếu tố chính sách nhà nước; kế thừa các yếu tố công nghệ phù hợp; kết nối thị trường, đều này cho thấy công nghệ phù hợp là vấn đề rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam. Khi thi công một công trình xây dựng thì doanh nghiệp xây dựng ngoài những yếu tố khác thì công nghệ phù hợp là vấn đề chính góp phần xây dựng thành công công trình. Đối với yếu tố kết nối thị trường ở các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam chưa được liên kết mạnh mẽ giữa thị trường các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có nghĩa là doanh nghiệp xây dựng ở tỉnh nào thì
  13. 13 phát triển ở thị trường tỉnh đó, chưa tạo thêm sức mạnh kết nối thị trường trong xây dựng. Từ yếu tố kết nối thị trường là vấn cần thiết cho các doanh nghiệp xây dựng hiện nay. Căn cứ vào các thảo luận kết quả nghiên cứu ở trên thì các khó khăn để phát triển doanh nghiệp xây dựng trong bối cảnh tỉnh Sóc Trăng có thể được phân loại thành: chính sách của nhà nước, tiếp cận nguồn vốn, thị trường, nguồn nhân lực, môi trường, công nghệ phù hợp, kiến trúc xây dựng. Chính sách nhà nước nghĩa là chính phủ sẽ trực tiếp hỗ trợ sự phát triển và tăng trưởng của khu vực này bằng cách cung cấp tất cả các phương tiện để khuyến khích và hỗ trợ, giải quyết các vấn đề về phát triển bao gồm các yếu tố hỗ trợ chính phủ (North 1990; Binks & Coyne 1983). Nghiên cứu của Chowdhury, Islam, Alam (2013) được xem là nghiên cứu điển hình và mô hình đưa ra 6 yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Bangladesh và được Wekesa Bunyasi; Henry Bwisa, Gregory (2014) tiếp tục kế thừa nghiên cứu phát triển doanh nghiệp từ việc tiếp cận thông tin kinh doanh là yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng doanh nghiệp vừa và nhỏ (tăng trưởng doanh nghiệp là biến phụ thuộc được đo lường về lợi nhuận và doanh thu bán hàng thu được từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Các nghiên cứu này giới hạn trong hai ngành công nghiệp (nhà hàng và doanh nghiệp sản xuất sữa) và đã không đưa vào phỏng vấn chuyên sâu để điều tra các trở ngại cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Bangladesh. Nhưng nghiên cứu hiện nay là nền tảng, nghiên cứu trong tương lai có thể được thực hiện với nhiều mẫu từ các khu vực khác nhau và sử dụng phỏng vấn chuyên sâu để có cái nhìn rộng hơn về những khó khăn trong việc phát triển và tăng trưởng của các doanh nghiệp. Điều này cho thấy sự hạn chế của nghiên cứu này chính là tiền đề xuất hiện nghiên cứu tiếp theo ở nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và quy mô mẫu được mở rộng hơn. Như vậy, tác giả cho rằng lĩnh vực doanh nghiệp xây dựng là điều kiện thích hợp nghiên cứu tiếp theo của Chowdhury, Islam, Alam (2013). Tổng hợp các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp (bảng 1.1).
  14. 14 Bảng 1.1: Tổng hợp các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp Tác giả Yếu Yếu Yếu Yếu Yếu Yếu Yếu tố 1 tố 2 tố 3 tố 4 tố 5 tố 6 tố 7 Khan, Nazmul, Hossain,     Rahmatullah (2012); Chowdhury, Islam, Alam    (2013)  Khan (2004);   Ligthelm, Cant (2002);  Batra, Tan (2003); Chowdhury, Amin (2011) Chen, Lasker (2010)  Njuangang, Douglas,  Liyanage (2010); Kent Fairfield, Joel Harmon, Scott Behson (2011) Souza (2009)  Nguồn: tổng hợp nghiên cứu của tác giả Ghi chú các yếu tố (Yếu tố 1: nguồn vốn; yếu tố 2: kết nối thị trường; yếu tố 3: chính sách nhà nước; yếu tố 4: nguồn nhân lực; yếu tố 5: công nghệ phù hợp; yếu tố 6: kiến trúc xây dựng; yếu tố 7: môi trường xây dựng). 1.3 Mối liên hệ giữa các khái niệm và tổng quan nghiên cứu phát triển doanh nghiệp Phát triển mô hình nghiên cứu và một số giả thuyết chính liên quan đến việc phát triển doanh nghiệp, từ các vấn đề nghiên cứu nhằm giải thích mối liên kết của chúng với các đề xuất làm sáng tỏ khái niệm. Mô hình phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp. Vì vậy, mô hình lý thuyết của Chowdhury, Islam, Alam (2013) được tác giả vận dụng vào nghiên cứu phát triển các doanh nghiệp xây dựng tại tỉnh Sóc Trăng là phù hợp với khung khái niệm và kết hợp với mô hình nghiên cứu.
  15. 15 Trên cơ sở tiếp cận khái niệm và tổng quan nghiên cứu phát triển doanh nghiệp, tác giả rút ra một số kết luận nghiên cứu có liên quan đến các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng và có thể đưa ra các giả thuyết sau đây: (1) Nguồn vốn: Thiếu nguồn vốn là một nhân tố tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều quan trọng nhất đối với việc mở rộng và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là sự khan hiếm nghiêm trọng các nguồn vốn cần thiết (Chowdhury, 2007). Người ta có thể tranh luận rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ lệ thất bại cao hơn do các hạn chế về tài chính. Một số nghiên cứu điển hình như (Marsden, 1992; Steel, 1994; Chowdhury, 2007; Mintoo, 2006). Các nghiên cứu này chủ yếu dựa trên các quan điểm của các cơ quan cho vay (thường là khó khăn với việc xử lý các khoản vay nhỏ). Các thủ tục cho vay hiện nay của các tổ chức tín dụng Việt Nam được cho là cồng kềnh, quá quan liêu và tài sản thế chấp được xem là quá mức. Trước tiên, các quan chức nói rằng hầu hết các doanh nghiệp huy động nguồn vốn không trình bày các nghiên cứu khả thi hoặc thuyết phục bằng kế hoạch kinh doanh hấp dẫn. Do đó, được coi rủi ro cao. Thứ hai, ngay cả những doanh nghiệp với kế hoạch kinh doanh hấp dẫn không được vay bởi thiếu tài sản thế chấp. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp không có tài khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng chính thức, mà ngân hàng yêu cầu cần vay. Một lý do nữa là doanh nghiệp đã không đưa ra bất kỳ một nhượng bộ về điều kiện cho vay của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tình trạng thiếu nguồn vốn có thể tồn tại trong nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Điều này cho thấy một số cải cách của việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Trong giai đoạn phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải trải qua tình trạng thiếu nguồn vốn. Tuy nhiên, tình trạng thiếu nguồn vốn có thể được hiển thị để tồn tại cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangladesh (Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, 2012). Trong khi các ngân hàng muốn thay đổi các quy tắc cho vay đối với các doanh nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu của Kamunge, Njeru, Tirimba (2014), yếu tố khả năng tiếp cận nguồn vốn vay có tác động đến doanh nghiệp ở Kenya. Nghiên cứu cho thấy nguồn vốn (hỗ trợ tài chính) được xem xét tác động ở khía cạnh thành công của doanh nghiệp xây dựng, khả năng huy động tài chính từ bên ngoài tác động vào nguồn vốn của doanh nghiệp xây dựng, mối liên quan giữa tiếp cận nguồn vốn và sự phát triển doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu hỗ trợ nguồn
  16. 16 vốn tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhóm tác giả Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah (2012); Chowdhury, Islam, Alam, (2013) cho thấy nguồn vốn sẽ tác động đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. Như thảo luận ở trên về nguồn vốn phát triển doanh nghiệp trong khuôn khổ lý thuyết đã tiếp cận, tác giả đưa ra giả thuyết thứ nhất như sau: H1: Nguồn vốn có tác động dương đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. (2) Kết nối thị trường Do kiến thức hạn chế, khả năng và nguồn lực của các doanh nghiệp và những mối quan tâm của nhà nước không nhận ra tầm quan trọng của thị trường. Nghiên cứu cho thấy rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp một số vấn đề tiếp thị khác nhau, từ việc mua nguyên liệu đầu vào đến bán sản phẩm đầu ra. Nguyên nhân được xác định là thiếu nguồn vốn, kiến thức, cơ sở hạ tầng, chất lượng, nhu cầu phân tán và thông tin thị trường. Kích thước giới hạn của thị trường và tốc độ tăng trưởng thấp sẽ dẫn đến khó khăn cho sự tăng trưởng và phát triển doanh nghiệp (Khan, 2004); Thiếu thị trường là nguyên nhân chính của thất bại doanh nghiệp vừa và nhỏ (Ligthelm, Cant, 2002); Kết nối thị trường có khả năng tác động đáng kể đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, 1012; Chowdhury, Islam, Alam, 2013). Dựa vào sơ lược yếu tố thị trường có mối quan hệ kết nối với phát triển doanh nghiệp trong khuôn khổ khung khái niệm được tiếp cận, tác giả đưa ra giả thuyết thứ 2 như sau: H2: Kết nối thị trường có mối quan hệ tích cực đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. (3) Chính sách nhà nước Mức thấp của phát triển doanh nghiệp tại Việt Nam thường là do việc thực hiện xây dựng kém các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, bao gồm cả các khoản vay, các cơ sở đào tạo, các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng, và cung cấp các nguyên liệu ở mức trợ cấp cho các doanh nghiệp phát triển ổn định và lâu dài. Các nhóm chuyên gia cũng chỉ ra sự thiếu hụt nguồn vốn và đặc biệt là của ngoại hối là một trở ngại nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Hơn nữa, diễn biến này đã ảnh hưởng tới kế hoạch để biết thêm tích lũy và hình thành nguồn
  17. 17 vốn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xây dựng thâm hụt nguồn vốn. Các rủi ro điều hành chính sách của nhà nước cũng làm cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những người nước ngoài, ngày càng không tin vào môi trường kinh doanh triển vọng của doanh nghiệp. Một số mục tiêu chiến lược dài hạn rất quan trọng trong bối cảnh này, cũng như sự kiên nhẫn và quyết tâm để xem chính sách đó từ đầu đến cuối, và điều này sẽ đòi hỏi một mức độ cao của tính nhất quán trong hoạch định chính sách. Việc phân tích các yếu tố chính sách và thể chế rõ ràng đã cho thấy rằng Việt Nam đã cung cấp chính sách và hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước đã nhấn mạnh vào yếu tố quyết định chính như đào tạo và cung ứng của các doanh nhân, thị trường mối quan hệ, và công nghệ đặc biệt cho ngành xây dựng. Tuy nhiên, một tầm nhìn dài hạn rõ ràng và tiến bộ về vai trò của các phát triển doanh nghiệp chưa được phản ánh nhiều trong chính sách nhà nước. Điều này cho thấy một số nghiên cứu điển hình về hỗ trợ chính sách của nhà nước như Khan (2004) cho rằng khó khăn về thiếu chính sách đúng đắn và mang tính xây dựng sẽ tác động đến sự tăng trưởng và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách và thể chế phù hợp sẽ tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangladesh (Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, 2012). Việc phân tích các chính sách và các yếu tố thể chế rõ ràng đã tiết lộ rằng Bangladesh đã không được cung cấp chính sách và hỗ trợ thể chế cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Kết quả nghiên cứu của Chowdhury, Islam, Alam (2013) khẳng định hỗ trợ chính phủ có tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Bangladesh. Từ kết quả nghiên cứu hỗ trợ chính sách nhà nước có tác động vào phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây chính là vấn đề cần được xem xét nghiên cứu tiếp theo. Dựa vào sơ lược yếu tố hỗ trợ chính sách nhà nước có mối quan hệ kết nối với phát triển doanh nghiệp trong khuôn khổ khung khái niệm được tiếp cận, tác giả đưa ra giả thuyết thứ 3 như sau:
  18. 18 H3: Chính sách nhà nước có tác động dương đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. (4) Nguồn nhân lực Các vấn đề về nguồn nhân lực phản ánh mức độ mà các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có kinh nghiệm nhất định có ảnh hưởng đến phát triển doanh nghiệp của họ. Ligthelm, Cant (2002) khẳng định rằng tác động của các vấn đề nguồn nhân lực là nghiêm trọng hơn trong các doanh nghiệp quản lý hoặc sở hữu bởi người không có kinh nghiệm quản lý. Nhưng theo nghiên cứu của Hewitt, Wield (1992), Batra, Tan (2003) khẳng định rằng nguồn nhân lực (công nhân có tay nghề cao hơn và có học vấn cao hơn) có thể sẽ hiệu quả hơn đối với phát triển doanh nghiệp. Nói một cách khác, nguồn nhân lực con người gắn liền với mức độ giáo dục và kinh nghiệm của họ có tác động đến phát triển doanh nghiệp (Shapero, Sokol, 1982; Chowdhury, Amin, 2011). Từ kết quả nghiên cứu nguồn nhân lực có tác động vào phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, yếu tố nguồn nhân lực có mối quan hệ kết nối với phát triển doanh nghiệp trong khuôn khổ khung khái niệm được tiếp cận, tác giả đưa ra giả thuyết thứ 4 như sau: H4: Nguồn nhân lực có tác động dương đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. (5) Công nghệ phù hợp Các doanh nhân thường đến từ khu vực nông thôn thiếu đào tạo chính quy và thiếu kinh nghiệm công nghệ hoặc kinh doanh và kỹ năng. Trong ngắn hạn, họ thiếu sự năng động để bắt tay vào thay đổi. Mặt khác, các chế độ chính sách của nước cũng không tạo ra một môi trường thuận lợi để sử dụng công nghệ tiên tiến phù hợp. Rõ ràng là các nhà hoạch định chính sách của chính phủ và đặc biệt là các nhà quy hoạch đã thể hiện nhận thức của họ về sự cần thiết phải thúc đẩy năng lực công nghệ, bởi đây là động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm mới, đặc biệt Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện quy hoạch phải có ý quy định một số yếu tố quan trọng của việc áp dụng công nghệ mới. Mặt khác, các chế độ chính sách và thể chế của nhà nước cũng không tạo ra một môi trường thuận lợi để sử dụng công nghệ tiên tiến phù hợp. Theo Huq, Love
  19. 19 (2001) các liên doanh nói chung rất bảo thủ trong việc thay đổi công nghệ mới. Doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau về các đặc điểm như hạn chế công nghệ sẽ ảnh hưởng đến phát triển doanh nghiệp (Hudson, 2001; Quian, Li, 2003). Công nghệ xây dựng được đo lường thông qua yếu tố của kiến thức tạo nên cấu trúc mô hình hóa doanh nghiệp theo hệ thống tổ chức (Chen, Lasker, 2010). Công nghệ phù hợp có tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bangladesh (Khan, Nazmul, Hossain, Rahmatullah, 2012). Nghiên cứu của Chowdhury, Islam Alam (2013) tiếp tục có kết quả nghiên cứu cũng khẳng định rằng công nghệ phù hợp sẽ tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Bangladesh. Từ kết quả nghiên cứu công nghệ phù hợp sẽ tác động vào phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây chính là vấn đề cần được xem xét nghiên cứu tiếp theo. Dựa vào sơ lược yếu tố công nghệ phù hợp có mối quan hệ kết nối với phát triển doanh nghiệp trong khuôn khổ khung khái niệm được tiếp cận, tác giả đưa ra giả thuyết thứ 5 như sau: H5: Công nghệ phù hợp có tác động dương đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. (6) Kiến trúc xây dựng Trong kiến trúc xây dựng không thiếu sự sáng tạo nhưng họ thường thiếu sự tự do để có thể mặc sức khai thác khả năng sáng tạo của mình. Khách hàng luôn đặt ra những yêu cầu, xây dựng phải được sự thỏa hiệp giữa ý tưởng sáng tạo và điều kiện thực tế. Nếu những giới hạn đó được dỡ bỏ, các kiến trúc sư sẽ cho ra đời những tòa nhà độc đáo tới mức nào. Những công trình kiến trúc dần mọc lên ở thành phố Hồ Chí Minh không giống với những ngôi nhà bình thường, đó có thể coi là những tác phẩm nghệ thuật của kiến trúc xây dựng. Kiến trúc xây dựng thể hiện bản sắc của một dân tộc nói chung và nét truyền thống trong kiến trúc xây dựng nói riêng, cần phải phát hiện và tập hợp những nét riêng độc đáo, đặc thù, cốt lõi và tinh túy của quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp xây dựng. Theo Souza (2009) kiến trúc thiết kế xây dựng chỉ là những lý do cho việc thông qua các khía cạnh xây dựng mô hình thông tin liên quan đến việc thực hiện trong bản vẽ thông qua dự án và theo cách thông thường của thiết kế xây dựng công trình đối với doanh nghiệp. Vì kiến trúc xây dựng là lĩnh vực đặc thù
  20. 20 chỉ có ở doanh nghiệp xây dựng và lĩnh vực doanh nghiệp khác không có chức năng tư vấn kiến trúc xây dựng, việc đưa yếu tố kiến trúc xây dựng vào nghiên cứu doanh nghiệp xây dựng tại tỉnh Sóc Trăng là phù hợp với lĩnh vực của doanh nghiệp. Việc định hướng phát triển kiến trúc xây dựng ở tỉnh Sóc Trăng nhằm đáp ứng với nhu cầu xây dựng công trình và kiến trúc tạo dấu ấn trong không gian đô thị và nông thôn trên cơ sở khai thác tốt những tiến bộ, văn minh thế giới, đồng thời phải đảm bảo phát huy tốt những đặc trưng của bản sắc văn hoá dân tộc. Từ kết quả nghiên cứu kiến trúc xây dựng bổ sung phù hợp sẽ tác động vào phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, dựa vào sơ lược yếu tố kiến trúc xây dựng phù hợp có mối quan hệ kết nối với phát triển doanh nghiệp trong khuôn khổ khung khái niệm được tiếp cận, tác giả đưa ra giả thuyết thứ 6 như sau: H6: Kiến trúc xây dựng có mối quan hệ tích cực đến phát triển doanh nghiệp xây dựng. (7) Môi trường xây dựng Doanh nghiệp quan tâm đến môi trường có khả năng tác động đến việc ra quyết định trong thực hiện hệ thống quản lý môi trường đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Njuangang, Douglas, Liyanage, 2010). Vấn đề môi trường có mối quan hệ giữa các mục tiêu trong hoạt động trách nhiệm xã hội và tác động của ngành xây dựng (Martinuzzi; Kudlak; Faber; Wiman, 2011). Thực trạng tại tỉnh Sóc Trăng, hầu hết các doanh nghiệp xây dựng đều vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, trong đó có phần lớn nằm trong khối doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra của Trung tâm Quan trắc và phân tích tài nguyên môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, hầu như các doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường như: chưa lập hoặc đã có nhưng thực hiện không đúng các yêu cầu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (cam kết bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường…) chưa thực hiện quan trắc môi trường định kỳ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, không đầu tư hệ thống xử lý chất thải đảm bảo đạt tiêu chuẩn Việt Nam trước khi thải ra môi trường. Từ kết quả nghiên cứu kiến trúc xây dựng bổ sung phù hợp sẽ tác động vào phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, dựa vào sơ lược yếu tố kiến trúc xây dựng phù
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0