intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Luật học: Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: Cẩm Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:214

74
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu, tìm hiểu quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về chứng minh trong tố tụng hình sự, chỉ ra sự tương đồng, khác biệt và kinh nghiệm đối với Việt Nam. - Đánh giá thực trạng chứng minh trong tố tụng hình sự khi giải quyết vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những vướng mắc trong thực tiễn chứng minh vụ án hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Luật học: Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRÚC THIỆN CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HOÀNG THỊ MINH SƠN HÀ NỘI - 2019
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Trúc Thiện
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................ 7 1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ....................................................................... 7 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ..................................................................... 10 1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ........................ 20 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINHTRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................................................................................... 25 2.1 Cơ sở phương pháp luận của chứng minh trong tố tụng hình sự. ......................... 26 2.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hình sự ... 30 2.3. Đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh trong tố tụng hình sự ............... 44 2.4. Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự ....................................................... 55 2.5. Chứng minh trong các mô hình tố tụng và một số nước trên thế giới ................. 66 Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI ....... 76 3.1. Quy định của pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình sự............................. 76 3.2. Thực tiễn chứng minh trong tố tụng hình sự tại tỉnh Đồng Nai .......................... 95 Chương 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................. 119 4.1. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng chứng minh trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai………………………………………………… ....... 119 4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật hiện hành về chứng minh trong tố tụng hình sự ....................................................................................... 124 4.3. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình sự ............................................................................................................................... 139 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự BLHS Bộ luật hình sự CMTTTHS: Chứng minh trong tố tụng hình sự CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng HĐXX: Hội đồng xét xử THTT: Tiến hành tố tụng TTHS: Tố tụng hình sự
  5. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Chứng minh trong tố tụng hình sự là một trong những vấn đề lý luận quan trọng, cơ bản của tố tụng hình sự. Mặc dù đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chứng minh trong tố tụng hình sự nhưng phần lớn là nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự, quá trình chứng minh trong vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự, quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự… Tuy nhiên, để giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chứng minh làm rõ được sự thật của vụ án. Vì không thể làm sáng tỏ tất cả mọi khía cạnh của vụ án hình sự mà chỉ có thể và chỉ cần làm rõ những tình tiết có ý nghĩa pháp lý, những vấn đề cần thiết mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Muốn làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được những chứng cứ cần thiết theo đúng quy định của pháp luật. Xét về trình tự tố tụng chứng minh là phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ trên cơ sở đó mới xác định được sự thật của vụ án. Do vậy, cần nhận thức đúng, đầy đủ và sâu sắc về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, trên cơ sở đó cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có cách nhìn và thái độ làm việc khách quan, toàn diện trong việc tìm kiếm, đánh giá chứng cứ. Nhận thức đúng đắn lý luận về chứng cứ bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào điều kiện cụ thể của vụ án để có quyết định chính xác trong những tình huống giữa có tội và không có tội, áp dụng trách nhiệm hình sự hay miễn trách nhiệm hình sự. Để bảo đảm pháp chế và công lý, đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải có kiến thức pháp luật và hiểu biết đầy đủ, khách quan, toàn diện về các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, đảm bảo cho việc chứng minh tội phạm được khách quan, toàn diện, chính xác, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định chứng minh và chứng cứ thành một chương riêng, theo đó được quy định tại chương VI của Bộ luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay tình hình tội phạm rất phức tạp, phương thức và thủ đoạn gây án rất tinh vi, quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết chưa triệt để, làm cho việc xác định sự thật khách quan vụ án còn có nhiều sai sót, dẫn đến việc 1
  6. điều tra, truy tố, xét xử không đúng người, đúng tội dẫn đếnnhiều trường hợp làm oan người vô tôi, bỏ lọt tội phạm. Như vậy, xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chứng minh trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng là bảo đảm tốt hơn về quyền con người, bảo vệ bên bị yếu thế và góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực hiện chứng minh trong tố tụng hình sự còn có những bất cập xuất phát từ việc chưa quy định cụ thể, rõ ràng giữa các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử dẫn đến tình trạng chồng chéo nhau, làm cho các chủ thể thực hiện chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, có sự đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Ngoài ra một nhân tố cũng không kém phần quan trọng đó là trình độ chuyên môn của các chủ thể thực hiện các hoạt động chứng minh ngày càng được nâng cao, nhưng thực tiễn trong những năm gần đây chất lượng giải quyết các vụ án hình sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện chứng minh trong tố tụng hình sự và nguyên nhân khách quan từ chính các quy định của pháp luật hình sự. Đồng Nai là một trong những tỉnh có số lượng án nhiều chỉ đứng sau Tp. Hồ Chí Minh và Tp.Hà Nội vì tập trung nhiều khu công nghiệp, số lượng dân di cư lớn, tình hình an ninh trật tự cũng có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm hình sự xảy ra với tính chất, mức độ nguy hiểm cho cho xã hội ngày càng gia tăng.Việc tiếp tục nghiên cứu chứng minh trong tố tụng hình sự là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận án tiến sĩ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật liên quan đến chứng minh trong tố tụng hình sự cùng với sự tổng kết thực trạng hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Đồng Nai, luận án đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các giải pháp khác nhằm bảo đảm và nâng cao hơn nữa chất lượng chứng minh trong vụ án hình sự. 2
  7. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận án như sau: - Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài và ở Việt Nam về những vấn đề liên quan đến chứng minh trong tố tụng hình sự, chỉ ra những điểm đã thống nhất, những điểm còn tranh luận chưa được giải quyết thấu đáo và những điểm luận án tập trung giải quyết. - Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng hình sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung... của chứng minh trong tố tụng hình sự. - Phân tích và làm rõ quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ, chỉ ra những bất cập và thiếu sót trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam. - Nghiên cứu, tìm hiểu quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về chứng minh trong tố tụng hình sự, chỉ ra sự tương đồng, khác biệt và kinh nghiệm đối với Việt Nam. - Đánh giáthực trạng chứng minh trong tố tụng hình sự khi giải quyết vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những vướng mắc trong thực tiễn chứng minh vụ án hình sự. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng hình sự, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng minh trong tố tụng hình sự, có tham khảo luật tố tụng hình sự của nước ngoài và thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng minh trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian và thời gian, Luận án tập trung nghiên cứu thực tiễn chứng minh trong các giai giai đoạn tố tụng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2008 đến năm tháng 6 năm 2019. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án nghiên cứu chứng minh trong tố tụng hình sự theo phương pháp liên ngành khoa học xã hội và đa ngành, liên ngành luật học. Trong luận án, tác giả chú trọng sử dụng phương pháp luận nghiên cứu sau: 3
  8. - Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như các quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. -Luận án được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của Chủ nghĩa duy vật biện chứng để luận giải quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, từ việc thu thập, kiểm tra cho đến đánh giá chứng cứ. Với triết lý nhận thức là một quá trình vận động và phát triển không ngừng từ không biết cho đến biết, từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được quy luật của sự vật và hiện tượng. Vấn đề này hoàn toàn phù hợp với việc chứng minh trong tố tụng hình sự. - Luận án sử dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu lý luận luật hình sự, luật tố tụng hình sự làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá luật thực định về hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự. - Với lý luận về dấu vết trong khoa học điều tra tội phạm, đây là cơ chế hình thành chứng cứ trong vụ án hình sự mà các chủ thể có thẩm quyền cần phải nghiên cứu để có thể thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khái quát, tổng hợp được sử dụng trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm hệ thống hóa các công trình khoa học đã được công bố và phân loại theo nhóm công trình liên quan đến nội dung luận án. - Phương pháp phân tích được sử dụng trong hầu hết các nội dung được nghiên cứu trong luận án nhằm luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, làm rõ quy định của pháp luật và từ đó đưa ra nhận xét, đánh gía mang tính kết luận đối với từng vấn đề hoặc từng nhóm vấn đề. - Phương pháp lịch sử được sử dụng trong việc nghiên cứuquá trình phát triển của những quy định về hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự với sự thể hiện gắn kết và nối tiếp về thời gian nhằm đưa ra những minh chứng cho giá trị của nó và việc kế thừa những quy định về hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự. - Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm ra đặc điểm của hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự so với tố tụng phi hình sự, tìm ra sự tương đồng và khác biệt trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới và tiếp thu kinh nghiệm đối với Việt Nam. 4
  9. - Phương pháp thống kê được sử dụng để đánh giá thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình sự làm cơ sở cho việc chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nội dung nghiên cứu trong từng chương mục của đề tài, luận án chú trọng lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. Vì vậy, để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả kết hợp chặt chẽ các phương pháp trong quá trình nghiên cứu của toàn bộ nội dung luận án, đồng thời cũng xác định phương pháp chủ đạo trong việc nghiên cứu từng nội dung trong từng chương, mục của luận án nhằm làm rõ những vấn đề lý luận chung, những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực trạng chứng minh trong tố tụng hình sự. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Đề tài là một công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam mà cụ thể trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và gắn với thời gian cụ thể từ năm 2008 đến tháng 6 năm 2019. Điểm mới của luận án được thể hiện chủ yếu ở các điểm sau: - Về phương pháp tiếp cận:Bằng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành luật học, đặc biệt là các phương pháp triết học pháp luật, phương pháp duy vật biện chứng, luận án đã phân tích rõ khái niệm chứng minh, trách nhiệm chứng minh, chủ thể chứng minh và đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai từ năm 2008 đến tháng 6 năm 2019 và tổng kết những kinh nghiệm chứng minh của các cơ quan tư pháp hình sự tại tỉnh Đồng Nai, đồng thời chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế từ việc áp dụng các quy định pháp luật Tố tụng hình sự, đặc biệt là các quy định mới của BLTTHS năm 2015 vào thực tiễn chứng minh của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tại tỉnh Đồng Nai. Qua đó làm cơ sở cho việc đưa ra các kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng. - Về quan điểm tiếp cận:Với quan điểm tiếp cận tổng thể, toàn diện và đa chiều về chứng minh trong tố tụng hình sự giữa quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn chứng minh trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nghiên cứu trách nhiệm chứng minh và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong chứng minh tội phạm. Luận án làm sáng tỏ quy định trách nhiệm chứng minh cũng như đối tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự, đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công dân, tránh oan sai. 5
  10. - Về tính tổng quát của luận án:Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận, đặc biệt là trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng hình sự và qua nghiên cứu thực tiễn để làm sáng tỏ, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về chứng minh trong tố tụng hình sự, qua đó phát hiện ra những nguyên nhân hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện về mặt lý luận mà trước hết là lý luận về chứng minh trong tố tụng hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: Luận án nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về chứng minh trong tố tụng hình sự ở nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng và phát triển hoàn thiện hơn lý luận về chứng minh trong trong tố tụng hình sự ở nước ta. Luận án đưa ra được các luận cứ khoa học về nội dung, các bước và các giải pháp về chứng minh trong tố tụng hình sự. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng trong công tác nghiên cứu của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với chính các cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng và sửa đổi Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản dưới luật góp phần làm phong phú và hoàn thiện hơn lý luận chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam, nâng cao hiệu quả trong công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được chia thành bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng hình sự. Chương 3: Quy định của pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Đồng Nai. Chương 4: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng chứng minh trong tố tụng hình sự Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 6
  11. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước Khoa học luật tố tụng hình sự của pháp luật hình sự quốc tế và Luật tố tụng hình sự của nước ngoài luôn đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể tố tụng giải quyết vụ án một cách đúng đắn, tránh bỏ lọt tội, tránh oan sai. Cụ thể, có thể kể đến các công trình sau: A. Ia vu-sin-xky (1950), Teopия судебныx доказательств b советском праве. Nhà xuất bản Matxcơva, Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xô Viết, (Bản dịch của Phòng tuyên truyền Tập san Tòa án nhân dân tối cao (1967). Trong cuốn sách này tác giả đã đưa ra khái niêm chứng cứ hình thức, nội dung và ý nghĩa lịch sử của chứng cứ hình thức; Những đặc điểm của hệ thống chứng cứ nước Anh, chủ nghĩa hình thức của hệ thống chứng cứ hình thức nước Anh, những quy tắc cơ bản của hệ thống chứng cứ nước Anh. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng: Thẩm phán phải được tự do đánh giá chứng cứ và không bị ràng buộc bởi những quy tắc hình thức hoặc những điều kiện hình thức. Chỉ có hệ thống chứng cứ nào lấy nguyên tắc ấy làm điểm xuất phát thì mới có thể được coi là một hệ thống xứng đáng với sự nghiệp vĩ đại của việc thực hiện chức năng xét xử. Luật chứng cứ Xô Viết dựa trên nguyên tắc ấy. Nó tuân theo những yêu cầu của pháp chế XHCN và chức năng xét xử XHCN [120, tr. 204]. Phương pháp biện chứng Mác – Xít trong luật chứng cứ Xô Viết là sự nghiên cứu toàn bộ tình hình cụ thể của sự biến và sự phát triển của sự biến [120,tr.343]. Pháp luật Xô Viết bác bỏ phương pháp pháp lý hình thức là một phương pháp không khoa học và có hại, là một phương pháp làm trở ngại hoặc hoàn toàn mất khả năng xác định sự thật trong tố tụng, sự thật ấy là mục đích cơ bản của toàn bộ trình tự tố tụng [120, tr351]. Sẽ là sai lầm, nếu quy quá trình chứng minh về tố tụng thành quá trình tư duy logic hình thức thông thường. Ngoài ra, tác giả còn phân tích trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự cũng như phân loại chứng cứ và nguồn chứng cứ. Báo cáo nghiên cứu của PhápJean-Philippe Rivaud (2011), Hệ thống tư pháp hình sự của Pháp, Paris. Trong bài viết của mình, tác giả có bàn về vấn đề thu thập chứng cứ. Theo đó, trước khi mở phiên tòa, chứng cứ cần thiết phải được Thẩm phán điều tra (người có trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn cảnh sát) hoặc do Công tố 7
  12. viên chỉ đạo lực lượng cảnh sát thu thập đầy đủ.Người bị hại cũng có quyền thu thập chứng cứ và đề nghị Thẩm phán điều tra hoặc Công tố viên truy tố vụ án. Trong quá trình điều tra, bị can và nguyên đơn có quyền đề nghị Thẩm phán điều tra những điểm mà họ thấy cần thiết, Thẩm phán phải đáp ứng đề nghị đó, nếu Thẩm phán từ chối bị can hoặc nguyên đơn có quyền khiếu nại tới bộ phận phụ trách phúc thẩm của các Thẩm phán điều tra.Cũng cần phải khẳng định tầm quan trọng của các chứng cứ khoa học hình sự do các chuyên gia đã được cơ quan công tố hoặc Thẩm phán điều tra, Tòa án mời giám định. Trong tố tụng hình sự Pháp, trách nhiệm chứng minh sự thật hoàn toàn thuộc về cơ quan công tố. Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng, bị cáo không bị coi là có tội cho đến khi Tòa có đủ chứng cứ để tuyên người đó có tội. Theo quy định tại Điều 427 của Bộ luật tố tụng hình sự, mọi hình thức chứng cứ đều được Tòa án chấp nhận, trong đó những hình thức chứng cứ được pháp luật công nhận bao gồm: Các tài liệu (biên bản ghi lời khai, văn bản có công chứng, tài liệu công khai…); Chứng cứ bằng lời nói của nhân chứng hoặc lời khai của bị can, bị cáo; Những chứng cứ có thực: các đồ vật được mang ra trước phiên tòa; Các chứng cứ mang tính khoa học do cơ quan khoa học hình sự hoặc chuyên gia giám định xác nhận. Trong tố tụng hình sự Pháp không có sự phân loại chứng cứ rõ ràng. Tố tụng hình sự Pháp không bám chặt vào khái niệm “chứng cứ cuối cùng”. Tòa phải xem xét mọi chứng cứ bao gồm các chứng cứ mang tính tình huống để có thể có cơ sở vững chắc khi đưa ra phán quyết của mình. Giai đoạn tiền xét xử kết thúc khi hồ sơ vụ án đã hoàn thiện và có đủ chứng cứ để truy tố vụ án ra tòa. Nếu không vụ án sẽ bị hủy bởi Công tố viên hoặc Thẩm phán điều tra. (“ordonnancedenon-lieu”). Sách “Criminal proceduce-law and practice” của tác giả Rolando V.del carmen Trường Đại học bang Sam Houston, được in tại Printed in the United states of American. Sách có 15 chương, nội dung chủ yếu quy định các quyền của người bị buộc tội, các nguyên tắc cơ bản theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ, tổng quan về quá trình tư pháp hình sự và quy định các quyền cơ bản của bị cáo [126]. Sách: ‘‘Luật chứng cứ hình sự năm 1989 của Anh’’, bị cáo là nhân chứng của bên bào chữa, theo lý luận chứng cứ Anh có ý đồ chỉ giải đáp những vấn đề sau: Những sự việc như thế nào có thể chứng minh được (thema probanda, what facts may anh what may not be proved in such cases). Những chứng cứ nào có thể dùng 8
  13. để chứng minh (what sort of evindence must be given of a fact which may be proved). Ai phải đề xuất chứng cứ hoặc ai phải chịu trách nhiệm chứng minh (by whom anh in what manner the evidence must be produced, by which any fact í to be proved) [127]. Luật hình sự Anh có một nguyên tắc rất nổi tiếng là bị cáo được giả thuyết là vô tội và bên công tố có trách nhiệm xóa hết mọi nghi ngờ để chứng minh bị cáo có tội, cơ quan công tố phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội của bị cáo. Trong suốt trang sử của pháp luật hình sự Anh có một sợi chỉ vàng xuyên suốt đó là trách nhiệm chứng minh có tội thuộc về cơ quan công tố, trừ trường hợp bị cáo trong tình trạng tâm thần hoặc pháp luật có quy định khác Tài liệu lịch sử Luật hình sự của Anh của Fitzjame Stephen đã lập luận: ‘‘xã hội ….là mạnh hơn cá nhân rất nhiều và có khả năng gây cho cá nhân nhiều thiệt hại hơn là cá nhân có thể gây ra cho xã hội, vì vậy cần có sự khoan dung đối với cá nhân’’[128,tr.354], thông qua việc giảm thiểu nguy cơ kết tội nhầm, trách nhiệm chứng minh của cơ quan công tố sẽ củng cố tính hợp pháp của hệ thống tư pháp hình sự; nếu tính đến sự bất cân bằng về nguồn lực và kinh phí giữa một bên là nhà nước và một bên là cá nhân thì bất cứ ai có chút đạo lý công bằng nào cũng thấy rằng cần phải cân đối lại cán cân này để mỗi cá thể khỏi thiệt thòi. Trách nhiệm chứng minh còn thể hiện tính nghiêm túc của các bản án hình sự, do đó tăng thêm tính đạo đức, thậm chí là tăng cường hiệu lực răn đe. Tài liệu nghiên cứu về mô hình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ của Richard S. Shine và Ở Mỹ có thủ tục cảnh báo Miranda: Người bị buộc tội không có trách nhiệm chứng minh sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh phải thuộc về và chỉ thuộc về cơ quan buộc tội, người buộc tội. Bản án phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, không một chứng cứ nào có giá trị tiên quyết, không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nêu ra nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó. Chính vì vậy, mô hình tố tụng hình sự Hoa Kỳ ưu tiên kiểm soát tội phạm đồng thời duy trì một quy trình thủ tục công bằng [131]. Tài liệu nghiên cứu mô hình tố tụng hình sự của Nhật Bản của Giáo sư Byung-Sun Cho: Theo mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản thì quyền thu thập và đưa ra chứng cứ thì nếu có điều kiện cần phải chứng minh, Tòa án phải chủ động thu thập chứng cứ nếu cần thiết. Toàn bộ việc xét xử vụ án dựa vào câu hỏi trách nhiệm 9
  14. đưa ra chứng cứ thuộc về ai (Beweislast), khi vẫn còn nghi vấn thì phải tha bổng cho bị cáo đó là ý nghĩa của câu cách ngôn pháp lý ‘‘in dubio proreo’’, người bị tình nghi phạm tội phải được hưởng các cơ hội giống hệt với các cơ quan điều tra, đây gọi là nguyên tắc đối tụng công bằng (equality of arms) [132]. Tài liệu dự thảo báo cáo Nghiên cứu về Mô hình tố tụng hình sự ITALIA của tác giả Marco Fabria ngày 10/8/2011 đã đề cập đến địa vị tố tụng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo và người bào chữa trong tố tụng hình sự. Theo đó người bị tình nghi có quyền được suy đoán vô tôi cho đến khi chính thức kết án [140]. Tài liệu báo cáo nghiên cứu về mô hình tố tụng hình sự Hàn Quốc của Giáo sư Byung-Sun Cho: Phương pháp tìm kiếm sự thật thì kết quả việc thu thập và trình bày chứng cứ về cơ bản là thuộc trách nhiệm của các bên. Các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tham khảo hữu ích giúp cho nghiên cứu sinh đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình sựViệt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Chứng minh trong tố tụng hình sự đã được đề cập nhiều trong những năm gần đây vànhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp thì chứng minh trong tố tụng hình sự được xem như là một nhiệm vụ trọng tâm, luôn nhận được sự quan tâm của nhiều chuyên gia, các nhà khoa học trên nhiều phương diện khác nhau về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Chứng minh trong tố tụng hình sự là một đề tài phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm rõ, nhưng cho đến nay tài liệu nghiên cứu về vấn đề này còn rất ít, các tác giả khi nghiên cứu chỉ đề cập ở một khía cạnh phạm vichứng minh hay quá trình chứng minh của một cơ quan tiến hành tố tụng. 1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011) quyền con người, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. Về nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền con người của tất cả những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, tố tụng hình sự trước hết phải hướng vào bảo đảm và bảo vệ công dân khỏi việc truy cứu trách nhiệm hình sự không có cơ sở pháp luật, bảo đảm loại và mức hình phạt áp dụng đối với họ là hợp lý, hợp pháp, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và các điều kiện khác mà pháp luật quy định. Nói cách khác bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền con người của 10
  15. người bị buộc tội(người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Đồng thời, tố tụng hình sự còn phải hướng vào bảo vệ quyền con người của người bị hại.[96.tr. 215] GS.TS. Đỗ Ngọc Quang ‘‘Chứng minh và chứng cứ’’ sách những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 –NXB chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội -2016. Chứng minh, chứng cứ trong tố tụng hình sự là một trong những chế định quan trọng xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng kể từ khi khởi tố, điều tra đến truy tố, xét xử vụ án hình sự. Đối với bất kỳ vụ án hình sự nào, vấn đề đầu tiên đặt ra cho các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định được những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự để từ đó có hướng thu thập chứng cứ.[45] GS.TSKH Đào Trí Úc ‘‘Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo BLTTHS năm 2015, sách những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 – NXB chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội -2016. Tác giả đã nêu lên vị trí, vai trò của các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, phân tích những điểm mới, nội dung và ý nghĩa các nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS năm 2015. .[92] Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Thông tin khoa học xã hội (1981), Những vấn đề lý luận về luật Hình sự, Tố tụng hình sự và tội phạm học, Hà Nội. Ngoài việc nghiên cứu lý luận về chứng cứ trong tố tụng hình sự Xô Viết, một số tác giả còn đề cập đến cơ sở phương pháp luận của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, đối tượng chứng minh, giới hạn chứng minh cũng như một số phương pháp phân tích và đánh giá chứng cứ.[93] Trần Quang Tiệp (2011), Chế định chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ngoài việc đưa ra khái niệm chứng cứ và sự phân loại chứng cứ trong TTHS, tác giả cũng phân tích quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự. Theo đó, quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự phải trải qua những bước nhất định. Đó là, phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Các bước của quá trình chứng minh có mối liên hệ biện chứng với nhau, bước này tạo điều kiện cho việc thực hiện bước sau được thuận lợi và ngược lại, việc thực hiện không tốt thì dù chỉ một bước sẽ ảnh hưởng xấu tới các bước còn lại và toàn bộ quá trình chứng minh.[66]. Quá trình chứng minh có các đặc điểm chung của quá trình nhận thức, nhưng do phải chịu sự điều chỉnh của LTTHS, nên nó có những đặc điểm riêng như bị hạn chế về thời gian do pháp luật TTHS quy định. Trong quá trình chứng minh các CQTHTT phải ra những quyết định tố tụng nhất định để tạo điều kiện cho phát hiện, 11
  16. thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Trong quá trình chứng minh các CQTHTT chỉ được tiến hành các biện pháp do pháp luật TTHS quy định, quá trình chứng minh trong vụ án hình sự do người có thẩm quyền được pháp luật TTHS quy định thực hiện. Nguyễn Văn Cừ (2005), Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Nội dung đề cập đến một số vấn đề về chứng cứ trong lịch sử phát triển của LTTHS, cơ sở khoa học của chứng cứ trong TTHS Việt Nam, khái niệm về chứng cứ và các loại nguồn chứng cứ trong TTHS Việt Nam cũng như quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự. Theo tác giả, các cơ quan tiến hành tố tụng không trực tiếp quan sát được diễn biến của vụ án hình sự đã xảy ra. Chứng minh sự thật của vụ án hoàn toán không có khả năng bằng cách tiến hành những biện pháp quan sát trực tiếp, bởi vì những vụ án đó đã xảy ra trong quá khứ so với thời điểm tiến hành hoạt động điều tra. Do đó, muốn ra quyết định giải quyết vụ án thì CQTHTT phải xác định chứng cứ để qua đó biết những tình tiết của vụ án. Chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là việc sử dụng các chứng cứ để làm sáng tổ sự thật của vụ án hình sự. Quá trình chứng minhlà quá trình nhận thức các sự kiện, tình tiết của vụ án thông qua các chứng cứ, quá trình này phải tuân theo một trật tự theo quy định của luật tố tụng hình sự. Việc tuân theo trật tự này bảo đảm cho quá trình chứng minh được khách quan. Xét về bản chất, hoạt động chứng minh là cách thức dựng lại bức tranh thực tế của một hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ, giải thích bản chấtvà soạn thảo những quyết định cần thiết đối với hiện tượng đó. [16, tr.165] Đỗ Văn Đương (2006), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu các phạm trù chứng minh trong vụ án hình sự là đối tượng chứng minh, phạm vi chứng minh, giới hạn chứng minh và nghĩa vụ chứng minh, cơ sở khoa học, cơ sở phương pháp luận và cơ sở pháp lý của thu thập, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự. Theo tác giả, quy luật về sự lặp lại của quá trình hình thành thông tin về tội phạm nói lên rằng, trong điều kiện và hoàn cảnh giống nhau thì cùng một hành vi phạm tội sẽ hình thành nên những thông tin giống nhau [26, tr.30]. Việc quán triệt đầy đủ các nguyên tắc biện chứng Mác – xít trong hoạt động chứng minh không chỉ tạo điều kiện cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có phương pháp, biện pháp đúng để nhận thức sự thật khách quan của vụ án mà còn là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và hoàn thiện 12
  17. quy định của pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự nói chung [25 tr 67]. Khoa học luật TTHS xem xét hoạt động chứng minh vụ án hình sự là một dạng nhận thức, cùng với việc tuân theo những quy luật nhận thức chung còn phải tuân theo những quy luật nhận thức đặc thù, đó là hoạt động nhận thức sự thật vụ án diễn ra trong sự ràng buộc, chế ước bởi các quy định của pháp luật, mà trước hết là quy phạm của luật TTHS điều chỉnh việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ [25 tr 69]. Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ là những hoạt động chứng minh được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng. Nguyễn Văn Du (2006), Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Tập chí Nhà nước và Pháp luật số 8, Hà Nội. Trên cơ sở khái quát về hoạt động chứng minh trong TTHS, tác giả viết: Đặc điểm đặc trưng của TTHS thể hiện ở chỗ các cơ quan và những người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm) đều là những người không được chứng kiến tội phạm xảy ra. Họ cũng là những người không có lợi ích tác nhân liên quan đến vụ án đang giải quyết nhưng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, tức là phải dựng lại toàn bộ bức tranh của tội phạm một cách toàn diện, khách quan và trung thực thông qua việc đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu về vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Tham gia vào quá trình này ngoài các chủ thể THTT còn có các chủ thể khác là người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự...). Toàn bộ hoạt động của các chủ thể nêu trên nhằm dựng lại toàn bộ bức tranh về tội phạm được gọi là quá trình chứng minh. Quá trình này chính là tổng hợp các hoạt động nhận thức (tư duy) của các chủ thể nhằm xác định đầy đủ giá trị chứng minh của các tài liệu, chứng cứ về vụ án làm căn cứ cho việc giải quyết các vấn đề về vụ án. Chứng minh trong tố tụng hình sự bao gồm hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ.[18] Hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử có một số đặc điểm khác so với các giai đoạn tố tụng trước đó là: Các chứng cứ về vụ án chủ yếu được cơ quan điều tra và viện kiểm sát thu thập ở giai đoạn điều tra, truy tố. Vì vậy, ở giai đoạn xét xử nói chung và tại phiên tòa nói riêng, hoạt động thu thập chứng cứ về vụ án chỉ mang tính chất bổ sung theo yêu cầu của Tòa án hoặc theo đề nghị của các bên. Bùi Kiên Điện, Đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học.Trong bài viết, tác giả cho rằng, đánh giá chứng cứ không chỉ là nhiệm vụ của giai đoạn xét xử mà còn là nhiệm vụ đòi hỏi phải được giải quyết ở các giai đoạn 13
  18. khác của quá trình tố tụng. Khi đánh giá chứng cứ phải dựa trên các nguyên tắc nhất định. Đó là, đánh giá chứng cứ phải dựa trên cơ sở của pháp luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm. Mục đích của việc đánh giá chứng cứ là rút ra các kết luận phù hợp về vụ án nói chung và các tình tiết cụ thể của nó phục vụ cho việc xử lý vụ án được khách quan, đúng pháp luật. Sau khi đánh giá các tình tiết thu được từ góc độ khách quan, liên quan, hợp pháp của chúng, các chủ thể tiến hành tố tụng có thể xác định được những tình tiết nào là chứng cứ của vụ án, những tình tiết nào không liên quan đến vụ án, trên cơ sở đó loại bỏ những tình tiết không có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và tiến hành đánh giá về giá trị xác thực của từng chứng cứ cũng như tổng thể của nó.[20] 1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam PGS.TS Nguyễn Hòa Bình ‘‘Bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tư tưởng xuyên suốt trong BLTTHS năm 2015’’ sách những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 –NXB chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội -2016. Bổ sung đầy đủ quyền của những người tham gia tố tụng, đề cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Kiểm soát nghiêm ngặt việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. [7] PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn ‘‘Người tham gia tố tụng’’ sách những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 –NXB chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội -2016. Tác giả đã phân tích về việc quy định bổ sung diện nhưng người tham gia tố tụng, bổ sung quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng gồm nhóm người bị buộc tội, nhóm người bị tội phạm xâm hại và những người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án. Nhóm những người tham gia tố tụng khác(người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật). Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự….[58] TS. Phan Trung Hoài ‘‘ Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự’’ sách những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 –NXB chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội -2016. Tác giả đã phân tích một số nội dung mới liên quan đến chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong BLTTHS năm 2015. [17] 14
  19. Nguyễn Kiều Vân (2014), Nghĩa vụ chứng minh tội phạm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Chiêm hóa, tỉnh Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ. [94].Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thực chất là hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhằm giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Hoạt động này được tiến hành từ giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố đến giai xét xử vụ án. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn khác nhau, nghĩa vụ chứng minh tội phạm được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau. Việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giúp tránh việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn chồng chéo nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.BLTTHS 2003 là căn cứ để các chủ thể có trách nhiệm chứng minh tội phạm tiến hành các hoạt động chứng minh một cách hợp pháp và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên trong thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh tội phạm của các chủ thể này còn bộc lộ nhiều thiếu sót, khuyết điểm, hoạt động chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ dẫn đến việc ảnh hưởng tới chất lượng giải quyết vụ án. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải nâng cao hiệu quả thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động này cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau nhằm hạn chế, khắc phục những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các chủ thể, đồng thời phát huy các yếu tố tích cực đối với hoạt động này. Đây là một nhu cầu cấp thiết và là tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội ở nước ta góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Nguyễn Minh Ngọc (2014), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. [40]. Ngoài việc đưa ra khái niệm, mục đích, ý nghĩa của quá trình chứng minh, luận văn cũng đã nêu được thực trạng tình hình chứng minh trong TTHS nói chung và một số giải pháp nâng cao hiệu quả chứng minh trong tố tụng hình sự. Từ thực tiễn tố tụng và qua quá trình tổng kết, luận văn cũng chỉ ra một số nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản của những thiếu sót, tồn tại trong thực tiễn chứng minh vụ án hình sự, đó là: Trình độ chuyên môn của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm các cấp còn hạn chế; không nắm vững các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ và chứng minh cũng như các quy định của BLHS ở phần chung và phần các quy định các tội phạm cụ thể; 15
  20. Không cập nhật các văn bản pháp luật kịp thời; kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế, yếu kém; tinh thần trách nhiệm chưa cao, tác phong làm việc không khoa học. Nguyễn Nhật Lệ (2014), Nguồn chứng cứ trong Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. [34]. Luận văn đã chỉ ra kết quả sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự là: Các CQTHTT đã chủ động, tích cực trong việc tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật khách quan của vụ án, kiểm soát và kiềm chế sự gia tăng của tình hình tội phạm, bảo đảm giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân; tình hình thụ lý, xét xử các vụ án hình sự có nhiều chuyển biến tích cực. Đại đa số bản án tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; phần lớn các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì bị cáo đều nhận tội tại phiên tòa. Quách Trọng Sơn (2015), Đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ. [59]. Luận văn đã phân tích các quy định của BLTTHS năm 2003 về đánh giá chứng cứ và thực tiễn áp dụng. Theo đó, kể từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực đến nay, việc áp dụng những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đều đảm bảo xác định đủ và đúng các đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự, xác định nguồn chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ và tuân thủ đúng các nguyên tắc, trình tự của BLTTHS về thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, qua đó góp phần phát hiện tội phạm, xác định đúng người phạm tội, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đem lại công lý, côn bằng xã hội, cũng như minh oan cho người vô tội. Nguyễn Thị Thu Phương (2015), Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ. [43]. Luận văn tích chế định đánh giá chứng cứ trong LTTHS Việt Nam qua các thời kỳ. Theo đó, trong buổi đầu sơ khai của pháp luật TTHS, mặc dù đánh giá chứng cứ chưa được đề cập một cách cụ thể, rõ ràng nhưng thông qua các quy định của pháp luật, có thể thấy các nhà lập pháp đã rất coi trọng hoạt động đánh giá chứng cứ trong việc giải quyết vụ án hình sự. 1.2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao chất lượng chứng minh trong tố tụng hình sự: PGS.TS Trần Văn Hòa ‘‘Vấn đề chứng cứ điện tử’’ sách những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015 –NXB chính trị quốc gia-sự thật Hà Nội -2016. [32]. Tác giả đã phân tích điều kiện để dữ liệu điện tử có thể sử dụng làm chứng cứ, nguyên tắc, trình tự thủ tục thu giữ phương tiện điện tử, thu thập, giám định, phục 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1