intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Chia sẻ: Huc Ninh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:201

96
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận án nhằm làm rõ những vấn đề mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền; đặc điểm, yêu cầu và bản chất mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; nội dung của mối quan hệ này trong các mô hình chính thể;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MẠNH HÙNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MẠNH HÙNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ: 9.38.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận án tiến sĩ luật học với đề tài “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung. Luận án có sử dụng, trích dẫn ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận án là hoàn toàn khách quan và trung thực. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT S Viết đầy đủ Viết tắt TT 1 Xã hội chủ nghĩa XHCN 1 2 Ủy ban Thường vụ Quốc hội UBTVQH 2
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN ............................................................................................................................... 6 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ..................................................................6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................................6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ....................................................................13 1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................26 1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................28 1.2.1. Cơ sở lý thuyết ................................................................................................28 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................31 CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM............................................................................................................... 33 2.1. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và nội dung của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền ..........................................................33 2.1.1. Khái niệm quyền lập pháp, quyền hành pháp, mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ..................................................................................................................33 2.1.2. Đặc điểm mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp .......................................37 2.1.3. Yêu cầu và nội dung mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền ................................................................................................................41 2.2. Đặc điểm, yêu cầu và bản chất của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ..........................47 2.2.1. Đặc điểm, yêu cầu của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...........................................................47 2.2.2. Bản chất của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .............................................................................54 2.3. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các chính thể ...................55
  6. 2.3.1. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể đại nghị ................55 2.3.2. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hòa tổng thống ...................................................................................................................................66 2.3.3. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hòa hỗn hợp 74 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................85 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM .................................... 88 3.1. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam...........................................................................................................................88 3.1.1. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp theo mô hình phân quyền trong Hiến pháp 1946 ..................................................................................................................88 3.1.2. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp theo mô hình tập quyền trong Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 ...................................................................................96 3.1.3. Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp theo mô hình đổi mới: nhận thức lại tập quyền, áp dụng những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp 2013 ..................................102 3.2. Thực trạng quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nƣớc ta hiện nay .......................................................................................113 3.2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về sự phân công giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay ..........................................................................................113 3.2.2. Thực trạng phối hợp giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay ..........121 3.2.3. Thực trạng quy định của pháp luật về kiểm soát giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay ......................................................................................................126 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................................139 CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM .............................................................................................. 141
  7. 4.1. Quan điểm hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...............................................................................................141 4.1.1. Việc hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở Việt Nam phải tiếp thu những tinh hoa và giá trị phổ biến của nhân loại ..141 4.1.2. Việc hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở Việt Nam hiện nay phải tính đến điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ..................................................................143 4.1.3. Việc hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở Việt Nam phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ..........145 4.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ......................................................................................................147 4.2.1. Các giải pháp tổng thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ................................................................................147 4.2.2. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp .....................................................................................162 KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ......................................................................................171 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 173 NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  8. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để nghiên cứu vì các lý do sau đây: Thứ nhất, mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp là tiêu điểm của học thuyết phân quyền và là nội dung cốt lõi của các bản Hiến pháp. Nội dung cơ bản của học thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu (1689 - 1755) chính là sự phân chia và kiểm soát giữa ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Từ đó đã tạo ra mối quan hệ đan xen và chế ước giữa ba nhánh quyền lực: lập pháp với hành pháp, hành pháp với tư pháp, tư pháp với lập pháp. Với chức năng vốn có là xét xử nên ngành tư pháp được thiết kế một cách độc lập với hai nhánh quyền lực còn lại để đảm bảo tính khách quan và công bằng trong hoạt động xét xử. Vì vậy, trong các mối quan hệ này thì mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp là mối quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất cho việc tạo ra các mô hình chính thể. Nếu như cách thành lập và vai trò của Nguyên thủ quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt hình thức chính thể quân chủ với cộng hòa, thì mối quan hệ giữa lập pháp với hành pháp có ý nghĩa quan trọng để nhận diện chính thể cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống hay cộng hòa hỗn hợp. Mối quan hệ giữa lập pháp với hành pháp xác định vị trí, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, quyết định chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Vì thế, trong một chừng mực nhất định, mối quan hệ này phản ánh mức độ dân chủ trong xã hội. Thứ hai, trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, chỉ có Hiến pháp 1946 mới đặt vấn đề hành pháp kiểm soát lập pháp. Sự kiểm soát này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ các quyền tự do hiến định của công dân trước nguy cơ ban hành một đạo luật vi hiến từ phía lập pháp. Có nhiều chuyên gia cho rằng, Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đã thể hiện tư tưởng pháp quyền một cách rõ nét nhất trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay. Do hoàn cảnh lịch sử và chịu ảnh hưởng của tư duy tập quyền XHCN nên vấn đề hành pháp kiểm soát lập pháp vốn đã được đề cập trong Hiến pháp 1946 nhưng không được kế thừa trong Hiến pháp 1959, đặc biệt là trong Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp 2013 với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền và tư duy phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực đã thay đổi cho tư duy tập quyền XHCN, đặt cơ sở quan trọng cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát lập pháp nói riêng một cách hiệu quả. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền lực vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi tư duy tập quyền XHCN: ngành lập pháp có quyền kiểm soát quyền lực của ngành hành pháp và tư pháp. Nhưng hai ngành này không thể kiểm soát quyền lực của lập pháp: Tòa án không được quyền kiểm soát các đạo luật vi
  9. 2 hiến của Quốc hội; Chính phủ không được quyền phủ quyết luật, không được đề nghị giải tán Quốc hội trước thời hạn,… Do đó, việc phân công và kiểm soát quyền lực cần được cân bằng hơn, nhằm phòng ngừa sự lạm quyền và tha hóa quyền lực. Phân công quyền lực không cân bằng, không rõ ràng thì sự kiểm soát sẽ không có hiệu lực và hiệu quả. Cân bằng và kiểm soát quyền lực là sự tiến bộ về khoa học và nghệ thuật cầm quyền, là một bước tiến của văn minh nhân loại về quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp để làm rõ ràng hơn, hoàn thiện hơn sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực nhà nước. Cần tiếp thu kinh nghiệm về việc phân công và kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp 1946 để hoàn thiện cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, nhất là trong bối cảnh Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chính thức khẳng định quyền lực nhà nước không chỉ có “sự phân công, phối hợp” mà còn có sự “kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”1. Điều 2 Hiến pháp 2013 đã chính thức ghi nhận vấn đề kiểm soát quyền lực như một nguyên tắc cơ bản để tổ chức Bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thứ ba, tính đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào ở cấp độ tiến sĩ nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống và toàn diện về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và phát triển các kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở góc độ lý luận, đánh giá thực trạng của pháp luật và đề xuất những giải pháp hoàn thiện là cần thiết và không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã thực hiện trước đây. Đề tài “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là công trình khoa học đầu tiên thực hiện nhiệm vụ này và rất cần thiết trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Thứ tƣ, lĩnh vực nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và khả năng của tác giả. Với tư cách là một người giảng dạy và nghiên cứu Luật Hiến pháp tại một trường đại học đào tạo về luật trọng điểm ở phía Nam, tác giả đã có nhiều suy tư, trăn trở trước những diễn biến của thời cuộc, những thay đổi lớn lao của đất nước. Tác giả luôn mong muốn có một công trình nghiên cứu thật khoa học và nghiêm túc để góp phần vào tiến trình cải cách chính trị của đất nước trước xu thế của thời đại. Lĩnh vực nghiên cứu vừa có tính chất lý luận uyên bác vừa có tính chất thời sự, nhạy cảm về chính trị. Vì thế, nó đòi hỏi người nghiên cứu không chỉ có kiến thức pháp lý mà còn 1 Nguyễn Mạnh Hùng (2011), “Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr.14.
  10. 3 phải có kiến thức về chính trị, triết học, lịch sử, văn hóa và đặt biệt cần phải có những tư tưởng cách mạng để tránh những định kiến lối mòn, song cũng cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Lĩnh vực này hoàn toàn phù hợp với khả năng, thế mạnh và tầm nghiên cứu của tác giả. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Kết quả của việc nghiên cứu là một Luận án tiến sĩ công phu, nghiêm túc và khoa học về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong đó, xác định rõ một số nội dung cơ bản sau đây: một là, khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và nội dung của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền; hai là, đặc điểm, yêu cầu và bản chất mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; ba là, nội dung của mối quan hệ này trong các mô hình chính thể; bốn là, thực trạng mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta trong lịch sử và hiện tại như thế nào; năm là, quan điểm đổi mới mối quan hệ này như thế nào. Các nội dung cơ bản này sẽ được làm rõ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt mục đích nghiên cứu trên, Luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau: Thứ nhất, trên cơ sở phân tích khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và nội dung của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng, tác giả sẽ trình bày mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các mô hình chính thể trên thế giới, từ chính thể đại nghị, đến cộng hòa tổng thống và cuối cùng là chính thể cộng hòa hỗn hợp. Từ đó, lý giải nguyên nhân của sự khác biệt, sự biến dạng của các chính thể và dự đoán xu hướng phát triển chung trong mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp hiện nay trong các mô hình chính thể. Thứ hai, phân tích mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam. Nhận xét về mối quan hệ này trong các bản Hiến pháp và phân tích thực trạng quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay. Thứ ba, đề xuất các quan điểm, các giải pháp tổng thể và cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
  11. 4 3.1. Phạm vi nghiên cứu Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp là đề tài nghiên cứu rộng, phức tạp. Tuy nhiên, trong phạm vi của Luận án, tác giả chỉ tập trung phân tích những nội dung cơ bản nhất về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các mô hình chính thể trên thế giới, cụ thể là mô hình đại nghị, mô hình cộng hòa tổng thống và mô hình cộng hòa hỗn hợp. Phân tích mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam và kết luận xem mối quan hệ này đã đáp ứng được yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hay chưa. Từ đó, nêu ra các quan điểm và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các nguồn tài liệu của một số nước để so sánh, đối chiếu như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật,... Đây là những quốc gia có thể chế chính trị điển hình, đại diện cho các mô hình chính thể đương đại trên thế giới. 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là lý thuyết và thực tiễn về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, gồm những vấn đề sau: Thứ nhất, khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và nội dung của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Thứ hai, mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các chính thể được thể hiện thông qua sự phân chia và kiểm soát quyền lực giữa hai nhánh quyền lực này; cơ sở hình thành và đảng phái chính trị đã làm biến dạng các chính thể này ra sao. Thứ ba, mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam được thể hiện thông qua sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa hai nhánh quyền lực này. Thứ tƣ, phân tích thực trạng quy định của pháp luật về sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay. Thứ năm, quan điểm hoàn thiện các quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Thứ sáu, tiếp thu kinh nghiệm về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các chính thể và trong Hiến pháp 1946 để đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay. 4. Dự iến ết quả nghiên cứu
  12. 5 Luận án là một công trình nghiên cứu chuyên sâu, kết quả nghiên cứu sẽ là sự bổ sung quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Do đó, công trình có giá trị tham khảo đối với sinh viên đại học và cao học luật, phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy pháp luật cũng như một số chuyên ngành có liên quan ở các trường đại học. Trong một chừng mực nhất định, Luận án được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy các môn học liên quan đến tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước. Cụ thể, Luận án sẽ được phát triển thành sách chuyên khảo “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và xây dựng thành một môn học chuyên ngành của Khoa Luật Hành chính - Nhà nước “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp” được giảng dạy ở bậc đại học hệ chính quy và bậc cao học. Kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa đặc biệt cho các nhà làm luật tham khảo để sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về phân công, phối hợp và kiểm soát giữa lập pháp và hành pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 5. Bố cục của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dụng của Luận án bao gồm 04 chương, với 09 mục lớn và 24 tiểu mục.
  13. 6 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu “Mối quan hệ lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là đề tài có tính vĩ mô và được nghiên cứu bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Đây là một đề tài khá mới, đến nay chưa có một công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu toàn diện về lý luận và thực tiễn mối quan hệ này. Việc nghiên cứu độc lập về nhánh quyền lập pháp và nhánh quyền hành pháp đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp trong các quyển sách chuyên khảo, bài báo, Luận văn, Luận án, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong những năm gần đây. Có thể sắp xếp nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến Luận án trong thời gian qua như sau: 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài Tác giả đã tìm thấy, tập hợp, chọn lọc và kế thừa một số công trình nghiên cứu có liên quan mật thiết với đề tài để xây dựng phần cơ sở lý luận của Luận án làm nền tảng để nghiên cứu, đánh giá và kiến nghị hoàn thiện mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Những công trình được tác giả nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận của Luận án bao gồm: Thứ nhất, những tác phẩm có liên quan đến lý thuyết về Hiến pháp, về Nhà nƣớc pháp quyền, về quyền lực nhà nƣớc và về đảng chính trị: (1) Tác phẩm “Du Contrat Social” phác họa trật tự chính trị hợp lý của Jean Jacques Rousseau, quyển sách này được xuất bản năm 1762 và đã có nhiều ảnh hưởng tới triết học phương Tây nói riêng và nhân loại nói chung. Tác phẩm này đã được Hoàng Thanh Đạm dịch sang tiếng việt vào năm 1992 (Nxb. TP. Hồ Chí Minh). Lý thuyết về khế ước xã hội khởi nguồn từ một nhà triết học nổi tiếng người Anh - Thomas Hobbes (1588 - 1679) là với tác phẩm “Leviathan” viết năm 1651 đã thiết lập nền tảng cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế ước xã hội2. Lý thuyết về khế ước xã hội được Jonh Locke (1632 - 1704) là nhà triết học, nhà hoạt động chính trị người Anh kế thừa và phát triển. Ông xây dựng chi tiết 2 Theo Hobbes, con người sơ khai sống thành bầy đàn để cùng chống lại các kẻ thù, nhưng không có gì ràng buộc giữa họ. Quyền sở hữu không tồn tại dẫn đến chuyện tất cả mọi người đều có thể sở hữu tất cả mọi vật. “Leviathan” là tên tác phẩm để đời của Hobbes, mô tả chính xác một sự hỗn độn vô chính phủ mà theo đó vì xã hội chưa công nhận rạch ròi thế nào là sở hữu cho nên mọi người có thể sẵn sàng gây chiến với người khác để giành lấy cái mình muốn. Ở trạng thái tự nhiên, tuy xã hội tự do tuyệt đối nhưng chẳng đem lại lợi ích cho bất kỳ ai kể cả kẻ mạnh, vì con người dù mạnh đến đâu cũng không thể đơn độc làm theo ý mình được. Con người buộc phải hy sinh một phần tự do để có thể chung sống với nhau trong hòa bình. Nói cách khác con người buộc phải thống nhất với nhau những nguyên tắc cộng đồng để tránh phải sống nơm nớm trong nỗi lo sợ bảo vệ tính mạng và những gì mình có. Do đó, quyền tự do cá nhân cần phải được giao ước để trao tuyệt đối cho một hoặc một số cá nhân, Hobbes ủng hộ chế độ quân chủ chuyên chế.
  14. 7 từng giai đoạn phát triển từ trạng thái tự nhiên dẫn đến sự hình thành nhà nước qua khế ước xã hội và đi đến quan điểm về chủ quyền của Nhân dân đối với nhà nước cho dù đó là nhà nước chuyên chế3. Jean Jacques Rousseau tiếp tục đi xa hơn khi cho rằng quyền lực phải được trao cho những người đại diện cho ý chí nguyện vọng của quần chúng. Hiến pháp chính là bản Khế ước xã hội cơ bản nhất, nền tảng cho các thỏa ước của cộng đồng. Thông qua Hiến pháp, con người chính thức đánh đổi quyền tự do tự nhiên để trở thành một công dân, chính thức đánh đổi một phần quyền tự do quyết định của mình vào tay một số người cầm quyền (và do đó anh ta trở thành người bị trị) để có được sự che chở của xã hội. Để cho bản hợp đồng trao đổi này được công bằng, trong “Khế ước xã hội” cần phải định rõ nguyên tắc lựa chọn người cầm quyền. Nguyên tắc bình đẳng thể hiện ở chỗ ai cũng có thể lên nắm quyền miễn là được đa số thành viên ủng hộ. Về phía người cầm quyền, đối trọng với quyền lực anh ta có, là những ràng buộc về mặt trách nhiệm với cộng đồng. Nếu người cầm quyền không hoàn thành trách nhiệm của mình, bản hợp đồng giữa anh và cộng đồng phải bị coi như vô hiệu, và cộng đồng phải có quyền tìm ra một người thay thế mới4. Những tư tưởng mang tính kinh điển và khai sáng của ông trong “Khế ước xã hội” về sự thống nhất của quyền lực, về chủ quyền nhân dân, về Hiến pháp, về “Nghị viện tối cao”,… là nguồn tư liệu quan trọng, nền tảng cho Luận án kế thừa trong việc phân tích cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp. (2) Quyển sách “A constitutional history of Modern England, 1485 to the present” của Federick George Marcham trình bày lịch sử lập hiến của nước Anh, giai đoạn từ năm 1485 đến hiện nay, gồm có ba phần chính: Phần thứ nhất là thời kỳ nhà Tudor; Phần thứ hai là thời kỳ nhà Stuart; Phần thứ ba là giai đoạn thế kỷ XVIII tới nay. Đến cuối thế kỷ XV, nước Anh sở hữu một Chính phủ trưởng thành. Nước Anh già cỗi, nơi mà các Vương triều đã tạo ra các cơ quan chủ chốt của chính quyền trung ương như Nghị viện, tòa đại pháp, kho bạc, các tòa công lý… Tác phẩm đã phân tích 3 Jonh Locke được biết đến trước hết là một nhà triết học theo trường phái duy nghiệm (empiric), Locke cũng là một tư tưởng gia xuất sắc trên lĩnh vực chính trị và xã hội. Locke cố gắng giải thích trước hết quyền sở hữu được con người định nghĩa với nhau thông qua các thỏa hiệp. Bắt đầu từ việc chiếm hữu bằng sức mạnh, con người dần dần tìm cách sở hữu bằng lao động. Một khi vấn đề sở hữu được giải quyết, con người đã có đủ các tiền đề cần thiết để đi đến các thỏa hiệp cao hơn về cuộc sống cộng đồng. Khế ước xã hội chính là bản thỏa hiệp của các thành viên cộng đồng, theo đó một con người sẽ từ bỏ quyền tự do tự nhiên - đổi lại anh ta trở thành một thành viên, được cộng đồng che chở và công nhận. Đối với một quốc gia, nhà nước là tập hợp những người đại diện đứng ra bảo đảm sự tôn trọng bản thỏa ước. 4 Chính những ý tưởng này đã châm ngòi cho cả cuộc Cách mạng Pháp và Mỹ. Thomas Jefferson, một trong những người là Cha đẻ của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Độc lập tiếp tục hoàn thiện lý thuyết khi cho rằng quyền tự nhiên của con người phải là một phần của Khế ước xã hội và quyền lực của nhà nước chỉ có thể thực hiện khi xuất phát từ sự đồng thuận của chính những người bị trị (https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%BF_%C6%B0%E1%BB%9Bc_x%C3%A3_h%E1%BB%99i).
  15. 8 cơ cấu tổ chức của Bộ máy nhà nước Anh qua từng thời kỳ và rút ra những nét đặc trưng khiến cho mô hình Chính phủ của quốc gia này là một trong những mô hình độc đáo và tiêu biểu nhất cho đến hiện nay. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đề cập đến một số vấn đề mà chính phủ Anh đang phải đối mặt trong thế kỷ XVIII, sự hòa hợp thống nhất với Scotland và Ireland, sự tồn tại của Vương triều Anh. Đây là những tư liệu quan trọng để viết về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể đại nghị ở nước Anh - nơi được xem là cội nguồn của các định chế dân chủ. (3) Học thuyết về Nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc tính chung và biểu hiện quan trọng nhất của Nhà nước nói chung và Nhà nước XHCN nói riêng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Những nội dung cơ bản ban đầu về học thuyết này được phản ánh thông qua tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ăngghen viết năm 1884. Qua tác phẩm này, Ăngghen đã phân tích các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của giai cấp, của Nhà nước và những quy luật tiếp tục phát triển và biến đổi sau này của chúng. Ăngghen đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội trên cơ sở xuất hiện chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, ông cũng lý giải về tính chất giai cấp và tính lịch sử của Nhà nước, làm sáng tỏ chức năng giai cấp cơ bản của Nhà nước. Sau đó, lý luận này được những nhà kinh điển theo chủ nghĩa Mác tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong điều kiện mới. Những tư tưởng này sẽ được tác giả vận dụng, kế thừa trong việc so sánh những khác biệt, những đặc thù trong mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở Việt Nam với các nước; cũng như đề xuất các giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp cho phù hợp với đặc thù Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. (4) Modern constitution - Hiến pháp tân tiến (Nxb. Luân Đôn, năm 1962) của tác giả K.C. Wbeace trình bày một cách khái quát và cơ bản các nội dung liên quan đến một bản Hiến pháp, trong đó có nội dung về Nghị viện và Chính phủ. Quyển sách đề cập đến khái niệm, nội dung của một bản Hiến pháp cũng như cách thức sửa đổi Hiến pháp. Tuy vấn đề mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực này chưa được phân tích nhưng đây là kiến thức lý luận nền tảng để tác giả tham khảo khi viết Chương II về cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Luận án. (5) Đảng phái và chính trị ở Hoa Kỳ (Parties and politics in American) (Tác giả: Clinton Rossiter, Người dịch: Hoàng Mịch Điền, Trần Thái Chân, Nxb. Tủ sách
  16. 9 Kim Văn, 1972). Quyển sách bao gồm bốn nội dung chính: thứ nhất, khuôn mẫu chính trị ở Hoa Kỳ; thứ hai, vai trò của các Đảng phái ở Hoa Kỳ; thứ ba, chân dung của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa; thứ tư, tương lai chính trị của Hoa Kỳ. Trong đó, tác giả nêu lên một chuỗi các tiêu đề (dân chủ, chính trị, đảng phái, thỏa hiệp và ôn hòa) tạo nên hệ thống chính trị của nền dân chủ Hoa Kỳ. Vai trò của Đảng phái trong việc phục vụ cho quyền lực của những người cầm quyền hay ủng hộ chúng. Sự xung đột giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa cũng như xu hướng lựa chọn và sự yêu thích của dân chúng với các đảng này. Và sự bành trướng mang tính chất tự nhiên của các đảng phái Hoa Kỳ. Quyển sách này là nguồn tư liệu quý cho tác giả tham khảo viết Chương II, cụ thể là phần đảng chính trị làm biến dạng chính thể cộng hòa tổng thống ở Hoa Kỳ. (6) Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào (Tác giả: Nguyễn Cảnh Bình dịch và giới thiệu, Nxb. Tri thức, 2009). Tác giả mô tả tình hình nước Mỹ trước khi có Hiến pháp, sự cần thiết phải ban hành một bản Hiến pháp chung cho liên bang trong hoàn cảnh khó khăn của nước Mỹ lúc bấy giờ. Đặc biệt, tác giả tập trung vào việc phân tích những trở ngại và thách thức của việc thống nhất ý chí các bang trong việc thông qua Hiến pháp, từ đó đề cập đến vai trò của “các vị cha làm nên bản Hiến pháp”. Đặc biệt, tác giả cũng đề cập đến vai trò và tầm quan trọng của tác phẩm “Người liên bang” trong việc thúc đẩy việc thông qua Hiến pháp và lịch sử chính trị Hoa Kỳ. Ngoài ra, quyển sách cũng phác họa chân dung của 55 vị đại biểu đến từ các tiểu bang trong việc làm nên và thông qua bản Hiến pháp có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại - Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Quyển sách sẽ được dùng làm nguồn tham khảo để phân tích các nội dung có liên quan đến mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hòa tổng thống. Thứ hai, những tác phẩm có liên quan đến phân chia quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực này trong các chính thể: (1) Tác phẩm “The Spirit of the Laws” của nhà khai sáng vĩ đại người Pháp - C.L. Montesquieu (1689 - 1775) về phân chia quyền lực. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng việt với các bản dịch của Trần Xuân Ngạn - “Vạn pháp tinh lý” năm 1961 (Nxb. Sài Gòn) và bản dịch của Hoàng Thanh Đạm - “Tinh thần pháp luật” năm 1996 và năm 2006 (Nxb. Giáo dục Hà Nội và Nxb. Lý luận chính trị). Tư tưởng phân chia quyền lực của ông là sự kế thừa những luận điểm phân quyền của Jonh Locke5. 5 Ông là người đầu tiên khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính quyền”. Về quyền lực nhà nước, ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc
  17. 10 Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc tới thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”. Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho Nhân dân. Trước thực tế lịch sử là nỗi thống khổ của Nhân dân bị đọa đày trong chế độ phong kiến chỉ có cai trị độc đoán chứ không có “hương sắc” của tự do, Montesquieu đã cảm nhận được “sứ mạng ẩn tàng” mà lịch sử trao cho. Tác phẩm của ông thể hiện tinh thần chống thế quyền bạo ngược và thần quyền giáo điều, chống lại sự u tối nhận thức và bất khoan dung về chính trị. Sự phân chia quyền lực để tiến tới kiểm soát quyền lực thể hiện tầm vóc lớn lao có ý nghĩa thời đại trong học thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu. Bởi vì tất cả những tư tưởng triết học chính trị trước Montesquieu và cả Rousseau sau này, cơ bản đều đặt vấn đề ở việc thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào mà không đề cập vấn đề kiểm soát quyền lực đó ra sao6. Có thể kết luận rằng bản chất của phân quyền không có gì khác hơn chính là sự phân công, phối hợp để tiến tới sự kiểm soát; dùng quyền lực để giới hạn quyền lực; nhằm mục đích không để quyền lực đi đến chỗ lạm quyền. Đằng sau lý thuyết ấy chính là triết lý về bản chất cũng như mối quan hệ giữa con người - quyền lực - chính quyền. Sự ra đời của học thuyết phân quyền “đã đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng quyền lực dã man trong các xã hội chuyên chế sang thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ”7. Có thể khẳng định rằng, những tư tưởng mang tính chất khai sáng của Montesquieu trong tác phẩm“Tinh thần pháp luật” như: sự phân chia các nhánh quyền lực, đặc điểm của các nhánh quyền lực, mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực,… là nguồn tư liệu rất quan trọng để tác giả kế thừa và phát triển trong vào nó”. Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và phải thuộc về Nghị viện; Nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về Nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vị, Chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của Nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm không cho phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh: giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại (https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%BF_%C6%B0%E1%BB%9Bc_x%C3%A3_h%E1%BB%99i). 6 Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.138. 7 Phạm Thế Lực (2008), “Ý nghĩa của lý thuyết phân quyền trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 127.
  18. 11 Luận án. Phần cơ sở lý luận của Luận án như khái niệm, đặc điểm, nội dung, yêu cầu của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp; mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các mô hình chính thể và phương hướng, giải pháp đổi mới đều xuất phát từ nền tảng tư tưởng phân chia quyền lực của Montesquieu. (2) Hai quyển sách “Chính thể đại diện” (Representative government) xuất bản năm 1861 và “Bàn về Tự Do” (On Liberty) được viết năm 1859 của John Staurt Mill. Hai quyển sách này được dịch sang tiếng việt là Chính thể đại diện năm 2008 (Người dịch: Nguyễn Văn Trọng, Bùi Văn Nam Sơn, Nxb. Tri thức) và Luận về Tự do năm 2005 (Nxb. Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Hai quyển sách này của J.S. Mill là những tác phẩm kinh điển về nền dân chủ phương Tây. Đây được xem như những khảo cứu mang tính nền tảng đối với các thiết chế chính trị - xã hội ở các nước Anh và Hoa Kỳ thế kỷ XIX. Những vấn đề nêu ra trong quyển sách đều được phân tích một cách khách quan, khoa học, các nhận xét đều có căn cứ lập luận rõ ràng và dựa trên những bằng chứng thực tế hay lịch sử. Do vậy, cuốn sách này có mức độ tin cậy rất cao. Nội dung của nó xoay quanh các vấn đề chính là tác động của Nhân dân đối với sự thành bại của chính thể đại nghị, chức năng của các bộ phận quyền lực hợp thành chính thể và một số chủ đề liên quan đến đặc thù của nước Anh thế kỷ XIX. J.S. Mill cũng đúc kết ra ba điều kiện để một hình thức chính thể có thể tồn tại trong xã hội: một là, dân chúng trong xã hội đó phải thuận nguyện chấp nhận nó; hai là, họ phải thuận nguyện và có khả năng làm những gì cần thiết để gìn giữ nó; ba là, họ phải thuận nguyện và có khả năng hoàn tất các trách nhiệm và thực thi các định chế do nó đặt ra. Về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp thì J.S. Mill ủng hộ sự cần thiết phải có một cơ chế đảm bảo tính độc lập tương đối giữa hai nhánh quyền lực này vì “Không nên có bất cứ cơ hội nào để cho sự bế tắc trong chính trị xuất phát từ mối bất hòa giữa Tổng thống và Quốc hội, dù lỗi của ai, kéo dài trong khoảng thời gian có thể là nhiều năm, lại trở thành phương kế hợp pháp để người này cưỡi lên lưng người khác”8. Theo đó, tính độc lập này sẽ đảm bảo cho hành pháp có thể tự do tùy ý quyết định tổ chức bầu một Nghị viện mới vào bất kỳ lúc nào. Như vậy, quyển sách của J.S. Mill đã trình bày một cách đầy đủ và thuyết phục những vấn đề liên quan đến hình thức chính thể đại diện. Cuốn sách nói lên sự cần thiết phải xây dựng cơ chế kiểm soát giữa lập pháp và hành pháp với nhau để đảm bảo một nền dân chủ thực sự. Đây là những thông tin bổ ích, có liên quan trực tiếp đến đề tài của tác giả và có thể được tác giả sử dụng để phát triển nhiều nội dung trong Luận án của mình. 8 John Stuart Mill, Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn dịch (2008), Chính thể đại diện, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr.376.
  19. 12 (3) Quyển sách “Những đại chính thể ở châu Âu” của Alex N. Dragnich (1964, Sài Gòn). Cuốn sách giới thiệu cho người đọc về nền chính trị châu Âu, bao gồm Liên Xô cũ và sự nổi lên của Khối thịnh vượng chung của các quốc gia độc lập, chính sách nhập cư ở Pháp và Đức, sự gia tăng của tính bài ngoại ở Anh. Khi xem xét sự đa dạng trong chính thể ở Vương quốc Anh, Pháp và Đức, tác giả cho rằng các cấu trúc cơ bản của các Chính phủ này vẫn giữ nguyên. Ví dụ, cấu trúc đảng phái chính trị của Anh khá ổn định, cũng như hoạt động chính trị và nền tảng của Chính phủ trong Quốc hội, dịch vụ dân sự, chức năng hành pháp và tư pháp, dù không có Hiến pháp bằng văn bản. Điều này cũng đúng với Pháp và Đức, mặc dù Đức đã phải tích hợp dân số và thể chế với sự tái gia nhập của Đông và Tây Đức. Những kiến thức của quyển sách này sẽ được tham khảo và vận dụng để viết mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các mô hình chính thể. (4) Quốc hội và các thành viên (Tác giả: Roger H. Davidson và Walter J. Oleszek, Người dịch: Trần Xuân Danh, Trần Xuân Giang, Minh Long, Nxb. Chính trị quốc gia, 2002). Quyển sách này có bốn nội dung chính: Thứ nhất, khám phá hai Quốc hội; Thứ hai, Quốc hội của các đại diện; Thứ ba, Hội đồng nghị sự của một quốc gia; Thứ tư, quá trình hoạch định chính sách và sự thay đổi trong hai Quốc hội. Trong các nội dung trên, tác giả có thể kế thừa các phân tích trong phần nội dung thứ hai về nguồn gốc của sự hợp tác hành pháp - lập pháp, nguồn gốc của sự xung đột hành pháp - lập pháp, Quốc hội tổ chức và kiểm soát bộ máy hành pháp, hành chính. Những nội dung này sẽ là cơ sở lý luận vững chắc cho Chương II của Luận án. Dựa trên cơ sở này, tác giả sẽ làm rõ hơn về nguồn gốc hình thành mối quan hệ cũng như ảnh hưởng của Đảng phái chính trị đến mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở Hoa Kỳ - nơi khai sinh ra chính thể cộng hòa tổng thống. (5) Khái quát về chính quyền Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Người dịch: Trần Đình Nghiên, Hoàng Long, Nxb. Chính trị quốc gia, 2003). Quyển sách trình bày tập trung về cơ cấu tổ chức của chính quyền Hoa Kỳ, cung cấp những thông tin, tư liệu cần thiết cho quá trình tìm hiểu về chính quyền của đất nước này. Trong đó nội dung về ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp được thể hiện ở Chương III, IV, V của quyển sách. Nhiệm vụ của Tổng thống là bảo vệ Hiến pháp và thực thi luật pháp do Quốc hội ban hành. Tổng thống Hợp Chúng quốc là một trong những chức vụ có thế quyền nhất trên thế giới. Tuy vậy, cũng có những hạn chế quyền lực nhất định đối với Tổng thống - người đứng đầu ngành hành pháp ở Hoa Kỳ. Được xây dựng trên nền tảng là nguyên tắc tam quyền phân lập, chính quyền Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ là một trong những mô hình không thể không nhắc đến khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Quyển sách cung cấp một lượng thông tin đa
  20. 13 dạng và bổ ích, cụ thể là các nội dung này được sử dụng tham khảo ở Chương II của Luận án. Có thể nói, các tài liệu nghiên cứu về quyền lực nhà nước nói chung9, về quyền lập pháp và hành pháp nói riêng trên thế giới rất đa dạng về hình thức nghiên cứu và có nội dung phong phú. Đó là những nguồn tài liệu cung cấp kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cho các nước đang đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai và hoàn thiện mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp như Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp trong các cuộc hội thảo, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong những năm gần đây. Có thể sắp xếp nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp đã được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua như sau: Thứ nhất, những tác phẩm có liên quan đến lý thuyết về Hiến pháp, lý thuyết về Nhà nƣớc pháp quyền, lý thuyết phân quyền và Bộ máy nhà nƣớc: Một là, về Giáo trình: (1) Luật Hiến pháp và chính trị học (Tác giả: Nguyễn Văn Bông, Nxb. Sài Gòn, 1966); (2) Luật Hiến pháp và các định chế chánh trị (Tác giả: Lê Đình Chân, Nxb. Tủ sách Đại học, 1971); (3) Giáo trình Luật Hiến pháp của các nước tư bản (Tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Bùi Xuân Đức chủ biên, Nxb. Tổng hợp Hà Nội 1993); (4) Luật Hiến pháp nước ngoài (Tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Nxb. Đồng Nai, 1997); (5) Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài (Tác giả: Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an Nhân dân, 1999). Các quyển Giáo trình này đều trình bày những nội dung cơ bản của Luật Hiến pháp các nước trên thế giới như: Hiến pháp và bảo hiến, chế độ bầu cử, quyền con người, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, nguyên tắc phân quyền và những thể thức áp dụng khác nhau của nguyên tắc phân quyền để tạo ra các mô hình chính thể khác nhau,… Những quyển sách này rất 9 Đến những năm đầu thế kỷ XX, thế giới biết nhiều đến hai tác phẩm của J.Dewey, đó là cuốn Nền cộng hòa và những vấn đề của nó (The Public and Its Problems) xuất bản năm 1929 và cuốn Lý thuyết giá trị (Theory of Valuation) xuất bản năm 1939. Vào những thập niên giữa của thế kỷ XX, có một số tác phẩm tiêu biểu nghiên cứu về quyền lực nhà nước đã được công bố như cuốn Nghiên cứu quá trình ra quyết định trong tổ chức hành chính (A Study of Decision - Making Process in Administration Organization) xuất bản năm 1945 của H.A. Simon, cuốn Khoa học chính sách (The Policy Sciences) của H.D. Laswell xuất bản năm 1951 và cuốn Chức năng xã hội của chính sách công (The Social Function of Public Administration) của F. Morstein Marx xuất bản năm 1946. Đến cuối thế kỷ XX có một số công trình tiêu biểu bàn về quyền lực nhà nước xuất bản bằng tiếng Anh, bao gồm cuốn Nguồn gốc của quyền lực xã hội (The Sources of Social Power) của Mann M. xuất bản năm 1986, cuốn Dân chủ và những hạn chế của nó (Democracy and Critics) của Dahl, Robert A. xuất bản năm 1989, cuốn Quyền lực và sự duy trì của bất bình đẳng xã hội (Power and the Maintenance of Social Inequity) của Sargent M. xuất bản năm 1997.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2