Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
lượt xem 8
download
Luận án nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập; Đánh giá thực trạng xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng, chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ NHƯ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2020
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ NHƯ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 931 02 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS. Vũ Văn Thuấn 2. TS. Lê Thị Thu Hồng HÀ NỘI - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Trương Thị Như
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7 1.2. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 26 Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 30 2.1. Các khái niệm cơ bản 30 2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập 37 2.3. Hồ Chí Minh xây dựng xã hội học tập 67 Chương 3: XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 82 3.1. Những nhân tố tác động đến xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng 82 3.2. Thực trạng xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng 97 3.3. Đánh giá thực trạng xây dựng xã hội học tập và những vấn đề đặt ra đối với Hải Phòng 116 Chương 4: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 123 4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh 123 4.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể trong xây dựng xã hội học tập 125 4.3. Phát triển hệ thống giáo dục suốt đời theo hướng đi vào thực chất, hoàn thành phổ cập giáo dục, tiếp tục mở rộng cơ hội học tập cho người dân 131 4.4. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập từ cơ sở thông qua khuyến học, khuyến tài 142 4.5. Xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng học tập suốt đời cho người dân 144 4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng xã hội học tập của các nước, tiến tới tham gia mạng lưới thành phố học tập toàn cầu 148 KẾT LUẬN 155 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 158 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159 PHỤ LỤC 172
- DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BDHV Bình dân học vụ BTVH Bổ túc văn hóa CĐKH Cộng đồng khuyến học DHHH Dòng họ hiếu học GDNN Giáo dục nghề nghiệp GDTX Giáo dục thường xuyên GĐHH Gia đình hiếu học KH, KT Khuyến học, khuyến tài THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TPHT Thành phố học tập TTHTCĐ Trung tâm Học tập cộng đồng UBND Ủy ban nhân dân XHHT Xã hội học tập
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ kiệt xuất của Đảng và của dân tộc Việt Nam. UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất bởi những cống hiến to lớn của Người cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như những đóng góp về văn hóa, giáo dục cho dân tộc và nhân loại. Trong những đóng góp vĩ đại đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và xây dựng XHHT nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng, có giá trị sâu sắc trong xây dựng XHHT ở nước ta hiện nay. Từ sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam cho tất cả mọi người, hướng tới một xã hội “ai cũng được học hành”. Người khẳng định một cách nhất quán: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [94, tr.187]. Ham muốn đó vừa là niềm mong mỏi, vừa là mục tiêu, vừa là chỉ đạo quan trọng của Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT. Quan điểm này được phát triển mạnh mẽ và liên tục từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; được cụ thể hóa bằng các chủ trương giáo dục như BDHV, BTVH, phổ cập giáo dục tiểu học và ngày nay đang tiến tới phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho toàn dân. Từng bước thực hiện điều đó, cũng là từng bước hiện thực hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội “ai cũng được học hành”. Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT càng thấy được rằng, tư tưởng của Người đã bắt gặp, thậm chí đi trước thời đại trong quan niệm về xu thế phát triển giáo dục, nội dung, chương trình cũng như mô hình giáo dục tiếp tục. Ngày nay, xu thế giáo dục mà nhiều thành phố lớn trên thế giới đang hướng tới là xây dựng TPHT, các quốc gia đang hướng tới là xây dựng quốc gia học tập, xã hội tiến tới là xây dựng XHHT. Mục đích của XHHT là làm cho mọi người đều thấy cần phải học, và học suốt đời, xem học
- 2 tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Hồ Chí Minh từng khẳng định: việc học không bao giờ cùng, càng tiến bộ càng thấy phải học thêm. Đó là một thực tế. Xã hội ngày càng phát triển, tri thức chúng ta có được không thể chỉ học một lần là sử dụng mãi mãi. Trong xã hội ngày nay, tri thức đã trở thành “chìa khóa vạn năng” và sự thua kém, tụt hậu về tri thức sẽ tạo ra khoảng cách phát triển giữa người này với người khác, giữa vùng này với vùng khác, quốc gia này với quốc gia khác. Điều chúng ta thêm tự hào và cảm phục chính ở tầm nhìn của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Bản thân mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội phải luôn chủ động trang bị tri thức, học và học suốt đời, học mãi để tiến bộ mãi, học để rút ngắn khoảng cách phát triển với các quốc gia khác và “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Đối với dân tộc Việt Nam, chúng ta tự hào là một quốc gia văn hiến. Người dân đất Việt mang trong mình truyền thống ham học hỏi, luôn lấy sự học làm điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người, “nhân bất học bất tri lý”. Cũng vì thế, trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dù lịch sử có thăng trầm nhưng giáo dục vẫn luôn được coi trọng. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thành tựu gần 35 năm đổi mới đang làm thay đổi diện mạo đất nước từng ngày. Đảng ta cũng khẳng định rất rõ vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục đào tạo và tầm quan trọng của việc xây dựng XHHT. Từ năm 2001, Đảng ta lần đầu tiên sử dụng cụm từ XHHT. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập” [36, tr.35]. Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn kiên định chủ trương xây dựng cả nước trở thành một XHHT. Ngày 09/01/2013, Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” nhằm hướng tới xây dựng mô hình XHHT ở Việt Nam. Đến Đại hội XII (2016), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” [39, tr.116]. Như vậy,
- 3 Đảng và Nhà nước ta cũng nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc xây dựng XHHT và kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng XHHT. Có thể nói, xây dựng XHHT là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đáp ứng đúng xu thế thời đại và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong dòng chảy chung của dân tộc và nhân loại, Hải Phòng là địa phương luôn xác định vai trò to lớn của công tác giáo dục - đào tạo, KH, KT, xây dựng XHHT. Là một thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ của vùng Bắc Bộ, Hải Phòng đã và đang cùng các địa phương khác tiến hành xây dựng XHHT nhằm mang lại lợi quyền cao nhất cho người dân trong việc tiếp cận tri thức và hưởng thụ giáo dục. Điều này càng có ý nghĩa khi thời gian gần đây, Hải Phòng có những chính sách rất nhân văn trong phát triển giáo dục, chính thức miễn học phí cho tất cả các bậc học kể từ năm học 2020 - 2021. Đây chính là sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT ở Việt Nam nói chung và ở Hải Phòng nói riêng. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài Xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ, ngành Hồ Chí Minh học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT; đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án xác định những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- 4 - Nêu lên một số khái niệm cơ bản có liên quan để định hướng vấn đề nghiên cứu. - Hệ thống hóa, khái quát hóa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT. - Đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân thành tựu hạn chế và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT, thực trạng và những giải pháp xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT và quá trình vận dụng, triển khai xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay. Do vấn đề có nội dung rất rộng nên luận án tập trung nghiên cứu thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo kết quả triển khai Đề án xây dựng XHHT tại thành phố Hải Phòng, có sự tham chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh. - Về không gian: Thành phố Hải Phòng. - Về thời gian: Tác giả nghiên cứu vấn đề từ năm 2013 đến năm 2019. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề cập đến thời gian trước và sau giai đoạn trên. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng về giáo dục - đào tạo nói chung và xây dựng XHHT nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án tuân thủ phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình triển khai, luận án còn
- 5 sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên ngành như: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để phục vụ cho đề tài luận án, tác giả tiến hành tập hợp và phân tích một số nguồn tài liệu sau: + Những bài nói, bài viết, tác phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến chủ đề nghiên cứu, tập trung trong các công trình: Hồ Chí Minh Toàn tập, Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Bách khoa thư Hồ Chí Minh sơ giản… + Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh nhằm chỉ đạo xây dựng XHHT. + Những công trình nghiên cứu tiêu biểu, có giá trị của các cá nhân, nhóm tác giả liên quan đến chủ đề. - Phương pháp logic, lịch sử. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa... 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 5.1. Ý nghĩa lý luận - Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT, từ đó khẳng định thêm vai trò và những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với nền giáo dục Việt Nam nói chung và xây dựng XHHT nói riêng. - Góp phần nghiên cứu có hệ thống những luận điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT như tầm quan trọng của xây dựng XHHT, nội dung, hình thức, đối tượng, phương pháp xây dựng XHHT… - Cung cấp các cứ liệu, luận chứng tin cậy để có thể tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn - Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT có ý nghĩa vô cùng sâu sắc trong thực tiễn chỉ đạo và xây dựng TPHT, tiến tới XHHT ở Hải Phòng hiện nay, làm cho tư tưởng của Người luôn sống mãi với nhân dân thành
- 6 phố Cảng. Các giải pháp luận án đề xuất mang tính khả thi nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. - Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các học viện, các nhà trường, các ban ngành trên cả nước. 6. Những đóng góp mới của luận án Luận án là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống về xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh với những điểm mới sau đây: - Đưa ra được khái niệm “xã hội học tập”, “xây dựng xã hội học tập”, “tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập”. - Phân tích được những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT. - Đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay. - Đề xuất các giải pháp xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương, 14 tiết.
- 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xã hội học tập XHHT là một khái niệm được bàn luận nhiều năm gần đây. Tìm kiếm từ khóa này trên các trang mạng xã hội, không quá khó để thấy được rất nhiều kết quả. Cụm từ này đã trở thành mục tiêu trong Chiến lược phát triển giáo dục của nước ta trong thế kỷ XXI. Trên thế giới, cuộc thảo luận về khái niệm XHHT bắt đầu từ năm 1972 khi mà Edgarl Faure, cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Giáo dục Pháp, đứng đầu Ủy ban Quốc tế về phát triển giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO cho xuất bản cuốn “Học để tồn tại”. Lần đầu tiên, thuật ngữ XHHT (Learning society) xuất hiện trong cuốn sách này, như là trở thành xu thế cho nền giáo dục nhân loại thế kỷ mới. Edgarl Faure cho rằng: Nếu học tập là việc động chạm đến suốt đời con người, cả theo nghĩa thời gian cả theo nghĩa đa dạng và đối với mọi người trong xã hội, kể cả các nguồn lực xã hội, kinh tế và giáo dục, khi đó chúng ta phải đi xa hơn việc tháo dỡ tất cả các hệ thống giáo dục cho đến khi nào đạt được tình trạng của một XHHT. Như vậy, XHHT là mọi người học suốt đời, trong nhà trường và ngoài nhà trường. Trước Edgarl Faure, từ những năm 60 của thế kỷ XX, ý tưởng về XHHT cũng được nhiều nhà giáo dục đưa ra. Lúc đầu, người ta mới chỉ muốn tìm cách canh tân giáo dục, phải làm thế nào để có một thiết chế giáo dục mới để khắc phục tình trạng khủng hoảng của giáo dục trong nhà trường khép kín. Nghĩa là phải có một nền giáo dục cởi mở hơn, hạn chế sự giáo dục bó hẹp với những thiết chế chặt chẽ trong nhà trường chỉ dành cho một số đối tượng có điều kiện nhất định mà chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của quảng đại quần chúng. Vì vậy, phải xây dựng một nền giáo dục đại chúng với thiết chế mở. Từ đó, các nhà giáo dục tiếp cận ý tưởng về một XHHT. Ý tưởng này được Donald Schon (tiến sĩ người Mỹ) ba lần đề cập vào các năm 1963, 1967, 1973. Donald Schon cho
- 8 rằng xã hội sẽ có nhiều biến đổi, do đó nhu cầu học tập sẽ ngày càng tăng, sẽ không còn tình hình ổn định lâu dài nữa. Con người sẽ phải học để hiểu, để tác động, để điều hành các chuyển đổi đó. Khi ấy, năng lực học tập phải trở thành thuộc tính của mỗi người, ai cũng phải biết học suốt đời một cách thành thục. Hơn thế nữa, các thiết chế muốn luôn luôn chuyển đổi cũng phải học tập theo. Donald Schon đã có đóng góp lớn lao là đưa ra ý tưởng: các công ty, các phong trào xã hội và chính quyền đều phải là “các hệ thống học tập”, và từ đó ông đưa ra luận điểm quan trọng về “tổ chức học tập”. Năm 1968, trong một cuốn sách của mình, nhà giáo dục người Mỹ Robert M.Hutchins (từng làm hiệu trưởng trường Đại học Chicago) cũng đã khẳng định sự cần thiết tiến tới một XHHT với hai lý do: 1) Do sự phát triển của khoa học và công nghệ, sức lao động được giải phóng, con người sẽ có nhiều thời gian để nghỉ ngơi hơn và 2) Thế giới biến đổi nhanh đòi hỏi con người cần có tri thức để đáp ứng được những thay đổi đó. Ông quan niệm học tập là hồn của biến đổi. Huchin quay lại tư tưởng cổ đại là, không phải chỉ học vài giờ trong ngày ở một chỗ nào đó như lớp học mà học tập là mục tiêu của xã hội. Đúng như V.I.Lênin đã tổng kết: Giáo dục là một phạm trù lịch sử của loài người; loài người cùng tồn tại với phạm trù học tập - truyền thụ kinh nghiệm, tri thức từ người này sang người kia, từ thế hệ này sang thế hệ kia... Turten Husen là một trong những học giả đầu tiên cho rằng: tiến bộ kỹ thuật là một yếu tố quan trọng dẫn đến khái niệm XHHT, nhất là từ những năm 40 của thế kỷ XX khi bắt đầu có phát minh điện tử hóa, rồi vi điện tử vào những năm 70 và mạng internet những năm 90, tạo ra cuộc cách mạng công nghệ toàn cầu. Nhờ công nghệ này mà có một sự bùng nổ tri thức, sự sản sinh tri thức rất nhanh được gọi là “công nghệ tri thức”, trong đó có cả vấn đề truyền bá tri thức, truyền bá công nghệ đòi hỏi mọi người phải học liên tục. Ở phương Tây, quá trình này diễn ra mạnh mẽ từ những năm 1960 và được gọi là cách mạng hóa quá trình thông báo tri thức. Sau đó, người ta đã đưa ý tưởng này gắn với ý tưởng học suốt đời, học liên tục, học không chính quy, học cho tất cả mọi người. Qua giáo dục thực hiện các xu thế nổi bật của thời đại: công nghệ, văn hóa, dân
- 9 chủ và quyền con người trong thế giới toàn cầu hóa, đi vào kinh tế tri thức. Và như vậy sẽ đạt đỉnh cao mới trong quá trình dân chủ hóa giáo dục. Như vậy, XHHT là một xu thế mới trong phát triển của loài người ở thời kỳ hậu công nghiệp mà có người còn gọi là hậu hiện đại. Đó là đòi hỏi của cách mạng công nghệ và phát triển kinh tế, và cũng là đòi hỏi mới của sự phát triển con người bền vững trong thế kỷ mới. Rõ ràng, xây dựng XHHT đã và đang trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về XHHT thu hút nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu. Nghiên cứu XHHT xét từ góc độ xu thế cho sự phát triển giáo dục của các quốc gia hiện nay có khá nhiều công trình. Cuốn Phát triển giáo dục hướng tới một xã hội học tập [26] của tác giả Phạm Tất Dong đã chỉ rõ sự phát triển nền kinh tế tri thức và yêu cầu tất yếu xây dựng XHHT ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; những vấn đề cơ bản về nội dung và cấu trúc của XHHT, tình hình phát triển giáo dục qua các giai đoạn 2000 - 2010 và 2011 - 2020 nhằm đổi mới toàn diện nền giáo dục theo hướng xây dựng XHHT ở Việt Nam. Quan điểm này của tác giả tiếp tục được thể hiện trong bài viết “Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỷ XXI” [30]. Bài viết nhấn mạnh sự bùng nổ thông tin và việc sản xuất ra những tri thức mới, những công nghệ mới cho thấy những kiến thức tiếp thu trong hệ thống giáo dục ban đầu không thể sử dụng suốt đời, học vấn phổ thông không còn giúp con người đi thẳng vào lao động sản xuất. Con người cần biết cách học xử lý thông tin thành tri thức và phải học suốt đời trong một XHHT. Do đó, XHHT chính là nội dung cốt lõi trong chủ trương đổi mới giáo dục ở nước ta. Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh một thế giới luôn biến động, một xã hội thông tin đang bùng nổ và một thời đại mà tiến bộ khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão. Khái niệm tốt nghiệp một chương trình đào tạo nào đó với những kiến thức và kỹ năng có được, cứ thế mà lao động suốt đời đã không còn phù hợp. Từ thực tiễn đó, tác giả Nguyễn Minh Đường khẳng định trong bài viết “Xây dựng một xã hội học
- 10 tập - yêu cầu tất yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [43]: Mọi người đều phải học, mọi loại hình lao động đều phải học, mọi lứa tuổi đều phải học và phải học thường xuyên, học suốt đời, học bằng nhiều hình thức. Nói cách khác, phải hình thành một XHHT (learning society). Cũng từ góc độ tiếp cận XHHT là xu thế trong nền kinh tế tri thức, cuốn Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập [22] đã nêu bật xu thế đó. Sách dẫn lời của Jin Yang - chuyên gia chương trình cao cấp, Viện học tập suốt đời thuộc UNESCO: “Ngày nay chúng ta đang sống trong một xã hội đầy biến động và thay đổi nhanh chóng. Mỗi cá nhân không thể đáp ứng được các thách thức của cuộc sống nếu như không biến mình thành một người học suốt đời, và một xã hội sẽ không bền vững nếu không trở thành một xã hội học tập” [22, tr.53-54]. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định: Xây dựng XHHT là xu thế tất yếu trước yêu cầu mới của thời đại - thời đại phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin, thời đại của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, của nền kinh tế tri thức. Cuốn sách của tác giả Nguyễn Kỳ Mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập [72] tiếp tục nghiên cứu về XHHT với tính chất là một mô hình giáo dục mở. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến vấn đề XHHT như là một xu thế tất yếu của thế kỷ XXI, điều mà tất cả các quốc gia cần và tiếp tục hướng tới. Bằng những lập luận và luận chứng, tác giả khái quát về quan niệm XHHT, vai trò của XHHT và mô hình XHHT ở một số nước tiên tiến. Từ đó, tác giả khẳng định giáo dục Việt Nam cần nhanh chóng đổi mới theo mô hình này. Ngày nay, tất cả chúng ta đều nhận thức rõ vai trò thiết yếu của giáo dục và học tập trong phát triển kinh tế, xã hội và con người. Để duy trì và cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, mọi người đều cần phải liên tục học tập những kỹ năng mới, nâng cao trình độ chuyên môn và phát triển năng lực. Nhận thức được điều đó, một diễn đàn quốc tế: “Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - Xây dựng xã hội học tập” tại Hà Nội, từ ngày 06 đến 08 tháng 12 năm 2010 do Chính phủ Việt Nam, Hiệp hội nghiên cứu học tập suốt đời của ASEM và UNESCO tổ chức. Với sự tham gia chủ trì của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
- 11 Nhân, Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia xây dựng XHHT, Diễn đàn đã quy tụ gần 400 nhà hoạch định chính sách chủ chốt, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà giáo dục hàng đầu đến từ nhiều nước trên thế giới. Cuốn kỷ yếu “Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - Xây dựng xã hội học tập”[32] tập hợp 37 bài viết của 45 nhà nghiên cứu và chuyên gia giáo dục đến từ 17 quốc gia ASEM được trình bày tại Diễn đàn. Những vấn đề của giáo dục, xây dựng XHHT và học tập suốt đời được mổ xẻ, phân tích. Thông qua đó, các tác giả bày tỏ quan điểm về tính tất yếu phải xây dựng XHHT, mô hình xây dựng XHHT và chia sẻ kinh nghiệm xây dựng XHHT ở nhiều nước, đồng thời chỉ ra hướng đi cho giáo dục Việt Nam trong dòng chảy chung của thế giới. Tiếp cận XHHT nhìn từ góc độ tầm quan trọng của việc đổi mới giáo dục theo hướng xây dựng XHHT được khá nhiều tác phẩm đề cập đến bởi xét đến cùng, xây dựng XHHT cũng nằm trong chiến lược phát triển giáo dục của đất nước. Cuốn Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [53] đã phần nhiều đề cập đến vấn đề này. Trong cuốn sách, tác giả đã dày công tập hợp các báo cáo khoa học và bài nói tập trung làm sáng tỏ các vấn đề về vị trí của giáo dục đối với ba cuộc cách mạng đang tiến hành ở Việt Nam; đối tượng của giáo dục và khoa học giáo dục; tính chất và nhiệm vụ của nhà trường phổ thông; phát triển giáo dục và xây dựng khoa học giáo dục... Bài viết “Xây dựng xã hội học tập - một cuộc cách mạng về giáo dục” của tác giả Phạm Tất Dong [30] tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng XHHT. Những thành tựu đạt được trong 50 năm của nền quốc học nhân dân ở Việt Nam, trong đó có liên quan tới xây dựng XHHT như việc xoá nạn mù chữ, chống chính sách ngu dân, các cuộc cải cách giáo dục; vấn đề văn hoá và giáo dục nhân cách văn hoá là nội dung cơ bản được đề cập trong Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội - kinh tế [50]. Đề cập đến nội dung cải cách giáo dục theo hướng xây dựng XHHT có hai công trình của tác giả Nghiêm Đình Vỳ được nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành. Đó là cuốn Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, đồng tác giả với Nguyễn Đắc Hưng [159] và Cải cách giáo dục: Một số vấn đề chung và thực
- 12 tiễn ở Việt Nam, đồng tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến [158]. Điểm chung của hai công trình này là đều nghiên cứu về vấn đề cải cách giáo dục: Các định hướng toàn cầu trong thế kỷ XXI, tiến trình cải cách của một số nước trên thế giới, rút ra kinh nghiệm, bài học cho Việt Nam; đồng thời tìm hiểu về quá trình cải cách giáo dục ở Việt Nam, đường lối phát triển giáo dục của Đảng, một số vấn đề lý luận và tổ chức thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện theo hướng xây dựng XHHT suốt đời ở Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu tham khảo rất cần thiết cho công tác nghiên cứu giáo dục. Xây dựng XHHT là một trong những biện pháp quan trọng nhằm cải cách giáo dục hiện nay. Đặt giáo dục Việt Nam trước những yêu cầu và thách thức của thế kỷ XXI để thấy được tính tất yếu phải đổi mới là nội dung cơ bản của sách Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI [48]. Những vấn đề nổi bật của giáo dục Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI được đề cập tới như: tính chất giáo dục và nguyên lý giáo dục; hệ thống giáo dục; cải cách, đổi mới, chấn hưng giáo dục; vấn đề giáo dục mầm non, tiểu học, trung học, đại học, xoá mù chữ và giáo dục cho mọi người - những nội dung rất gần với XHHT. Thông qua đó, tác giả đưa ra các phương hướng phát triển giáo dục ở nước ta. Nội dung này cũng được trình bày trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết TW XI, tác giả Phạm Tất Dong [28]. Nghị quyết Trung ương XI (Nghị quyết số 29) của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước ta. Nền giáo dục mới phải có thiết chế giáo dục với đủ các hình thức giáo dục cho bất cứ lứa tuổi nào, cho bất cứ trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp nào, thực hiện dạy và học trong bất cứ không gian và thời gian nào. Việc giáo dục thực hiện theo đúng tinh thần “giáo dục của dân, do dân, vì dân”, ai cũng được học hành, không ai bị thải loại ra khỏi giáo dục và không ai bị thất bại trong giáo dục học đường. Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả khẳng định một xã hội có được hệ thống giáo dục như vậy chính là XHHT. Xây dựng XHHT chính là góp phần thực hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại thế kỷ XXI. Vấn đề tiếp theo của XHHT mà khá nhiều công trình quan tâm nghiên
- 13 cứu là nội dung, cấu trúc cũng như thành tố cấu thành XHHT. Cuốn sách Xây dựng con người, xây dựng xã hội học tập [29] đã trình bày khá cụ thể những vấn đề cốt lõi để xây dựng XHHT, bao gồm giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy, kinh nghiệm xây dựng XHHT ở các nước... Xuyên suốt nội dung đó là vấn đề con người, xây dựng con người trở thành hạt nhân động lực cho toàn bộ quá trình xây dựng XHHT ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Về mô hình XHHT nổi bật là cuốn Cấu trúc mô hình xã hội học tập ở Việt Nam [25]. Sách giới thiệu sự phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới hướng tới XHHT và sự phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay trong bước khởi đầu định hướng xây dựng XHHT, đồng thời đề cập đến cấu trúc mô hình XHHT ở Việt Nam. Cùng đề cập đến mô hình XHHT có cuốn Mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập [72]. Cuốn sách này đi vào trình bày các mô hình khuyến học và phân tích tác động của nó tới việc xây dựng XHHT ở nước ta. Tuy chỉ phản ánh một nội dung nhỏ của XHHT là các mô hình hoạt động khuyến học nhưng sách cũng là nguồn tài liệu tham khảo giá trị. Ở Việt Nam, xây dựng XHHT là tất yếu nhưng lại không hoàn toàn dễ dàng. Việc xây dựng XHHT không dừng lại ở chỗ nước ta sẽ có một XHHT như mọi nước. XHHT không có mục đích tự thân. Chúng ta cần có một XHHT để từ đó tạo nên những nhân cách cần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần cho việc phát triển kinh tế tri thức. Mục tiêu XHHT là những nhân cách Việt Nam ở thế kỷ XXI mà trong nhân cách đó, trí tuệ thời đại và đạo đức thời đại là cái cốt lõi. Từ đó, tác giả cuốn Khuyến học [27] mong muốn phát huy và đẩy mạnh hơn nữa công tác KH, KT để tạo nên một dấu gạch nối giữa sự nghiệp KH, KT trong lịch sử với sự nghiệp KH, KT thời hiện đại. Tiếp tục đi sâu về thành tố của XHHT là cuốn Xã hội học tập - Học suốt đời và các kỹ năng tự học của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Hải Yến [138]. GDTX, giáo dục người lớn được xem là thành tố rất quan trọng của XHHT. Do đó trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận chung của GDTX, các đặc điểm và khó khăn của GDTX cũng như quá trình xây dựng XHHT ở Việt Nam. Về phương pháp để xây dựng XHHT, tác giả nhấn mạnh vấn đề tự
- 14 học, bản chất của tự học và cách thức tiến hành tự học theo từng lứa tuổi. Ở góc độ lý luận giáo dục, để có thể tiến tới XHHT đòi hỏi mỗi cá nhân và toàn xã hội phải không ngừng tự học và học suốt đời. Đây là một thành tố rất quan trọng trong XHHT mà công trình đã đề cập tới. Cùng đề cập tới GDTX là nội dung chính của luận án tiến sĩ Khoa học Giáo dục (mã số 62.14.01.14) của Bùi Trọng Trâm với đề tài Quản lý phát triển trung tâm học tập cộng đồng theo định hướng xã hội học tập [142]. Tác giả đi vào chuyên sâu nghiên cứu một khía cạnh của XHHT ở bộ phận cấu trúc của nó là các TTHTCĐ. Trên cơ sở trình bày cơ sở lý luận về quản lý phát triển TTHTCĐ theo định hướng XHHT, luận án nghiên cứu thực trạng, kinh nghiệm của một số nước và thực trạng quản lý phát triển TTHTCĐ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Thái Bình. Thêm vào đó, tác giả đã đề xuất bộ tiêu chuẩn đánh giá và một số giải pháp quản lý phát triển TTHTCĐ theo định hướng XHHT của tỉnh Thái Bình hiện nay. Lý luận chung về XHHT như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc XHHT được luận bàn ở nhiều bài viết đăng trên các tạp chí: - “Tìm hiểu quan niệm về xã hội học tập”, Phạm Minh Hạc, tạp chí Giáo dục [51]. - “Xã hội học tập: quan niệm, thực trạng và giải pháp”, Thái Xuân Đào, tạp chí Phát triển giáo dục [40]. - “Bàn về khái niệm xã hội học tập”, Tô Bá Trượng, Tạp chí Giáo dục [149]. - “Tiến tới xây dựng một xã hội học tập”, Nguyễn Ngọc Phú, tạp chí Giáo dục [115]. Điểm chung trong phần lớn nội dung của những bài viết này là đề cập đến quan niệm về XHHT của các học giả trong và ngoài nước, rút ra những đặc điểm nhận diện XHHT và tổ chức xây dựng XHHT ở Việt Nam. Làm thế nào để xây dựng XHHT, hay nói cách khác là điều kiện và giải pháp để xây dựng XHHT ở Việt Nam? “Để xây dựng nền giáo dục Việt Nam thực sự trở thành một xã hội học tập - giáo dục suốt đời: Quan niệm và thể chế hóa” là bài viết của tác giả Nguyễn Như Ất đăng trên tạp chí Phát triển giáo dục,
- 15 [8]. Tác giả nêu ra quan niệm và điều kiện cơ bản để xây dựng XHHT mà quan trọng là đi từ nhận thức đúng đến hành động đúng. Xây dựng hệ thống học suốt đời trong nền giáo dục Việt Nam cũng là một biện pháp để xây dựng XHHT. Đây là bài viết của tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến, in trong cuốn Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam [10]. Bài viết khẳng định trong nhiều mô hình giáo dục mới được đề xuất, thì mô hình học suốt đời đang là xu thế chung thể hiện bước chuyển về giáo dục của nhiều nước trước một thế giới biến động khó lường của toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và cách mạng công nghệ. Tác giả cũng đánh giá, việc xây dựng hệ thống học suốt đời là bước phát triển về chất của nền giáo dục Việt Nam. Trong quá trình xây dựng luận án, tác giả cũng tiếp cận một số tài liệu của các học giả nước ngoài về vấn đề này, đặc biệt đề cập đến giải pháp xây dựng XHHT. Tiêu biểu nhất là cuốn Xây dựng xã hội học tập: Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội (Creating a learning society: A new Approach to Growth, Development and Social Progress) [170] của hai tác giả Joseph E. Stiglitz và Bruce C. Greenwald (giáo sư Đại học Columbia, Mỹ), do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành năm 2017. Với độ dày 555 trang, sách được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gồm 8 chương nêu bật tầm quan trọng của việc học tập, về các doanh nghiệp học tập và phát minh, về cấu trúc thị trường - nơi các doanh nghiệp đang hoạt động tác động đến khả năng học tập và sáng tạo của doanh nghiệp, kết thúc với đánh giá phúc lợi và trạng thái ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Phần thứ hai gồm 6 chương bàn về các giải pháp cho một XHHT. Tác giả đưa ra chính sách ở nhiều lĩnh vực để xây dựng thành công XHHT năng động từ các chính sách phát triển ngành, chính sách về tài chính, chính sách vĩ mô cho đến các chính sách về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển đổi xã hội. Bên cạnh đó, những khuyến nghị về giải pháp xây dựng XHHT, như hình thành cơ chế quản lý liên ngành, thúc đẩy động lực học tập suốt đời cho người học, tăng cường học tập tại nơi làm việc, nhân rộng các mô hình TPHT, cộng đồng học tập, sử dụng công nghệ thông tin như một phương tiện phục vụ sự phát
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan
0 p | 240 | 48
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử gia dụng
183 p | 164 | 40
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Cấu trúc vốn và vốn luân chuyển tác động đến hiệu quả quản trị tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
29 p | 262 | 36
-
Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Xây dựng phong cách ứng xử của Công an nhân dân Việt Nam hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh
164 p | 69 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Cấu trúc vốn và vốn luân chuyển tác động đến hiệu quả quản trị tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
233 p | 197 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hiệu quả kinh tế và những rủi ro trong sản xuất hồ tiêu trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
208 p | 163 | 19
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk
260 p | 95 | 17
-
Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
171 p | 60 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế
220 p | 26 | 14
-
Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Xây dựng phong cách lãnh đạo của chính trị viên trong Quân đội hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh
197 p | 66 | 13
-
Luận án tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay
190 p | 59 | 13
-
Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các học viện, nhà trường kỹ thuật quân sự hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
216 p | 52 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đào tạo ngành thiết kế thời trang ở các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh
221 p | 50 | 12
-
Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong hoạt động quân sự
169 p | 53 | 9
-
Luận án Tiến sĩ khoa học máy tính: Cải tiến quá trình học của một số mạng nơ-ron ghi nhớ - Nông Thị Hoa
105 p | 76 | 9
-
Luận án Tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Xây dựng Đảng bộ các trường sĩ quan Quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
222 p | 39 | 9
-
Luận án tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay
193 p | 68 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn