Luận án Tiến sĩ: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và xu hướng phát triển
lượt xem 13
download
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và một số vấn đề thực tiễn của nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn nước ta phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và xu hướng phát triển
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỀ TÀI: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta Đặc điểm và xu hướng phát triển 1
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 3 Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CNHHĐH Ở NƯỚC TA........................8 1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI ...............................................................................................8 1.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CNHHĐH Ở NƯỚC TA......................................................................................33 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN......................51 2.1. THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY.................................................................................................................... 51 2.2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA.......................................79 Chương 3: NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA......................................................................93 3.1. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO........................................................94 3.2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ KINH TẾ XÃ HỘI............................................................103 3.3. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH TRỊ VĂN HÓA....................................................123 KẾT LUẬN......................................................................................................................136 NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................................................... 139 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................140 PHỤ LỤC......................................................................................................................... 155 2
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNHHĐH) theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). CNH, HĐH là xu thế phát triển chung của các nước trên thế giới, khi các nước đó muốn tiến tới một xã hội hiện đại. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta. CNH, HĐH không chỉ đơn thuần là công cuộc xây dựng kinh tế, mà còn là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để đảm bảo cho sự nghiệp này thành công, Đảng ta đã xác định phải: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [15, tr. 85]. Đây là quan điểm cơ bản chỉ đạo toàn bộ sự phát triển của đất nước. Chăm lo bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người với chất lượng cao là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cho nên, Đảng ta đã xem con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển. Trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội (tài nguyên thiên nhiên, vốn; nguồn nhân lực; khoa học công nghệ...), thì nguồn nhân lực (NNL) giữ vai trò quyết định. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Tài nguyên thiên nhiên đa dạng nhưng khó khai thác, thiếu vốn nghiêm trọng, kỹ thuật còn lạc hậu. Trong bối cảnh đó, nguồn nhân lực càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nó phải trở thành động lực thực sự của sự phát triển. Là một nước kém phát triển về kinh tế, hiện nay ở nước ta có gần 80% dân số và hơn 70% lao động nước ta còn sống ở nông thôn. Hơn nữa, nguồn nhân lực ở nông 3
- thôn nước ta lại phân bố không đều, chủ yếu tập trung sản xuất nông nghiệp độc canh, thuần nông. Chỉ có hơn 15% nguồn nhân lực ở nông thôn hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Trong khi đó, dân số và lao động hàng năm ngày một gia tăng, đất nông nghiệp ngày một giảm dần... Đất chật, người đông, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và đang là một sức Ðp lớn đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu lao động, việc làm. Việc giải quyết các mâu thuẫn đó đang trở thành một vấn đề hết sức bức xúc. Làm thế nào để giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn đó nhằm phát huy, sử dụng, phát triển được NNL dồi dào ấy phục vụ cho sự nghiệp CNHHĐH đất nước? Thực tiễn ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy có nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn. Nhưng lùa chọn giải pháp nào? Phương pháp thực hiện từng giải pháp trong mỗi giai đoạn phát triển ra sao? Nếu lùa chọn và thực hiện có hiệu quả những giải pháp đúng thì với nguồn nhân lực dồi dào, phong phú ở nông thôn nước ta, chóng ta không những tạo ra động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, mà còn giải quyết được những nội dung quan trọng liên quan tới chính sách xã hội đó là vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống nhân dân, góp phần giải quyết những tiêu cực xã hội do tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và mức sống thấp gây ra. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay, nhận diện đúng những đặc điểm và xu hướng phát triển của nó để tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ CNH, HĐH đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề con người và nguồn lực con người đã từng thu hót sự quan tâm chú ý của nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, của giới lý luận trong và nước ngoài. Do vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Nổi bật nhất là Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước: " Con người Việt Nam mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội" mang mã số KX.07 do GS.TS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm (1991 1995). Đây là công trình nghiên cứu sâu sắc, khá toàn diện về yếu tố con người trong quá trình đổi mới và đưa ra được cái nhìn tổng thể, mang tầm chiến lược về vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Liên 4
- quan tới đề tài luận án còn có một số đề tài khoa học cấp Bộ: "Xây dựng cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển NNL khoa học công nghệ" của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường do TS Nguyễn Thị Thu Anh làm chủ nhiệm, Hà Nội, 7/1997; "Lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước đến năm 2020" của Ban Nguồn nhân lực Viện nghiên cứu chiến lược Bé Kế hoạch và Đầu tư 1/1998 do TS Trần Thị Tuyết Mai làm chủ nhiệm. Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhiều tác giả đã đề cập đến vai trò của nhân tố con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tính tích cực xã hội của con người và con đường nâng cao vai trò nhân tố con người. Nhìn chung, các tác giả đã tập trung nghiên cứu vấn đề con người và vai trò của nó trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở những góc độ khác nhau, như: " Bàn về chiến lược con người" Viện Thông tin khoa học kỹ thuật Trung ương, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990; Đỗ Mười: "Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh", Tạp chí Thông tin lý luận, số 3, 1993; Nguyễn Văn Sáu: "Phát huy nhân tố con người trong đổi mới kinh tế", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993; Phạm Minh Hạc (chủ biên và tập thể tác giả): "Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI", Hà Nội, 1995; Nguyễn Trọng Chuẩn: "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, số 3, 1994; Hoàng Chí Bảo: "Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con người", Tạp chí Triết học, số 1, 1993; Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm: "Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Nguyễn Thế Nghĩa: "Nguồn nhân lực động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, số 1, 1996; Nguyễn Thị Hằng: "Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm 2010", Tạp chí Cộng sản, số 7, 1999... Thời gian gần đây có một số luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công về đề tài nguồn nhân lực, như các luận án của Trần Kim Hải: "Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Hà Nội, 1999; của Nguyễn Thị Tó Oanh: "Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay" Hà Nội, 1999; của Hà Quý Tình: "Vai trò của nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân lực cho CNH,HĐH ở nước ta", Hà Nội, 1999. Các tác giả nêu trên đã nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực dưới góc độ kinh tế chính trị và CNXH khoa học. 5
- Trên nền chung của việc nghiên cứu con người và nguồn nhân lực, đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về nông thôn, nông nghiệp và nguồn lao động ở nông thôn từ những bình diện khác nhau, như công trình của Trương Việt Vò: "Lao động và việc làm ở nông thôn" trong cuốn "Kinh tế xã hội học nông thôn Việt nam hiện nay", Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội, 1991; Nguyễn Thị Hằng: "Định hướng và giải pháp chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn", Tạp chí Lao động và Xã hội, tháng 91993; Hà Quý Tình: "Nguồn nhân lực nông thôn Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1998; Nguyễn Văn Trung: "Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để CNH, HĐH nông thôn nông nghiệp nước ta", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Chu Tuấn Nhạ: "Khoa học, công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, số 2, 1999; Nguyễn Ngọc Tuân: "Nước ta đi con đường nào để đưa nông nghiệp truyền thống lên nông nghiệp hiện đại?", Tạp chí Cộng sản, số 14, 1999; Trương Công Hùng: "Kinh tế trang trại nông nghiệp ở nước ta", Tạp chí Cộng sản số 6, 1999; Trần Đức: "Mấy vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 15, 1999... Tuy nhiên, những công trình trên mới chỉ bàn đến hiệu quả sử dụng lao động, nguồn nhân lực trên phạm vi toàn xã hội. Một số tác giả tuy có bàn đến vấn đề sử dụng NNL nông thôn, chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn,... nhưng mới chỉ nêu lên những nét khái quát như một phác thảo chung, chưa đi sâu nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về những giải pháp nhằm sử dụng nguồn nhân lực to lớn dồi dào ở nông thôn. Đề tài: "Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta Đặc điểm và xu hướng phát triển" là cố gắng bước đầu của tác giả góp phần vào việc nghiên cứu nguồn lực con người nông thôn Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận án Mục đích của luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và một số vấn đề thực tiễn của nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn nước ta phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhiệm vụ của luận án + Làm rõ khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực nông thôn trong sự nghiệp 6
- CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. + Nêu lên một bức tranh chân thực về thực trạng của nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. + Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay. Giới hạn nghiên cứu của luận án Luận án không đi sâu nghiên cứu toàn bộ vấn đề về nguồn nhân lực nông thôn nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu những đặc điểm và xu hướng phát triển của nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay. Từ đó, dưới góc độ khoa học triết học, luận án góp phần đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong văn kiện các Đại hội và các Nghị quyết Trung ương từ 1986 đến nay. Luận án được thực hiện bằng việc vận dụng những quan điểm phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó, đặc biệt chú ý các phương pháp lịch sử và lôgíc, phương nghiên cứu hệ thống, phương pháp thống kê kinh tế xã hội... 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án Làm rõ được thực trạng của việc sử dụng, phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta từ năm 1986 đến nay. Nêu lên được các đặc điểm và xu hướng phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta trong thêi kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đề xuất những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm sử dụng, phát huy có hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Làm sâu sắc, phong phú thêm quan điểm về việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người ở nông thôn thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào tạo và phát 7
- triển nguồn nhân lực hiện nay ở nước ta. Góp phần bổ sung thêm những nhận thức mới trong việc thực hiện các giải pháp nhằm sử dụng, phát triển vai trò của nguồn nhân lực ở nông thôn trong phát triển kinh tế xã hội thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta. Kết quả nghiên cứu luận án có thể được vận dụng trong chỉ đạo thực tiễn ở các địa phương nhằm phát triển nông thôn mới và thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Kết quả nghiên cứu luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học Mác Lênin trong các trường đại học, cao đẳng và các trường chính trị ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương, 7 tiết. 8
- Chương 1 NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 1.1.1. Khái niệm "nguồn nhân lực" và "phát triển nguồn nhân lực" Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã bàn khá sâu sắc về bản chất con người, vÒ vai trò của con người, về vai trò của nhân tố con người trong quá trình phát triển xã hội Gần đây, trong quá trình vận động của nền kinh tế xã hội, việc xem xét nhân tố con người (NTCN) với tư cách là một nguồn lực xã hội của sự phát triển đã dẫn tới sự hình thành khái niệm mới: Nguồn nhân lực (hay nguồn lực con người). Qua các công trình nghiên cứu gần đây trên thế giới và trong nước, chúng tôi thấy quan niệm về NNL được đề cập tới từ các góc độ sau: Theo lý thuyết phát triển, NNL theo nghĩa rộng là nguồn lực con người (Human Resources) của một quốc gia, một vùng lãnh thổ (vùng, tỉnh), nó là một bộ phận cấu thành các nguồn lực, có khả năng lao động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội như nguồn lực vật chất (Physical Resources), nguồn lực tài chính (Financial Resources). Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, NNL được đề cập đến với tư cách là một lực lượng sản xuất chủ yếu, sản xuất ra hàng hóa và dịch vô. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là những lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động (LLLĐ) theo nhu cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Trong lý luận về vốn người, NNL trước hết như một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, lý luận về "vốn người" còn xem xét con người từ quan điểm nhu cầu về các nguồn lực của phát triển. Đầu tư cho con người được phân tích tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất, có tÝnh đến 9
- tổng hiệu quả của đầu tư này, hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ đầu tư đó. Cách tiếp cận này được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay [79, tr. 138] Theo cách tiếp cận trên, Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây, NNL được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác, như vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên thiên nhiên... Việc đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững. Vì vậy NNL là một nguồn vốn đặc biệt. Dùa trên cách tiếp cận này, Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm NNL và cho rằng: NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây là yếu tố được coi là quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng xã hội kinh tế. Ở Việt Nam, quan niệm của các nhà khoa học về nguồn nhân lực được thể hiện trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội", mang mã số KXO7. Theo đó, NNL được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc [19, tr. 328]. Theo hướng tiếp cận khác, NNL được xem xét trong mối quan hệ với các nguồn lực khác và nó được xem như nguồn lực cơ bản, quan trọng, làm động lực cho sự phát triển xã hội: "Thông thường, Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn viết, những nguồn lực làm cơ sở cho chiến lược phát triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các giai đoạn trước đó, có thể là nguồn lực ở bên ngoài tự nhiên như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường, cũng có thể là nguồn nhân lực..." và "lịch sử cho thấy đây là nguồn lực lâu bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia từ trước đến nay... Cho nên dù có những nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó, đủ trình độ nắm bắt và làm chủ kỹ thuật và công nghệ hiện đại và hiện đại nhất, nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị xã hội, tâm lý và dư luận xã hội thuận lợi cho con người hoạt động thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn" [8, tr. 3032]. Lại có quan niệm cho rằng: "Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí 10
- lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người" [4]. Tựu chung lại, các cách tiếp cận trên đây thể hiện hai phương diện xem xét khái niệm nguồn nhân lực. Một cách tiếp cận những mối liên hệ bên ngoài của nguồn lực con người; còn một cách tiếp cận với NNL từ mối quan hệ và kết cấu nội tại của nã. Từ mét số cách tiếp cận trên có thể thấy rằng NNL không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà nó là cả một tập hợp, một đa phức hợp bao gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc... Trong buổi gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học công nghệ các tỉnh thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh: "Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống dân tộc ta" [30]. Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng định hướng cho việc nhận thức và phát huy tiềm năng nhân lực trên đất nước ta. Con người và nhân tố con người được xem xét bởi hai phương diện: cá nhân và xã hội. Vì vậy, khi xem xét cấu trúc NNL trước hết phải tính đến phương diện cá thể của NNL, bao gồm: thể lực, trí lực, đạo đức.... (nh ững yếu tố này cấu thành chất lượng cá thể của NNL và nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phát triển xã hội của NNL, khi xét trên quy mô xã hội). Mặt khác, khi xem xét NNL cũng phải xem xét mặt xã hội và tính chất xã hội hóa của nó với tư cách là sức mạnh tổng hợp của lực lượng xã hội, những con người tham gia vào sự phát triển xã hội ở mọi lĩnh vực của đời sống. Đây chính là biểu hiện năng lực xã hội (là nhân tố nội sinh, nhân tố bên trong của sự phát triển). Có thể nói rằng chất lượng xã hội của NNL là thước đo chủ yếu của những năng lực xã hội xét trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Tính chất xã hội của nó biểu hiện qua: dân số, chất lượng dân số, chất lượng đời sống dân cư và chất lượng của lực lượng lao động. Mặt xã hội đó phản ánh trình độ thực tế của sự phát triển năng lực xã hội, nó cũng cho thấy tiềm năng của sự phát triển đó. Khi xem xét cấu trúc của NNL, nhất là NNL ở nước ta hiện nay cần phải đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa: nguồn lực tiềm tàng và nguồn lực hiện hữu. Do đó, việc quản lý NNL đòi hái vừa phải đặc biệt quan tâm và chăm sóc đối tượng đang làm việc trực tiếp, có chiến lược và chính sách đúng đắn nhằm hướng tới chất lượng đang 11
- đào tạo, vừa phải có tầm nhìn triển vọng đối với lực lượng đang lớn lên, đang sinh ra và tiếp tục sinh ra Từ những điều nêu trên có thể thấy, NNL được đề cập đến như một nguồn lực tổng hợp với các yếu tố hợp thành: sức lực và trí tuệ, số lượng cùng với các đặc trưng về chất lượng (như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ, phong cách làm việc...), trong đó, con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế xã hội, là một yếu tố cơ bản của phát triển sản xuất. Nếu coi NNL là tiềm năng con người nói chung, những tiềm năng mà con người có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội, thì "sử dụng NNL" chính là khơi dậy và phát huy những tiềm năng đó. Phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình biến đổi của NNL nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con người. Quá trình sử dụng, phát triển NNL bao gồm nhiều vấn đề, như giải quyết việc làm, sử dụng và phát triển lực lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ, phát huy tính sáng tạo, yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích thích và động cơ lao động... Trong đó, giải quyết việc làm và sử dụng lao động chỉ là mét số nội dung của nó mà thôi. Để khơi dậy và phát huy những tiềm năng con người, việc sử dụng, phát triển NNL phải được tiến hành đồng bé từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động đến vấn đề tù do lao động và được hưởng thụ xứng đáng những giá trị mà lao động sáng tạo ra. Nói cách khác, chính sách sử dụng, phát triển NNL phải được lồng ghép với các vấn đề giáo dục, đào tạo và sử dụng lực lượng lao động, tạo việc làm và đãi ngộ thỏa đáng cho con người... Trong đó, giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL là cơ sở để sử dụng, phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực và để mở rộng, cải thiện môi trường làm việc. Để làm rõ hơn quan điểm về NNL, có thể đi sâu phân tích những yếu tố cơ bản nhất của NNL và việc sử dụng, phát triển các yếu tố đó trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Chóng ta biết rằng: Lao động là cơ sở để hình thành và phát triển con người; người lao động có vai trò to lớn đối với sự phát triển lịch sử. Do vậy, NNL trước hết được biểu hiện ra là nguồn lao động. Nguồn lao động ở đây là toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. Đó là những người lao động 12
- từ những người lao động trực tiếp đến các nhà quản lý, các nhà khoa học công nghệ, những người làm công tác văn phòng, dịch vụ, đến lực lượng lao động dự bị... tất cả đều thuộc về NNL của một quốc gia. Từ khía cạnh này, chúng ta có thể hiểu: "phát triển NNL" trước hết là sử dụng, phát triển, phát huy nguồn lao động. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đã có và sẽ có là yêu cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL. Ở nước ta trước đây người ta thường sử dụng khái niệm "các nguồn lao động", bao gồm toàn bộ những người trong độ tuổi qui định có khả năng lao động để tính toán số lượng "cung nguồn lao động" và coi đó là "cầu việc làm" mà nền kinh tế phải giải quyết trong việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nguồn lao động (với ý nghĩa là một yếu tố đầu vào của sản xuất xã hội) là một bộ phận của dân sè, bao gồm những người lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân và đang tìm việc làm. Khái niệm này thống nhất với khái niệm "Lực lượng lao động" được qui định trong Bộ luật lao động năm 1994: "Lực lượng lao động bao gồm những người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động" (Điều 6). Chúng tôi hiểu: Nguồn lao động là bộ phận dân cư của đất nước, có khả năng về thể chất và tinh thần có thể được sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động hiểu theo nghĩa đó, trở thành một yếu tố quan trọng hợp thành tiềm năng phát triển kinh tế đất nước và nói lên số lượng tối đa của dân cư có khả năng lao động. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động (nam từ 1560, nữ từ 1555) có khả năng lao động (trừ những người tàn tật, mất sức lao động loại nặng) và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi và các em từ 1315 tuổi) thực tế đang làm việc. Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lao động được quy định bởi những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Những chỉ tiêu này luôn luôn thay đổi, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số người đang đi học và đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố lao động theo lĩnh vực, theo ngành, theo lãnh thổ... Mức độ gia tăng nguồn lao động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi có khả năng lao động và số dân cư ra khỏi độ tuổi lao động hoặc nghỉ hưu. Trình độ học vấn, trí tuệ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động biểu hiện rõ về chất của nguồn lao động. 13
- Để phân biệt người có việc làm với người thất nghiệp và các thành phần khác của lao động, chúng ta cần làm rõ khái niệm việc làm và thất nghiệp. Việc làm là một phạm trù tổng hợp chỉ sự liên kết các quá trình kinh tế xã hội và nhân khẩu. Đây là một trong những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều khái niệm về việc làm. Ở các nước khác nhau, khái niệm này cũng có nội dung khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy hầu hết các tài liệu đều cho rằng "việc làm" phải là một hoạt động có mang lại thu nhập cho con người (một số nước qui định mức thu nhập cụ thể). Trước đây ở Philippin, người ta cho rằng mức thu nhập tương ứng khoảng 80% lương tối thiểu trở lên mới được coi là có việc làm [71]. Khái niệm "việc làm" có liên quan chặt chẽ với khái niệm "lao động", nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính trong hoạt động của con người. Xét dưới góc độ lực lượng sản xuất của xã hội, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Ở nước ta, Bộ luật lao động ban hành năm 1994 đã xác định: "Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Như vậy, để có việc làm, không nhất thiết phải vào cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước, mà có thể tìm việc làm trong mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế, hoặc do chính bản thân người lao động tự tạo việc làm để có thu nhập... Để hiểu rõ hơn về các khía cạnh của "việc làm" mét vấn đề bức xúc hiện nay ở nước ta, cần làm rõ hơn khái niệm "việc làm đầy đủ", "việc làm hợp lý". Việc làm đầy đủ là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm cho bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế xã hội. Nói một cách khác, "việc làm đầy đủ" là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn [22, tr. 23]. Khái niệm "việc làm đầy đủ" mới chỉ chủ yếu nói lên sự cã việc làm về mặt số lượng. Việc làm hợp lý không những thể hiện nội dung việc làm đầy đủ, mà còn nói lên việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Do vậy, việc làm hợp lý sẽ tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn việc 14
- làm đầy đủ. Cho nên, trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ nhằm toàn dụng lao động, cần dần dần thực hiện từng bước "việc làm hợp lý". Tuy nhiên, khái niệm "việc làm đầy đủ" và "việc làm hợp lý" chỉ mang ý nghĩa tương đối, vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp [22, tr. 25]. Những nước kinh tế phát triển có điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, nhưng nguồn lao động tăng chậm, dẫn đến thiếu sức lao động. Ngược lại, những nước chậm phát triển, khả năng mở rộng sản xuất có hạn dẫn đến một bộ phận lao động muốn làm việc nhưng không có việc làm, chưa có việc làm, đang tìm việc làm, nghĩa là thất nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều dạng thÊt nghiệp khác nhau, tùy theo các góc độ tiếp cận. — Nếu căn cứ vào nguồn gốc thất nghiệp, ta thấy có những trường hợp sau: Thất nghiệp tạm thời: Là thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động tạm thời không có việc làm vì mét lý do nào đó.. Thất nghiệp cơ cấu: Là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu của một loại công việc nào đó do sù thay đổi của kỹ thuật công nghệ hay thay đổi cơ cấu nghề nghiệp gây ra. Thất nghiệp chu kỳ: Là thất nghiệp khi tăng, khi giảm theo chu kỳ tăng giảm của nền sản xuất. — Nếu căn cứ vào mức độ thất nghiệp, thì có các loại: Thất nghiệp hoàn toàn: Là thất nghiệp của một bộ phận người có khả năng lao động muốn làm việc, nhưng hoàn toàn không có việc làm trong một thời gian dài. Thất nghiệp bộ phận (thiếu việc làm): Là thất nghiệp của những người chỉ làm việc một thời gian, phần thời gian còn lại muốn làm việc, nhưng thiếu việc làm. — Nếu căn cứ vào nhân tố chủ quan của người lao động, thì có các loại: Thất nghiệp tự nguyện: Là thất nghiệp của một bộ phận người lao động không muốn làm việc, do việc làm và mức lương tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của mình. Khi mức lương tăng lên họ sẽ có nhu cầu việc làm. Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp của những người lao động muốn 15
- làm việc với mức lương hiện hành, nhưng không có việc để làm, do tổng cầu suy giảm hoặc do sản xuất đình trệ, thua lỗ kéo dài, họ trở nên mất việc làm... Thực tiễn nền kinh tế thế giới cho thấy, trong kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu khách quan. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp, chứ không thể ngay một lúc loại bỏ được nó. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, ngay cả trong điều kiện nước có công ăn việc làm đạt mức cao nhất, nền kinh tế phát triển năng động nhất, vẫn có tới 3%4% lực lượng lao động bị thất nghiệp [22, tr. 29]. Trên đây đã phân tích và chỉ rõ: NNL trước hết là người lao động đó là những con người sử dông sức lao động của mình trong quá trình sản xuất, những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội. Xưa nay người ta thường quan niệm nhân tố "sức lao động" là người lao động. Sức lao động là một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất, nó có đặc trưng thể hiện khả năng phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội, có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Sức lao động là năng lực của người lao động, bao gồm toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Sức lao động như là hàng hóa, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng sức lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất và trở thành hàng hóa trong điều kiện nhất định. Là một loại hàng hóa đặc biệt người lao động với tư cách là một thực thể tự nhiên, đồng thời là một thực thể xã hội; có ý thức, có lý tính, có quan hệ, có nhu cầu và khả năng sáng tạo. Là một hàng hóa, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Như những loại hàng hóa khác, sức lao động cũng bao gồm đủ loại chất lượng theo những trình độ khác nhau từ lao động giản đơn đến lao động phức tạp, từ lao động chân tay đến lao động trí tuệ; chúng cũng được lưu thông trên thị trường sức lao động một thị trường của các yếu tố sản xuất. Thị trường lao động có thể được hiểu là nơi diễn ra quá trình tác động lẫn nhau giữa người mua và người bán sức lao động nhằm xác định giá cả, số lượng hàng hóa đặc biệt này. Sự vận động của thị trường lao động tuân theo cơ chế thị trường và ba nhân tố cơ bản chi phối chúng là cung, cầu và giá cả. Chúng hoạt động theo quy luật vốn có của thị trường là qui luật giá trị, qui luật cung cầu và qui luật cạnh tranh. 16
- Trên đây chúng ta đã phân tích các khía cạnh khác nhau có liên quan trực tiếp đến nguồn lao động như là một yếu tố cơ bản của NNL. Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội, con người chẳng những sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc. Trình độ của nền sản xuất càng cao, tiến bộ công nghệ đưa vào sản xuất càng nhiều thì lao động trí óc của con người trong sản xuất càng tăng lên. Vấn đề này đã được Mác nhiều lần đề cập đến. Chẳng hạn, khi phân tích ảnh hưởng của tri thức khoa họcsản phẩm của lao động trí tuệ đối với sản xuất ở thời đại mình, Mác viết: Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, việc sản xuất ra của cải hiện thực ngày càng trở nên Ýt phụ thuộc hơn vào thời gian lao động, lực lượng lao động phải bỏ ra so với các tác nhân hoạt động trong quá trình lao động ngày càng nhiều. Vai trò của lao động trí tuệ còn được Mác thể hiện trong dự báo khoa học: đến một trình độ nào đó, khoa học sẽ biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Quá trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất đang diễn ra dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện nay đã khẳng định sự chính xác của dự báo này. Chúng ta biết rằng, ngày nay khoa học đang "thấm sâu" vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất, và trở thành nhân tố quyết định của sự phát triển. Như vậy, có thể khẳng định rằng, trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL. Với ý nghĩa Êy, khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ của người lao động trở thành yêu cầu quan trọng nhất của sử dụng, phát triển NNL. Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu rằng trí tuệ với tư cách là một yếu tố của NNL tự nó không làm ra của cải vật chất, cũng không phải là những kiến thức trong sách vở, trong ngân hàng dữ liệu, hay trong chương trình phần mềm máy vi tính. Tri thức chỉ trở thành nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và sử dụng. Nói theo cách của C.Mác, nó phải tồn tại trong con người đang sống, đang hoạt động, trong nhân cách sinh động của con người. Nói cách khác, chỉ những kiến thức nằm trong con người, tồn tại trong vỏ não con người, được tạo ra, sửa đổi và luôn thực hiện bởi con người, được con người sử dụng trong hoạt động và truyền đạt lại mới được xem là thành phần (hay giá trị) của NNL. Cuộc cách mạng khoa họccông nghệ hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao về trí tuệ của NNL những người lao động. Họ không những phải có khả năng tiếp thu được cái mới, vận dụng có hiệu quả vào sản xuất, mà còn phải biết thường xuyên tự đổi 17
- mới tri thức để không bị lạc hậu bởi sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ. Vì vậy, NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bao gồm những con người lao động phát triển cao về năng lực trí tuệ, đủ sức tiếp thu và làm chủ công nghệ mới, có khả năng làm việc chủ động, linh hoạt và sáng tạo; có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện lao động hiện đại, tiên tiến. Xuất phát từ yêu cầu đó, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất thiết phải nâng cao trình độ học vấn chung cho người lao động. Theo tổng kết của thế giới, trình độ văn hóa tối thiểu người dân phải có là tiểu học đối với nền văn minh nông nghiệp, trung học cơ sở đối với văn minh công nghiệp và trung học hoàn chỉnh (xong giáo dục phổ thông 12 năm) ở nền văn minh thông tin. Bởi vậy, con đường cơ bản nhất để phát huy tiềm năng của nguồn nhân lực là biến dân tộc đó thành một dân tộc có học vấn, học thức cao. Điều đó giải thích vì sao cuộc chạy đua về kinh tế giữa các quốc gia hiện nay chủ yếu là chạy đua về phát triển giáo dục, đào tạo. Dùa trên nền tảng mặt bằng dân trí của xã hội, cần xây dựng và phát triển những nguồn lao động có năng lực cao về trí tuệ. Họ phải có khả năng áp dụng khoa học để sáng chế kỹ thuật, công nghiệp tiên tiến; có khả năng nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại; có kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực, lùa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện, biết quản lý và kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường và phân công lao động quốc tế... Đây là những yêu cầu cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở giai đoạn hiện nay. Cùng với trí tuệ là yếu tè sức khỏe một yêu cầu không thể thiếu được của NNL. Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện chủ yếu để con người chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất hiện thực. Với tư cách là một yếu tố của nguồn nhân lực, sức khỏe phải là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần . Vì vậy, sức khỏe phải bao gồm cả sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe thể chất là sự cường tráng thể chất, phát triển cân đối, hài hòa của các cơ quan cơ thể theo quy luật tạo hóa tự nhiên. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai trong hoạt động thần kinh mà biểu hiện cụ thể của nó thông 18
- qua sức mạnh, lòng tin, khát vọng, ý chí và hoài bão. Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu lao động trí tuệ ngày một cao. Cần phải có những người lao động khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần mới có thể đáp ứng được, có sức mạnh và niềm tin để phát huy tốt nhất NNL. Với ý nghĩa đó, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng NNL, khai thác và phát huy tiềm năng con người. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ở người lao động hàng loạt phẩm chất lao động về nghề nghiệp như: Kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên liệu, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp, tiết kiệm thời gian, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp... Tất cả những vấn đề đó ngày nay được sử dụng trong một chỉ tiêu tổng hợp là yếu tố văn hóa trong lao động. Đây là một yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng NNL nói chung và NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay đang đụng chạm đến các vấn đề thuộc về mối quan hệ giữa con ngườithiên nhiên. Nó đòi hỏi nâng cao trình độ văn hóa và hiểu biết sâu sắc của người lao động về môi trường sinh thái. Đây là vấn đề sống còn không chỉ của mỗi quốc gia, mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường sinh thái cũng là năng lực và phẩm chất cần thiết của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa nhằm phát triển bền vững của đất nước. Một vấn đề quan trọng khác cần xem xét ở NNL là cơ cấu của người lao động, trong đó quan trọng nhất là cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Người lao động phải được đào tạo, phân bổ, sử dụng và phát triển theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả cao nhất trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo mà phân bố không hợp lý giữa các ngành, các vùng và cơ cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì nguồn lao động ấy không những không trở thành nguồn lực để phát triển, mà nhiều khi còn là gánh nặng cản trở sự phát triển. Cuối cùng, khi nói đến NNL của một quốc gia, chóng ta không thể không tính tới yếu tố tinh thần được hình thành và phát triển trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc. Đây là nguồn nội lực vô tận, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy, truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc góp phần hình thành nhân cách và bản lĩnh, ý chí, lòng tự hào, tự trọng dân tộc, lối sống và làm việc của dân tộc đó. 19
- Nếu phát huy tốt nó tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nguồn NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là những công dân yêu nước, cần cù lao động và lao động sáng tạo, có ý chí vươn lên và lòng tự hào dân tộc cao. Để có nguồn nhân lực có chất lượng như vậy, cần chú trọng khơi dậy và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nâng cao nhận thức cho người lao động về đường lối, quan điểm của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một vấn đề quan trọng nhằm làm cho NTCN Việt Nam không chỉ là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn là những công dân bảo vệ thành quả cách mạng trong tình hình mới. Tóm lại, NNL có nội hàm rộng lớn và phong phú, nó không chỉ đơn thuần là nguồn lao động mà còn bao gồm nhiều yếu tố vật chất và tinh thần khác của con người và cộng đồng người. Cho nên trong quá trình khai thác, sử dụng, phát triển NNL cần phải chú ý đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần ở từng con người cũng như cả cộng đồng xã hội. Từ mét số cách tiếp cận trên, dưới dạng khái quát, chúng tôi cho rằng: NNL của một quốc gia (mét vùng lãnh thổ) là tổng thể những tiềm năng lao động của con người có trong một thời điểm nhất định (trong nền kinh tế xã hội thường tính cho 1 năm). Tiềm năng đó bao hàm tổng hòa về thể lực, trí lực, tâm lực (đạo đức, lối sống, nhân cách và tinh thần...) của người lao động của một quốc gia (mét vùng lãnh thổ), đáp ứng một cơ cấu lao động do nền kinh tế xã hội quy định. Nguồn nhân lực là một khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và chất lượng con người với tất cả đặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Với cách hiểu trên, khái niệm NNL bao quát những mặt cơ bản sau: Một là, NNL trước hết là người lao động, là lực lượng lao động, là nguồn lao động. Do vậy, để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đã có và sẽ có thì vấn đề tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động là một yêu cầu của phát triển NNL. Nguồn nhân lực cũng phản ánh qui mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Hai là, NNL là khái niệm phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng; cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế; cơ cấu trình độ lao động; cơ cấu tuổi của lực lượng lao động; cơ cấu lao động 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
0 p | 1947 | 531
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục - Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
195 p | 501 | 221
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
228 p | 627 | 164
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Quản trị nguồn nhân lực ở Tổng công ty Điện lực CHDCND Lào - Lý luận, thực tiễn và giải pháp
0 p | 605 | 113
-
Luận án Tiến sĩ Kinh doanh và quản lý: Phát triển nguồn nhân lực của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
0 p | 301 | 107
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
171 p | 238 | 65
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Quảng Ngãi hiện nay
27 p | 121 | 25
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Nguồn nhân lực để đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
99 p | 43 | 16
-
Luận án Tiến sĩ: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta - đặc điểm và xu hướng phát triển
155 p | 116 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế
220 p | 26 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Quản trị nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực thương mại điện tử tại các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn Hà Nội
240 p | 12 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay
200 p | 9 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Công nghệ sinh học: Nghiên cứu biệt hóa tạo tế bào có chức năng gan từ tế bào gốc trung mô cuống rốn
138 p | 11 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Mối quan hệ giữa thực tiên quản trị nguồn nhân lực thành tích cao và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
228 p | 15 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Quản trị nhân lực: Sinh kế cho người khuyết tật vùng Đồng bằng sông Hồng
184 p | 15 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Mối quan hệ giữa nguồn lực và sự cảm nhận hiệu quả của khách hàng trong ngành công nghiệp dịch vụ logistics
214 p | 10 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay
27 p | 2 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn