intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và xu hướng phát triển

Chia sẻ: Anh Ngoc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:169

134
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và một số vấn đề thực tiễn của nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn nước ta phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và xu hướng phát triển

  1. LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỀ TÀI: Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình   công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta ­   Đặc điểm và xu hướng phát triển 1
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 3 Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN  LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CNH­HĐH Ở NƯỚC TA........................8 1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT  TRIỂN KINH TẾ ­ XàHỘI ...............................................................................................8 1.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ  TRÌNH CNH­HĐH Ở NƯỚC TA......................................................................................33 Chương   2:  THỰC   TRẠNG   PHÁT   TRIỂN   NGUỒN   NHÂN   LỰC   NÔNG   THÔN  NƯỚC TA HIỆN NAY ­ ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN......................51  2.1. THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƯỚC  TA HIỆN NAY.................................................................................................................... 51 2.2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ   TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA.......................................79 Chương 3: NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN   NHÂN LỰC NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA......................................................................93 3.1. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO........................................................94 3.2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ KINH TẾ ­ XàHỘI............................................................103 3.3. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH TRỊ ­ VĂN HÓA....................................................123 KẾT LUẬN......................................................................................................................136 NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐàCÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................................................... 139 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................140  PHỤ LỤC......................................................................................................................... 155 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã bước   vào thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH­HĐH) theo định hướng xã  hội chủ nghĩa (XHCN). CNH, HĐH là xu thế phát triển chung của các nước trên thế giới, khi các nước đó  muốn tiến tới một xã hội hiện đại. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta.   CNH, HĐH không chỉ đơn thuần là công cuộc xây dựng kinh tế, mà còn là quá trình biến   đổi cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để  đảm bảo cho sự  nghiệp  này thành công, Đảng ta đã xác định phải: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm  yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [15, tr. 85]. Đây là quan điểm cơ  bản chỉ  đạo toàn bộ  sự  phát triển của đất nước. Chăm lo   bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người với chất lượng cao là yếu tố  quyết định đối   với sự  phát triển của đất nước. Cho nên, Đảng ta đã xem con người không chỉ  là mục   tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển. Trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội (tài nguyên thiên nhiên, vốn; nguồn  nhân lực; khoa học công nghệ...), thì nguồn nhân lực (NNL) giữ vai trò quyết định. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Tài nguyên thiên   nhiên đa dạng nhưng khó khai thác, thiếu vốn nghiêm trọng, kỹ thuật còn lạc hậu. Trong   bối cảnh đó, nguồn nhân lực càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nó phải trở  thành động  lực thực sự của sự phát triển.  Là một nước kém phát triển về kinh tế, hiện nay  ở nước ta có gần 80% dân số  và hơn 70% lao động nước ta còn sống  ở  nông thôn. Hơn nữa, nguồn nhân lực  ở  nông  3
  4. thôn nước ta lại phân bố không đều, chủ yếu tập trung sản xuất nông nghiệp độc canh,  thuần nông. Chỉ  có hơn 15% nguồn nhân lực  ở  nông thôn hoạt động trong lĩnh vực phi  nông nghiệp. Trong khi đó, dân số  và lao động hàng năm ngày một gia tăng, đất nông  nghiệp ngày một giảm dần... Đất chật, người đông, ngành nghề  và dịch vụ  kém phát   triển đã và đang là một sức Ðp lớn đối với việc giải quyết các vấn đề  xã hội, nảy sinh  mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu lao động, việc làm. Việc giải quyết các mâu thuẫn   đó đang trở thành một vấn đề hết sức bức xúc. Làm thế nào để giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn đó nhằm phát huy, sử  dụng, phát triển được NNL dồi dào ấy phục vụ cho sự nghiệp CNH­HĐH đất nước? Thực tiễn ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua và kinh nghiệm của nhiều   nước trên thế giới đã cho thấy có nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn.   Nhưng lùa chọn giải pháp nào? Phương pháp thực hiện từng giải pháp trong mỗi giai   đoạn phát triển ra sao? Nếu lùa chọn và thực hiện có hiệu quả những giải pháp đúng thì   với nguồn nhân lực dồi dào, phong phú ở nông thôn nước ta, chóng ta không những tạo ra   động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, mà còn giải quyết được những nội dung quan   trọng liên quan tới chính sách xã hội ­ đó là vấn đề  việc làm, nâng cao thu nhập và cải   thiện mức sống nhân dân, góp phần giải quyết những tiêu cực xã hội do tình trạng thất  nghiệp, thiếu việc làm và mức sống thấp gây ra. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề  nguồn nhân lực  ở nông thôn nước ta hiện nay, nhận  diện đúng những đặc điểm và xu hướng phát triển của nó để  tìm ra phương hướng và  những giải pháp hữu hiệu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ  CNH, HĐH đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề  con người và nguồn lực con người đã từng  thu hót sự  quan tâm chú ý của nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, của giới lý luận trong và  nước ngoài. Do vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Nổi  bật nhất là Chương trình khoa học ­ công nghệ  cấp Nhà nước: " Con người Việt Nam ­   mục tiêu và động lực của sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội" mang mã số  KX.07 do GS.TS.  Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm (1991 ­ 1995). Đây là công trình nghiên cứu sâu sắc, khá   toàn diện về yếu tố con người trong quá trình đổi mới và đưa ra được cái nhìn tổng thể,   mang tầm chiến lược về vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Liên   4
  5. quan tới đề tài luận án còn có một số đề tài khoa học cấp Bộ:  "Xây dựng cơ sở lý luận   cho chiến lược phát triển NNL khoa học công nghệ" của Bộ  Khoa học, Công nghệ  và  Môi trường do TS Nguyễn Thị  Thu Anh làm chủ  nhiệm, Hà Nội, 7/1997;  "Lý luận,   phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển NNL đáp   ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước  đến năm 2020"  của Ban Nguồn nhân lực ­ Viện  nghiên cứu chiến lược ­ Bé Kế hoạch và Đầu tư  1/1998 do TS Trần Thị Tuyết Mai làm  chủ nhiệm.  Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhiều tác giả đã đề cập đến vai trò của nhân   tố  con người trong chiến lược phát triển kinh tế  ­ xã hội, tính tích cực xã hội của con   người và con đường nâng cao vai trò nhân tố  con người. Nhìn chung, các tác giả  đã tập  trung nghiên cứu vấn đề  con người và vai trò của nó trong công cuộc đổi mới, trong sự  nghiệp CNH, HĐH đất nước  ở  những góc độ  khác nhau, như: " Bàn về  chiến lược con   người"­ Viện Thông tin khoa học ­ kỹ thuật Trung ương, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990; Đỗ  Mười: "Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu nước   mạnh, xã hội công bằng văn minh", Tạp chí Thông tin lý luận, số  3, 1993; Nguyễn Văn  Sáu: "Phát huy nhân tố con người trong đổi mới kinh tế", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,  1993; Phạm Minh Hạc (chủ biên và tập thể  tác giả): "Nghiên cứu con người, giáo dục,   phát triển và thế kỷ XXI", Hà Nội, 1995; Nguyễn Trọng Chuẩn: "Nguồn nhân lực trong   công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, số 3, 1994; Hoàng Chí Bảo:  "Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con người",  Tạp chí Triết học,  số  1, 1993; Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm: "Phát triển nguồn nhân lực ­ kinh nghiệm thế   giới và thực tiễn nước ta",  Nxb Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 1996; Nguyễn Thế  Nghĩa:  "Nguồn nhân lực­ động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết  học, số 1, 1996; Nguyễn Thị Hằng: "Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm   2010", Tạp chí Cộng sản, số 7, 1999... Thời gian gần đây có một số  luận án tiến sĩ đã bảo vệ  thành công về  đề  tài  nguồn nhân lực, như các luận án của Trần Kim Hải:  "Sử dụng nguồn nhân lực trong quá   trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Hà Nội, 1999; của Nguyễn Thị Tó Oanh:  "Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự  nghiệp CNH, HĐH  ở  Việt Nam hiện nay"  Hà  Nội, 1999; của Hà Quý Tình: "Vai trò của nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân   lực cho CNH,HĐH ở nước ta", Hà Nội, 1999. Các tác giả nêu trên đã nghiên cứu vấn đề  nguồn nhân lực dưới góc độ kinh tế chính trị và CNXH khoa học. 5
  6. Trên nền chung của việc nghiên cứu con người và nguồn nhân lực, đã có nhiều   tác giả  đi sâu nghiên cứu về  nông thôn, nông nghiệp và nguồn lao động  ở  nông thôn từ  những bình diện khác nhau, như công trình của Trương Việt Vò: "Lao động và việc làm   ở  nông thôn"  trong cuốn "Kinh tế  ­ xã hội học nông thôn Việt nam hiện nay",  Nxb Tư  tưởng văn hóa, Hà Nội, 1991; Nguyễn Thị Hằng: "Định hướng và giải pháp chuyển đổi   cơ  cấu lao động nông thôn", Tạp chí Lao động và Xã hội, tháng 9­1993; Hà Quý Tình:   "Nguồn nhân lực nông thôn ­ Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số  10, 1998; Nguyễn Văn Trung: "Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để CNH, HĐH   nông thôn nông nghiệp nước ta", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Chu Tuấn Nhạ:  "Khoa học, công nghệ  phục vụ  sự  nghiệp CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí  Cộng sản, số  2, 1999; Nguyễn Ngọc Tuân: "Nước ta đi con đường nào để  đưa nông   nghiệp truyền thống lên nông nghiệp hiện đại?", Tạp chí Cộng sản, số 14, 1999; Trương   Công Hùng: "Kinh tế trang trại nông nghiệp  ở  nước ta", Tạp chí Cộng sản số  6, 1999;  Trần Đức:  "Mấy vấn đề  xóa đói giảm nghèo  ở  Việt Nam",  Tạp chí Cộng sản, số  15,  1999... Tuy nhiên, những công trình trên mới chỉ  bàn đến hiệu quả  sử  dụng lao động,  nguồn nhân lực trên phạm vi toàn xã hội. Một số tác giả tuy có bàn đến vấn đề sử dụng  NNL nông thôn, chuyển đổi cơ  cấu lao động nông thôn,... nhưng mới chỉ nêu lên những  nét khái quát như một phác thảo chung, chưa đi sâu nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về  những giải pháp nhằm sử dụng nguồn nhân lực to lớn dồi dào ở nông thôn.  Đề tài: "Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại   hóa  ở nước ta ­ Đặc điểm và xu hướng phát triển" là cố gắng bước đầu của tác giả  góp phần vào việc nghiên cứu nguồn lực con người nông thôn Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận án Mục đích của luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và một số vấn đề thực tiễn của nguồn nhân  lực ở nông  thôn nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. Trên cơ sở  đó, đề  xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn nước  ta phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhiệm vụ của luận án + Làm rõ khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực nông thôn trong sự  nghiệp  6
  7. CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. + Nêu lên một bức tranh chân thực về thực trạng của nguồn nhân lực   ở nông thôn  nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. + Đề  xuất một số  giải pháp chủ  yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực   nông thôn trong sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay. Giới hạn nghiên cứu của luận án Luận án không đi sâu nghiên cứu toàn bộ  vấn đề  về  nguồn nhân lực nông thôn   nói chung mà chỉ  tập trung nghiên cứu những  đặc điểm  và  xu hướng phát triển  của  nguồn nhân lực  ở  nông thôn nước ta hiện nay. Từ  đó, dưới góc độ  khoa học triết học,  luận án góp phần đề  xuất những giải pháp nhằm sử  dụng, phát triển nguồn nhân lực  nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ­ Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa  Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam   được thể  hiện trong văn kiện các Đại hội và các Nghị  quyết Trung  ương từ  1986 đến   nay. ­ Luận án được thực hiện bằng việc vận dụng những quan điểm phương pháp   luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó, đặc  biệt chú ý các phương pháp lịch sử và lôgíc, phương nghiên cứu hệ thống, phương pháp   thống kê kinh tế ­ xã hội... 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án ­ Làm rõ được thực trạng của việc sử  dụng, phát triển nguồn nhân lực  ở  nông   thôn nước ta từ năm 1986 đến nay.  ­ Nêu lên được các đặc điểm và xu hướng phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn   nước ta trong thêi kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. ­ Đề  xuất những giải pháp chủ  yếu có tính khả  thi nhằm sử  dụng, phát huy có   hiệu quả  và phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở  nước ta trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ­ Làm sâu sắc, phong phú thêm quan điểm về việc khai thác, sử dụng có hiệu quả  nguồn lực con người ở nông thôn thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào tạo và phát  7
  8. triển nguồn nhân lực hiện nay ở nước ta. Góp phần bổ sung thêm những nhận thức mới   trong việc thực hiện các giải pháp nhằm sử dụng, phát triển vai trò của nguồn nhân lực ở  nông thôn trong phát triển kinh tế ­ xã hội thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta. ­ Kết quả  nghiên cứu luận án có thể  được vận dụng trong chỉ  đạo thực tiễn  ở  các địa phương nhằm phát triển nông thôn mới và thúc đẩy kinh tế  ­ xã hội phát triển.  Kết quả nghiên cứu luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng  dạy các môn khoa học Mác­ Lênin trong các trường đại học, cao đẳng và các trường chính  trị ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án   gồm 3 chương, 7 tiết. 8
  9. Chương 1 NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN  NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP  HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG  PHÁT TRIỂN KINH TẾ ­ XàHỘI  1.1.1. Khái niệm "nguồn nhân lực" và "phát triển nguồn nhân lực" Chủ nghĩa Mác­Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã bàn khá sâu sắc về bản chất   con người, vÒ vai trò của con người, về  vai trò của nhân tố  con người trong quá trình   phát triển xã hội Gần đây, trong quá trình vận động của nền kinh tế ­ xã hội, việc xem xét nhân tố  con người (NTCN) với tư cách là một nguồn lực xã hội của sự phát triển đã dẫn tới sự  hình thành khái niệm mới: Nguồn nhân lực (hay nguồn lực con người).   Qua các công trình nghiên cứu gần đây trên thế  giới và trong nước, chúng tôi  thấy quan niệm về NNL được đề cập tới từ các góc độ sau: ­ Theo lý thuyết phát triển, NNL theo nghĩa rộng là nguồn lực con người (Human  Resources) của một quốc gia, một vùng lãnh thổ  (vùng, tỉnh), nó là một bộ  phận cấu  thành các nguồn lực, có khả năng lao động, quản lý để  tham gia vào quá trình phát triển  kinh   tế   ­   xã   hội   như   nguồn   lực   vật   chất   (Physical   Resources),   nguồn   lực   tài   chính  (Financial Resources). ­ Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, NNL được đề cập đến với tư cách là một  lực lượng sản xuất chủ yếu, sản xuất ra hàng hóa và dịch vô.  Ở  đây, con người được  xem xét từ góc độ là những lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội. Việc cung cấp  đầy đủ  và kịp thời lực lượng lao động (LLLĐ) theo nhu cầu của nền kinh tế là vấn đề  quan trọng nhất đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. ­ Trong lý luận về vốn người, NNL trước hết như một yếu tố của quá trình sản  xuất, một phương tiện để  phát triển kinh tế  ­ xã hội. Ngoài ra, lý luận về  "vốn người"   còn xem xét con người từ quan điểm nhu cầu về  các nguồn lực của phát triển. Đầu tư  cho con người được phân tích tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất, có tÝnh đến  9
  10. tổng hiệu quả của đầu tư này, hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ đầu tư  đó. Cách tiếp cận này được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay [79, tr. 138] Theo cách tiếp cận trên, Ngân hàng thế giới cho rằng:  NNL là toàn bộ vốn người  (thể  lực, trí lực, kỹ  năng nghề  nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở  hữu.  Ở  đây, NNL được coi  như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất  khác, như vốn tiền, vốn công nghệ,  tài nguyên thiên nhiên... Việc đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu  tư  và được coi là cơ  sở  chắc chắn cho sự  phát triển bền vững. Vì vậy  NNL là một   nguồn vốn đặc biệt. Dùa trên cách tiếp cận này, Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm NNL và cho rằng:   NNL là tất cả  những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ  tới sự   phát triển của đất nước. Đây là yếu tố được coi là quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ  tầng xã hội ­ kinh tế. Ở Việt Nam, quan niệm của các nhà khoa học về nguồn nhân lực được thể hiện  trong chương trình khoa học ­ công nghệ  cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam ­ mục  tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế ­ xã hội", mang mã số  KX­O7. Theo đó,  NNL   được hiểu là số  dân và chất lượng con người, bao gồm cả  thể  chất và tinh thần, sức   khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc [19, tr. 328]. ­ Theo hướng tiếp cận khác, NNL được xem xét trong mối quan hệ  với các  nguồn lực khác và nó được xem như nguồn lực cơ bản, quan trọng, làm động lực cho sự  phát triển xã hội: "Thông thường, Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn viết, những nguồn lực   làm cơ sở cho chiến lược phát triển của một nước có thể  là nguồn lực tự  nhiên như  tài  nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các   giai đoạn trước đó, có thể  là nguồn lực  ở  bên ngoài tự  nhiên như  vốn, công nghệ, kinh   nghiệm quản lý, thị trường, cũng có thể là nguồn nhân lực..." và "lịch sử cho thấy đây là  nguồn lực lâu bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia từ trước đến nay... Cho nên   dù có những nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng đủ khả năng khai   thác các nguồn lực đó, đủ trình độ  nắm bắt và làm chủ  kỹ thuật và công nghệ  hiện đại  và hiện đại nhất, nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị  xã hội, tâm lý và dư  luận xã hội thuận lợi cho con người hoạt động thì khó có thể đạt được sự phát triển như  mong muốn" [8, tr. 30­32]. Lại có quan niệm cho rằng: "Nguồn lực con người là sự  kết hợp thể  lực và trí   10
  11. lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát  triển của con người" [4]. Tựu chung lại, các cách tiếp cận trên đây thể hiện hai phương diện xem xét khái   niệm nguồn nhân lực. Một cách tiếp cận những mối liên hệ bên ngoài của nguồn lực con   người; còn một cách tiếp cận với NNL từ mối quan hệ và kết cấu nội tại của nã.  Từ  mét số  cách tiếp cận trên có thể  thấy rằng NNL không chỉ  đơn thuần là lực   lượng lao động  đã có  và  sẽ  có, mà nó là cả  một tập hợp, một đa phức hợp bao gồm   nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc...  Trong buổi gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học ­ công nghệ các tỉnh  thành phố  phía Bắc, Thủ  tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh: "Nguồn lực con người bao   gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống dân tộc ta" [30]. Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng định hướng cho việc nhận thức  và phát huy tiềm năng nhân lực trên đất nước ta. Con người và nhân tố con người được xem xét bởi hai phương diện: cá nhân và  xã hội. Vì vậy, khi xem xét cấu trúc NNL trước hết phải tính đến phương diện cá thể của  NNL, bao gồm: thể lực, trí lực, đạo đức.... (nh ững yếu tố này cấu thành chất lượng cá thể  của NNL và nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phát triển xã hội của NNL, khi xét   trên quy mô xã hội). Mặt khác, khi xem xét NNL cũng phải xem xét mặt xã hội và tính chất xã hội hóa  của nó với tư cách là sức mạnh tổng hợp của lực lượng xã hội, những con người tham   gia vào sự phát triển xã hội ở mọi lĩnh vực của đời sống. Đây chính là biểu hiện năng lực   xã hội (là nhân tố  nội sinh, nhân tố  bên trong của sự  phát triển). Có thể  nói rằng chất  lượng xã hội của NNL là thước đo chủ yếu của những năng lực xã hội xét trong những  điều kiện lịch sử cụ thể. Tính chất xã hội của nó biểu hiện qua: dân số, chất lượng dân   số, chất lượng đời sống dân cư  và chất lượng của lực lượng lao động. Mặt xã hội đó   phản ánh trình độ thực tế của sự phát triển năng lực xã hội, nó cũng cho thấy tiềm năng  của sự phát triển đó.  Khi xem xét cấu trúc của NNL, nhất là NNL  ở  nước ta hiện nay cần phải đặc   biệt chú ý tới mối quan hệ giữa: nguồn lực tiềm tàng và nguồn lực hiện hữu. Do đó,  việc quản lý NNL đòi hái vừa phải đặc biệt quan tâm và chăm sóc đối tượng đang làm  việc trực tiếp, có chiến lược và chính sách đúng đắn nhằm hướng tới chất lượng đang   11
  12. đào tạo, vừa phải có tầm nhìn triển vọng đối với lực lượng đang lớn lên, đang sinh ra và  tiếp tục sinh ra Từ những điều nêu trên có thể thấy, NNL được đề cập đến như một nguồn lực  tổng hợp với các yếu tố  hợp thành: sức lực và trí tuệ, số  lượng cùng với các đặc trưng  về chất lượng (như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ, phong   cách làm việc...), trong đó, con người được xem xét với tư  cách là một nguồn lực chủ  yếu để phát triển kinh tế ­ xã hội, là một yếu tố cơ bản của phát triển sản xuất.  Nếu coi NNL là tiềm năng con người nói chung, những tiềm năng mà con người  có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế ­ xã hội, thì "sử dụng NNL" chính là khơi dậy   và phát huy những tiềm năng đó. Phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình biến đổi   của NNL nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con người. Quá trình sử dụng, phát  triển NNL bao gồm nhiều vấn đề, như  giải quyết việc làm, sử  dụng và phát triển lực  lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ, phát huy tính sáng tạo, yếu tố  tinh thần dân   tộc, tạo ra những kích thích và động cơ  lao động... Trong đó, giải quyết việc làm và sử  dụng lao động chỉ là mét số nội dung của nó mà thôi. Để  khơi dậy và phát huy những tiềm năng con người, việc sử dụng, phát triển   NNL phải được tiến hành đồng bé ­ từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề, chuẩn   bị  cho người lao động bước vào cuộc đời lao động đến vấn đề  tù do lao động và được   hưởng thụ xứng đáng những giá trị mà lao động sáng tạo ra. Nói cách khác, chính sách sử  dụng, phát triển NNL phải được lồng ghép với các vấn đề giáo dục, đào tạo và sử dụng   lực lượng lao động, tạo việc làm và đãi ngộ  thỏa đáng cho con người... Trong đó, giáo   dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL là cơ sở để sử dụng, phát triển có hiệu quả  nguồn nhân lực và để mở rộng, cải thiện môi trường làm việc. Để làm rõ hơn quan điểm về NNL, có thể đi sâu phân tích những  yếu tố cơ bản   nhất của NNL và việc sử dụng, phát triển các yếu tố đó trong quá trình CNH, HĐH đất   nước. Chóng ta biết rằng: Lao động là cơ  sở  để  hình thành và phát triển con người;  người lao động có vai trò to lớn đối với sự  phát triển lịch sử. Do vậy,  NNL trước hết   được biểu hiện ra là nguồn lao động.  Nguồn lao động ở  đây là toàn bộ  những người lao động đang có khả  năng phục  vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. Đó là những người lao động   12
  13. ­ từ  những người lao động trực tiếp đến các nhà quản lý, các nhà khoa học công nghệ,   những người làm công tác văn phòng, dịch vụ, đến lực lượng lao động dự bị... tất cả đều  thuộc về  NNL của một quốc gia. Từ  khía cạnh này, chúng ta có thể  hiểu:  "phát triển   NNL" trước hết là sử  dụng,  phát triển,  phát huy nguồn lao động. Tạo việc làm và sử  dụng có hiệu quả  nguồn lao động đã có và sẽ  có là yêu cầu cơ  bản và chủ  yếu của sử  dụng NNL. Ở nước ta trước đây người ta thường sử dụng khái niệm "các nguồn lao động",  bao gồm toàn bộ  những người trong độ  tuổi qui định có khả  năng lao động để  tính toán   số  lượng "cung nguồn lao động" và coi đó là "cầu việc làm" mà nền kinh tế  phải giải  quyết trong việc lập kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội. Nguồn lao động (với ý nghĩa là  một yếu tố đầu vào của sản xuất ­ xã hội) là một bộ  phận của dân sè, bao gồm những   người lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế  quốc dân và đang tìm việc làm.   Khái niệm này thống nhất với khái niệm "Lực lượng lao động" được qui định trong Bộ  luật lao động năm 1994: "Lực lượng lao động bao gồm những người ít nhất  đủ 15 tuổi,  có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động" (Điều 6). Chúng tôi hiểu: Nguồn lao động là bộ  phận dân cư  của đất nước, có khả  năng   về thể chất và tinh thần có thể được sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động  hiểu theo nghĩa đó, trở thành một yếu tố quan trọng hợp thành tiềm năng phát triển kinh   tế  đất nước và nói lên số  lượng tối đa của dân cư  có khả  năng lao động. Những tiêu  chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động  (nam từ 15­60, nữ từ 15­55) có khả năng lao động (trừ  những người tàn tật, mất sức lao   động loại nặng) và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi và các em từ 13­15  tuổi) thực tế  đang làm việc. Bộ  phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động  bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn  lao động được quy định bởi những chỉ  tiêu về  số  lượng và chất lượng. Những chỉ  tiêu   này luôn luôn thay đổi, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là số  lượng, độ  tuổi, giới tính,  trình độ học vấn, số người đang đi học và đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và  sự phân bố lao động theo lĩnh vực, theo ngành, theo lãnh thổ... Mức độ gia tăng nguồn lao   động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi có khả năng lao động và số dân cư ra   khỏi độ tuổi lao động hoặc nghỉ hưu. Trình độ học vấn, trí tuệ và kỹ năng nghề nghiệp  của người lao động biểu hiện rõ về chất của nguồn lao động.  13
  14. Để  phân biệt người có việc làm với người thất nghiệp và các thành  phần khác  của lao động, chúng ta cần làm rõ khái niệm việc làm và thất nghiệp. Việc làm là một phạm trù tổng hợp chỉ sự liên kết các quá trình kinh tế  ­ xã hội   và nhân khẩu. Đây là một trong những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay trên thế  giới tồn tại nhiều khái niệm về  việc làm.  Ở  các nước khác  nhau, khái niệm này cũng có nội dung khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy hầu hết các tài  liệu đều cho rằng "việc làm" phải là một hoạt động có mang lại thu nhập cho con người   (một số nước qui định mức thu nhập cụ thể). Trước đây ở  Philippin, người ta cho rằng   mức thu nhập tương  ứng khoảng 80% lương tối thiểu trở lên mới được coi là có việc  làm [71]. Khái niệm "việc làm" có liên quan chặt chẽ  với khái niệm "lao động", nhưng   không hoàn toàn giống nhau. Việc làm thể  hiện mối quan hệ của con người với những  chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng  thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính   trong hoạt động của con người. Xét dưới góc độ  lực lượng sản xuất của xã hội, việc   làm thể  hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư  liệu sản xuất, giữa yếu tố  con  người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.  Ở nước ta, Bộ luật lao động ban hành năm 1994 đã xác định: "Mọi hoạt động tạo   ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Như  vậy, để  có   việc làm, không nhất thiết phải vào cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước, mà có thể tìm việc  làm trong mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế, hoặc do chính bản thân người lao   động tự tạo việc làm để có thu nhập...  Để hiểu rõ hơn về các khía cạnh của "việc làm" ­ mét vấn đề bức xúc hiện nay   ở nước ta, cần làm rõ hơn khái niệm "việc làm đầy đủ", "việc làm hợp lý". Việc làm đầy đủ là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm cho  bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế ­ xã hội. Nói một cách khác, "việc làm   đầy đủ" là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm  được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn [22, tr. 23]. Khái niệm "việc làm đầy đủ" mới chỉ chủ yếu nói lên sự cã việc làm về mặt số  lượng. Việc làm hợp lý không những thể hiện nội dung việc làm đầy đủ, mà còn nói lên  việc làm đó phải phù hợp với khả  năng và nguyện vọng của người lao động. Do vậy,  việc làm hợp lý sẽ tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế ­ xã hội cao hơn việc   14
  15. làm đầy đủ. Cho nên, trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ  nhằm toàn dụng lao   động, cần dần dần thực hiện từng bước "việc làm hợp lý". Tuy nhiên, khái niệm "việc  làm đầy đủ" và "việc làm hợp lý" chỉ  mang ý nghĩa tương đối, vì trong nền kinh tế  thị  trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ  và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có   người thất nghiệp [22, tr. 25]. Những nước kinh tế  phát triển có điều kiện mở  rộng và phát triển sản xuất,   nhưng nguồn lao động tăng chậm, dẫn đến thiếu sức lao động. Ngược lại, những nước   chậm phát triển, khả  năng mở  rộng sản xuất có hạn dẫn đến một bộ  phận lao động   muốn làm việc nhưng không có việc làm, chưa có việc làm, đang tìm việc làm, nghĩa là  thất nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều dạng thÊt nghiệp khác nhau, tùy theo các   góc độ tiếp cận. — Nếu căn cứ vào nguồn gốc thất nghiệp, ta thấy có những trường hợp sau:  Thất nghiệp tạm thời: Là thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động tạm   thời không có việc làm vì mét lý do nào đó..  Thất nghiệp cơ cấu: Là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và  cầu của một loại công việc nào đó do sù thay đổi của kỹ thuật  ­ công nghệ hay thay đổi cơ  cấu nghề nghiệp gây ra.  Thất nghiệp chu kỳ: Là thất nghiệp khi tăng, khi giảm theo chu kỳ tăng giảm  của nền sản xuất. — Nếu căn cứ vào mức độ thất nghiệp, thì có các loại:  Thất nghiệp hoàn toàn: Là thất nghiệp của một bộ phận người có khả năng lao  động muốn làm việc, nhưng hoàn toàn không có việc làm trong một thời gian dài.  Thất nghiệp bộ phận (thiếu việc làm): Là thất nghiệp của những người chỉ làm  việc một thời gian, phần thời gian còn lại muốn làm việc, nhưng thiếu việc làm. — Nếu căn cứ vào nhân tố chủ quan của người lao động, thì có  các loại:  Thất nghiệp tự nguyện: Là thất nghiệp của một bộ phận người lao động không   muốn làm việc, do việc làm và mức lương tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của   mình. Khi mức lương tăng lên họ sẽ có nhu cầu việc làm.  Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp của những người lao động muốn  15
  16. làm việc với mức lương hiện hành, nhưng không có việc để làm, do tổng cầu suy giảm   hoặc do sản xuất đình trệ, thua lỗ kéo dài, họ trở nên mất việc làm... Thực tiễn nền kinh tế thế giới cho thấy, trong kinh tế thị trường, thất nghiệp là   một hiện tượng tất yếu khách quan. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp, chứ  không thể ngay một lúc loại bỏ được nó. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy,  ngay cả  trong điều kiện nước có công ăn việc làm đạt mức cao nhất, nền kinh tế phát  triển năng động nhất, vẫn có tới 3%­4% lực lượng lao động bị thất nghiệp [22, tr. 29]. Trên đây đã phân tích và chỉ  rõ: NNL trước hết là người lao động­ đó là những   con người sử  dông  sức lao động của mình  trong quá trình sản xuất, những người lao  động đang có khả năng phục vụ cho xã hội. Xưa nay người ta thường quan niệm nhân tố  "sức lao động" là người lao động. Sức lao động là một yếu tố quan trọng của lực lượng   sản xuất, nó có đặc trưng thể hiện khả năng phát triển không ngừng của lực lượng sản   xuất xã hội, có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển xã hội.  Sức lao động là năng lực của người lao động, bao gồm toàn bộ những năng lực  thể  chất và tinh thần tồn tại trong cơ  thể  một con người đang sống và được người đó  đem ra vận dụng để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.  Sức lao động như  là hàng hóa, các nhà kinh điển của chủ  nghĩa Mác cho rằng  sức lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất và trở  thành hàng hóa trong điều kiện  nhất định. Là một loại hàng hóa đặc biệt ­ người lao động với tư cách là một thực thể tự  nhiên, đồng thời là một thực thể xã hội; có ý thức, có lý tính, có quan hệ, có nhu cầu và   khả năng sáng tạo. Là một hàng hóa, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử  dụng. Như  những loại hàng hóa khác, sức lao động cũng bao gồm đủ  loại chất lượng  theo những trình độ khác nhau ­ từ lao động giản đơn đến lao động phức tạp, từ lao động   chân tay đến lao động trí tuệ; chúng cũng được lưu thông trên thị  trường sức lao động ­   một thị trường của các yếu tố sản xuất.  Thị trường lao động có thể được hiểu là nơi diễn ra quá trình tác động lẫn nhau  giữa người mua và người bán sức lao động nhằm xác định giá cả, số lượng hàng hóa đặc   biệt này. Sự vận động của thị  trường lao động tuân theo cơ  chế  thị  trường và ba nhân tố  cơ bản chi phối chúng là cung, cầu và giá cả. Chúng hoạt động theo quy luật vốn có của   thị trường là qui luật giá trị, qui luật cung ­ cầu và qui luật cạnh tranh. 16
  17.  Trên đây chúng ta đã phân tích các khía cạnh khác nhau có liên quan trực tiếp đến  nguồn lao động như là một yếu tố cơ bản của NNL. Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội, con người chẳng những   sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc. Trình độ của nền sản   xuất càng cao, tiến bộ công nghệ đưa vào sản xuất càng nhiều thì lao động trí óc của con  người trong sản xuất càng tăng lên. Vấn đề  này đã được Mác nhiều lần đề  cập đến.   Chẳng hạn, khi phân tích  ảnh hưởng của tri thức khoa học­sản phẩm của lao động trí  tuệ  ­ đối với sản xuất  ở  thời đại mình, Mác viết: Cùng với sự  phát triển của đại công  nghiệp, việc sản xuất ra của cải hiện thực ngày càng trở nên Ýt phụ thuộc hơn vào thời   gian lao động, lực lượng lao động phải bỏ  ra so với các tác nhân hoạt động trong quá   trình lao động ngày càng nhiều.  Vai trò của lao động trí tuệ  còn được Mác thể  hiện trong dự báo khoa học: đến  một trình độ nào đó, khoa học sẽ biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Quá trình khoa   học trở thành lực lượng sản xuất đang diễn ra dưới tác động của cách mạng khoa học ­   công nghệ hiện nay đã khẳng định sự chính xác của dự báo này. Chúng ta biết rằng, ngày  nay khoa học đang "thấm sâu" vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất, và trở  thành nhân  tố quyết định của sự phát triển. Như  vậy, có thể  khẳng định rằng,  trí tuệ  là yếu tố  có vai trò quan trọng hàng  đầu của NNL. Với ý nghĩa Êy, khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ của người lao động  trở thành yêu cầu quan trọng nhất của sử dụng, phát triển NNL. Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu rằng trí tuệ  với tư cách là một yếu tố của NNL  tự nó không làm ra của cải vật chất, cũng không phải là những kiến thức trong sách vở,   trong ngân hàng dữ liệu, hay trong chương trình phần mềm máy vi tính. Tri thức chỉ trở  thành nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và sử dụng. Nói theo cách của   C.Mác, nó phải tồn tại trong con người đang sống, đang hoạt động, trong nhân cách sinh   động của con người. Nói cách khác, chỉ  những kiến thức nằm trong con người, tồn tại   trong vỏ não con người, được tạo ra, sửa đổi và luôn thực hiện bởi con người, được con  người sử dụng trong hoạt động và truyền đạt lại mới được xem là thành phần (hay giá   trị) của NNL. Cuộc cách mạng khoa học­công nghệ hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao  về trí tuệ của NNL ­ những người lao động. Họ  không những phải có khả  năng tiếp thu  được cái mới, vận dụng có hiệu quả vào sản xuất, mà còn phải biết thường xuyên tự đổi  17
  18. mới tri thức để không bị lạc hậu bởi sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học­ công nghệ. Vì vậy, NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bao gồm  những con người lao động phát triển cao về năng lực trí tuệ, đủ sức tiếp thu và làm chủ  công nghệ  mới, có khả  năng làm việc chủ  động, linh hoạt và sáng tạo; có khả  năng sử  dụng các công cụ, phương tiện lao động hiện đại, tiên tiến. Xuất phát từ yêu cầu đó, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất thiết   phải nâng cao trình độ  học vấn chung cho người lao động. Theo tổng kết của thế giới,   trình độ  văn hóa tối thiểu người dân phải có là tiểu học đối với nền văn minh nông   nghiệp, trung học cơ  sở  đối với văn minh công nghiệp và trung học hoàn chỉnh (xong  giáo dục phổ thông 12 năm) ở nền văn minh thông tin.  Bởi vậy, con đường cơ  bản nhất để  phát huy tiềm năng của nguồn nhân lực là  biến dân tộc đó thành một dân tộc có học vấn, học thức cao. Điều đó giải thích vì sao   cuộc chạy đua về kinh tế giữa các quốc gia hiện nay chủ yếu là chạy đua về phát triển  giáo dục, đào tạo. Dùa trên nền tảng mặt bằng dân trí của xã hội, cần xây dựng và phát triển những  nguồn lao động có năng lực cao về  trí tuệ. Họ  phải có khả  năng áp dụng khoa học để  sáng chế kỹ thuật, công nghiệp tiên tiến; có khả năng nhạy bén, thích nghi nhanh và làm   chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại; có kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực, lùa chọn   giải pháp và tổ  chức thực hiện, biết quản lý và kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế  hàng hóa, cơ  chế  thị  trường và phân công lao động quốc tế... Đây là những yêu cầu cơ  bản về  chất lượng nguồn nhân lực cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa  ở  giai   đoạn hiện nay. Cùng với trí tuệ  là yếu tè  sức khỏe ­  một yêu cầu không thể  thiếu được của  NNL. Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để  duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện  chủ  yếu để  con người chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành   sức mạnh vật chất hiện thực. Với tư  cách là một yếu tố  của nguồn nhân lực, sức khỏe phải là sự  phát triển   hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần . Vì vậy, sức khỏe phải bao gồm cả  sức khỏe cơ  thể  và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe thể  chất là sự  cường tráng thể  chất,  phát triển cân đối, hài hòa của các cơ  quan cơ  thể  theo quy luật tạo hóa tự  nhiên. Sức  khỏe tinh thần là sự dẻo dai trong hoạt động thần kinh mà biểu hiện cụ thể của nó thông  18
  19. qua sức mạnh, lòng tin, khát vọng, ý chí và hoài bão. Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu lao động   trí tuệ ngày một cao. Cần phải có những người lao động khỏe mạnh cả về thể chất lẫn   tinh thần mới có thể đáp ứng được, có sức mạnh và niềm tin để phát huy tốt nhất NNL.   Với ý nghĩa đó, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao  chất lượng NNL, khai thác và phát huy tiềm năng con người.  Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi  ở  người lao động hàng loạt  phẩm chất lao động về nghề nghiệp như: Kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên liệu, lương   tâm và trách nhiệm nghề  nghiệp, tiết kiệm thời gian, có tinh thần hợp tác và tác phong  lao động công nghiệp... Tất cả  những vấn đề  đó ngày nay được sử  dụng trong một chỉ  tiêu tổng hợp là yếu tố văn hóa trong lao động. Đây là một yếu tố quan trọng để  đánh  giá chất lượng NNL nói chung và NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói   riêng. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay đang đụng chạm đến các vấn đề  thuộc về mối quan hệ giữa con người­thiên nhiên. Nó đòi hỏi nâng cao trình độ  văn hóa   và hiểu biết sâu sắc của người lao động về môi trường sinh thái. Đây là vấn đề sống còn   không chỉ  của mỗi quốc gia, mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Vì vậy, sự  hiểu   biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường sinh thái cũng là năng lực và phẩm chất  cần thiết của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa nhằm phát triển bền vững   của đất nước. Một vấn đề quan trọng khác cần xem xét ở NNL là cơ cấu của người lao động,  trong đó quan trọng nhất là cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Người lao động phải  được đào tạo, phân bổ, sử dụng và phát triển theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả  cao nhất trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo mà phân bố không  hợp lý giữa các ngành, các vùng và cơ  cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng  thì nguồn lao động  ấy không những không trở  thành nguồn lực để  phát triển, mà nhiều   khi còn là gánh nặng cản trở sự phát triển. Cuối cùng, khi nói đến NNL của một quốc gia, chóng ta không thể không tính tới  yếu tố tinh thần được hình thành và phát triển trên cơ  sở  truyền thống văn hóa dân tộc.  Đây là nguồn nội lực vô tận, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự  tồn tại và phát   triển. Thực tế cho thấy, truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc góp phần hình thành nhân   cách và bản lĩnh, ý chí, lòng tự hào, tự trọng dân tộc, lối sống và làm việc của dân tộc đó.  19
  20. Nếu phát huy tốt nó tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Vì vậy, nguồn NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa  ở  nước ta là  những công dân yêu nước, cần cù lao động và lao động sáng tạo, có ý chí vươn lên và   lòng tự  hào dân tộc cao. Để  có nguồn nhân lực có chất lượng như  vậy, cần chú trọng  khơi dậy và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nâng cao nhận   thức cho người lao động về  đường lối, quan điểm của Đảng trong thời kỳ  đẩy mạnh  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một vấn đề  quan trọng nhằm làm cho  NTCN Việt Nam không chỉ  là chủ  thể  của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà  còn là những công dân bảo vệ thành quả cách mạng trong tình hình mới. Tóm lại, NNL có nội hàm rộng lớn và phong phú, nó không chỉ  đơn thuần là   nguồn lao động mà còn bao gồm nhiều yếu tố vật chất và tinh thần khác của con người   và cộng đồng người. Cho nên trong quá trình khai thác, sử dụng, phát triển NNL cần phải   chú ý đầy đủ  những yếu tố  vật chất và tinh thần  ở  từng con người cũng như  cả  cộng  đồng xã hội. Từ mét số cách tiếp cận trên, dưới dạng khái quát, chúng tôi cho rằng: NNL của   một quốc gia (mét vùng lãnh thổ) là tổng thể những tiềm năng lao động của con người   có trong một thời điểm nhất định  (trong nền kinh tế  ­ xã hội thường tính cho 1 năm).  Tiềm năng đó bao hàm tổng hòa về thể lực, trí lực, tâm lực (đạo đức, lối sống, nhân cách  và tinh thần...) của người lao động của một quốc gia (mét vùng lãnh thổ), đáp ứng một   cơ cấu lao động do nền kinh tế ­ xã hội quy định.  Nguồn nhân lực là một khái niệm chỉ  số dân, cơ  cấu dân số và chất lượng con người với tất cả đặc điểm, tiềm năng và sức  mạnh của nó trong quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội. Với cách hiểu trên, khái niệm NNL bao quát những mặt cơ bản sau: Một là,  NNL trước hết là người lao động, là lực lượng lao động, là nguồn lao  động. Do vậy, để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đã có và sẽ  có thì vấn  đề tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động là một yêu cầu của phát triển NNL.   Nguồn nhân lực cũng phản ánh qui mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng   dân số của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Hai là, NNL là khái niệm phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động   trong các ngành, các vùng; cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực   kinh tế; cơ cấu trình độ  lao động; cơ cấu tuổi của lực lượng lao động; cơ  cấu lao động  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0