Luận án Tiến sĩ: Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
lượt xem 12
download
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của họ, đáp ứng yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ được giao. Đánh giá thực trạng và luận giải một số vấn đề đặt ra cần giải quyết trong phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Đỗ Ngọc Hanh
- MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 9 Chương 1 THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 28 1.1 Thực chất phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam 28 1.2 Đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam 51 Chương 2 THỰC TRẠNG, NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 68 2.1 Thực trạng phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 68 2.2 Những yếu tố tác động và vấn đề đặt ra đối với phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 90 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 111 3.1 Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên 111 3.2 Xây dựng môi trường văn hóa quân sự, tổ chức tốt các hoạt động thực tiễn nhằm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên 125 3.3 Tích cực hóa vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ chính trị viên trong tự học tập, tự rèn luyện, tu dưỡng nhằm phát triển tư duy lý luận 142 KẾT LUẬN 152 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 PHỤ LỤC 169
- 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài “Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của tập thể các nhà khoa học, tư vấn của các chuyên gia trong và ngoài quân đội. Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay là một vấn đề lớn và khó. Để thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ, về bản chất, vai trò của tư duy lý luận; dựa trên kết quả điều tra, khảo sát thực tế ở một số đơn vị chủ lực; đồng thời, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan. Nội dung của luận án thể hiện qua 3 chương. Chương thứ nhất, tác giả trình bày thực chất và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên. Chương thứ hai, khảo sát, đánh giá thực trạng, phân tích, làm rõ những yếu tố tác động và vấn đề đặt ra đối với việc phát triển tư duy lý luận của đội ngũ này. Từ kết quả nghiên cứu của chương 1, chương 2; trong chương 3, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Tư duy lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển phẩm chất, nhân cách và quyết định hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người. Khẳng định giá trị và ý nghĩa to lớn của tư duy lý luận, Ph.Ăngghen cho rằng: “…Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [1, tr. 489].
- 6 Nghị quyết số 769NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2013 2020 và những năm tiếp theo” khẳng định, để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, bên cạnh yêu cầu về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, mỗi cán bộ phải có trình độ tư duy lý luận, phương pháp, tác phong công tác tốt, năng lực hoạt động thực tiễn, tự lực, chủ động, sáng tạo và hiệu quả; có khả năng xử lý những vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn. Đội ngũ chính trị viên là những người chủ trì về chính trị, trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị ở phân đội; giữ vai trò chủ chốt trong lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi đội ngũ chính trị viên không những phải kiên định, vững vàng, nhạy bén về chính trị, mà còn phải có tư duy lý luận khoa học, phát hiện nhanh những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, đưa ra quyết định kịp thời, chính xác, định hướng mọi hoạt động của đơn vị đạt chất lượng, hiệu quả cao. Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng quân đội, nhất là kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị đã chỉ ra rằng, tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên đã có bước phát triển, đội ngũ này ngày càng tiến bộ, trưởng thành. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới thì tư duy lý luận của một bộ phận chính trị viên còn có những hạn chế, bất cập, cần khắc phục. Đó là sự thiếu hụt về hệ thống tri thức khoa học; sự vận dụng lý luận vào thực tiễn và ứng xử chưa hiệu quả trước những tình huống phức tạp về chính trị, quân sự, chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của người chủ trì về chính trị ở phân đội. Ở
- 7 một số đơn vị, việc bồi dưỡng, phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên chưa được coi trọng đúng mức. Nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, chỉ huy về sự cần thiết phải phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Nội dung, hình thức, phương pháp, biện pháp phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên chưa phù hợp; ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ hiện nay. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống việc“Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn thiết thực, vừa cấp bách vừa cơ bản, lâu dài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của họ, đáp ứng yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ được giao. * Nhiệm vụ: Làm rõ quan niệm và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá thực trạng và luận giải một số vấn đề đặt ra cần giải quyết trong phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- 8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Quá trình phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam đang công tác ở một số đơn vị chủ lực, trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở khu vực phía Bắc; thời gian sử dụng tài liệu, tư liệu phục vụ công tác nghiên cứu có liên quan đến luận án chủ yếu từ năm 2009 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ, về vai trò của tư duy lý luận trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Luận án sử dụng các tài liệu, số liệu điều tra, khảo sát qua tổng hợp, thống kê, báo cáo tổng kết hằng năm của một số cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, hệ thống và cấu trúc, lôgíc và lịch sử, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học… 6. Những đóng góp mới của luận án Góp phần làm rõ quan niệm và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam. Đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- 9 Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các học viện, nhà trường và các đơn vị trong toàn quân. 8. Kết cấu của đề tài luận án Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh m ục công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Nhóm công trình nghiên cứu về tư duy lý luận và phát triển tư duy lý luận của người cán bộ 1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về tư duy lý luận Trong công trình “Tư duy hoàn hảo và tự học cách tư duy” của Edward De Bono [33], tác giả cho rằng, tư duy có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết, nhưng điều đó là chưa đủ. Chúng ta chú ý nhiều đến quá trình tư duy, tuy nhiên lại ít chú ý đến nguồn gốc của các yếu tố cấu thành và nó được lựa chọn như thế nào. Tác giả cho rằng, các thành phần của quá trình tư duy được hình thành từ nhận thức. Khi chúng ta quan sát thế giới thì phương pháp tư duy truyền thống thường thiếu tính xây dựng, ít sáng tạo, chỉ miêu tả và phân tích. Để tìm ra chân lý, việc suy đoán giữ một vai trò quan trọng trong tư
- 10 duy. Edward De Bono kết lu ận: ph ương pháp tư duy truyền thống mặc dù rất tốt nhưng chưa đầy đủ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng, phương pháp tư duy truyền thống còn có giá trị và chỗ đứng nhất định. Do đó, để giúp con người tự học cách tư duy và có một tư duy hoàn hảo, ông đi sâu nghiên cứu và đưa ra năm phương pháp tư duy để mỗi người tự trả lời, giúp họ hoàn thiện phương pháp tư duy: thứ nhất, tôi muốn đi đâu; thứ hai, bước thông tin; thứ ba, các khả năng gì; thứ tư, kết quả là gì; thứ năm, thực hiện phương pháp. Tác giả Lý Tiểu Quân và Vương Vĩnh Bình trong công trình “Tư duy triết học về nghiên cứu lý luận quân sự” [97] khẳng định, trong lĩnh vực quân sự, tư duy lý luận có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Theo đó, nắm vững lý luận là một trong những nguyên tắc cần chú trọng của những người chỉ đạo chiến tranh. Trong thực tế, tư duy lý luận quân sự không ngừng phát triển, vì khoa học quân sự phát triển không ngừng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, trong hệ thống tri thức khoa học quân sự, triết học, đặc biệt là triết học mácxít phương pháp luận duy vật biện chứng có ý nghĩa rất quan trọng. Theo các tác giả, nghiên cứu lý luận quân sự là một trong những lĩnh vực rất phức tạp, nếu nghiên cứu chỉ giới hạn ở tư duy lôgíc trạng thái tĩnh thì hoàn toàn không đủ mà cần phải hướng vào những nội dung cụ thể đang vận động, thay đổi của chiến tranh. Trong nghiên cứu đòi hỏi phải nắm vững quá trình, quy trình triển khai công trình, từ đó khẳng định lập trường, quan điểm và phương pháp quan sát, phân tích vấn đề quân sự của tiền nhân và lấy đó làm cơ sở để nâng cao chất lượng nghiên cứu của mình. Do đó, cần kết hợp sự phát triển cách mạng quân sự thế giới với thực tiễn xây dựng quân đội, tạo ra lý luận mới phù hợp với thực tiễn, yêu cầu đó đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu khoa học . Vì phương pháp
- 11 khoa học là công cụ và phương tiện của tư duy lý luận. Các tác giả khẳng định, lối thoát có tính khoa học và đem lại hiệu quả trong nghiên cứu lý luận quân sự là phải nhằm thẳng vào sự khác nhau của đối tượng nghiên cứu và mục đích nhận thức, sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học, bao gồm phương pháp triết học mácxít, kết hợp cả vĩ mô với cụ thể, định tính với định lượng, kết hợp sự phát triển của lý luận quân sự với sự vận động, biến hoá của chiến tranh; từ đó chỉ đạo chiến tranh một cách khoa học. Nghiên cứu về tư duy lý luận trong công trình “Tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới công tác giáo dục quốc phòng trong tình hình hiện nay” [16], tác giả Nguyễn Bá Dương cho rằng: Sự phát triển tư duy lý luận về quốc phòng của dân tộc ta dựa chắc trên nền tảng lý luận thực tiễn và là kết quả đúc kết kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh giữ nước. Đồng thời, tác giả quan niệm, “chính sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, dựng nước và giữ nước đã nâng tầm tư duy lý luận của dân tộc ta, hình thành và phát triển tư duy lý luận về quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc để định hướng chính trị, quân sự” [16, tr. 23]. Thông qua nhiều lần tổng kết lịch sử xây dựng, củng cố quốc phòng, đấu tranh dựng nước và giữ nước đã giúp cha ông ta đúc kết, khái quát thành những quan niệm, khái niệm, phạm trù tư duy lý luận và chắt lọc, thu nhận cái tiến bộ, hạt nhân tinh túy từ di sản lý luận của nhân loại nhằm phát triển tư duy lý luận quân sự Việt Nam. Theo tác giả Nguyễn Bá Dương, tư duy dựa vào dân, đoàn kết toàn dân, đoàn kết nội bộ giai cấp thống trị để tạo ra sức mạnh tổng hợp chống quân xâm lược, cứu nước, cứu nhà đã trở thành vấn đề trung tâm trong suy nghĩ của mọi người dân, mọi thời đại... Từ đó, tác giả kết luận: “Tư duy lý luận quân sự, quốc phòng của dân tộc ta phát triển và đã trả lời được các vấn đề
- 12 cấp bách do thời cuộc đặt ra, những đòi hỏi thường xuyên của đất nước là bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước, bảo vệ nòi giống và Tổ quốc Việt Nam” [16, tr. 24]. Quan niệm về tư duy lý luận, trong công trình “Phát triển năng lực tư duy lý luận của chính uỷ trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, tác giả Nguyễn Văn Dũng cho rằng: “Tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các phương tiện là khái niệm, phạm trù, quy luật, hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan; từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người ngày càng có kết quả cao hơn” [13, tr. 23]. Tư duy lý luận được bàn luận ở đây là tư duy biện chứng duy vật, có tính khái quát và trừu tượng cao, tư duy bằng khái niệm, phạm trù, quy luật; là công cụ nhận thức sắc bén, giúp con người nhận thức đúng bản chất sự vật, hiện tượng và hoạt động thực tiễn đạt chất lượng, hiệu quả cao. Tác giả cho rằng, tư duy lý luận có hai mặt: nội dung tư duy và phương pháp tư duy gắn chặt với nhau. Nội dung tư duy bao gồm hệ thống tri thức tồn tại dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật về những đối tượng xác định. Phương pháp tư duy là cách thức vận hành hay lôgíc của các khái niệm đó. Sức sống bền vững của tư duy lý luận không chỉ ở chỗ xác lập những khái niệm, quan điểm mới mà trước hết và chủ yếu là ở sự chuyển biến của phương pháp tư duy, từ chỗ chưa khoa học đến khoa học. Theo đó, phương pháp tư duy trở thành một bộ phận, một yếu tố không thể thiếu của tư duy lý luận. Tác giả Nguyễn Đình Trãi cho rằng: “Tư duy lý luận là quá trình phản ánh hiện thực một cách gián tiếp mà ở đó chủ thể tư duy sử dụng ngôn ngữ và các hình thức tư duy để phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu cảm tính nhằm phản ánh các thuộc tính, các mối liên hệ có tính bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng” [124, tr. 23]. Về thực chất, tác
- 13 giả luận giải, tư duy lý luận là hoạt động trí tuệ của con người theo các quy luật của nhận thức để nắm được những thuộc tính và mối liên hệ cơ bản của sự vật, hiện tượng, ngày càng hiểu sâu hơn bản chất của sự vật, hiện tượng, thấy được những mâu thuẫn và chiều hướng phát triển khách quan của chúng. Do vậy, tư duy lý luận là trình độ phát triển cao của năng lực tư duy con người. Theo tác giả, tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản là: tư duy lôgíc khoa học và sáng tạo; tư duy về phương pháp và phương pháp luận; có hai mặt gắn liền với nhau là nội dung tư duy và phương pháp tư duy; gắn liền với khả năng phê phán và tự phê phán…Với tư cách là một công cụ nhận thức khoa học, tư duy lý luận có khả năng khám phá, tìm ra bản chất sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới khách quan; nó có thể vạch ra tính quy luật còn ẩn giấu đằng sau các sự vật, hiện tượng để nắm bắt và vận dụng theo nhu cầu của con người. Tác giả kết luận: “Thực tế chứng tỏ rằng, tư duy lý luận ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các khoa học cũng như thực tiễn xã hội” [124, tr. 25]. Nghiên cứu tư duy lý luận, tác giả Nguyễn Đức Quyền quan niệm: “Tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật; vì thế, nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng khách quan” [102, tr. 22]. T ư duy lý luận xét về bản chất, là quá trình sáng tạo lại hiện thực khách quan dưới dạng tinh thần, theo con đường trừu tượng hóa, khái quát hóa, đi sâu vào nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, quy luật của sự vật, hiện t ượng. Theo tác giả, tư duy lý luận có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, tư duy lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong sự
- 14 phát triển của khoa học cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Theo tác giả, tư duy lý luận có sự khác biệt với tư duy kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm hướng vào mô tả các yếu tố, mối liên hệ bên ngoài, còn tư duy lý luận hướng vào phân tích, tổng hợp, khái quát, tìm ra mối liên hệ bên trong, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy lý luận là tư duy biện chứng duy vật; trong đó, phương pháp tư duy biện chứng duy vật nh ư là điều kiện không thể thiếu để hình thành tư duy lý luận. Ở đó, chủ thể tư duy lý luận sử dụng nó như một phương pháp để phát hiện mâu thuẫn và những tình huống cần giải quyết. Phương pháp này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tổng kết thực tiễn, khái quát kinh nghiệm thành lý luận mới. Tiếp cận năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận, tác giả Trần Văn Phòng cho rằng, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ (chẳng hạn như sự thông minh, khả năng suy luận, phán đoán, phân tích, năng khiếu nhạy cảm, v.v.) của con ng ười nh ằm đáp ứng yêu cầu nhận thức đúng đắn bản chất thế giới tự nhiên, xã hội, con người, bảo đảm cho hoạt động thực tiễn và hoạt động sáng tạo của con người phù hợp với quy luật, đạt hiệu quả [92]. Theo tác giả, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ để thoả mãn nhu cầu nhận thức thế giới, xã hội, con người của chủ thể. Sự nhận thức đó đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn, nhờ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật nhận thức. Tác giả Bùi Thanh Quất cho rằng: “tư duy lý luận là hệ tri thức hệ tri thức này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt lôgíc, tạo thành quan niệm hoàn chỉnh phản ánh bản chất, các quy luật hoạt động và phát triển của
- 15 khách thể nghiên cứu đang hoạt động sản sinh ra tri thức mới, có khả năng chỉ đạo hoạt động thực tiễn” [98, tr. 47]. Theo tác giả, tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản: thứ nhất là tính khoa học; thứ hai tính sáng tạo; thứ ba biết sử dụng tự giác bộ công cụ của lý tính, như khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý, các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng các phương pháp, biện pháp cụ thể dựa trên các căn cứ khoa học; thứ tư gắn liền với thực tiễn, ch ỉ đạo hoạt động thực tiễn. Tác giả kết luận: Người có tư duy lý luận khoa học là người có ý thức rèn luyện thường xuyên những phương pháp tư duy khoa học, có tính độc lập, sáng tạo trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu; trên cơ sở đó đưa ra quan niệm về tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam theo cách tiếp cận và luận giải của mình. 1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển tư duy lý luận của người cán bộ Nghiên cứu về tầm quan trọng của phát triển tư duy lý luận đối với người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, tác giả Phạm Văn Nhuận phân tích: “Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới, phát triển tư duy lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới, phát triển tư duy lý luận là mệnh lệnh của cuộc sống” [84]. Để phát triển tư duy lý luận, tác giả cho rằng: Đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; kịp thời
- 16 khắc phục mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Sự phát triển của tư duy lý luận không tách rời cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng; đồng thời, chống mọi biểu hiện giáo điều, máy móc, ngại thay đổi, không dám chịu trách nhiệm, thiếu dũng khí trong luận chiến, làm triệt tiêu động lực trong nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận khoa học. Nghiên cứu làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn và đề xuất các giải pháp đấu tranh, góp phần làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận có đủ phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, được đào tạo cơ bản, có tài năng, tâm huyết với nghề nghiệp, có vốn sống phong phú, đủ năng lực nghiên cứu, tham mưu, tư vấn, tham gia tổng kết thực tiễn, phát triển tư duy lý luận, kịp thời giải đáp những vấn đề lý luận, thực tiễn mà cuộc sống đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Trong bài viết, “Muốn phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận cần đánh giá đúng tinh hoa tinh thần của các thời đại trước” [110], tác giả Đinh Ngọc Thạch đã phân tích đặc điểm tư duy, lối sống của con người Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử, thời đại tư tưởng của Ph.Ăngghen và cho rằng, tư duy lý luận chỉ là một đặc điểm bẩm sinh dưới dạng năng lực người mà có. Năng lực ấy cần được phát triển, hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho đến nay, không có cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước. Tác giả còn chỉ rõ, tư tưởng Hồ Chí Minh là điển hình về học tập, kế thừa tinh hoa di sản t ư t ưởng văn
- 17 hóa nhân loại mà các thế hệ người Việt Nam cần trân trọng và phát huy: 1. Chúa Giêsu: Đạo đức là bác ái; 2. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi; 3. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa. Tiếp cận tư duy lý luận từ thực tiễn công tác của đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở Học viện Chính trị, các tác giả của công trình “Tích cực hóa tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở Học viện Chính trị hiện nay” [142], cho rằng: Tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở Học viện Chính trị là loại hình tư duy lý luận, phản ánh có hệ thống tri thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, phục vụ cho hoạt động giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xây dựng Học viện ngang tầm nhiệm vụ. Tích cực hóa tư duy khoa học là tổng thể các hoạt động tự giác, chủ động, sáng tạo của các chủ thể liên quan tới quá trình nhận thức lý tính, tư duy khoa học có định hướng, mục đích rõ ràng, chương trình, kế hoạch, tổ chức chặt chẽ, khơi dậy những tiềm năng, phẩm chất, năng lực, tạo ra những bước chuyển biến căn bản về nội dung tri thức và phương pháp tư duy khoa học của người nghiên cứu nhằm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Có thể nói, điểm tương đồng của các công trình trên đây là các tác giả đã phân tích, luận giải, đánh giá một cách đúng đắn về vị trí, vai trò của tư duy lý luận đối với sự phát triển của đất nước, xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân. Hiện nay, thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang có những chuyển biến mạnh mẽ với những yêu cầu, nội dung mới thì vai trò của việc phát triển tư duy lý luận, trong đó có phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng. 2. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ chính trị viên và phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam
- 18 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ chính trị viên Nghiên cứu về phẩm chất, năng lực, vị trí, vai trò của chính trị viên, tác giả Phạm Đình Nhịn quan niệm: “Chính trị viên phải có phẩm chất và năng lực toàn diện, cả đức và tài, nhưng trước hết phải có phẩm chất tinh thần, đạo đức của người đảng viên cộng sản ưu tú, đặc biệt là sự kiên định, lòng trung thành, ý chí, trách nhiệm và năng lực hiểu thấu đáo công việc, năng lực thực hiện nhiệm vụ với hiệu suất, chất lượng cao” [83, tr. 44]. Người chính trị viên phải có “đức”, có “tài” mới hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được phân công. Do đó, chính trị viên cần chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động vững vàng, bảo đảm chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ. Chính trị viên giữ vững vai trò lãnh đạo không phải bằng uy quyền, mà bằng uy tín, sự thuyết phục, kinh nghiệm phong phú, kiến thức về nhiều mặt và bằng tài năng của mình. Theo đó, chính trị viên vừa phải có tư duy lý luận phát triển vừa phải có khả năng tổ chức hoạt động thực tiễn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tác giả luận giải: “chính trị viên phải tích cực học tập một cách toàn diện cả chính trị, quân sự, văn hoá, khoa học kỹ thuật…, phải rèn luyện cả ý chí quyết tâm, bản lĩnh chiến đấu, cả thể lực, sức khoẻ và các phẩm chất tâm lý cần thiết; phải học tập, rèn luyện ở mọi lúc, mọi nơi, học trong sách vở, trong thực tiễn và học ở quần chúng, học lẫn nhau để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thực sự xứng đáng là “linh hồn”, là “đại biểu của Đảng” trong đơn vị” [83, tr. 46]. Khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ quan trọng của chính ủy, chính trị viên, tác giả Phan Trọng Hào viết: “Chính ủy, chính trị viên là những đảng viên, cán bộ được Đảng, Nhà nước và Quân đội lực chọn, đào tạo, bồi dưỡng, để đảm nhiệm nhiệm vụ chủ trì về chính trị và trực tiếp tổ
- 19 chức thực hiện hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị quân đội. Do chức năng, nhiệm vụ của chính ủy, chính trị viên nên phong cách làm việc của họ là phong cách công tác của cán bộ lãnh đạo, người chủ trì về chính trị trong các đơn vị quân đội” [36, tr. 42]. Theo tác giả, phong cách làm việc của chính ủy, chính trị viên trong quân đội được hình thành, trau dồi, rèn luyện suốt mấy chục năm qua đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị, hoàn thành nhiệm vụ phát huy nhân tố con người trong từng đơn vị. Tác giả Phùng Văn Thiết quan niệm: “Tư cách của chính trị viên có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến bộ đội, bởi lẽ chính trị viên trước hết và vô luận trong mọi giai đoạn lịch sử đều phải làm tròn trọng trách của người chủ trì về công tác tuyên truyền, chủ trì về công tác đảng, công tác chính trị. Nói cách khác, họ là người chủ trì về việc chuẩn bị lăng kính chính trị cho người cầm súng, trang bị nhãn quan chính trị cho hoạt động quân sự” [114, tr. 75]. Tác giả luận giải, tư cách của người chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội, nhưng nó không phải là sản phẩm tự nhiên của cơ chế và càng không phải là giá trị vốn có của người chính trị viên. Trái lại, tư cách của người chính trị viên chỉ được thể hiện, được hiện thực hóa bởi hoạt động thực tiễn, được quyết định chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của họ. Mặt khác, cùng với sự lớn mạnh của quân đội, đội ngũ chính trị viên cũng có sự phát triển tương ứng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tác giả cho rằng, nhiệm vụ của người chính trị viên cũng là trọng trách của người chỉ huy. Tuy nhiên, điều đó không phải lúc nào cũng được nhận thức và thực hiện một cách đầy đủ, ngay cả khi thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn liền với chế độ chính ủy, chính trị viên hiện nay.
- 20 Nghiên cứu vị trí, vai trò của chính trị viên, tác giả Nguyễn Minh Khải quan niệm: Chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của đơn vị và trên tất cả các mặt công tác. Đối với bộ đội, chính trị viên là người lãnh đạo, chỉ huy; là người anh, người chị và người bạn thân thiết. Đối với nhân dân, chính trị viên phải làm tốt công tác dân vận, làm cho dân tin, dân yêu bộ đội, giúp đỡ bộ đội, chấp hành đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; giáo dục bộ đội chấp hành tốt công tác dân vận, chăm lo xây dựng mối đoàn kết quân dân. Đối với quân địch, chính trị viên phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, đấu tranh làm họ thức tỉnh, hiểu rõ lẽ phải và chính nghĩa; trên cơ sở đó, làm tan rã hàng ngũ địch. Tác giả cho rằng: “Chính trị viên là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ huy, phải làm tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, đồng thời, tôn trọng, giúp đỡ người chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ theo sự phân công của tổ chức và quy định về chế độ công tác. Người chính trị viên phải là tấm gương mẫu mực, trong sáng, thật sự tiêu biểu của người cán bộ Đảng trong quân đội” [50, tr. 55]. Trong công trình “Bồi dưỡng nhân cách chính trị viên cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội hiện nay” [138], các tác giả khẳng định: Vai trò của chính trị viên được thể hiện ở các mặt cơ bản, trực tiếp chỉ đạo xây dựng chi bộ, cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao sức mạnh chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, góp phần củng cố, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Các tác giả còn chỉ rõ: Khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ và thể hiện vai trò của mình, chính trị viên cần có những phẩm chất, nhân cách của người quân nhân cách mạng nói chung và những phẩm chất đặc trưng
- 21 khẳng định phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của người chính trị viên nói riêng. Do vậy, chính trị viên cần có những kiến thức, kinh nghiệm tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, cũng như uy tín để quy tụ, tập hợp cán bộ, chiến sĩ, tăng cường sức mạnh lãnh đạo cấp ủy đảng và sức mạnh chiến đấu của toàn đơn vị. Phân tích vị thế, vai trò của chính trị viên, các tác giả của công trình “Vị thế của đội ngũ chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” luận giải: “Cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và chính trị viên nói riêng có vị trí, vai trò quan trọng trong việc tăng cường, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; trong việc thực hiện và nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị nguyên tắc trong xây dựng quân đội kiểu mới. Chính vị trí, vai trò của chính trị viên đã xác lập trên nguyên tắc vị thế của họ trong quân đội, trong xã hội” [140]. Từ đó, các tác giả kết luận: Trong thời kỳ mới, trước tác động của những biến đổi kinh tế xã hội, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, yêu cầu xây dựng và nhiệm vụ của quân đội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chính trị nói chung, chính trị viên nói riêng phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác để tiếp tục khẳng định, phát huy vị thế của mình trong đơn vị, trong quân đội và trong toàn xã hội. Đây là một yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên được thiết lập trên thực tế vững chắc, vận hành nhuần nhuyễn, hiệu quả. 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam
- 22 Nghiên cứu vấn đề phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính ủy, chính trị viên, trong bài viết “Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính ủy, chính trị viên”, tác giả Lê Hồng Quang quan niệm: “Tư duy lý luận của người chính ủy, chính trị viên là tư duy khoa học, giúp họ thực hiện vai trò chủ trì về chính trị; luôn có khả năng thâm nhập sâu vào bản chất các sự kiện, vận dụng đường lối, quan điểm, nguyên tắc của Đảng, chỉ đạo hoạt động thực tiễn cụ thể, tạo chuyển biến mạnh mẽ tiềm lực chính trị tinh thần của đơn vị, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ” [94, tr. 58]. Phương hướng bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ chính trị là không ngừng phát triển tư duy lý luận, giúp họ nắm vững và vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách sáng tạo, giải quyết khoa học, hiệu quả mọi vấn đề bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tác giả kết luận: Người chính ủy, chính trị viên cần phát triển tư duy lý luận sắc sảo để thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng; cùng tổ chức đảng, cấp ủy, người chỉ huy chỉ đạo mọi mặt hoạt động của đơn vị “đi đúng con đường chínhh trị” của Đảng, đạt chất lượng, hiệu quả cao, không chệch hướng, sai lầm. Hơn lúc nào hết, người chính ủy, chính trị viên phải chủ động, sáng tạo, giỏi vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng để nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra trong điều kiện lịch sử mới. Trong công trình “Nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, chính trị viên đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới”, tác giả Lê Minh Vụ luận giải: “Với tư cách là người chủ trì công tác đảng, công
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án tiến sĩ: Phát triển du lịch sinh thái ở các tỉnh vùng Duyên hải cực Nam Trung Bộ đến năm 2020
161 p | 326 | 92
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh hiện nay
239 p | 166 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Dịch vụ phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam - NCS. Đặc Xuân Phong
0 p | 268 | 28
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù tỉnh Phú Yên
219 p | 59 | 25
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp dịch vụ vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
54 p | 158 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Dịch vụ phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
0 p | 108 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại tỉnh Bến Tre - Thực tiễn và bài học kinh nghiệm
206 p | 33 | 12
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
212 p | 94 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu chiến lược sinh kế của nông hộ miền núi tỉnh Thừa Thiên Huế
165 p | 55 | 11
-
Bản thông tin tóm tắt về những kết luận mới của luận án tiến sĩ: Phát triển dịch vụ phi tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
1 p | 110 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu tái cơ cấu nông nghiệp tại tỉnh Bến Tre - Thực tiễn và bài học kinh nghiệm
206 p | 33 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Phát triển chiến lược Marketing của các chuỗi siêu thị bán lẻ Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội
26 p | 74 | 7
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
198 p | 31 | 6
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản thơ trữ trình cho học sinh THPT qua hệ thống bài tập
227 p | 92 | 6
-
Luận án Tiến sĩ: Phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành ở các trường đại học Sân khấu - Điện ảnh trong bối cảnh hiện nay
232 p | 11 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Phát triển nông thôn: Nghiên cứu tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại tỉnh Bến Tre - Thực tiễn và bài học kinh nghiệm
35 p | 25 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phát triển nuôi trồng thủy sản theo tiêu chuẩn VietGAP vùng ven biển tỉnh Nam Định
27 p | 76 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành ở các trường đại học Sân khấu - Điện ảnh trong bối cảnh hiện nay
24 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn