intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Quản lý văn hoá: Vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày bảo tàng - từ thực tiễn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:249

8
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án xem xét vai trò của cộng đồng tham gia trong hoạt động trưng bày tại bảo tàng, nghiên cứu sự khác biệt giữa các cấp độ tham gia của cộng đồng trong các dự án trưng bày bảo tàng. Phân tích thuận lợi và khó khăn trong hoạt động trưng bày có sự tham gia của cộng đồng tại Bảo tàng DTHVN, từ đó khẳng định tính ưu việt của hình thức này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Quản lý văn hoá: Vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày bảo tàng - từ thực tiễn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

  1. BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI LÝ THỊ NGỌC DUNG VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRƯNG BÀY BẢO TÀNG (Từ thực tiễn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HOÁ HÀ NỘI - 2023
  2. BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI LÝ THỊ NGỌC DUNG VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRƯNG BÀY BẢO TÀNG (Từ thực tiễn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) Chuyên ngành: Quản lý văn hoá Mã số: 9229042 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HOÁ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu HÀ NỘI - 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của bản thân tác giả. Các kết quả nghiên cứu và kết luận trong Luận án là trung thực, chưa được bảo vệ một học vị hay nghiên cứu nào. Việc tham khảo các tài liệu, kết quả nghiên cứu trước đều được trích dẫn và ghi nguồn theo quy định. Tác giả Luận án Lý Thị Ngọc Dung
  4. 1 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC ................................................................................................................................... 1 DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ.................................................................................................... 2 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ......................................................................................... 3 MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 4 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁCH TIẾP CẬN CỦA LUẬN ÁN ............................................................................................................... 9 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................................ 9 1.3. Khái quát về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.......................................................41 Tiểu kết Chương 1 ..........................................................................................................45 Chương 2: VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRƯNG BÀY THƯỜNG XUYÊN .................................................................................................................. 46 2.1. Xây dựng trưng bày từ thông tin cộng đồng chia sẻ..............................................46 2.2. Cộng đồng trực tiếp tư vấn và chỉnh lý nội dung trưng bày .................................58 2.3. Cộng đồng cùng thực hiện trưng bày “Vườn kiến trúc” .......................................59 2.4. Mô hình hoá vai trò của cộng đồng trong trưng bày thường xuyên tại bảo tàng.73 Tiểu kết chương 2 ...........................................................................................................74 Chương 3: VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRƯNG BÀY NHẤT THỜI ......................................................................................................................................... 75 3.1. Quan điểm thực hiện trưng bày nhất thời tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam .................................................................................................................................75 3.2. Quá trình phát triển các dự án trưng bày nhất thời ................................................82 3.3. Cộng đồng giới thiệu di sản văn hoá phi vật thể tại bảo tàng ...............................88 3.4. Bảo tàng hỗ trợ cộng đồng chủ động thực hiện các dự án trưng bày ...................94 3.5. Mô hình hoá vai trò của cộng đồng trong trưng bày nhất thời .............................98 Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................................98 Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRƯNG BÀY BẢO TÀNG .....................................................................................100 4.1. Đánh giá vai trò của cộng đồng trong hoạt đông trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ................................................................................................................100 4.2. Một số kinh nghiệm Quốc tế.................................................................................117 4.3. Nhìn nhận sự tham gia của cộng đồng tại một số Bảo tàng ở Việt Nam ...........125 4.4. Giải pháp đề xuất nhằm nâng cao vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày ..................................................................................................................................133 Tiểu kết Chương 4 ........................................................................................................147 KẾT LUẬN .............................................................................................................................149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN..........................................................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................152 PHỤ LỤC ................................................................................................................................160
  5. 2 DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ Bảng số 01: So sánh cách thể hiện thông tin giữa trưng bày truyền thống và trưng bày có sự tham gia của cộng đồng .......................................................................................... 8 Bảng số 1.1: Chức năng quản lý của bảo tàng ............................................................... 32 Bảng số 1.2: Các mức độ tham gia của cộng đồng trong hoạt động trưng bày.............. 37 Bảng số 3.1: Các hoạt động trình diễn văn nghệ dân gian và nghề thủ công truyền thống tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ................................................................................ 90 Bảng số 4.1. Tổng số phiếu phát ra và thu về trong các sự kiện lựa chọn nghiên cứu đánh giá cảm nhận khách tham quan ............................................................................ 109 Bảng số 4.2. Tổng số phiếu phát ra và thu về trong các sự kiện lựa chọn nghiên cứu đánh giá cảm nhận cộng đồng/chủ thể văn hoá. ........................................................... 112 Bảng số 4.3. So sánh nội dung quản lý chung, hoạt động trưng bày và sự tham gia của cộng đồng tại các bảo tàng ........................................................................................... 125 Sơ đồ 1.1: Mô hình bảo tàng học truyền thống và bảo tàng học mới ............................ 29 Sơ đồ 1.1: Mô hình hoá các giai đoạn trao quyền cho cộng đồng ................................. 38 Sơ đồ 1.2. Mô hình thể hiện sự chuyển dịch vai trò, nhiệm vụ của cán bộ cán bộ bảo tàng trong hoạt động trưng bày có cộng đồng tham gia ................................................. 39 Sơ đồ 1.3: Mô hình khung phân tích luận án ................................................................. 40 Sơ đồ 2.1: Thứ bậc của chú thích (bài viết) trong trưng bày .......................................... 54 Sơ đồ 4.1: Các giai đoạn đánh giá trưng bày................................................................ 107 Sơ đồ 4.1. Mô hình trưng bày dựa vào cộng đồng ....................................................... 122 Sơ đồ 4.2. Các vấn đề chính của bảo tàng khi phát triển các dự án có sự tham gia của cộng đồng ..................................................................................................................... 136
  6. 3 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BQL Ban Quản lý DTHVN Dân tộc học Việt Nam DSVH Di sản văn hoá ICOM Hội đồng Quốc tế Bảo tàng GS Giáo sư KHXHVN Khoa học xã hội Việt Nam NCS Nghiên cứu sinh PGS Phó Giáo sư PVT Phi vật thể P/v Phỏng vấn Tr. Trang TS Tiến sĩ Th.S Thạc sĩ TK Thế kỉ UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc VT Vật thể VHTT Văn hoá thông tin
  7. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bảo tồn và phát triển dựa vào cộng đồng đang là xu thế thế giới và chính là giải pháp khai thác bền vững giá trị di sản. Mời cộng đồng đến bảo tàng để thực hiện trưng bày di sản văn hoá (vật thể và phi vật thể) là cách bảo tàng đã đại diện cho nguyện vọng của người dân, không chỉ trong việc bảo tồn những hiện vật có ý nghĩa đặc biệt với cộng đồng, mà còn trong việc bảo vệ và trưng bày những yếu tố mang giá trị bản sắc mà cho tới nay vẫn bị bỏ qua hoặc giới thiệu chưa đầy đủ, thậm chí có nguy cơ biến mất. Một xu thế của Bảo tàng học trên Thế giới đã và đang được chuyển đổi lấy cộng đồng làm đối tác trong các chương trình và hoạt động của họ bởi bảo tàng vì con người và do chính con người tạo ra. Tuy nhiên, sự tham gia phụ thuộc vào quan điểm của bảo tàng, điều này đòi hỏi thời gian và nguồn lực để phát triển các dự án hợp tác: phát triển đồng thuận giữa các bên liên quan; đảm bảo quy định và khuyến khích phù hợp cho sự tham gia của cộng đồng và xây dựng năng lực tổ chức tại chính địa phương nơi cộng đồng sinh sống. Vào năm 1972, cuộc họp “Hội nghị bàn tròn Santiago tại Chile” (The Round Table of Santiago de Chile) đã quy tụ các nhà Bảo tàng học từ Trung và Nam Mỹ, đại diện của UNESCO và ICOM, sau đó kết quả được UNESCO công bố năm 1973, đưa ra khuyến nghị rằng các bảo tàng có trách nhiệm giải quyết các nhu cầu của cộng đồng họ phản ánh. Phải có sự thay đổi mô hình từ một bảo tàng tập trung vào các giá trị truyền thống về quyền sở hữu, bảo tồn và giải thích, đến một nơi mà nhu cầu của cộng đồng được đặt ở cốt lõi. Các cơ quan quản lý, nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng và tình nguyện viên đang trăn trở để tìm ra giải pháp để các bảo tàng có thể phản ứng với “cơn lốc thay đổi trong xã hội và trách nhiệm của bảo tàng để thu hút công chúng vào những vấn đề đương đại”. Nhận thấy rằng, cộng đồng có giá trị quý báu đối với danh tiếng của một bảo tàng, là nguồn cung cấp đề tài vô tận cho các hoạt động trưng bày của bảo tàng - vì cộng đồng đóng vai trò là những người nắm giữ lịch sử và nắm giữ ký ức. Để tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa một cách bền vững, chúng ta cần tăng cường hợp tác với cộng đồng vì khi xoáy vào hiểu biết của mỗi cá nhân tức là bảo tàng đã trung hoà được những hiểu biết khác nhau giữa các nền văn hoá, lịch sử hay bản sắc dân tộc và khuyến khích đối thoại giữa các dân tộc trên Thế giới. Tại Bảo tàng DTHVN, từ khi có ý tưởng xây dựng bảo tàng đã xác định sứ mệnh và xu hướng hoạt động đó là “Bảo tàng vì cộng đồng”; bảo tàng dành sự lựa chọn hiện vật và giới thiệu các những câu chuyện đằng sau hiện vật cho chủ thể văn hoá. Vì vậy, song song với hoạt động trưng bày thường xuyên, bảo tàng còn khuyến khích và tạo điều kiện cho chủ thể văn hoá trực tiếp thực hành và giới thiệu di sản văn hoá phi vật thể đến với công chúng ngay chính tại không gian bảo tàng. Đó là dành không gian cho cộng đồng tự mình
  8. 5 nói về văn hoá của chính mình; mời chủ thể văn hoá đến bảo tàng và bằng những kinh nghiệm dân gian dựng nên ngôi nhà mang đặc trưng văn hoá của họ; công chúng được thưởng thức chương trình nghệ thuật hay trải nghiệm các kỹ thuật thủ công truyền thống tại bảo tàng qua sự thể hiện và hướng dẫn của chính chủ thể văn hoá. Theo quan niệm của Bảo tàng học hiện đại, các hoạt động trình diễn di sản văn hoá tại bảo tàng, truyền tri thức dân gian tại bảo tàng hay trải nghiệm văn hoá gắn với cộng đồng tại bảo tàng thì đều là những dạng thức của “trưng bày đặc biệt – trưng bày di sản văn hoá phi vật thể” [42,Tr.459]. Nhu cầu thưởng thức, tìm hiểu và trải nghiệm văn hoá của công chúng ngày càng phát triển; chủ thể văn hoá muốn thể hiện mình với những giá trị đích thực còn khách tham quan muốn tìm hiểu di sản văn hoá một cách khách quan theo cảm nhận của riêng họ. Với những nhìn nhận trên đây, luận án nghiên cứu “Vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày bảo tàng - từ thực tiễn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam” lựa chọn nghiên cứu trường hợp và tập trung vào một khía cạnh cụ thể là làm thế nào các bảo tàng có thể hỗ trợ tích cực việc trao truyền và tham gia của cộng đồng trong các hoạt động bảo tàng nói chung và trưng bày nói riêng. Chọn hướng tiếp cận mới là đề cao lực lượng sáng tạo, sở hữu và kế thừa di sản trong môi trường bảo tàng. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận án xem xét vai trò của cộng đồng tham gia trong hoạt động trưng bày tại bảo tàng, nghiên cứu sự khác biệt giữa các cấp độ tham gia của cộng đồng trong các dự án trưng bày bảo tàng. Phân tích thuận lợi và khó khăn trong hoạt động trưng bày có sự tham gia của cộng đồng tại Bảo tàng DTHVN, từ đó khẳng định tính ưu việt của hình thức này. Đề nhận thức, đánh giá một trong các quan niệm và cách thức hoạt động bảo tàng còn chưa phổ biến ở nước ta. Thông qua đó, nêu các kinh nghiệm có thể áp dụng rộng rãi hơn về phương thức hoạt động này ở các bảo tàng có chức năng tương ứng. Từ thực tiễn tại Bảo tàng lựa chọn làm trường hợp để phân tích, mục tiêu chính của luận án là làm rõ các vấn đề hợp tác cộng đồng tăng lên nhưng không hoàn toàn ở một mức độ; mà có các mức độ sự tham gia khác nhau. Và khẳng định rằng không áp dụng máy móc cho mọi dự án của bảo tàng, mà có thể là truyền cảm hứng cho sự tương tác, trao quyền và sáng tạo ngoài bảo tàng, tại chính nơi cộng đồng sinh sống. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Trình bày những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận chung từ đó nhận thức sâu sắc vai trò của bảo tàng trong việc bảo tồn di sản văn hoá; vai trò, vị trí của công tác trưng bày trong bảo tàng và mối quan hệ giữa bảo tàng và cộng đồng.
  9. 6 Nghiên cứu xu hướng phổ biến của Bảo tàng học thế giới, tuy nhiên chưa phổ biến ở Việt Nam đó là hợp tác với cộng đồng để bảo tồn di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; Phát triển các sưu tập của bảo tàng, hình thành nên các trưng bày thường xuyên, trưng bày nhất thời gắn với cộng đồng trong điều kiện thách thức đòi hỏi bảo tàng phải nỗ lực và sáng tạo hơn nữa. Luận án xem xét mối tương quan lý thuyết, nguyên tắc của sự tham gia và phương pháp mà Bảo tàng DTHVN sử dụng để nghiên cứu, hợp tác với cộng đồng nhằm bảo tồn, lưu giữ di sản văn hoá của chính cộng đồng. Khảo sát, phân tích đánh giá thực tiễn hoạt động trưng bày tại Bảo tàng DTHVN, từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động trưng bày có sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo tồn di sản văn hoá (thông qua phản hồi của khách tham quan, cộng đồng chủ thể, nhà quản lý bảo tàng). Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày bảo tàng. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của cộng đồng- chủ thể văn hoá trong hoạt động trưng bày của Bảo tàng. Quan điểm, quá trình tổ chức thực hiện trưng bày có sự tham gia của cộng đồng tại Bảo tàng DTHVN. Tuy lựa chọn nghiên cứu trường hợp, nhưng luận án nghiên cứu nhiều trường hợp cộng đồng với các hình thức trưng bày khác nhau (bao gồm các loại hình trưng bày thường xuyên, nhất thời, dự án photovoice,…) với các mức độ tham gia khác nhau (chia sẻ thông tin, tư vấn, cùng thực hiện, cùng quyết định, quyết định hoàn toàn) nhằm đưa ra cái nhìn đối sánh và hiệu quả nhất. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Quan niệm, cách thức hoạt động và thực tiễn hợp tác với cộng đồng tại bảo tàng DTHVN trong tất cả hình thức trưng bày thường xuyên, trưng bày nhất thời, trưng bày và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể,... từ những ngày đầu thành lập cho tới nay (2022). Phạm vi không gian: Luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày tại Bảo tàng DTHVN. Trong một chừng mực nhất định, luận án cũng quan tâm tới một số cộng đồng gắn với trưng bày ở ngoài Bảo tàng DTHVN. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó, những phương pháp sau đây đóng vai trò cơ bản: Xử lý, kế thừa tài liệu thứ cấp: Bảo tàng DTHVN là một trong số ít những bảo tàng ở Việt Nam có thư viện, lưu giữ toàn bộ tài liệu về quá trình nghiên cứu hình thành và phát
  10. 7 triển của bảo tàng. Tác giả coi đây như một kho tàng ký ức, là một sự thuận lợi đối với tác giả trong quá trình triển khai nghiên cứu luận án. Phương pháp điền dã dân tộc học: để tham dự, quan sát, ghi chép, điều tra, ghi âm kết hợp ghi hình các cộng đồng khi tiến hành nghiên cứu sưu tầm thực hiện trưng bày; Phương pháp nghiên cứu xã hội học: với mục đích thu thập được nhiều nguồn thông tin khác nhau nhằm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. Tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu định tính (quan sát, phỏng vấn, ...); nghiên cứu định lượng (thu thập và hệ thống hoá số liệu qua việc nghiên cứu bảng hỏi đối với cộng đồng nghiên cứu và công chúng tham quan trưng bày); xây dựng nội dung phỏng vấn sâu, phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc đối với cán bộ quản lý, cộng đồng và các nhà nghiên cứu; Phương pháp hệ thống: xem xét vai trò của cộng đồng trong từng giai đoạn phát triển của bảo tàng DTHVN. Mặt khác phương pháp này giúp nhận diện những yếu tố riêng biệt, độc đáo trong từng giai đoạn và từng hình thức trưng bày của bảo tàng. Phương pháp so sánh đối chiếu: cần thiết để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt, sự nổi trội và hạn chế trong quá trình hợp tác với cộng đồng của một số bảo tàng trong và ngoài nước. Thường xuyên hơn, phương pháp này được tác giả sử dụng khi so sánh vai trò của cộng đồng trong từng mức độ tham gia trong hoạt động trưng bày tại Bảo tàng DTHVN. Phương pháp chuyên gia: luận án không chỉ nghiên cứu vai trò của cộng đồng trong giai đoạn hiện tại mà còn nghiên cứu vai trò của cộng đồng trong các trưng bày đã được thực hiện trong quá khứ. Do đó phỏng vấn những chuyên gia trực tiếp nghiên cứu, thực hiện trưng bày tại Bảo tàng DTHVN, chuyên gia đầu ngành trong hoạt động nghiên cứu cộng đồng, bảo tàng học là vô cùng cần thiết. Phương pháp đánh giá theo phân tích SWOT để đánh giá ưu điểm, hạn chế, cơ hội và thách thức trong hoạt động trưng b ày dựa trên cơ sở cộng đồng tại Bảo tàng. 5. Câu hỏi nghiên cứu - Vai trò của cộng đồng đối với hoạt động bảo tàng? - Quan điểm và các hình thức bảo tàng trao quyền cho cộng đồng trong hoạt động trưng bày? - Các mức độ tham gia của cộng đồng trong hoạt động trưng bày? - Tính hiệu quả của việc hợp tác với cộng đồng trong hoạt động trưng bày? 6. Giả thuyết nghiên cứu Đề xuất rằng, hợp tác với cộng đồng trong hoạt động trưng bày và giới thiệu di sản văn hoá như là yếu tố quyết định sự phát triển của bảo tàng.
  11. 8 Sự tham gia của cộng đồng chủ thể văn hoá trong hoạt động bảo tàng có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hoá của chính cộng đồng. Xem xét kỹ một số quan điểm để thấy được sự khác biệt giữa cách thể hiện thông tin truyền thống và quan điểm thực hiện trưng bày: Bảng số 01: So sánh cách thể hiện thông tin giữa trưng bày truyền thống và trưng bày có sự tham gia của cộng đồng Trưng bày truyền thống Trưng bày có sự tham gia cộng đồng Nội dung Toàn bộ nền tảng kiến thức khoa Tập trung vào chủ đề, câu chuyện và truyền tải học. kinh nghiệm. Hướng dẫn Hướng dẫn trong phương pháp Hướng dẫn biến thành một cuộc trò và học tập của cán bộ bảo tàng đã được định chuyện nhiều cấp độ: giữa khách tham sẵn. quan và cán bộ bảo tàng; giữa khách tham quan và cộng đồng; giữa các thành viên trong cộng đồng. Tính Chỉ có một hoặc một vài câu trả Không nhằm mục đích đưa ra một câu khách quan – lời cho các câu hỏi liên quan đến trả lời thẳng thắng mà mục đích là mở chủ quan nguồn gốc và lịch sử, khách tham ra những khả năng và quan điểm khác, quan chấp nhận câu trả lời đó. là những suy nghĩ về chủ đề và vấn đề. Chủ quan Khách quan 7. Đóng góp của luận án Hệ thống lại quan niệm và cách thức trưng bày bảo tàng qua thực tiễn Bảo tàng DTHVN từ đó khơi dậy lên một phương thức hoạt động bảo tàng gắn với sự tham gia của cộng đồng chủ thể văn hoá; Nêu một số kinh nghiệm về phương diện hoạt động của hình thức trưng bày có sự tham gia của cộng đồng theo các mức độ khác nhau, từ đó có thể áp dụng cho một số loại hình bảo tàng ở Việt Nam; Luận án đưa ra một nhận định mới đó là việc truyền dạy, bảo tồn di sản văn hoá không chỉ diễn ra tại nơi cộng đồng sinh sống mà được thực hiện ngay tại chính bảo tàng; Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp cận một cách sâu sắc cộng đồng mà trưng bày hướng tới. 8. Cấu trúc của Luận án Đề tài nghiên cứu “Vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày Bảo tàng - từ thực tiễn bảo tàng Dân tộc học Việt Nam” ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia làm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, quan điểm và cách tiếp cận của luận án. Chương 2: Vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày thường xuyên Chương 3: Vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày nhất thời Chương 4: Giải pháp nâng cao vai trò của cộng đồng trong hoạt động trưng bày Bảo tàng.
  12. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁCH TIẾP CẬN CỦA LUẬN ÁN 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1 Nghiên cứu về trưng bày bảo tàng - Các nghiên cứu về lý luận trưng bày nói chung Do sự phát triển của xã hội hiện đại, sự thay đổi liên tục của môi trường xã hội mà bảo tàng tồn tại, năm 2001 học giả Vương Hoằng Quân – dưới nhãn quan của Bảo tàng học Trung Quốc nhận định bảo tàng phải “lấy con người làm gốc” là tôn chỉ hoạt động, lấy việc “giúp cho sự phát triển và thoả mãn nhu cầu giải trí của con người” làm nhiệm vụ trọng yếu, tham dự vào xã hội và phục vụ xã hội [43,tr.29]. Đây là xu hướng phát triển quan trọng của Bảo tàng và Bảo tàng học trong thế kỷ XXI. Hiểu trưng bày bảo tàng là hệ thống đối tượng – không gian tổng thể trong đó hiện vật bảo tàng và những tài liệu trưng bày khác được kết hợp lại bởi ý tưởng khái niệm (khoa học và nghệ thuật) [25], Kaulen M.E – học giả Bảo tàng Nga cho rằng nếu coi kho bảo tàng là “từ điển” thì trưng bày là “bài viết” được viết nhờ sự hỗ trợ của nguyên tắc “ngữ pháp trưng bày”. Kết cấu trưng bày theo lịch sử hệ thống là một cách làm phổ biến giúp nhà bảo tàng học “đọc” một cách dễ dàng còn khách tham quan “đọc” khó khăn hơn đôi chút. Cũng trong công trình nghiên cứu này các nhà bảo tàng học nhận thấy cách tiếp cận trên không công nhận giá trị tự thân của hiện vật bảo tàng mà ưu thế dựa vào các hoạ sĩ, các hoạ sĩ thì “lộng hành” đối với loại hình tác phẩm như một nhóm những hiện vật bảo tàng, cơ cấu khoa học của trưng bày… [25, tr.313] Đã đến lúc bảo tàng cần thay đổi, quan trọng nhất là thay đổi trong tư duy con người vì không ai ngoài nhân viên bảo tàng hiểu rõ bảo tàng mình, bộ sưu tập của mình và khách tham quan của mình. Barry Lord – chuyên gia bảo tàng Canada nhận định sự thay đổi về trưng bày bảo tàng bởi trưng bày bây giờ có thể là ảo, không gian di cư và phương tiện truyền thông đã tạo cơ hội tuyệt vời cho sự tham gia, và chuyển quyền lực từ chuyên gia sang công chúng [59]. Khi khách tham quan bị hạn chế về thời gian trong xã hội hiện đại, đòi hỏi nhà quản lý bảo tàng phải sáng tạo, năng động, tương tác và đa dạng các hoạt động hơn. Ông nhận định, mục đích của trưng bày bảo tàng nhằm biến đổi một số điểm trong sở thích, sự quan tâm hoặc thái độ của khách tham quan một cách xúc động, thông qua sự khám phá một mức độ nào đó ở nội dung trưng bày và được khơi dậy bởi tính xác thực của hiện vật trưng bày [59, tr.12]. Các bảo tàng cũng nhận thấy, khi chia sẻ quyền phát triển ý tưởng trưng bày hay diễn giải về bộ sưu tập cho cộng đồng hoặc đối tượng công chúng mục tiêu mà đợt trưng bày bảo tàng hướng tới sẽ thành công hơn với tầm nhìn dài hạn, tuy nhiên không được coi nhẹ sự nguyên vẹn của sưu tập và công tác nghiên cứu trưng bày.
  13. 10 Ở Việt Nam, từ những năm 1967, công trình nghiên cứu đầu tiên về Khoa học Bảo tàng của tác giả Đào Duy Kỳ đã kế thừa một số kinh nghiệm của Bảo tàng học Liên Xô vào điều kiện thực hành bảo tàng ở Việt Nam, đúc kết kinh nghiệm của Viện Bảo tàng Cách Mạng Việt Nam và nhiều bảo tàng khác để mạnh dạn đưa lên một số nhận thức về nhiều vấn đề được giới cán bộ bảo tàng bàn luận, đặc biệt về hoạt động trưng bày. Phương châm giai đoạn thập kỷ 60 cho rằng, cán bộ bảo tàng phải thấm nhuần đề cương trưng bày, lựa chọn hiện vật quý giá và thích hợp để đưa ra trưng bày [26, tr.152]. Phương pháp trưng bày tốt nhất là phương pháp đảm bảo được sự lựa chọn hiện vật trưng bày theo đúng đề cương khoa học, đảm bảo có phong cách độc đáo. [26, tr.156] Trả lời câu hỏi Tại sao phải đổi mới trưng bày? Nguyễn Hải Ninh [33, tr.82-88] cho rằng nó xuất phát từ các nhu cầu: nhu cầu bảo quản, kết quả các nghiên cứu liên quan, mong muốn tìm hiểu của khách tham quan, cần phối hợp với cộng đồng, sự phát triển của công nghệ thông tin. Tác giả cũng nhận định nếu coi đổi mới trưng bày là thay đổi các sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu trưng bày thì nhiệm vụ không chỉ là in lại ảnh, sơn lại tường, làm lại vách cũ mà đổi mới cần phải bắt nguồn từ những phương pháp tiếp cận mới, những cách nhìn mới về lịch sử cũng như con người. Trong một nghiên cứu khác, Nguyễn Hải Ninh [32, tr.103-107] nhận định, đánh giá trưng bày là một hoạt động rất quan trọng tuy chưa phổ biến trong các bảo tàng ở Việt Nam nói chung hay hệ thống quản lý tại các bảo tàng nói riêng. Đánh giá trưng bày giúp các nhà quản lý bảo tàng nhận biết được khả năng phản ứng với các trường hợp rủi ro có thể xảy ra với trưng bày, hiện vật và khách tham quan. Kết quả đánh giá sẽ giúp bảo tàng phân định được nhóm khách tham quan thường xuyên, từ đó xây dựng được các trưng bày phù hợp và hấp dẫn. Tiếp cận trưng bày nghiên cứu dưới góc độ nhân học qua một số phương pháp và thực hành, tác giả Nguyễn Trường Giang nhấn mạnh đến việc trưng bày có sự tham gia của cộng đồng nhằm xây dựng nên các sản phẩm nghiên cứu, phim cộng đồng, triển lãm kể chuyện bằng hình ảnh gắn với di sản cộng đồng thực hành/lăng kính cộng đồng nhìn nhận,… tác giả cho rằng đó là sự tiến bộ của xã hội [54, tr.18]. Bàn về lý thuyết trưng bày, các công trình nghiên cứu cho thấy có 2 xu hướng: (1) Quan tâm đến yếu tố chính trị, hàn lâm, hướng tới mục đích khoa học; trưng bày tuân thủ theo đề cương nghiên cứu, kiến thức truyền tải đến khách tham quan khoa học theo chuẩn mực định sẵn; thiết kế trưng bày phụ thuộc vào xu hướng thẩm mỹ của “hoạ sĩ”. (2) Xu hướng gần đây hơn cho rằng, trưng bày hướng tới yếu tố tương tác, nội dung trưng bày được kể qua câu chuyện hiện vật, kiến thức được truyền tải thông qua cách thực hành di sản văn hoá của chủ thể. Nhận thức của công chúng sau tham quan về đối tượng trưng bày dựa trên câu chuyện hiện vật kết hợp với tri thức cá nhân của mỗi người nên cũng có thể một vấn đề có nhiều cách hiểu khác nhau; thiết kế trưng bày đơn giản nhằm tôn vinh giá trị hiện vật.
  14. 11 - Các nghiên cứu bàn về thực tiễn hoạt động trưng bày Tác giả Vid Goding và Wayne Modest [98] - học giả nghiên cứu tại Bảo tàng của Leicester, Vương quốc Anh tổng hợp các nghiên cứu điển hình đa dạng, liên quan tới các cộng đồng khác nhau qua hành động thực hành bảo tàng (1) phản ánh thực hành giám tuyển liên quan đến cộng đồng người Mỹ gốc Ấn Độ và người Mỹ gốc Nhật, đưa lịch sử cộng đồng người Mỹ gốc Phi vào bảo tàng và thực hành nghệ thuật cộng đồng của Tyree Guyton (Golding) ở Washington và Los Angeles, Gable ở Virginia và Taylor ở Detroit); cộng đồng bản xứ được xem xét (ở Đài Loan bởi Varutti và Đông nam Alberta, Canada bởi Onciul), cũng như là các cộng đồng tuổi vị thành niên (ở London bởi Modest); (2) thảo luận về yếu tố chính trị trong trưng bày với cộng đồng Romani (Brekke ở Na Uy), cộng đồng di cư (Iervolino ở Ý và Hutchinson ở Úc), cộng đồng chuyên gia và không chuyên về kiến thức Ai Cập cổ đại (Exell in Manchester), và trưng bày lại nghệ thuật ở phía đông bắc nước Anh (Mason, Whitehead, và Graham ở Newcastle). Đúc kết lại từ các trường hợp các nghiên cứu thực tiễn, tác giả chủ biên cho rằng: “Các viện bảo tàng nên cộng tác với cộng đồng – theo những cách không mang tính thông thái; tôn trọng cộng đồng để bảo vệ các giá trị di sản và đảm bảo yếu tố nhân quyền quốc tế” [98, Tr. 3]. Nội dung nghiên cứu hướng tới mô hình mới để làm việc thành công với cộng đồng, giải quyết các vấn đề chính trị liên quan đến quyền lực giữa bảo tàng và các cộng đồng khác nhau của họ, đó là một trong những khía cạnh chính của bảo tàng đương đại. Năm 2005, cuốn Hướng dẫn trưng bày bảo tàng (The Manual of Museum Exhibitions) của tác giả Barry Lord (xuất bản năm 2002) được Cục Di sản văn hoá và Bảo tàng DTHVN lựa chọn làm nội dung lớp tập tuấn “Hướng dẫn trưng bày bảo tàng”. Năm 2014, tác giả Barry Lord và Maria Piacente tái bản sách lần hai [59], do định nghĩa về một trưng bày theo quan điểm bảo tàng học mới đã thay đổi nên việc tái bản là là cần thiết bởi không gian trưng bày có thể là “ảo”, yếu tố “tham gia” xuất hiện, và có sự “di chuyển quyền lực” từ các chuyên gia sang cộng đồng và công chúng. Bên cạnh nội dung khái quát các giai đoạn thực hiện một trưng bày trên thực tế, từ nghiên cứu và bảo tồn đến trưng bày và giáo dục. Cuốn sách được tái bản lần thứ hai khám phá quá trình phát triển trưng bày một cách chi tiết hơn, cung cấp các phương pháp kỹ thuật và thực tiễn mà các chuyên gia bảo tàng cần có. Đặc biệt trong lần tái bản này, tác giả có bổ sung một số bài viết đề cập đến các chương trình mới về quản lý dự án, lập kế hoạch tài chính và đa phương tiện tương tác trong khi vẫn giữ các nội dung thiết yếu liên quan đến việc hình thành trưng bày theo các bước truyền thống. Ở Việt Nam, đề cập về việc diễn giải tại bảo tàng hay nói cách khác là cách thức trưng bày tại các bảo tàng, tại “Khoá học mùa hè, nghiên cứu và thực hành bảo tàng” do Bảo tàng DTHVN và Trung tâm A&C hỗ trợ thực hiện đã đưa ra định nghĩa, cấu trúc cũng như mục đích trưng bày bảo tàng hướng tới, nhận định về cách tiếp cận/quan điểm làm trưng bày mới: bảo tàng cũng có thể kể câu chuyện của những người bình thường
  15. 12 nhất, qua đó thể hiện được chính cuộc sống đương đại [4, tr45-48]. Tác giả Nguyễn Văn Huy cho rằng đó là việc làm khó nhưng không phải không làm được [21, tr.28-35], quan niệm cũ về trưng bày bảo tàng đó là việc đi tìm cái đặc trưng, tiêu biểu mang tính tộc người đã được thay thế bằng việc đi tìm những nét văn hoá đặc trưng trong cuộc sống thường nhật. Từ chỗ theo đuổi đi tìm những “sự tiêu biểu”, “bản chất”, “điển hình” và mang tính đại diện cao của văn hoá, những cán bộ bảo tàng đã làm quen và thực hành quan niệm “đời thường chính là văn hoá” [53, tr.28] các bảo tàng phải vượt lên sự cố hữu và lạc hậu của mình để cả hệ thống bảo tàng Việt Nam có sự khởi sắc. Đúc kết lại, Anne Carine Schmidt và Bùi Kim Đĩnh [2, tr.53-58] cho rằng để bắt đầu với một diễn giải, tác giả nên bắt đầu với một “ý tưởng lớn” bởi “ý tưởng lớn là một câu chuyện, một tuyên ngôn về nội dung mà một triển lãm định trưng bày”. Từ thực tiễn hoạt động trưng bày của Bảo tàng Việt Nam, đúc kết và phản ánh một “căn bệnh” trong hệ thống bảo tàng nước ta những năm gần đây là cứ xây dựng toà nhà trước, khánh thành trước rồi vài năm sau mới chuẩn bị trưng bày [29, tr.26-30]. Việc tách rời công việc chuyên môn của bảo tàng, những người làm bảo tàng với toà nhà bảo tàng, tách nội dung được sử dụng (cho trưng bày và bảo quản hiện vật) với công năng xây dựng để lại nhiều khó khăn trong quá trình thực hành chuyên môn bảo tàng như không gian trưng bày manh mún, đứt đoạn, không có sự chuyển tiếp hướng tham quan,… Nhận thấy tầm quan trọng trong công tác trưng bày tại bảo tàng, nhiều toạ đàm, hội thảo trong nước đã bàn về các bài học từ thực tiễn, cập nhật xu hướng Quốc tế để ứng dụng trong hoạt động trưng bày tại Việt Nam. Cục Di sản văn hoá và Bảo tàng DTHVN tổ chức “Hội thảo khoa học – thực tiễn: Phương pháp trưng bày và giới thiệu hiện vật bảo tàng” [14] trong đó đưa ra nhận thức về trưng bày trong hệ thống bảo tàng hiện nay; chia sẻ những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn từ đó đưa ra quan điểm, cách nhìn nhận của những cán bộ, học giả nghiên cứu trong hoạt động trưng bày gắn với đặc thù của từng bảo tàng. Bàn trực tiếp đến Nghệ thuật trưng bày – linh hồn trong hoạt động Bảo tàng, trên cương vị Giám đốc chuyên môn của Trung tâm Di sản các nhà Khoa học Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Văn Huy chia sẻ quan điểm cá nhân về thực trạng các bảo tàng hiện nay, phân tích những yếu tố cần để tạo dựng trưng bày hấp dẫn tới với công chúng. Theo Ông, để trưng bày thực sự trở thành linh hồn của bảo tàng đúng nghĩa phải quan tâm đến các yếu tố (1) trưng bày phải có nội dung rõ ràng thể hiện tính khoa học, (2) tính nghệ thuật làm sao để thoả mãn được tất cả các giác quan khi đến thăm bảo tàng (3) và thành tố kỹ thuật – công nghệ là yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong bảo tàng hiện đại, chính công nghệ đã làm thay đổi diện mạo và đời sống của bảo tàng [22]. Nhằm hệ thống một cách cụ thể và rõ ràng, mang tính khoa học qua góc nhìn nghệ thuật và mỹ thuật tạo hình không gian trong Nghệ thuật trưng bày bảo tàng, Luận án của Nguyễn Hoàng Hưng [24] với đề tài “Nghệ thuật trưng bày bảo tàng Việt Nam” qua các trường hợp nghiên cứu là Bảo tàng lịch sử Quốc gia, Bảo tàng lịch sử Quân sự
  16. 13 và Bảo tàng DTHVN làm rõ các hình thức biểu hiện nghệ thuật trưng bày ở các trường hợp nghiên cứu trên thông qua các yếu tố cấu thành là cấu trúc mặt bằng, tạo hình nghệ thuật, ánh sáng, hiện vật trưng bày và kỹ thuật công nghệ. Cập nhật và nắm bắt xu thế diễn giải trưng bày Quốc tế để ứng dụng trong trưng bày tại Việt Nam, nhiều Bảo tàng, BQL Di tích đã chủ động mời các chuyên gia trong lĩnh vực thực hành bảo tàng Quốc tế chia sẻ xu hướng như là những gợi ý cho hoạt động trưng bày trong thực tiễn: “Thiết kế bảo tàng: một nghề thực thụ” do diễn giả Francois Confino thuyết trình tại Bảo tàng DTHVN (11/2017); “Hình dung lại diễn giải di sản và bảo tàng” do diễn giả Russel Staiff thuyết trình tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội (11/2017)… các toạ đàm chủ yếu bàn về các giải pháp nhằm tăng tính hấp dẫn của một trưng bày, đưa công chúng tới gần hơn với nội dung trưng bày phản ánh… Có nhiều giải pháp khác nhau như ứng dụng Công nghệ hiện đại, nghiên cứu phát triển các chủ đề trưng bày đáp ứng “thị hiếu” của công chúng… Nhưng một điểm chung nổi bật và đều được đề cập đến trong các toạ đàm đó là việc triển khai trưng bày nhấn mạnh vào vai trò của cộng đồng trong các thực hành của bảo tàng như là phương thức hữu hiệu nhất nhằm phát huy giá trị di sản một cách bền vững. Dễ dàng có thể nhận thấy, quan điểm về cách thức tiến hành trưng bày của hệ thống Bảo tàng Việt Nam đang dần dần thay đổi: từ chỗ lấy hiện vật làm trung tâm, xây dựng nội dung trưng bày sao cho giới thiệu được số lượng hiện vật lớn nhất có thể… tới việc nhìn nhận thấy tầm quan trọng của các câu chuyện đằng sau hiện vật, các bảo tàng đang dần chuyển mình, thay đổi từ thực tiễn sẵn có và học hỏi từ các xu hướng quốc tế. Tuy nhiên, từ quan điểm đến thực hiện là nhiệm vụ chắc chắn không dễ dàng. 1.1.2 Nghiên cứu về vai trò của cộng đồng trong hoạt động bảo tàng Các yếu tố của di sản, thông qua việc sưu tầm hiện vật được lưu giữ trong bảo tàng, trở thành nguồn tư liệu và tài liệu trực quan, được bảo tồn để sử dụng cho khoa học, giáo dục văn hoá. Khi đưa vào bảo tàng, những yếu tố đó không còn là trách nhiệm của người dân địa phương, mà tuân thủ theo các quy tắc của bảo tàng. Chúng không còn là một phần của cuộc sống hàng ngày của cộng đồng mà được sử dụng cho mục đích cao hơn được quyết định bởi các cơ quan chính trị và hành chính. [75, tr.31]. Vào năm 1972, một cuộc họp được gọi là “Hội nghị bàn tròn Santiago tại Chile” (The Round Table of Santiago de Chile) đã quy tụ các nhà Bảo tàng học từ Trung và Nam Mỹ, đại diện của UNESCO và ICOM, tuyên bố kết quả được UNESCO công bố năm 1973, đưa ra niềm tin rằng các bảo tàng có trách nhiệm giải quyết các nhu cầu của cộng đồng phản ánh. Tại Hội nghị cho rằng, phải có sự thay đổi mô hình từ một bảo tàng tập trung vào các giá trị truyền thống về quyền giám hộ, bảo tồn và giải thích, đến một nơi mà nhu cầu của cộng đồng được đặt ở cốt lõi. Sự công nhận ngày càng tăng về “văn hoá sống” trong các tuyên bố của UNESCO và ICOM cho thấy các viện bảo tàng đã thay đổi - sự trỗi dậy của hoạt động bảo tàng gắn với cộng đồng.
  17. 14 - Các hội thảo, hội nghị, toạ đàm bàn về vai trò của cộng đồng trong hoạt động bảo tàng Ngay từ khuyến nghị của UNESCO (1960) liên quan đến các biện pháp hiệu quả của việc xây dựng viện bảo tàng cho mọi người cho rằng: “Các bảo tàng là trung tâm tri thức văn hoá tại địa phương, cần thiết lập mối quan hệ văn hoá giữa bảo tàng và cộng đồng” [46]. Đến phiên họp lần thứ 25 của UNESCO (Paris, Pháp) năm 1989, trong khuyến nghị đề cập đến văn hoá dân gian hay nói cách khác là văn hoá cộng đồng, cũng khẳng định bảo tàng là nơi trưng bày di sản văn hoá dân gian, tạo cơ hội cho công chúng được thưởng thức văn hoá truyền thống [45]. Khuyến nghị cũng cho rằng, văn hoá dân gian là biểu hiện phong phú của sức mạnh sáng tạo trí tuệ cá nhân hay tập thể, bảo tồn văn hoá dân gian là bảo vệ các truyền thống văn hoá và bảo vệ những cá nhân, tập thể, nắm giữa, thực hành các quyền thống văn hoá đó. Những năm thập niên 90, vấn đề cộng đồng được bàn đến nhiều hơn trong các hội nghị, hội thảo, toạ đàm Quốc tế. Tại Hội thảo “Bảo tàng và cộng đồng” năm 1995 (Norway) có đưa ra nhiều nhận định từ các học giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa bảo tàng và cộng đồng [92], Tiến sĩ Anita B.Shah (Ấn Độ) cho rằng Bảo tàng là trung tâm xuất sắc dành riêng cho việc phục vụ cộng đồng trong mọi khía cạnh của cuộc sống, họ cho thấy những nguồn cội khác nhau, đưa ra định hướng cho cuộc sống ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đối với nhân loại, bảo tàng mang ý nghĩa của sự hợp nhất do đó không thể tách dời bảo tàng và cộng đồng mà bảo tàng phản ánh [92, tr.20]. Cũng trong Hội thảo, các học giả nghiên cứu trong lĩnh vực bảo tàng đã khẳng định: Cách tiếp cận toàn diện được định nghĩa bởi bảo tàng học đương đại không chấp nhận ý tưởng của bảo tàng như một sản phẩm làm sẵn, cũng không phải của cộng đồng như một xã hội trừu tượng thực thể. Bảo tàng ngày nay được hiểu là một hiện tượng với tất cả các động lực của nó và cộng đồng được cảm nhận theo nghĩa rộng hơn, như là một đại diện cụ thể về lực lượng tự nhiên hoặc xã hội [92, tr.19] Công ước UNESCO 2003 [47] về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đa dạng văn hoá và là sự đảm bảo cho sự phát triển bền vững, công ước đã công nhận hợp pháp các nền “văn hoá sống”, tiếp tục khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá phi vật thể. Tại Hội nghị bảo vệ và xúc tiến đa dạng văn hoá của UNESCO năm 2005 (Paris, Pháp) đã khẳng định rõ trong công ước rằng tính sáng tạo và tăng cường năng lực sản xuất của cộng đồng được thiết lập bằng các chương trình giáo dục, đào tạo và trao đổi trong các cơ quan văn hoá. Các biện pháp này cần thực hiện theo cách thức khoa học để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến di sản truyền thống của cộng đồng [48]. Đến hội nghị chuyên gia về sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể của UNESCO năm 2006 (Tokyo, Nhật Bản) [91] bàn về những yếu tố xoay quanh khái niệm cộng đồng, khẳng định tầm quan trọng của các thiết chế công cộng. Sự hợp tác
  18. 15 của bảo tàng với cộng đồng là vô cùng cần thiết nhằm mục đích quảng bá và bảo vệ để đảm bảo sự bền vững của di sản. Nội dung Hội nghị cho rằng cộng đồng là các nhóm người mang theo truyền thống một cách không cụ thể, đưa ra định nghĩa về cộng đồng, sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo tồn di sản văn hoá với tư cách là người sáng tạo, lưu giữ và thực hành di sản văn hoá. Hội nghị ICOM 2004 về “Bảo tàng và Di sản văn hoá phi vật thể” (Hàn Quốc) đề cập đến vai trò của Bảo tàng trong việc kết nối cộng đồng chủ thể văn hoá và khách tham quan, thúc đẩy quảng bá di sản văn hoá như một giải pháp nhằm phát huy di sản văn hoá phi vật thể [13]. Theo công cụ quốc tế mới, tháng 8 năm 2007 [71] hội đồng Bảo tàng Quốc tế ICOM sau đó đã thông qua một định nghĩa sửa đổi về bảo tàng, đặt cả “di sản vật thể và phi vật thể” làm trung tâm, chủ đề chính cho các bảo tàng với các hoạt động: bảo tồn, nghiên cứu, giao tiếp và triển lãm. Đây có thể coi là cuộc cách mạng đáng kể cho các bảo tàng trong Thế kỷ XXI, điều này đánh dấu một bước ngoặt lớn cho các bảo tàng để xem xét ý nghĩa của sự phát triển mới này. Các bảo tàng đã và đang được nhìn nhận tại tất cả các nước như là thiết chế văn hoá có vai trò quan trọng trong xã hội và là yếu tố then chốt trong gắn kết và hội nhập [49]. Theo nghĩa này, họ có thể giúp cộng đồng đối mặt với những thay đổi sâu sắc trong xã hội, bao gồm những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng, sự biến đổi và sự mai một của các di sản văn hoá. Đặc biệt trong trường hợp di sản văn hoá của người dân địa phương được đại diện trong các bộ sưu tập của bảo tàng thì cần phải có biện pháp thích hợp đến tạo điều kiện thuận lợi cho việc đối thoại, xây dựng mối quan hệ bền chặt với những người dân bản địa liên quan đến việc quản lý các sưu tập đó. Từ nội dung tại các hội thảo, toạ đàm đề cập đã mở ra một cách tiếp cận mới về cộng đồng, đó là mối liên hệ giữa bảo tàng (hiện vật, công chúng) và cộng đồng/chủ thể di sản văn hoá. Tuy nhiên, vấn đề còn chưa làm sáng tỏ đó là phương thức nào có thể kết nối các lực lượng này vào một hoạt động mang tính công khai, để công chúng được thưởng thức các giá trị văn hoá một cách toàn vẹn nhất; để thấy được vai trò của chủ thể văn hoá hay nói cách khác là cộng đồng trong việc bảo tồn, lưu giữ, thực hành và trao truyền di sản văn hoá đang nắm giữ. - Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa bảo tàng và cộng đồng Các nghiên cứu của Bảo tàng học Quốc tế đã thảo luận rất nhiều về mối quan hệ giữa bảo tàng và cộng đồng. Một điểm chung trong các nghiên cứu đó là đều khẳng định rằng: Bảo tàng và cộng đồng của bảo tàng về lý thuyết và thực hành có một sức mạnh lớn để định hình giá trị của chính bảo tàng, vì bảo tàng là thiết chế văn hoá sống do đó các bảo tàng phải đang thay đổi và thường xuyên xem lại các mục đích của họ hướng tới cộng đồng họ phản ánh [59]. Teresa Cristina Scheiner (1995) đến từ Brazil, trong bài báo “Về bảo tàng, cộng đồng và thuyết tương đối của tất cả” [92, tr.95] , nhấn mạnh vào thuyết tương đối của các viện bảo tàng. Thảo luận về cộng đồng, tác giả nói rằng cần phải xác định cộng đồng nào
  19. 16 chúng ta đang đề cập đến khi áp dụng lý thuyết bảo tàng học. Bảo tàng và cộng đồng là những khái niệm tương đối, (1) đầu tiên là nâng cao năng lực của cộng đồng bảo tàng học, (2) thứ hai đòi hỏi một mức độ tham gia cao và (3) thứ ba ngụ ý rằng tìm kiếm kiến thức phải được thực hiện trong chính cộng đồng. Đồng suy nghĩ, Kreps (2003) [74] cho rằng bảo tàng nhận ra người dân - là người nắm giữ, thực hành và duy trì kiến thức, kỹ năng và phải là người trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo tồn. Trong một nghiên cứu khác, Peter David phản ánh công việc bảo tàng làm với cộng đồng, các dự án và các tri thức cộng đồng không giống với khái niệm cho rằng bảo tàng là nơi lưu giữ hiện vật của quá khứ. Và trưng bày di sản văn hoá không giới hạn là các yếu tố vật chất trong bức tường bảo tàng mà còn là nơi chứa đựng di sản văn hoá phi vật thể, môi trường và lịch sử nguồn gốc câu chuyện liên quan đến hiện vật [86]. Điều này mở rộng hơn có thể được coi là bảo tàng trực tiếp quan tâm và ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng. Cũng trong bài viết David thừa nhận rằng “biểu hiện của bảo tàng và cái gọi là cộng đồng vô cùng phức tạp”, nó luôn thay đổi gắn với văn hoá phi vật thể. Đồng quan điểm cho rằng làm việc với cộng đồng là công việc vô cùng phức tạp, Newman [85] khẳng định, dù khó khăn nhưng các dự án có tính đến quan điểm của cộng đồng hoặc sự tham gia của cộng đồng tạo ra mối quan tâm liên tục trong các vấn đề đương đại và thường gắn với thuật ngữ “phát triển bền vững”. Khẳng định mối quan hệ giữa bảo tàng và cộng đồng thực sự lâu dài vì chúng luôn đan xen lẫn nhau: Sự liên kết giữa bảo tàng, di sản và cộng đồng rất phức tạp đến nỗi khó có thể phân biệt cái nào dẫn dắt cái kia – di sản xây dựng cộng đồng hay cộng đồng xây dựng di sản? [63]. Cộng đồng cần di sản hoặc kinh nghiệm để hình thành và phát triển và bảo tàng cần cộng đồng để thể hiện bản sắc cộng đồng và nhận ra giá trị cũng như mục đích của bảo tàng. Các nghiên cứu về mối quan hệ nay chủ yếu xoay quanh các khía cạnh quan trọng của những khác biệt và tương đồng này. Stephen Weil – nhà nghiên cứu về bảo tàng học tại Hoa Kỳ đã khẳng định Bảo tàng cần phải hiểu giá trị của mình hơn chỉ là duy trì các bộ sưu tập hiếm. Bảo tàng sẽ phát triển mạnh khi họ đưa ra câu trả lời hấp dẫn cho câu hỏi, đáp ứng nhu cầu cộng đồng đang diễn ra là gì? Ông nhấn mạnh rằng mỗi bảo tàng phải tìm ra câu trả lời đúng cho mình vì mỗi cộng đồng bảo tàng hướng tới có phạm vi nhu cầu khác nhau đòi hỏi những cách đáp ứng khác nhau. Không có cách tiếp cận phổ quát cho tất cả các bảo tàng [87, tr.201]. Đồng quan điểm với Stephen Weil, tác giả Laura Peers and Alison K.Brown trong cuốn Bảo tàng và cộng đồng nguồn [80] cho rằng cộng đồng nguồn có quyền tiếp cận các hoạt động gắn với di sản của họ được tổ chức tại bảo tàng. Từ đó khẳng định cốt lõi của quan điểm mới này là một cam kết về mối quan hệ giữa một bảo tàng và cộng đồng nguồn trong đó cả hai bên đều bình đẳng và liên quan đến việc chia sẻ kỹ năng, kiến thức và sức mạnh để tạo giá trị cho cả hai bên. Tiến sĩ Piotr Bienkowski – chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, di sản và bảo tàng tại Vương quốc Anh. Trong nghiên cứu “Cộng đồng và
  20. 17 Bảo tàng là đối tác hoạt động: Học tập phát triển từ sáng kiến Bảo tàng” [89] đề cập khá chi tiết về thực tiễn có sự tham gia tại bảo tàng, khẳng định đây không phải việc cung cấp các dự án ngắn hạn tới cộng đồng mà tập trung vào việc tạo điều kiện để tổ chức bảo tàng có sự tham gia của cộng đồng trở thành cốt lõi, gắn bó và bền vững. Chương trình được xây dựng dựa trên một tham vấn rộng rãi từ năm 2008 đưa ra kết luận rằng sự tham gia của cộng đồng trong bảo tàng được cho là không thành công vì hầu như các chương trình tham gia đều là ngắn hạn và cộng đồng chưa trở thành đối tác tích cực. Do đó công trình nghiên cứu này được xây dựng nên để giải quyết những vấn đề nêu ra trong khảo sát đó. Công trình được kết cấu dựa trên 4 nội dung: (1) Tìm hiểu nhu cầu của địa phương (2) Xây dựng một mạng lưới cộng đồng (3) Xây dựng năng lực cộng đồng và hỗ trợ nhân viên bảo tàng học cách làm việc với cộng đồng (4) Đánh giá hoạt động. Quá trình đi trả lời câu hỏi: “Chúng ta cần khám phá cách các bảo tàng tương tác với cộng đồng của họ?” lựa chọn nghiên cứu điển hình tại một số bảo tàng ở Mỹ La Tinh và Châu Âu, nhóm tác giả thuộc dự án của EULAC museum [75, tr.21-23] đề cập đến các khái niệm, tính năng chính về thực tiễn để xác định, duy trì và thúc đẩy sự bền vững của các cộng đồng trong bảo tàng. Kết luận được đưa ra sau quá trình nghiên cứu đó là hoạt động của bảo tàng có thể vượt ngoài các quan điểm truyền thống về sưu tập, trưng bày, kết hợp với trình diễn di sản văn hoá. Bảo tàng thúc đẩy sự bền vững, đa dạng và tất cả các khía cạnh liên quan đến trao quyền và đảm bảo quyền lợi cho cộng đồng. Để đo lường tác động của bảo tàng với cộng đồng của họ, tác giả Lynda Kelly [81] đã chỉ ra rằng cần có các bảo tàng đáp ứng các vấn đề xã hội như dân số và tính bền vững, công bằng xã hội và quyền của người dân địa phương. Trong bài viết, tác giả đã thảo luận về những thách thức đối với các bảo tàng trong việc đo lường tác động và đáp ứng nhu cầu của khán giả thông qua 2 dự án là “Điều tra tác động của bảo tàng trong cộng đồng địa phương họ phản ánh”, và dự án “Trưng bày như là một nơi để thảo luận – Vai trò của bảo tàng trong xã hội đương đại” Ở Việt Nam, nhận thấy được tầm quan trọng của cộng đồng, nhiều hội thảo, nghiên cứu cũng đã đưa ra nhận định về vai trò của cộng đồng trong hoạt động của bảo tàng. Khẳng định bảo tàng hiện giờ không chỉ phát triển và hoạt động bên trong bức tường vốn có với những hiện vật sẵn tại kho cơ sở, mà bảo tàng phải liên kết chặt chẽ với cộng đồng/chủ thể văn hoá để hiện vật được “sống” trong môi trường bảo tàng; bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ, phát huy mà còn là nơi trao truyền các giá trị di sản văn hoá. Hội thảo “Bảo tàng – Cộng đồng: Quan điểm và cách tiếp cận” được Bảo tàng DTHVN tổ chức năm 2015 là dịp để giới chuyên môn bảo tàng cùng thảo luận, đánh giá, chia sẻ các kinh nghiệm về tổ chức, hoạt động bảo tàng gắn với cộng đồng [6]. Hơn 50 bài tham luận bàn về các vấn đề (1) nghiên cứu – sưu tầm, xây dựng bộ sưu tập hiện vật; (2) xây dựng và tổ chức thực hiện trưng bày ở bảo tàng; (3) hoạt động giáo dục và trình diễn văn hoá phi vật thể tại bảo tàng; (4) cộng đồng trong hoạt động bảo tàng. Các tham luận đã chỉ ra vai trò vị trí của cộng đồng trong hoạt động bảo tàng; cần phải làm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0