intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Ba vị thánh trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh và tâm thức dân gian ở vùng châu thổ Bắc Bộ

Chia sẻ: Trần Văn Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:190

82
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu về hành trạng, tiểu sử linh thiêng của ba vị thánh Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không tại một số ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh nhằm luận giải về tâm thức dân gian của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trong tiến trình phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Thông qua phân tích hiện trạng, tiểu sử linh thiêng, những hình thức thờ phụng ba vị thánh, luận án phân tích mối quan hệ giữa tâm thức dân gian, kinh tế thị trường, đời sống xã hội, chính sách và thị trường tôn giáo. Luận án hướng đến làm sáng tỏ đời sống văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trong sự vận động của lịch sử, xu hướng thánh hóa, cũng như cơ sở của sự tồn tại tiếp nối việc phụng thờ các vị thánh trong xã hội đương đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Ba vị thánh trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh và tâm thức dân gian ở vùng châu thổ Bắc Bộ

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHÚC MẠNH KIÊN BA VỊ THÁNH TRONG CÁC NGÔI CHÙA TIỀN PHẬT HẬU THÁNH VÀ TÂM THỨC DÂN GIAN Ở VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHÚC MẠNH KIÊN BA VỊ THÁNH TRONG CÁC NGÔI CHÙA TIỀN PHẬT HẬU THÁNH VÀ TÂM THỨC DÂN GIAN Ở VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Ngành: Văn hóa dân gian Mã số: 9 22 90 41 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS PHẠM QUỲNH PHƢƠNG 2. PGS.TS PHẠM THU HƢƠNG HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan rằng luận án tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào. Các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đã được tiếp thu một cách trung thực trong luận án. Tác giả luận án Khúc Mạnh Kiên
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án tiến sĩ này tôi chân thành cảm ơn PGS. TS Phạm Quỳnh Phương và PGS. TS Phạm Thu Hương đã nhiệt tình, trách nhiệm hướng dẫn khoa học cho tôi từ khi hình thành ý tưởng cho tới lúc hoàn thành luận án tiến sĩ. Cảm ơn Khoa Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu. Cảm ơn các đồng nghiệp tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Huyện ủy Nam Trực, tỉnh Nam Định đã hỗ trợ tôi trong công tác; trân trọng cảm ơn gia đình, người thân đã luôn đồng hành, ủng hộ, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án tiến sĩ. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tác giả luận án Khúc Mạnh Kiên
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 9 1.1. Tình hình nghiên cứu ......................................................................................... 9 1.1.1. Nghiên cứu tâm thức dân gian về các vị thánh thần .........................................9 1.1.2. Các nghiên cứu về ba vị thánh và các di tích lễ hội liên quan ........................14 1.2. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 21 1.2.1. Thần, thánh, thánh tổ trong hệ thống tín ngưỡng của người Việt ...................21 1.2.2. Tâm thức dân gian ...........................................................................................23 1.2.3. Ma lực và tiểu sử linh thiêng ...........................................................................26 1.2.4. Lý thuyết vùng văn hóa ...................................................................................30 Chƣơng 2: BỐI CẢNH HÌNH THÀNH TÂM THỨC DÂN GIAN VỀ BA VỊ THÁNH Ở VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ ............................................................ 33 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế ..............................................................................33 2.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................................... 33 2.1.2. Điều kiện kinh tế ............................................................................................. 35 2.2. Điều kiện văn hoá xã hội..................................................................................37 2.3. Sự hình thành của các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh ................................43 2.3.1. Bối cảnh chính trị, xã hội ................................................................................ 43 2.3.2. Sự ra đời và phát triển chùa tiền Phật hậu Thánh ........................................... 47 Chƣơng 3: HÀNH TRẠNG CỦA BA VỊ THÁNH .............................................. 54 3.1. Tiểu sử và công lao của ba vị thánh ............................................................... 54 3.1.1. Tiểu sử và công lao của thánh Từ Đạo Hạnh .................................................. 54 3.1.2. Tiểu sử và công lao của thánh Nguyễn Minh Không ..................................... 57 3.1.3. Tiểu sử và công lao của thánh Dương Không Lộ ........................................... 59 3.1.4. Tiểu sử linh thiêng của ba vị thánh ................................................................. 61 3.2. Thiêng hóa và ma lực của ba vị thánh ...........................................................64 3.2.1. Thiêng hóa ba vị thánh .................................................................................... 64 3.2.2. Ma lực của ba vị thánh .................................................................................... 69
  6. Chƣơng 4: CÁC BIỂU HIỆN CỦA TÂM THỨC DÂN GIAN VỀ BA VỊ THÁNH .................................................................................................................... 73 4.1. Không gian thờ phụng ba vị thánh .................................................................73 4.1.1. Đặc điểm của chùa tiền Phật hậu Thánh ......................................................... 74 4.1.2. Mặt bằng, kiến trúc của các ngôi chùa thờ ba vị thánh ................................... 78 4.2. Nghi thức thờ phụng các vị thánh ..................................................................82 4.2.1. Lễ hội .............................................................................................................. 82 4.2.2. Thể hiện tiểu sử, sự tích về ba vị thánh .......................................................... 86 4.3. Lá sớ và cầu khấn .............................................................................................88 4.3.1. Thông điệp truyền tải của lá sớ ....................................................................... 88 4.3.2. Thông điệp truyền tải trong cầu khấn ............................................................. 91 4.4. Nhận thức và trải nghiệm của ngƣời dân về ba vị thánh .............................94 4.4.1. Ba vị thánh là phúc thần .................................................................................. 95 4.4.2. Ba vị thánh là thần y chữa bệnh ....................................................................100 4.4.3. Ba vị thánh là tổ nghề ...................................................................................103 Chƣơng 5: THỜ THÁNH Ở VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRUYỀN THỐNG VÀ ĐƢƠNG ĐẠI .................................................................110 5.1 Xu hướng thánh hoá và hỗn dung tôn giáo tín ngưỡng trong tâm thức dân gian ....109 5.1.1. Xu hướng thánh hóa và ma lực của các vị thánh ..........................................109 5.1.2. Sự hỗn dung tôn giáo trong tâm thức dân gian .............................................115 5.2. Chính sách tôn giáo tín ngƣỡng ....................................................................120 5.3. Kinh tế thị trƣờng ..........................................................................................124 5.4. Thị trƣờng tôn giáo ........................................................................................132 KẾT LUẬN ............................................................................................................141 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................147 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................148
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CP Chính phủ CT Chỉ thị HĐND Hội đồng nhân dân KHXH Khoa học xã hội NCS Nghiên cứu sinh NĐ Nghị định NQ Nghị quyết Nxb Nhà xuất bản Tp. Thành phố TW Trung ương UBND Ủy ban nhân dân UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc VHTT Văn hóa thông tin
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tại vùng châu thổ Bắc Bộ phổ biến một dạng thức chùa có cấu trúc bài trí và hình thức thờ phụng khá đặc biệt, được gọi là chùa tiền Phật hậu Thánh. Đây là một dạng chùa về mặt tổng thể tương đối tương đồng về kiến trúc, về bài trí ban thờ, về không gian thờ cúng, về đối tượng thờ cúng, về thực hành tôn giáo, lễ hội, tế lễ, v.v. Trên thực tế việc gọi các ngôi chùa là tiền Phật hậu Thánh, theo nghĩa đen, đôi khi cũng chưa thực sự phản ánh đúng như tên gọi vì tại một số ngôi chùa, ban thờ Phật và ban thờ thánh đặt ngang nhau ở Tam bảo (chùa Đại Bi ở Nam Giang, Nam Trực, Nam Định). Hay đơn giản hơn, có ngôi chùa thờ Phật nhưng lại đặt thêm tượng thờ thánh trong một gian thờ riêng (như khuôn viên chùa Tống Xá, Ý Yên, Nam Định). Cũng có những ngôi chùa dạng tiền Phật hậu Thánh nhưng có khi gọi là đền, tiêu biểu là chùa thờ thánh Nguyễn Minh Không ở xã Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, tên cổ là chùa Điềm Giang. Theo tác giả Nguyễn Văn Quý, có khoảng 15 chùa chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt ở Xứ Đoài [91], nhưng theo khảo sát của tác giả luận án, có 39 ngôi chùa thờ ba vị thánh tập trung chủ yếu ở Tp. Hà Nội, tỉnh Nam Định, tỉnh Thái Bình, và một số lượng nhỏ ở tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên (Xem Phụ lục 1). Đối tượng thờ cúng chính trong nhiều ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh là các vị thánh, đó là một số thiền sư của Phật giáo Việt Nam, có công lao, hành trạng, tiểu sử mang đậm dấu ấn văn hóa của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Qua sử sách và số liệu khảo sát cho thấy, các vị thánh được biết đến nhiều trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh là thánh Từ Đạo Hạnh, thánh Dương Không Lộ, thánh Nguyễn Minh Không, thánh Nguyễn Giác Hải và thánh Bối (Nguyễn Nhũ).1 Đặc biệt, ba vị Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là các vị thánh/thiền sư nổi tiếng thời Lý, được nhân dân tôn thờ như là những vị thánh tổ, phù hộ cho nghề rèn, nghề chài lưới, nghề trồng lúa, múa rối nước và rối cạn. Ở một số chùa, họ còn được thờ phụng như là vị thần y, gắn với hành trạng được phản ánh trong huyền thoại về việc họ chữa khỏi bệnh lạ cho vua bằng khả năng siêu việt. Điểm chung 1 Theo sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam. 1993. Ngoài chư Phật, chùa Bối Khê còn thờ Minh Đức chân nhân đời Trần. Ngài họ Nguyễn, húy là Nữ, tự Bình An, tu hành đắc đạo, tăng đồ theo thụ giáo rất đông. 1
  9. thờ phụng ba vị thánh trong tâm thức ngày nay là người dân tôn thờ họ như là phúc thần, là một đấng tối cao mà người dân có thể cầu đến đức thánh mọi điều mà họ ước vọng như cầu tự, cầu sức khỏe, cầu chữa bệnh, cầu công danh sự nghiệp, cầu thi cử, học hành, cầu làm ăn buôn bán, v.v. Tại các ngôi chùa này không chỉ diễn ra các lễ nghi của Phật giáo, mà còn tổ chức lễ hội tôn thờ các vị thánh theo thể thức thờ thần linh của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Trong tâm thức, người dân tới các ngôi chùa này chủ yếu tế lễ và cầu thánh ban phúc, mà ít chú trọng phần cầu Phật cứu độ. Vì vậy, tuy là chùa, nhưng ở nhiều ngôi chùa yếu tố thờ thánh còn nổi trội hơn cả thờ Phật. Việc thờ phụng các vị thánh, cùng với hệ thống các di tích, lễ hội, nghi lễ, tập tục thờ cúng của người dân đối với các vị thánh thể hiện tâm thức dân gian của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ, đồng thời cũng phản ánh những nét đặc trưng văn hóa vùng. Tâm thức này còn được thể hiện trong nhiều hành vi tôn giáo như thờ cúng vào những ngày húy, kỵ, lễ tiết và thậm chí trong cuộc sống hàng ngày, trong làm ăn, buôn bán, trong chữa bệnh, cầu mong cuộc sống tốt đẹp hơn với những ước vọng mang tính riêng tư, cá nhân, gia đình và cộng đồng. Cho đến nay, vai trò, ảnh hưởng của ba vị thánh trong đời sống tinh thần và tâm linh của người dân vẫn khá đậm nét ở một số địa phương, biểu hiện ở các lễ hội tôn thờ các vị thánh, trong cuộc sống tâm linh, các tục lệ, nghi lễ và trong công việc làm ăn buôn bán, cầu tự, cầu sức khỏe, cầu bình an. Cũng có một số nơi, ảnh hưởng của các vị thánh mờ nhạt hơn so với sự nổi lên của một số vị thần trong bối cảnh kinh tế thị trường. Việc thờ phụng ba vị thánh đã được quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên, các công trình đã xuất bản chủ yếu ghi chép về lai lịch, thần tích và các giá trị về khảo cổ, kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật của các chùa tiền Phật hậu Thánh; cũng có một vài nghiên cứu coi việc phụng thờ ba vị thánh/thiền sư này như một hiện tượng văn hóa - tôn giáo - lịch sử, tìm hiểu mối liên hệ giữa các di tích thờ ba vị thánh trong bối cảnh kinh tế, chính trị, tư tưởng, tôn giáo qua các thời kỳ lịch sử, trong không gian địa lý văn hóa vùng, v.v. Tuy nhiên, tác giả luận án thấy rằng chưa có công trình nào lý giải một cách có hệ thống về ba vị thánh từ góc nhìn tâm thức dân gian, cũng như đặt vấn đề tâm thức dân gian thờ ba vị thánh của người Việt trong mối liên hệ với kinh tế thị trường, chính sách và bối cảnh tôn giáo đương đại. Đề tài: “Ba vị thánh 2
  10. trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh và tâm thức dân gian ở vùng châu thổ Bắc Bộ” nhằm bổ khuyết vào hướng nghiên cứu này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nghiên cứu về hành trạng, tiểu sử linh thiêng của ba vị thánh Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không tại một số ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh nhằm luận giải về tâm thức dân gian của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trong tiến trình phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Thông qua phân tích hiện trạng, tiểu sử linh thiêng, những hình thức thờ phụng ba vị thánh, luận án phân tích mối quan hệ giữa tâm thức dân gian, kinh tế thị trường, đời sống xã hội, chính sách và thị trường tôn giáo. Luận án hướng đến làm sáng tỏ đời sống văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trong sự vận động của lịch sử, xu hướng thánh hóa, cũng như cơ sở của sự tồn tại tiếp nối việc phụng thờ các vị thánh trong xã hội đương đại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu hành trạng, tiểu sử linh thiêng của ba vị thánh thông qua các nguồn tư liệu lịch sử, thư tịch, các văn bản khoa cúng, sớ, chúc văn, bài kệ, những câu chuyện, tích truyện liên quan đến các ba vị thánh từ các công trình đã xuất bản, các tư liệu gỡ băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, ghi chép điền dã và sưu tầm tại địa bàn nghiên cứu. - Phân tích những biểu hiện của tâm thức thờ cúng ba vị thánh trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh thông qua không gian thờ cúng, lễ hội dân gian, lời khấn, lá sớ, văn chúc, khoa cúng và trải nghiệm của người dân về ba vị thánh. - Lý giải tính thiêng, sự thánh hóa và mối quan hệ của chúng với ma lực của tiểu sử linh thiêng trong tâm thức dân gian của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. - Bàn luận một số vấn đề tác động đến tâm thức thờ ba vị thánh như sự hỗn dung tôn giáo, xu hướng thánh hóa trong văn hóa Việt Nam, tác động của nền kinh tế thị trường, chính sách và thị trường tôn giáo. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Để hiểu được tâm thức dân gian của người Việt về thờ thánh ở châu thổ Bắc Bộ, đối tượng nghiên cứu của luận án là ba vị thánh Từ Đạo Hạnh, Dương Không 3
  11. Lộ, Nguyễn Minh Không được thờ trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh tiêu biểu, trong đó tập trung vào tiểu sử, hành trạng, thực hành nghi lễ, lễ hội, lá sớ, và quan niệm của người dân về việc thờ phụng các vị thánh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Luận án tìm hiểu về một số ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh tiêu biểu thờ ba vị thánh ở một số địa phương như Tp. Hà Nội, tỉnh Nam Định, tỉnh Thái Bình, tỉnh Ninh Bình. Cụ thể, luận án tập trung vào các ngôi chùa sau: chùa Thầy, chùa Láng ở Tp. Hà Nội, chùa Đại Bi ở tỉnh Nam Định thờ Từ Đạo Hạnh; chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thái Bình thờ Dương Không Lộ, chùa Điềm Giang ở tỉnh Ninh Bình thờ Nguyễn Minh Không trong sự so sánh với việc thờ phụng Nguyễn Minh Không tại chùa Tống Xá ở tỉnh Nam Định [Xem Phụ lục 1]. Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu sự xuất hiện của các vị thánh được thờ trong các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh, lai lịch, tiểu sử, hành trạng, công lao, ảnh hưởng của các vị thánh trong tâm thức dân gian thông qua các câu chuyện, sử sách, huyền thoại được ghi chép từ thế kỷ XIV - XV. Đặc biệt, mốc thời gian quan trọng của vấn đề nghiên cứu trong luận án là tâm thức của người dân hiện nay, trong tham chiếu với giai đoạn Đổi mới sau 1986, khi nhà nước có những chính sách về đổi mới trong kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo và sự tác động mạnh mẽ của những lĩnh vực này đối với thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. 4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cách tiếp cận - Tiếp cận liên ngành một hiện tượng văn hóa: Là một đề tài thuộc chuyên ngành văn hóa dân gian, bên cạnh góc nhìn văn hóa dân gian, luận án còn kết hợp các thao tác nghiên cứu của nhiều ngành liên quan như lịch sử, văn hóa học, nhân học văn hóa, dân tộc học nhằm tổng hợp, phân tích số liệu, và đúc kết những luận điểm nghiên cứu. Luận án coi việc thờ phụng ba vị thánh như một hiện tượng văn hóa và tôn giáo, thể hiện những chiều kích lịch sử và xã hội, kinh tế và chính trị của xã hội Việt Nam, cả về mặt thời gian và không gian. Về mặt lịch sử, hiện tượng thờ ba vị thánh bắt nguồn từ những bối cảnh lịch sử gắn với không gian địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ, với sự phát triển của Phật giáo và sự dung hợp tôn giáo, cũng như sự hình thành và phát triển của những ngành nghề thủ công. Trong bối cảnh đương đại, 4
  12. sự thờ phụng ba vị thánh tiếp tục phản chiếu những biến động của đời sống kinh tế, tôn giáo và chính trị hiện nay. Mặt khác, “tâm thức dân gian” rất khó nghiên cứu một cách trực tiếp, bởi nó mang nội hàm gắn với sự ẩn: sự cảm nhận, nhận thức, quan điểm, ý thức hay cảm xúc. Vì vậy, thay vì tiếp cận “tâm thức dân gian” như một hiện thực cụ thể có tính bản chất, luận án quan tâm đến các biểu hiện bên ngoài của tâm thức như cách tiểu sử các vị thánh được kể trong các tài liệu lịch sử, các chi tiết được gán nghĩa, các huyền thoại được lưu truyền, cách các di tích được bài trí, những lễ hội được tổ chức, cũng như quan điểm của người dân về những mong muốn và ước vọng của họ qua thực hành tế lễ và cầu cúng tới ba vị thánh. Lá sớ cũng là một biểu hiện tâm thức có ý nghĩa, như là thông điệp của người trần gửi tới các vị thánh, cầu xin sự trợ giúp cho cuộc sống tốt đẹp, dẹp tai ương, trừ tà, trừ quỷ, hay cầu công danh địa vị, cầu tự, cầu chữa bệnh, hay cầu học hành, đỗ đạt. - Tiếp cận từ quan điểm của người trong cuộc: Cách tiếp cận này nhằm tìm hiểu tâm thức thờ thánh từ tiếng nói của những người thực hành (sư trụ trì, từ đền, thầy cúng tại các ngôi chùa, những người làm lễ và thụ lễ, người đi lễ). Mặc dù mọi nghiên cứu đều bị chi phối bởi quan điểm của nhà nghiên cứu, nhưng cách tiếp cận quan điểm của người trong cuộc đòi hỏi sự tôn trọng chủ thể, coi mọi tiếng nói của họ đều có giá trị. Những câu chuyện về thờ cúng, về việc cầu tự, về chữa bệnh, hay đi lễ, dù của các vị trụ trì chùa, của người dân, hay của các doanh nhân đều phản ánh các khía cạnh tâm thức của người dân về các vị thánh. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Tập hợp và phân tích các tài liệu thứ cấp và tài liệu sưu tầm tại địa bàn nghiên cứu: Các tài liệu chính sử; các nguồn thư tịch cổ (minh văn trên bia, chuông, sách đồng, biển gỗ, hoành phi câu đối v.v), các tư liệu phi chính thống như truyền thuyết dân gian, các lá sớ, các bài văn cúng liên quan đến ba vị thánh; các công trình nghiên cứu đã công bố để có thể phác họa chân dung của ba vị thánh trong lịch sử, cũng như trong tâm thức dân gian. Đây là phương pháp khai thác tư liệu nghiên cứu tổng hợp của nhiều chuyên ngành từ các công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ nhằm hiểu được một cách tổng thể, kế thừa và vận dụng những kết quả những công trình trước. Bên cạnh đó, NCS sưu tầm các bài cúng, lá sớ, các bài văn tế, các bài kệ, các tài liệu liên quan khác tại các chùa, đền thờ ba vị thánh. Đây là những nguồn 5
  13. tư liệu khá quan trọng mà những người chủ tế, những thầy cúng, pháp sư, những nhà sư, bà vãi, thủ đền đang sử dụng trong việc cúng tế, phụng thờ. - Quan sát tham dự: Từ năm 2013 đến 2019, NCS trực tiếp đi nghiên cứu điền dã tại các chùa, tiêu biểu là hệ thống chùa thờ ba vị thánh như chùa Thầy, chùa Láng, chùa Đại Bi, chùa Tống Xá ở Nam Định, chùa Điềm Giang ở Ninh Bình, chùa Keo ở Nam Định và Thái Bình v.v. Vào giai đoạn đầu làm nghiên cứu điền dã (2013 - 2015), NCS tập trung tham dự các lễ hội, tế lễ, và ghi chép lại những quan sát về những hoạt động thờ cúng, lễ hội tại các ngôi chùa. Trong những năm này, NCS tìm hiểu các lễ cúng của các gia đình, các doanh nhân ở làng Tống Xá nơi thờ Nguyễn Minh Không, các buổi tế lễ cụ thể của các cá nhân, gia đình tại các chùa, đền. NCS trực tiếp tham gia vào các lễ hội, những buổi cúng dâng sao giải hạn, chữa bệnh, cầu tự như một thành viên của cộng đồng. Những điều nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy tại địa bàn nghiên cứu đã giúp NCS nhiều trong việc luận giải về cuộc sống tinh thần, đức tin của người dân Việt, thể hiện tín ngưỡng đa thần vào những thế lực siêu nhiên mà họ tin tưởng, thờ phụng. - Phỏng vấn sâu: Luận án quan tâm phỏng vấn các nhà sư, đại đức, từ đền, thầy cúng hàng ngày trông coi các ngôi chùa/đền liên quan, những người trong Ban Khánh tiết, Ban Quản lý chùa, và những người dân, doanh nhân, những người đi lễ nói chung. Những cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện vào giai đoạn sau của quá trình nghiên cứu điền dã (2017 - nửa đầu năm 2019) khi NCS đã có một số mối quan hệ, trao đổi với những sư trụ trì, Ban Quản lý di tích, cũng như một số đối tượng phỏng vấn. Với mục đích nghiên cứu tâm thức dân gian về việc thờ cúng các vị thánh trong bối cảnh hiện nay, phương pháp khai thác thông tin, phỏng vấn sâu những người trực tiếp tham gia vào tế lễ, cúng bái như thủ từ, chủ tế, thầy cúng, pháp sư, người viết sớ và những người đi lễ là phương pháp quan trọng của luận án này. Trong hệ thống chùa tiền Phật hậu Thánh, người trụ trì ở chùa có thể là nhà sư, đại đức (như chùa Đại Bi ở Nam Định, chùa Keo ở Thái Bình), có thể chùa không có sư mà do một Ban quản lý phụ trách còn người chịu trách nhiệm tế lễ là một pháp sư (như chùa Keo ở Nam Định). Các câu hỏi phỏng vấn tập trung cụ thể vào những hành vi tôn giáo liên quan đến ba vị thánh tổ, như các lễ cúng thỉnh tới vị thánh, các 6
  14. bài cúng liên quan, các câu chuyện về việc thỉnh cầu tới vị thánh, cũng như nội dung các lá sớ mà người dân yêu cầu nhà chùa, thầy cúng thỉnh lên thánh. NCS tập trung phỏng vấn một số thông tín viên hiểu biết về việc người dân đi lễ chùa như thầy cúng, pháp sư, những người viết sớ, những người “kêu thay lạy đỡ” trong chùa. Một số thông tín viên am hiểu và có thể cung cấp những thông tin quan trọng cho luận án là thầy cúng ở chùa Keo thờ Dương Không Lộ ở Nam Định, nhà sư ở chùa Đại Bi thờ Từ Đạo Hạnh ở Nam Định, thầy cúng ở chùa Thầy v.v. Những người viết sớ tại chùa và cúng “thuê” cho người dân là những người cung cấp nhiều thông tin cho NCS về mục đích cầu cúng của người dân. Việc phỏng vấn sâu cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Những người ở Ban quản lý di tích, những nhà quản lý văn hóa địa phương và những người trong ban cúng tế của làng thường cho rằng những chuyện cúng lễ, thờ phụng các vị thánh phải để cho những vị đại đức trụ trì có uy tín, có bằng cấp và có tiếng nói tại địa phương trả lời. Các vị sư trụ trì, đại đức lại có khuynh hướng nói về chùa, về tu tập, về các khóa lễ trong năm, việc “giáo hóa” người dân không “mê tín dị đoan” tin vào thần thánh. Khi nói đến các vị thánh, họ đều kể các truyền thuyết, dã sử đã lưu lại trong sử sách. Có vị sư ở Thái Bình còn từ chối phỏng vấn vì nhiều lý do, trong đó có việc một số nhà báo trước đây đã viết bài không đúng với tinh thần của nhà chùa. Vì vậy, thực tế nghiên cứu cho thấy những ngôi chùa có sư, đại đức phụ trách thì việc khai thác thông tin về tâm thức thờ phụng của người dân đối với vị thánh tổ khó khăn hơn. Số liệu tương đối phong phú mà NCS thu thập được tại địa bàn nghiên cứu chính là ở những ngôi chùa mà người trụ trì, trông coi không phải là sư như ở chùa Keo thờ Dương Không Lộ (Nam Định), Chùa Tống Xá thờ Nguyễn Minh Không (Nam Định), chùa Điềm Giang thờ Nguyễn Minh Không (Ninh Bình), v.v. Mặt khác, những thầy cúng, người viết sớ, những người kêu thay lạy đỡ là những người nắm được nội dung người dân cầu khấn khi đi lễ ở chùa. Việc tiếp cận người “cúng thuê” tại các di tích cũng khá khó khăn vì họ thường bị coi là những người hoạt động “bất hợp pháp” tại chùa. Bên cạnh đó, những câu chuyện của những người đi lễ, cầu tự, chữa bệnh cũng khá thú vị. NCS đã nói chuyện, phỏng vấn khai thác các câu chuyện đi lễ, những mảnh đời của những người hiếm muộn, những câu chuyện riêng về việc cầu xin của những người thông tín viên chia sẻ những khó khăn, bất trắc trong cuộc đời 7
  15. và họ đã tìm đến của thánh để cầu xin những việc của đời thường như chữa bệnh, sinh con, giải tỏa những khúc mắc trong đời. Tất cả những thông tin khai thác từ những người phụ trách, chấp tác tại chùa cũng như người dân là nguồn tư liệu quan trọng để luận giải về tâm thức thờ ba vị thánh trong xã hội đương đại. Để đảm bảo các yêu cầu về mặt đạo đức nghiên cứu, tôn trọng sự riêng tư và bảo mật danh tính, tên riêng của những người cung cấp thông tin trong luận án này đã được thay đổi. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án nhìn nhận việc thờ phụng ba vị thánh như một hiện tượng văn hóa có chiều dài lịch sử của xã hội Việt Nam truyền thống và đương đại. Hiện tượng văn hóa ấy phản ánh tính đa chiều của hiện tượng thờ thánh trong văn hóa người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. - Luận án làm rõ một số quan điểm lý luận về mối quan hệ giữa tiểu sử linh thiêng, ma lực và quyền năng của các vị thánh trong việc lý giải về sự tôn thờ của người Việt cũng như về hệ thống thờ phụng đa thần. - Luận án chỉ ra các biểu hiện thực hành tôn giáo thông qua không gian thờ phụng, lễ hội tôn vinh ba vị thánh vào các dịp thánh sinh, thánh hóa tại các chùa tiền Phật hậu Thánh, trong khóa lễ, cúng tế, lời cầu cúng. Luận án góp phần trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tích thực hành tôn giáo, không phải giáo lý, trong nghiên cứu văn hóa dân gian và nhân học tôn giáo. - Luận án góp phần vào việc nhận diện bức tranh chung về sự vận hành, biến đổi và sự tác động từ nhiều chiều đối với một hiện tượng tôn giáo. Qua đó, luận án chỉ ra quá trình vận động của tâm thức; việc thờ các vị thánh trong xã hội hiện nay không phải là một sự hóa thạch văn hóa, mà là một quá trình năng động trong sự tương tác với bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội và thị trường tôn giáo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Thông qua nghiên cứu trường hợp thờ phụng ba vị thánh ở các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh tiêu biểu, luận án chỉ ra ý nghĩa của thực hành tín ngưỡng trong cuộc sống, từ đó góp phần vào cuộc tranh luận về sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội đương đại. Kết quả luận án cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu thực hành tôn giáo tín ngưỡng trong tính chỉnh thể của nó, từ không gian, bối cảnh đến 8
  16. các chiều kích của văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế, và đặc biệt không thể tách rời thực hành tôn giáo với các khía cạnh khác của đời sống con người. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án là một công trình khoa học làm sáng rõ tâm thức thờ phụng của người dân về ba vị thánh, phản ánh hệ thống tín ngưỡng và đức tin của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Vì vậy, luận án có đóng góp thiết thực trong việc hoạch định chính sách và quản lý văn hóa liên quan đến thực hành tín ngưỡng, trong đó có tập tục thờ cúng, lễ hội các các ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh. - Kết quả của luận án đóng góp trong việc nghiên cứu về hệ thống phối thờ, hỗn dung tôn giáo, xu hướng thánh hóa, thị trường tôn giáo hiện nay của người Việt. Luận án được hoàn thiện là tài liệu tham khảo hữu ích trong giảng dạy và nghiên cứu về thực hành tôn giáo, hành vi tôn giáo và tâm thức dân gian. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài chương Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm 5 chương, cụ thể: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận Chương 2: Bối cảnh hình thành tâm thức dân gian về ba vị thánh ở vùng châu thổ Bắc Bộ Chương 3: Hành trạng của ba vị thánh Chương 4: Các biểu hiện của tâm thức dân gian về ba vị thánh Chương 5: Tâm thức dân gian thờ ba vị thánh: Một số vấn đề truyền thống và đương đại 9
  17. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Tình hình nghiên cứu 1.1.1 Nghiên cứu tâm thức dân gian về các vị thánh thần Có khá nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng đa thần, tục thờ thần thánh, các nghi thức thờ phụng các đối tượng được thờ cúng trong đình, đền, chùa, qua đó thể hiện tâm thức dân gian trong đời sống tôn giáo người Việt. Theo học giả Toan Ánh, “đạo thờ thần là một đạo thuần túy Việt Nam và đạo này có từ khi có người Việt Nam [4, tr.109]. Tác giả Trần Quốc Vượng thì khẳng định: “Thờ thần là một đường hướng tôn giáo chính của dân Việt” [118], còn Vũ Ngọc Khánh thì cho rằng ở Việt Nam có một “Đạo Thánh” với một hệ thống các thánh, thờ các anh hùng dân tộc, các nhân vật lịch sử. Trong Đạo Thánh ở Việt Nam [47], Vũ Ngọc Khánh khảo sát 62 vị thánh thông qua truyền thuyết, thần tích, lễ hội và các di tích thờ thánh, phân chia hệ thống các vị thần, thánh thành các thánh ở địa phương, các Thánh Mẫu và các thánh thuộc hệ thống khác. Theo tác giả, người Việt tôn vinh các anh hùng, đức tổ, và cả những lực lượng siêu trần thành thánh là mang tính “tự nguyện, tự phát”: Đạo Thánh mặc nhiên tự hình thành, nhân dân đã phong thánh. Dù triều đình có phong các vị là phúc thần, là thành hoàng... thậm chí đến đại vương đi nữa, thì đó cũng chỉ là thánh. Thần có thể là hạ đẳng, trung đẳng và thương đẳng… dân đều không quan tâm. Họ trân trọng và xem tất cả đều là thánh của họ, của địa phương, của dân tộc [47, tr.91]. Thờ thần, thánh bao gồm việc thờ phụng những nhân vật lịch sử, những người có công với dân với nước và được hóa thánh, những nhân vật huyền thoại, hoặc thờ các vị thần tự nhiên, vật tổ, vật thần như thần Mưa, Gió, Sấm, Sét, thần Cây, thần Đá, các vật tổ, vật thần (thần Rắn, Rùa, Rồng) v.v. Có hai xu hướng trong tâm thức dân gian về các vị thần, đó là xu hướng “lịch sử hoá huyền thoại”, trong đó các nhiên thần được khoác lên mình những tiểu sử có tính lịch sử, và xu hướng “huyền thoại hoá lịch sử”- các vị nhân thần được huyền thoại hoá với các chi tiết kỳ bí và khả năng siêu nhiên [86]. Về tục thờ nhiên thần, theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ: “Thiên thần là những vị thần chỉ nghe nói có sự thiêng liêng nhưng không sinh ra ở đời”, “thần có nguồn gốc từ núi gọi là Sơn thần; có nguồn gốc từ nước là Thủy thần; có nguồn gốc từ đất hoặc án ngự trên đất gọi là Thổ thần. Các thần được gọi tên gắn với các hiện tượng tự nhiên như: Vân thần (mây), Vũ thần (mưa), Phong thần (gió)” v.v.. 9
  18. [dẫn theo 69, tr.32]. Các nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng người Việt đều cho rằng các thần tự nhiên được nhân hóa. Qua thời gian, không gian và qua các bối cảnh lịch sử, văn hóa, các vị thần tự nhiên có thêm những tính cách mới, công năng mới nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân về sự che chở, sự cầu phúc, cầu tài. Điển hình trong tâm thức dân gian, người Việt thờ các vị thần đại diện cho các hiện tượng tự nhiên như thần mưa, thần sấm, thần chớp gắn với hệ thống thờ Tứ Pháp: Pháp Vân (thần Mây) thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (thần Mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi (thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn (các chùa này đều thuộc tỉnh Bắc Ninh) [71, tr.28]. Ngoài thờ các hiện tượng tự nhiên, người Việt còn thờ các vị thần biểu trưng cho không gian và thời gian như: Ngũ hành nương, ngũ phương chí thần, ngũ đạo chi thần, thập nhị hành khiển, v.v., thể hiện khát vọng về sự kéo dài và bảo tồn trạng thái cân bằng trong cuộc sống của họ. Thờ sơn thần là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam, thể hiện thành một hệ tương đối thống nhất - hệ Sơn Tinh - Tản Viên. Ở Việt Nam, Tản Viên được người Kinh và người Mường thờ cúng ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là khu vực núi Ba Vì - vùng đất gốc của hệ sơn thần ở nước ta. Trong bài viết “Mấy ghi nhận về thánh Tản Viên trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”, tác giả Ngô Đức Thịnh đã lý giải quá trình hình thành và lan tỏa thờ phụng thánh Tản Viên trong cộng đồng người Việt - Mường. Từ cốt lõi một vị thần núi, Tản Viên hội nhập vào hệ thống thần thoại Việt - Mường để trở thành vị thần mang tính khai sáng. Sau đó vị thần núi hội nhập vào dòng Đạo giáo dân gian để trở thành một đạo nhân có phép thuật “đi mây về gió” cứu giúp nhân sinh. Và dần dần, vị thần núi trở thành một vị thành hoàng linh thiêng được nhiều làng thờ phụng. Cao hơn tất cả, vị thần núi đã được dân gian tôn thờ là một trong “tứ bất tử” trong hệ thống tín ngưỡng người Việt [99, tr.74-75]. Trong hệ thống thờ, người Việt còn thờ động, thực vật. Hình tượng con rắn, con hổ khá đậm đặc trong tín ngưỡng dân gian, du nhập vào hệ thống tam phủ, tứ phủ. Trong văn hóa dân gian của người Việt ở đồng bằng sông Hồng, rắn là một hình tượng phổ biến và có sức ám ảnh mạnh mẽ nhất. Chúng ta có thể nhận diện được tục thờ rắn thông qua thờ phụng Ông Lốt trong các đền dọc theo sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống và qua các di tích, lễ hội [71, tr.27]. Các cây đại thụ như cây đa, cây si, cây nhãn, cây sấu v.v., được tin là những nơi có ma trú ngụ. “Thần cây đa, ma cây gạo” là câu ngạn ngữ khá phổ biến trong dân gian để ám chỉ những hồn ma linh thiêng và được linh hóa bằng những câu chuyện, huyền thoại. Gốc cây đại thụ cũng là nơi thờ con tinh, hồn của người con 10
  19. gái chết trẻ. Theo tác giả Cadière, “loại này thì được xếp vào ma, rất đáng sợ. Chúng đòi phải được cúng tế. Chúng trả thù người sống” [16, tr.66]. Những nơi thờ cúng này vẫn còn hiển hiện ở các con đường, ngõ xóm ở thành phố, nông thôn, thậm chí trên một số đường cao tốc mà khi san ủi làm đường, một số cây to ở giữa đường, nhưng những người thi công cũng không dám chặt bỏ vì sợ “bị trừng phạt”. Bên cạnh các vị thần tự nhiên được thờ, việc thờ cúng các nhân thần khá phổ biến. Trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, nhân thần “là những vị thần có họ tên, công trạng, quan tước rõ ràng: lúc sống có công lao, trang tiết, lúc chết vẫn thiêng liêng phù trợ cho nước, cho dân. Nhân thần gồm có âm thần (các thần nữ) và dương thần (các thần nam)” [dẫn theo 68, tr.19]. Việc thờ cúng nhân thần xuất phát từ niềm tin vào sự trường tồn của linh hồn. Các nhân vật được thờ lúc sống đều là các danh nhân có công với nước với dân. Người Việt thờ cúng nhằm tưởng nhớ công lao, ân đức của các nhân vật này. Các nhân vật được nhân dân và triều đình “phong thần” “đều là những người lúc sống có tài năng, đức độ, khí chất hơn người, lại đốc thành dốc sức làm việc giúp dân vô vùng đáng kính” [68, tr.19]. Trong hệ thống thờ thần thánh của người Việt, phải kể đến hệ thống thờ Thánh Mẫu. Tín ngưỡng thờ nữ, mẫu phát triển từ rất sớm, từ thờ nữ thần tới Mẹ, Thánh Mẫu và một trong những biểu hiện sớm nhất là sự hiện diện của Tứ Pháp, bà Man Nương, vua Bà [68], [101]. Các vị thánh nữ có thể là công chúa, là hoàng hậu, nhưng cũng có thể là một nhân vật tượng trưng như Ngọc Hoa Công Chúa giáng trần, hay một tạo hóa của con người. Quan trọng hơn cả trong tâm thức người Việt là ý thức về một nhân vật có quyền cao, có sức mạnh phi thường, có thể che chở và ban phát tài lộc cho con người ở dương gian. Về việc này, chúng ta đã khá quen thuộc với thực hành thờ Mẫu của người Việt mà thần chủ là Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong điện thờ Mẫu tại trung tâm là Phủ Dầy. Mẫu trong tâm thức của người Việt nói chung và của các con nhang đệ tử là sự cao thượng, lòng độ lượng từ bi mà các con của Mẫu luôn được bình an và được sự che chở. Hệ thống thờ Mẫu cùng với các vị thánh khác như các Quan, các Chầu, các ông Hoàng, các Cậu được thờ trong điện thần Tứ Phủ [101]. Chẳng hạn như Cô Bơ Thoải, trong tâm thức dân gian, Mẫu Thoải hiển ứng ở khắp mọi miền số ngước để phù hộ cho người trên sông nước [28, tr.67]. Bên cạnh hệ thống thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ, trong tâm thức người Việt, các vị Thánh Mẫu có công xây dựng và bảo vệ đất nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, Bà Chúa Kho v.v.. cũng được thờ phụng. Họ không chỉ được dân gian tôn thờ là vị Thánh Mẫu, che chở cho dương gian, họ còn được triều đình sắc phong thành các vị thần, thành hoàng của nhiều làng [66]. Ngày nay, thực hành thờ Mẫu trong đó tiêu biểu nhất là lên đồng và lễ hội vào dịp 11
  20. tiệc quan, đã trở nên phổ biến và thu hút nhiều người tham dự cũng như thực hành, tạo thành những bản hội ông đồng bà đồng với những hoạt động, sinh hoạt tín ngưỡng phổ biến trong bối cảnh đương đại [31]. Bên cạnh hệ thống thờ nữ thần và Thánh Mẫu, một số nhà nghiên cứu phân tích tâm thức dân gian của người Việt qua hiện tượng thờ thành hoàng (Nguyễn Duy Hinh [37], Cadière [14]). Trong tâm thức người Việt, thờ thành hoàng làng cũng là một hình thức thờ nhân thần hoặc các vị thần tự nhiên. Các vị thành hoàng có thể là một nhân vật lịch sử, huyền sử, hay một cái cây (bách tùng). Những vị thần này là do nhân dân tự phong, là những người được mến mộ và được thánh hóa phong thần. Những vị thần này của cả làng, cả xã, là vị thần địa phương. Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh, thờ thành hoàng thực chất là thờ phúc thần. Thành hoàng “chỉ mang lại phước lành cho người dân, không gây ra những hậu quả xấu như chiến tranh tôn giáo hay kỳ thị tôn giáo” [37, tr.410]. Khác với nhiều vị thần thánh được thờ phụng khác, ở mỗi làng, mỗi xã đều có một vị thần được sắc phong. “Đó chính là những vị thần đích thực, những vị được ủy nhiệm hợp pháp để bảo vệ làng, bảo vệ tỉnh thành, bảo vệ vương quốc, chỉ những vị này mới được đưa vào đình làng trong những ngày linh thiêng... Đó là những vị thần đã từng bảo hộ cho dân: Những tướng lĩnh, những quan lại, hoặc những người dân phục vụ cho đất nước hoặc đã từng có những công trạng” [16, tr.62]. Những người được thờ phụng còn là những ông tổ nghề, có công truyền nghề, dạy nghề cho dân, như Từ Đạo Hạnh - ông tổ nghề rối (Hà Tây, Hà Nội), Nguyễn Minh Không - ông tổ nghề đúc (Nam Định), Nguyễn Phục, ông tổ nghề chăn tằm, Lê Công Hành ông tổ nghề thêu (ở Huế và Hà Nội), Nguyễn Thọ ông tổ điêu khắc, thợ khảm mộc (làng Mĩ Xuyên, Phong Điền, Thừa Thiên Huế). Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tâm thức dân gian thờ cúng các vị nhân thần cụ thể, như nghiên cứu của tác giả Phạm Quỳnh Phương về Trần Hưng Đạo ([87], [88], của Phạm Lan Oanh về Hai Bà Trưng [81], của Nguyễn Thị Thanh Mai về Lý Nam Đế [70] v.v. Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở khắp mọi miền của đất nước từ vùng châu thổ Bắc Bộ tới miền núi và theo người Việt di cư vào miền Nam, ra nước ngoài. Trần Hưng Đạo là một vị thánh được thờ phụng riêng trong nhiều ngôi đền cũng như phối thờ trong điện thờ Mẫu. Điều này thể hiện tâm thức dân gian coi ông là một vị thánh có sức mạnh phi thường, trừ tà tróc quỷ, một thầy phù thủy cao tay, trị tà ma, chữa bệnh bằng ma thuật trong việc cầu cúng, nghi lễ chữa bệnh hay trong nghi lễ lên đồng có giá Đức Thánh Trần nhập chữa bệnh bằng tàn hương nước thánh. Trong tâm thức dân gian, Đức Thánh Trần không chỉ là một vị tướng quân tài ba đánh đuổi giặc Nguyên Mông vào cuối thế kỷ XIII, mà ông đã 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0