intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Bản địa hóa Đức mẹ Maria tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:229

83
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Văn hóa học "Bản địa hóa đức mẹ Maria tại Việt Nam" trình bày các nội dung chính sau: Đạo Công giáo, Đức Maria và quá trình du nhập vào Việt Nam; Những biểu hiện của bản địa hóa hình tượng Đức Mẹ Maria trong cộng đồng người Công Giáo ở Việt Nam; Bản địa hóa Đức Mẹ Maria trong cộng đồng người Công giáo tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Bản địa hóa Đức mẹ Maria tại Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN VĂN NHÀN BẢN ĐỊA HÓA ĐỨC MẸ MARIA TẠI VIỆT NAM Ngành: VĂN HÓA HỌC Mã số: 9.22.90.40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS. TS. NGUYỄN THỊ YÊN Hà Nội - 2022
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này đảm bảo các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu! Nghiên cứu sinh Trần Văn Nhàn
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU................................................................ 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 9 1.1.1. Các nghiên cứu về bản địa hóa các tôn giáo tại Việt Nam ........................ 9 1.1.2. Nghiên cứu về bản địa hóa Công giáo...................................................... 14 1.1.3. Nghiên cứu về Đức Mẹ Maria và bản địa hóa Đức Mẹ Maria................. 24 1.1.4. Nhận xét..................................................................................................... 33 1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................... 35 1.2.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 35 1.2.2. Cơ sở lý luận về chủ trương hội nhập Công giáo và quan điểm về hội nhập Công giáo ở Việt Nam của các nhà nghiên cứu ........................................ 39 1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu .............................................................. 45 1.3.1. Giáo xứ Quy Chính (xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) ........ 45 1.3.2. Giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu giúp (phường 9, quận 3 – Tp. Hồ Chí Minh) 46 1.3.3. Giáo xứ Vỉ Nhuế (thôn Nấp, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).................................................................................................................... 47 1.3.4. Giáo xứ La Vang ....................................................................................... 48 1.3.5. Giáo xứ Khmer Trung Bình – Sóc Trăng .................................................. 48 Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................. 49 CHƢƠNG 2. ĐẠO CÔNG GIÁO, ĐỨC MẸ MARIA VÀ QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀO VIỆT NAM ........................................................................... 50 2.1. Khái quát đạo Công giáo và sự du nhập vào Việt Nam ......................... 50 2.1.1 Khái quát về đạo Công giáo ...................................................................... 50 2.1.2. Quá trình truyền nhập Công giáo tại Việt Nam........................................ 52
  4. 2.1.3. Thuận lợi, khó khăn khi hội nhập đạo Công giáo vào Việt Nam .............. 57 2.2. Đức Maria trong đạo Công giáo và sự du nhập, thờ Kính Đức Maria trong Hội thánh Việt Nam ................................................................................ 66 2.2.1. Đức Maria trong đạo Công giáo .............................................................. 66 2.2.2. Sự du nhập và thờ kính Đức Maria trong Hội thánh Việt Nam ................ 70 Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................................. 80 CHƢƠNG 3. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA SỰ BẢN ĐỊA HÓA ĐỨC MẸ MARIA TRONG CỘNG ĐỒNG NGƢỜI CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM .. 81 3.1. Bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria qua tên gọi ............................... 81 3.2. Bản Địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria trong văn học Công giáo Việt Nam ..................................................................................................................... 84 3.3. Bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria trong nghệ thuật tạo hình ...... 88 3.3.1. Bản địa hóa hình tượng hình tượng Đức Maria qua tranh, tượng ........... 88 3.3.2. Bản địa hóa Đức Mẹ Maria qua kiến trúc tượng đài, đền thờ ................. 94 3.4. Bản địa hóa quyền năng qua biểu tƣợng Đức Mẹ Maria ..................... 103 3.4.1. Bản địa hóa biểu tượng Đức Mẹ Maria qua truyền tụng sự hiển linh ... 103 3.4.2. Bản địa hóa biểu tượng Đức Mẹ Maria qua quyền năng của Đức Mẹ .. 106 3.5. Bản địa hóa thực hành thờ kính Đức Mẹ Maria ........................................ 116 3.5.1. Bản địa hóa nghi thức dâng hoa, thắp hương ........................................ 116 3.5.2. Bản địa hóa nghệ thuật trình diễn nghi thức thờ kính Đức Mẹ .............. 119 Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 127 CHƢƠNG 4. BẢN ĐỊA HÓA ĐỨC MẸ MARIA TRONG CỘNG ĐỒNG NGƢỜI CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN LUẬN130 4.1. Nền tảng truyền thống văn hóa Việt – cơ sở của sự bản địa hóa Đức Mẹ Maria tại Việt Nam ................................................................................... 130 4.1.1. Tâm thức thờ thánh trong văn hóa dân gian Việt Nam và sự “Thánh hóa” Đức Mẹ Maria ở Việt Nam ...................................................................... 130
  5. 4.1.2. Truyền thống khoan dung tôn giáo – tinh thần nhân văn và hội nhập ... 135 4.1.3. Truyền thống văn hóa địa phương và tộc người ..................................... 138 4.2. Bản địa hóa Đức Maria: Sự hội nhập và giao lƣu tiếp biến hình tƣợng Đức Mẹ Maria với các thành tố văn hóa truyền thống Việt Nam ... 140 4.2.1. Hội nhập và giao lưu tiếp biến với văn nghệ dân gian truyền thống Việt Nam.................................................................................................................... 140 4.2.2. Hội nhập và giao lưu tiếp biến với mỹ thuật truyền thống Việt Nam ..... 142 4.2.3. Hội nhập và giao lưu tiếp biến với phong tục thờ cúng của người Việt Nam ................................................................................................................... 143 4.3. Bản địa hóa Đức Mẹ Maria: vai trò và sự ảnh hƣởng tới đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Công giáo tại Việt Nam ............................. 147 4.3.1. Đức mẹ Maria– điểm tựa tinh thần và sự lan tỏa tình yêu thương bác ái147 4.3.2. Đức Mẹ Maria – biểu tượng của sự kết nối và đoàn kết cộng đồng.............................. 149 4.3.3. Bản địa hóa Đức Mẹ Maria góp phần củng cố và hun đúc các giá trị văn hóa dân tộc ................................................................................................. 153 4.3.4. Bản địa hóa Đức Mẹ Maria với việc tạo động lực phát triển kinh tế văn hóa xã hội tại Việt Nam ..................................................................................... 155 Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................... 156 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 158 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 162 MỤC LỤC PHỤ LỤC ..................................................................................... 171
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Công giáo đƣợc truyền vào Việt Nam vào năm 1533, ở thời kỳ đầu Công giáo có phần lạ lẫm với văn hóa tín ngƣỡng truyền thống Việt nên gặp khá nhiều khó khăn trong việc truyền đạo. Trải qua quá trình du nhập, hòa nhập vào văn hóa Việt, Công giáo đã không ngừng phát triển và trở thành một trong những tôn giáo lớn, có sức anh hƣởng nhiều mặt trong xã hội Việt Nam. Đi cùng với sự du nhập của đạo Công giáo, các vị thánh Công giáo cũng đƣợc du nhập vào Việt Nam mà một trong những vị thánh nổi bật là Đức Mẹ Maria.Từ một ngƣời phụ nữ đến từ trời Tây với những đặc điểm có phần khác lạ so với văn hóa truyền thống Việt, Đức Mẹ Maria đã đƣợc hòa mình trong văn hóa Việt, trở thành ngƣời phụ nữ Việt, mang nhiều giá trị và biểu tƣợng của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Sự du nhập và hòa nhập của Đức Mẹ Maria trong văn hóa Việt là cả một quá trình dài, trong đó quá trình bồi đắp các giá trị và “thiêng hóa” Đức Mẹ Maria bằng nhiều con đƣờng và nhiều dạng thức khác nhau, từ đó đã biến Đức Mẹ Maria dần trở thành ngƣời một vị thánh của tín đồ Việt, gần gũi nhƣ một ngƣời mẹ Việt Nam. Đức Mẹ Maria hiện diện trong văn hóa Việt với nhiều tên gọi, nhiều quyền năng, nhiều huyền thoại và nhiều hình tƣợng khác nhau, gần gũi với văn hóa truyền thống, văn hóa địa phƣơng, văn hóa tộc ngƣời tại Việt Nam… Đó chính là những biểu hiện của sự bản địa hóa Đức Mẹ Maria tại Việt Nam. Theo thời gian, Đức Mẹ Maria đã dần đƣợc bản địa hóa, uy quyền nhƣ các Thánh nữ, Thánh Mẫu, bà Chúa… nhƣ những vị thánh đƣợc thờ trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt, vừa gần gũi thân thƣơng, hiền hậu bao dung nhƣ ngƣời mẹ Việt, những cũng đầy quyền năng để luôn bảo vệ và chở che con dân của mình. Kinh Thánh miêu tả Đức Maria là mẹ Chúa Giê Su, một ngƣời phụ nữ bình thƣờng, không có quyền năng ban ơn. Tuy nhiên, trong tâm thức của các tín đồ Việt Nam, Đức Maria đƣợc tôn sùng với rất nhiều quyền năng gắn với nhiều huyền thoại cứu nhân độ thế từ Bắc vào Nam, điều này càng thể hiện rõ sự tôn kính mạnh mẽ của tín đồ Việt dành cho Ngài. 1
  7. Mẹ Thiên Chúa, Đức nữ đồng trinh, Cửa thiên đàng, mẹ Hội thánh, vv… đó là những danh hiệu dành cho Đức Maria, ngƣời Mẹ đƣợc yêu mến và có sức ảnh hƣởng lớn lao trên thế giới. Tại Việt Nam, cùng với quá trình bản địa hóa, Đức Mẹ Maria ngày càng trở nên gần gũi và có sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống tâm linh của tín đồ Việt. Theo đó, Đức Mẹ Maria một nhân vật quan trọng trong đạo Công giáo đã hóa thân thành một hình tƣợng ngƣời mẹ và tên gọi thân thuộc với ngƣời Việt, cùng với nhiều quyền năng gần gũi với tâm thức thờ thánh của ngƣời Việt Nam. Việc tín đồ và giáo hội Công giáo Việt Nam tôn sùng và yêu mến đặc biệt với Đức Mẹ Maria, việc Đức Mẹ Maria hòa nhập trong văn hóa Việt, đặc biệt là có nhiều biểu hiện tƣơng đồng với tín ngƣỡng thờ thánh trong văn hóa truyến thống dân tộc đã tạo nên một hiện tƣợng văn hóa độc đáo chứa đựng nhiều giá trị. Tại Việt Nam, sự xuất hiện và phát triển của các linh địa Đức Mẹ Maria trải dài từ Bắc - Trung - Nam, trở thành các trung tâm hành hƣơng, thu hút hàng triệu tín đồ tìm về hàng năm, biến những vùng này trở thành các trung tâm du lịch tâm linh và cùng với lòng sùng kính có phần cuồng nhiệt đôi khi lấn át cả sự sùng kính và Đức Chúa mà các tín đồ dành cho Bà là một vấn đề rất cần đƣợc nghiên cứu để thấy đƣợc quá trình bản địa hóa một vị thánh ngoại sinh đƣợc du nhập vào Việt Nam. Việc nghiên cứu bản địa hóa Đức Maria chính là để làm rõ quá trình bồi đắp, quá trình thiêng hóa Đức Mẹ Maria đặc biệt là những biểu hiện của việc bản địa hóa này tại Việt Nam, qua đó cung cấp thêm một góc nhìn khác về sự bản địa hóa một nhân vật tôn giáo dƣới góc nhìn văn hóa, khẳng định sức mạnh văn hóa dân tộc và những đóng góp của đạo Công giáo dƣới góc nhìn văn hóa. Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Bản địa hóa Đức Mẹ Maria tại Việt Nam” làm đề tài luận án Tiến sĩ văn hóa học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Thông qua hiện tƣợng bản địa hóa Đức Mẹ Maria để bàn luận về quá trình bản địa hóa tôn giáo ở Việt Nam, cụ thể là bản địa hóa Công giáo tại Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
  8. Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ tập trung vào những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Tập hợp thông tin và tƣ liệu về sự du nhập Đức Maria vào Việt Nam. - Tập hợp thông tin và tƣ liệu về quá trình hóa Đức Mẹ Maria tại Việt Nam ở một số điểm nghiên cứu. - Khảo sát những biểu hiện của bản địa hóa Đức Mẹ Maria tại Việt Nam thông qua tên gọi, biểu tƣợng, điện thờ, quyền năng và các nghi thức, nghi lễ… - Phân tích các yếu tố tác động đến sự bản địa hóa Đức Mẹ Maria ở Việt Nam. - Bàn luận về sự bản địa hóa Đức Mẹ Maria ở Việt Nam. Dưới đây là các câu hỏi nghiên cứu chính đặt ra cho đề tài: 1. Đức Mẹ Maria là ai ? Vai trò vị trí Đức Mẹ Maria trong Giáo hội Công giáo? 2. Quá trình du nhập Đức Mẹ Maria trong văn hóa Việt diễn ra nhƣ thế nào? thuận lợi và khó khăn? 3. Vì sao Đức Mẹ Maria lại đƣợc tín đồ Việt yêu kính cách cuồng nhiệt? 4. Những biểu hiện cụ thể nhƣ thế nào của việc bản địa hóa Đức Mẹ Maria trong cộng đồng Công giáo tại Việt Nam tại các địa bàn khảo sát? 5. Cơ sở và những yếu tố nào tác động đến sự bản địa hóa Đức Mẹ Maria ở Việt Nam? Sự bản địa hóa việc tôn thờ Đức Mẹ Maria trong mối liên hệ với truyền thống văn hóa và đặc trƣng văn hóa vùng miền và tộc ngƣời ở Việt Nam thể hiện nhƣ thế nào? 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Bản địa hóa Đức Mẹ Maria ở Việt Nam là vấn đề nghiên cứu lớn. Trong đề tài này, chúng tôi giới hạn tập trung nghiên cứu về hai khía cạnh chính là bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria và bản địa hóa cách tôn thờ Đức Maria trong cộng đồng ngƣời Công giáo Việt Nam (gọi tắt là “Bản địa hóa Đức Mẹ Maria tại Việt Nam”), xuất phát từ các lý do sau: Một là, tôn giáo tín ngƣỡng nói chung và Công giáo nói riêng vốn có tính biểu tƣợng cao, thể hiện qua văn học, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc… Nghiên cứu hình tƣợng Đức Mẹ Maria là để thấy đƣợc cảm quan 3
  9. và niềm tin của tín đồ Việt Nam đối với Đức Mẹ Maria, qua đó cho thấy sự chủ động hội nhập hình tƣợng Đức Mẹ Maria vào văn hóa Việt Nam qua cách bản địa hóa tên gọi, hình tƣợng trong văn học nghệ thuật, kiến trúc điện thờ, sự hiển linh và niềm tin về quyền năng, sự thờ kính của ngƣời dân ở các địa phƣơng và các tộc ngƣời ở Việt Nam. Hai là, Đức Mẹ Maria là biểu tƣợng tinh thần của tín đồ Việt, trong suốt chiều dài truyền nhập Công giáo tại Việt Nam, đặc biệt trong những hoàn cảnh lịch sử khó khăn nhất của Công giáo Việt Nam, thì Đức Mẹ Maria trở thành chỗ dựa tinh thần, là nơi tìm đến và là chỗ ẩn nấu của tín đồ Việt trƣớc những nghịch cảnh của lịch sử xã hội…Nghiên cứu vấn đề này góp phần cung cấp thêm một khía cạnh về tâm lý học tôn giáo, cụ thể là Công giáo Việt Nam, biểu hiện qua sự mến mộ, yêu kính có phần cuồng nhiệt của tín đồ Việt dành cho Đức Mẹ Maria đặc biệt là thông qua các thực hành nghi lễ tôn thờ Đức Maria. 3.2. Phạm vi thời gian nghiên cứu: - Thời gian đối tƣợng đƣợc nghiên cứu: Nghiên cứu đối tƣợng qua các tƣ liệu thứ cấp, tƣ liệu hồi cố và tƣ liệu thực địa thu thập qua các địa bàn nghiên cứu cụ thể… - Thời gian tập trung điền dã: Từ tháng 6/2017 đến tháng 1/2021. 3.3. Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Đề tài lựa chọn năm điểm nghiên cứu chính thuộc 3 khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam là: - Giáo xứ Vỉ Nhuế (trọng tâm là Giáo dân tại làng Vỉ Nhuế) - thôn Nấp, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. - Giáo xứ Quy Chính (trọng tâm là Giáo dân tại làng Quy Chính) - thuộc xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). - Giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu Giúp - Số 38 Đƣờng Kỳ Đồng, phƣờng 9, quận 3 - Tp. Hồ Chí Minh. - Giáo Xứ La Vang, địa chỉ: Thôn Phú Hƣng, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. - Giáo xứ Khmer Trung Bình – địa chỉ: Ấp Chợ, xã Trung Bình, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. 4
  10. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát tại một số địa điểm khác nhƣ: Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Giáo xứ Thái Hà, địa chỉ: 180/2 Đƣờng Nguyễn Lƣơng Bằng, quận Đống Đa. Tp. Hà Nội; Vƣơng cung thánh đƣờng Phú Nhai, địa chỉ: Làng Phú Nhai, xã Xuân Phƣơng, huyện Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định; Trung tâm hành hƣơng Fattima Bình Triệu (Giáo xứ Bình Triệu), địa chỉ: Số 52 đƣờng số 5, phƣờng Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh; Giáo xứ Hòa Nam - Địa chỉ: Xã Ea nuôi, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk; Trung tâm Thánh Mẫu Tà Pao, địa chỉ: Xã Đồng Kho, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận; Núi Đức Mẹ tại Giáo xứ của Giáo dân Khme Trung Bình, địa chỉ: Ấp Chợ, xã Trung Bình, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng … 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, luận án tiếp cận phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành văn hóa dân gian và phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành trong nghiên cứu Khoa học xã hội. Cụ thể trong đề tài này là vận dụng nghiên cứu liên ngành Dân tộc học, Xã hội học, Văn hóa dân gian, Tôn giáo học... để lý giải, phân tích các biểu hiện của việc bản địa hóa Đức Mẹ Maria thông qua điện thờ, các nghi thức nghi lễ thờ kính Đức Mẹ Maria… Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định tính thông qua các phƣơng pháp cụ thể sau: 4.1. Phương pháp điền dã dân tộc học Đây là phƣơng pháp đƣợc sử dụng phổ biến trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Với phƣơng pháp này chúng tôi có thể tận mắt thấy, tai nghe và xem mình nhƣ ngƣời trong cuộc (insider) để có thể tham dự và quan sát các hiện tƣợng văn hóa diễn ra quanh mình. Cụ thể, chúng tôi đã trực tiếp tham gia vào hoạt động dâng hoa Đức Mẹ tại Giáo xứ Quy Chính, tham gia rƣớc kiệu Đức Mẹ tại Giáo xứ Vỉ Nhuế, tham gia giờ cầu nguyện Đức Mẹ tại Vƣơng cung thánh đƣờng Đức Mẹ La Vang - Quảng trị … Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ xử lý và sắp xếp thông tin theo các lớp ý nghĩa từ ngƣời cung cấp thông tin liên quan đến nội dung của luận án. Với phƣơng pháp này, tại thực địa chúng tôi sẽ sử dụng các thao tác sau: 5
  11. - Quan sát tham dự, mô tả: Tham dự, quay phim, chụp ảnh các hoạt động nghi thức nghi lễ thờ kính Đức Mẹ Maria tại gia đình của tín đồ, tại Nhà Thờ, tại đền thờ Đức Mẹ, quan sát các bàn thờ Đức Mẹ tại gia đình tín đồ, trong nhà thờ và tại các đền thờ Đức Mẹ ngoài nhà thờ… Từ đó có thể phân tích và mô tả kỹ các hành động, hành vi thực hành nghi lễ thờ kính Đức Mẹ Maria và bối cảnh mà các hiện tƣợng văn hóa đó diễn ra. Trong các năm qua chúng tôi đã tiến hành các đợt điền dã sƣu tầm tƣ liệu tại địa điểm nghiên cứu sau: Tại Giáo xứ Quy Chính - Nghệ An 8 đợt điền dã, có những đợt ở tại đây hơn 40 ngày (vì đây là quê hƣơng của tôi), tại Giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu giúp có 5 đợt điền dã, Giáo xứ Vỉ Nhuế 1 đợt, Giáo xứ La Vang - Quảng Trị 1 đợt, Giáo xứ Khmer 1 đợt, một số Giáo xứ ở Đăk lak 2 đợt…Ngoài ra trong quá trình thực hiện luận án chúng tôi không ngừng tƣơng tác với nhiều cá nhân tại các điểm khảo sát để cập nhập thêm các tƣ liệu mới. Trong thời gian này chúng tôi đã đƣợc tham gia các hoạt động thờ kính Đức Mẹ nhƣ: Dâng hoa, dâng hƣơng Đức Mẹ, tham gia sinh hoạt hội đoàn Đức Mẹ Mân Côi, tham gia đêm nhạc hát về Đức Mẹ, tham gia hoạt động rƣớc kiệu Đức Mẹ quanh làng Quy Chính, quanh nhà thờ Vỉ Nhuế… Tham dự buổi lễ cùng với hội những ngƣời đƣợc ơn Đức Mẹ tại Đền Đức Mẹ Hằng cứu giúp Thái Hà - Hà Nội; tham dự một buổi lễ hành hƣơng tại Vƣơng cung thánh đƣờng Đức Mẹ La Vang - Quảng Trị… Các địa điểm khác số lần điền dã trung bình từ 1- 3 lần, trong mỗi đợt điền dã chúng tôi thƣờng nghỉ tại nhà Giáo dân, tại nhà khách Giáo xứ … - Phương pháp phỏng vấn sâu, hồi cố: Chúng tôi tập trung vào hai nhóm đối tƣợng chính gồm: Nhóm thứ nhất là các vị cao niên trên 60 tuổi: Tại Giáo xứ Quy Chính, Giáo xứ Vỉ Nhuế, Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp… Đề tài đã tiến hành phỏng vấn hồi cố, phỏng vấn sâu đƣợc trung bình mỗi nơi từ 5 đến 10 cụ… Nhóm thứ hai là các vị chức sắc trong Giáo xứ gồm: Linh mục quản xứ, hội đồng ban hành giáo, trƣởng phó các hội đoàn, đặc biệt là các hội đoàn Đức Mẹ. 6
  12. Tại 5 giáo xứ (Quy Chính, Vỉ nhuế, La Vang, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Khmer Trung Bình) đã tiến hành phỏng vấn đƣợc tổng cộng: Linh mục 13 ngƣời, hội đồng ban hành giáo 15 ngƣời, trƣởng phó các hội đoàn và hội đoàn Đức Mẹ 18 ngƣời Với thao tác nghiên cứu này chúng tôi sẽ có điều kiện đi sâu tìm hiểu về quá trình du nhập Đức Mẹ Maria tại nơi khảo sát, vai trò của Đức Mẹ Maria trong cuộc sống của họ và gia đình họ, các nghi thức nghi lễ thờ kính Đức Mẹ Maria xƣa và nay, các yếu tố văn hóa dân gian tại địa phƣơng đƣợc đƣa vào sử dụng trong hoạt động thờ kính Đức Mẹ, các công trình tƣợng đài, đền thờ Đức Mẹ Maria đƣợc xây dựng nhƣ thế nào và ý nghĩa của các công trình đó … Từ đó làm cơ sở phân tích, đánh giá, tổng hợp và diễn giải các vấn đề đặt ra cho nhiệm vụ của luận án. 4.2. Phương pháp xử lí văn bản, thông tin Sau quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi đọc và xử lí các văn bản và tài liệu liên quan đến luận án; xử lí các thông tin sau quá trình khảo sát thực tế thông qua các ghi chép phỏng vấn, mô tả, hồi cố, tài liệu phim ảnh...Từ đó phân tích, đánh giá, rút ra các luận điểm trọng tâm của luận án. 4.3. Bên cạnh những phƣơng pháp nghiên cứu trên, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ phân tích hệ thống; tổng hợp; so sánh đồng đại và lịch đại giữa các nguồn tƣ liệu, giữa các điểm nghiên cứu với nhau. 5. Đóng góp của luận án 5.1. Về mặt khoa học - Luận án cung cấp các tƣ liệu tin cậy về những biểu hiện của việc bản địa hóa Đức Mẹ Maria tại một số địa bàn cụ thể ở Việt Nam, …Từ đó đóng góp cho việc nghiên cứu về sự phong phú, đa dạng của hiện tƣợng bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria ở Việt Nam. - Thông qua nghiên cứu trƣờng hợp bản địa hóa Đức Mẹ Maria, luận án đóng góp cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về sự hội nhập của đạo Công giáo nói chung, của Đức Mẹ Maria nói riêng vào văn hóa truyền thống Việt Nam. 7
  13. 5.2. Về mặt thực tiễn - Nhận diện các xu hƣớng bản địa hóa và những biểu hiện của bản địa hóa, tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong đời sống của tín đồ Công giáo tại Việt Nam - Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết để các nhà quản lý văn hóa, các nhà hoạch định chính sách đề xuất các kiến nghị và giải pháp trong quản lý các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam đặc biệt là đạo Công giáo. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 04 chƣơng, kết cấu nhƣ sau: Chƣơng 1: Tổng tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn nghiên cứu. Chƣơng 2: Đạo Công giáo, Đức Maria và quá trình du nhập vào Việt Nam Chƣơng 3: Những biểu hiện của bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria trong cộng đồng ngƣời Công Giáo ở Việt Nam Chƣơng 4: Bản địa hóa Đức Mẹ Maria trong cộng đồng ngƣời Công giáo tại Việt Nam: Một số vấn đề bàn luận 8
  14. CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các nghiên cứu về bản địa hóa các tôn giáo tại Việt Nam - Về bản địa hóa Phật giáo Phật giáo là một trong những tôn giáo có vị thế và sức ảnh hƣởng lớn tại Việt Nam, Phật giáo ghi dấu ấn mạnh mẽ trong văn hóa Việt, góp phần tạo nên diện mạo của văn hóa Việt Nam, điều này đã đƣợc khẳng định trong các nghiên cứu về Phật giáo và văn hóa Việt Nam: Một trong những cuốn sách tiêu biểu viết về Phật giáo Việt Nam là cuốn Việt Nam Phật giáo lược sử của tác giả Thích Mật Thể gồm 10 chƣơng. Trong đó tác giả cho ta thấy cái nhìn tổng thể về Phật giáo Việt Nam từ những ngày đầu đƣợc truyền vào Việt Nam và đặc biệt là quá trình hòa mình trong văn hóa Việt, qua từng giai đoạn, Phật giáo đã ghi dấu ấn mạnh mẽ trong văn hóa Việt, mang tinh thần ngƣời Việt Nam [66, tr 502]. Ngoài ra có thể kể đến cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam của tác giả Lê Mạnh Thát gồm trọn bộ 3 cuốn và 12 chƣơng, trình bày quá trình du nhập Phật giáo Việt Nam và sự đồng hành cùng dòng chảy lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam [65]. Tác giả Nguyễn Duy Hinh trong cuốn Lịch sử đạo Phật Việt Nam cho rằng: “Phật giáo Việt Nam là Phật Giáo dân gian mang nặng lòng Mẹ, lòng từ Từ Bi của truyền thống dân tộc, đã thấm sâu vào văn hóa nghệ thuật tâm tƣ tình cảm ngƣời Việt, đã Việt hóa. Không nên coi Phật giáo Việt Nam là Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa dù đều có chịu ảnh hƣởng của các tông phái đó...”. [43, tr 51). Trong cuốn Sự kiện tôn giáo, tác giả Đỗ Quang Hƣng cho rằng: “Phật giáo Việt Nam không những gắn bó với dân tộc mà còn là một yếu tố quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc” [40, tr.169], đồng thời khẳng định Phật giáo đóng vai trò rất quan trọng trong văn hóa Việt Nam, trong quá trình hội nhập và phát triển cùng xã hội Việt Nam Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa nhập sâu rộng vào nhiều lĩnh vực của xã hội Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa [37, tr 170]. Ngoài ra, tác 9
  15. giả còn đƣa ra khái niệm “nhập thế chính trị” của Phật giáo và xem đây là cách Phật giáo hòa nhập và tạo nên vị thế trong xã hội Việt Nam, cùng với quá trình này là sự thay đổi để phù hợp với văn hóa xã hội Việt nam, tạo nên những dấu ấn sâu sắc của Phật giáo Việt Nam [39, tr. 138-154]. Trong cuốn Phật giáo Hòa Hảo một tôn giáo cận nhân tình trong lòng dân tộc do Trần Văn Chánh – Bùi Thanh Hải (chủ biên), các tác giả cho rằng: “Phật giáo Hòa Hảo không chỉ là một tôn giáo ra đời để đáp ứng nhu cầu tín ngƣỡng của ngƣời dân miền Tây Nam bộ... Phật giáo Hòa Hảo là sự dung hợp các giá trị truyền thống của dân tộc với các tôn giáo trong tính cách của đại đa số quần chúng nông dân miền Tây Nam bộ, giá trị lớn nhất của Phật giáo Hòa Hảo là tính dung hợp các giá trị, là sự kế thừa và phát huy các giáo trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc” [10, tr. 42]. Đi vào cụ thể, sự ảnh hƣởng của văn hóa Việt Nam trong quá trình truyền nhập Phật giáo tại Việt Nam còn đƣợc nhìn nhận thông qua tín ngƣỡng thờ Mẫu, sự xuất hiện Mẫu trên điện thờ Phật và trong các ngôi chùa tại Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho điều này. Trong kho tàng văn học dân gian, sự bản địa hóa Phật giáo Ấn Độ vào tín ngƣỡng bản địa Việt Nam đƣợc thể hiện khá sớm qua truyền thuyết “Man nƣơng” ở chùa Dâu (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Theo đó, tục thờ các vị Phật Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) có thể xem nhƣ là kết quả của sự kết hợp giữa ngƣời cha tinh thần là nhà sƣ (Phật giáo) đến từ Ấn Độ với ngƣời mẹ bản địa (Man Nƣơng) thuộc tín ngƣỡng thờ cây, thờ đá, vì vậy mà trong dân gian Man Nƣơng đƣợc tôn là Phật Mẫu (mẹ của các vị Tứ pháp) [74]. Trong cuốn Đạo Mẫu Việt Nam tác giả Ngô Đức Thịnh đã dành phần 3 trong chƣơng 2 để nói về Đạo Mẫu trong hệ thống tôn giáo tín ngƣỡng tại Việt Nam. Khi viết về quá trình du nhập và hòa nhập của Phật giáo tại Việt Nam tác giả cho rằng: “Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nƣớc ta khoảng đầu Công nguyên và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hƣớng dân gian hóa... Trong sự hình thành phái Mật Tông ở nƣớc ta, có sự ảnh hƣởng nhất định của sự giao thoa Phật – Mẫu, điều dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở Bắc Bộ và bắc 10
  16. Trung Bộ đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu” (phía trƣớc thờ Phật, phía sau thờ Mẫu)... “ [74, tr.63]. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, khi bàn về vấn đề giao lƣu tiếp biến văn hóa Việt với văn hóa Ấn Độ về phƣơng diện Phật giáo, tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng: Phật giáo vào Việt Nam đã có sự tiếp xúc với các tín ngƣỡng truyền thống và văn hóa Việt … Phật giáo Việt Nam là khuynh hƣớng thiên về nữ, là một bộ phận của văn hóa nông nghiệp. Đức Phật đƣợc đồng nhất với các vị thần truyền thống của cƣ dân nông nghiệp Việt Nam …[67, tr 253]. Cũng tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam đã đƣa ra nhận định: “Khi vào Việt Nam Phật giáo đã đƣợc tiếp xúc ngay với tín ngƣỡng truyền thống của dân tộc ta và đã đƣợc tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng... Mang đặc trƣng của văn hóa nông nghiệp là khuynh hƣớng thiên về nữ vì thế ngƣời Việt đã tạo ra các Phật Bà riêng của mình, ngƣời Việt vốn linh hoạt nên trong cách thực hành Phật giáo đã linh hoạt biến đổi để Phật giáo trở thành tôn giáo của ngƣời Việt...”[67, tr.248 -255] - Về bản địa hóa Đạo giáo Trong cuốn Đạo gia và văn hóa tác giả Trần Nghĩa cho rằng: “ …nhờ dung hợp đƣợc với tín ngƣỡng tập quán bản địa mà Đạo giáo ngày càng đƣợc hoan nghênh và phát triển tại Việt Nam...Ngay từ thời Lý Trần đã xuất hiện những Đạo sĩ lừng danh nhƣ: Thông Huyền, Hoàn Nguyên, Huyền Vân...Tìm hiểu kỹ ta thấy hai phái Đạo gia “Phủ lục” và “Đan đỉnh” đều tìm đƣợc đất sống tại Việt Nam. Phái Phù lục nghiêng về bùa chú gọi là “ Đạo giáo phù thủy” đã đi sâu vào dân gian theo hƣớng dùng phép thuật, niệm chú, cầu cơ, vẽ bùa...Phái Đan đỉnh thì nghiêng về tu luyện đan, gọi là “Đạo gia thần tiền”, với các Đạo sĩ, Đạo cô sẵn sàng rời gia đình để rong du cõi ngoại...” [7, tr. 251- 252]. Nhƣ vậy Đạo giáo khi du nhập vào Việt nam đã chịu ảnh hƣởng của văn hóa dân gian truyền thống Việt Nam và biển đổi để phù hợp tại Việt Nam, nhờ đó Đạo giáo phát triển và có sự ảnh hƣởng nhất định trong văn hóa Việt. Tác giả Tôn Diệc Bình trong bài viết “Bàn về sự truyền bá và giao thoa Đạo giáo ở Đông Nam Á” (lấy Đạo giáo Nam truyền vào Việt Nam làm ví dụ) đăng trên 11
  17. tạp chí Tôn giáo số 5 (185) năm 2019 cho rằng: “Xét về thời gian, ngay từ khi mới ra đời, Đạo giáo đã truyền vào Việt Nam, nguồn mạch vẫn lƣu truyền trong sự tiếp biến văn hóa cho đến tận ngày nay...Việc tín ngƣỡng thần linh Đạo giáo mang những đặc điểm sâu đậm của văn hóa Trung Hoa không ngừng bị Việt Nam hóa trong quá trình truyền bá vào xã hội dân gian Việt Nam, thể hiện ở các đặc điểm sau: Thứ nhất: Tín ngƣỡng thờ thần là biểu tƣợng tƣợng trƣng chủ yếu của sự truyền bá Đạo giáo ở Việt Nam, tính thực dụng rất cao đáp ứng nhu cầu tinh thần, cầu phúc trừ tai của mọi ngƣời, tính hỗn tạp về mặt tín ngƣỡng để đáp ứng các loại nhu cầu tinh thần trong cuộc sống trƣớc mắt của ngƣời Việt Nam; Thứ hai: Đạo giáo thƣờng đồng hành với Phật giáo, thần linh của Đạo giáo thƣờng xuất hiện trên bàn thờ trong chùa... Thứ ba: Thần linh đạo giáo pha trộn với tín ngƣỡng dân gian Việt Nam, trong Đạo giáo xuất hiện các vị thần trong tín ngƣỡng dân gian Việt Nam, nhƣ một số đạo quán thờ: Hƣng Đạo Vƣơng, thần núi Tản Viên, công chúa Liễu Hạnh...”.[7]. Nhƣ vậy Đạo giáo khi truyền vào Việt Nam đã có sự giao thoa và chịu ảnh hƣởng của tín ngƣỡng dân gian Việt Nam, mang nhiều dấu ấn của văn hóa truyền thống Việt Nam cùng với Nho giáo và Phật giáo tạo nên ba tôn giáo Nho – Phật – Đạo ảnh hƣởng sâu rộng trong đời sống văn hóa của Việt Nam. Tƣơng tự, tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt nam cho rằng: “Trong khi Nho giáo chƣa tìm đƣợc chỗ đứng ở Việt Nam thì Đạo giáo đã tìm thấy ngay những tín ngƣỡng tƣơng đồng sẵn có từ lâu… Vì vậy dễ hiểu là tại sao Đạo giáo, trƣớc hết là Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín ngƣỡng ma thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới” [67]. Nhận định này giúp chúng ta hình dung đƣợc phần nào sức sống và vị thế của Đạo giáo trong đời sống tâm linh, tín ngƣỡng ngƣời Việt, đồng thời lý giải đƣợc về sự hài hòa của truyền thống “Tam giáo đồng nguyên” đã thực sự thấm sâu vào đời sống của mỗi ngƣời dân Việt Nam. - Về bản địa hóa Nho giáo Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết lý và học thuyết chính trị do Đức Khổng Tử đề xƣớng và đƣợc các môn đồ của ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I 12
  18. (TCN), ngay từ khi du nhập vào Viêt Nam một mặt Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền đô hộ, một mặt sự truyền bá Nho giáo cùng với việc phổ biến chữ Hán đã đƣa tới cho Việt Nam kho tàng tri thức về tự nhiên và xã hội. Khi viết về quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam, tác giả Trần Ngọc Thêm nhận định: “Hán Nho đã đƣợc các quan lại Trung Hoa nhƣ Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp ra sức truyền bá từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, vì đây là thứ văn hóa của kẻ xâm lƣợc áp đặt, cho nên suốt giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chƣa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Đến năm 1070, với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử, mới có thể xem là Nho giáo đƣợc tiếp nhận chính thức. Chính vì vậy Nho giáo Việt Nam chủ yếu là Tống Nho chứ không phải Hán Nho, Đƣờng Nho hay Minh Nho, Thanh Nho…” [67, tr. 164-265] Từ đây tác giả cho rằng: “Nét độc đáo của văn hóa Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt Nam hóa để rồi cấu tạo lại theo cách của mình. Nho giáo Việt Nam là một hệ thống nhƣ thế” [67, tr. 266]. Nghiên cứu về Nho giáo gần đây nhất phải kể đến công trình Trách nhiệm xã hội của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và Hàn Quốc của các tác giả Phạm Văn Đức, Hwang Eui Dong, Kim Sea Jeong (đồng chủ biên) [15]. Đây là công trình tiêu biểu nghiên cứu về khía cạnh giao thoa văn hóa và sự ảnh hƣởng của tôn giáo này đối với xã hội Việt Nam cũng nhƣ Hàn Quốc. Điều thú vị là công trình này có sự so sánh giữa Nho giáo ở Việt Nam với Nho giáo ở Hàn Quốc. Các tác giả cho rằng: “Nho giáo ở Việt Nam có sự giao thoa với văn hóa truyền thống Việt Nam, chịu ảnh hƣởng văn hóa Việt. Việt Nam và Hàn Quốc đều nằm trong vùng tiếp xúc với văn hóa Hán, đều chịu ảnh hƣởng lâu dài của Nho giáo trong lịch sử. Nho giáo không chỉ có vai trò trong quá khứ của Việt Nam và Hàn Quốc, mà hiện nay, nó còn có nhiều ảnh hƣởng tới các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức, đời sống tinh thần, phong tục tập quán, lối sống, nếp nghĩ của ngƣời dân hai nƣớc. Làm rõ những mặt tích cực của Nho giáo để phát huy cũng nhƣ tìm ra những hạn chế của nó để khắc phục là một yêu cầu đối với các nhà khoa học trong việc tìm ra lời giải đáp cho các vấn đề bức thiết của xã hội hiện nay.” [15] 13
  19. Nhƣ vậy có thể coi bản địa hóa tôn giáo du nhập là một nét văn hóa đã có từ lâu đời ở Việt Nam, điều đó cũng đƣợc thể hiện trong việc tiếp nhận đạo Công giáo và Đức Maria trong đạo Công giáo tại Việt Nam. 1.1.2. Nghiên cứu về bản địa hóa Công giáo - Về bản địa hóa Công giáo trên thế giới + Bản địa hóa Công giáo tại một số nước Âu Mỹ Khi bàn về quá trình hội nhập văn hóa Kitô giáo với các nền văn hóa trên thế giới đặc biệt tại Âu châu tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng trong cuốn Công giáo trong văn hóa Việt Nam đã viết: “Để thích ứng với ngƣời Âu châu các giáo phụ đã không từ Do Thái nhƣ ELSHADDAI hay YAHVÉH… để chỉ Thiên Chúa mà dùng từ THEOS hay DEUS hay DIEU vốn là từ chỉ các vị thần của ngƣời Âu châu (Zeus, Jupiter, Hercule…). Các từ này vốn không có nghĩa là Thiên Chúa nhƣ chúng ta hiểu hiện nay. Đây là sự thích ứng và hội nhập… ngày 25 tháng 12 là ngày ngƣời Âu châu thờ thần mặt trời, ngƣời Kitô giáo chọn ngày này là ngày sinh nhật Chúa Giêsu. Khi mọi ngƣời ăn mừng thần mặt trời thì ngƣời Kitô hữu ăn mừng Chúa ra đời…” [20, tr 77]. Nhƣ vậy có thể thấy đƣợc con đƣờng hội nhập ở đây chính là hội nhập với văn hóa bản địa, chấp nhận văn hóa bản địa để thích ứng và tồn tại. Trong cuốn Thích ứng và hội nhập văn hóa trong truyền giáo, tác giả Nguyễn Chính Kiết cho rằng: “Y phục mà hàng giáo phẩm mặc trong phụng vụ là y phục mô phỏng của ngƣời Rô ma... Ki tô giáo đã bỏ bộ áo văn hóa Do Thái để mặc bộ áo văn hóa Âu châu...” [44]. Dù giáo luật của Công giáo khá khắt khe nhƣng khi hòa nhập vào các nền văn hóa khác, bị các nền văn hóa này bản địa hóa để trở nên gần gũi với văn hóa dân tộc nơi Công giáo truyền vào. Tại Brazil, trong cuốn Lịch sử Giáo hội Công giáo tập 3, tác giả Nguyễn Duy Trinh khi nói về hành trình truyền giáo và hội nhập Công giáo tại Brazil có viết: “Sau khi Carôlô phát hiện ra xứ này, các thừa sai dòng Phan sinh bắt đầu tin mừng hóa. Hôn nhân giữa Kitô hữu da trắng và thiếu nữ bản xứ đã thực hiện việc lai giống…” [80, tr 329]. Việc thực hiện những nghi thức nghi lễ trong Giáo hội Công giáo để hội nhập văn hóa cũng là một cách để bản địa hóa Công giáo tại đây. Trong thời bối cảnh xã hội còn nặng nề về phân biệt màu da, sắc tộc… thì việc cổ vũ và cho phép hôn nhân của 14
  20. ngƣời da trắng và phụ nữ bản địa da màu tại Brazil là một bƣớc tiến lớn, đồng thời tạo điều kiện cho Công giáo hội nhập vào văn hóa bản địa tại đây. + Bản địa hóa Công giáo ở một số nước châu Á Với các nƣớc châu Á, tình hình truyền đạo Công giáo cũng tƣơng tự. Trung Quốc là một đất nƣớc có bề dày về lịch sử và nền văn hóa độc đáo đƣợc hình thành từ hàng ngàn năm, văn hóa Trung Quốc có ảnh hƣởng rộng khắp trên thế giới, vì vậy Công giáo bƣớc đầu truyền vào Trung Quốc cũng gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những nhà truyền giáo nổi bật tại Trung Quốc là Matteo Ricci một linh mục dòng tên, đến Trung Quốc truyền đạo năm 1582 tại Áo Môn. Năm 1583 ông đến Trùng Khánh và đƣợc gọi là Tây Tăng. Năm 1589 ông đến Triều Châu truyền giáo, ông mặc quần áo theo kiểu nhà Nho tự xƣng là Tây Nho. Trong cuốn Thiên Chúa thực nghĩa ông cho rằng: “Những văn bản nguyên thủy của Nho giáo chƣa bị ảnh hƣởng của Phật giáo có những ý niệm về trời, thƣợng đế và cuộc sống sau chết rất gần gũi với ý niệm Thiên Chúa và đời sau của Ki Tô giáo” [102, tr 89]. Nhƣ vậy, đến truyền đạo tại Trung Quốc một đất nƣớc có truyền thống văn hóa lâu đời và là nơi sản sinh ra những hệ tƣ tƣởng lớn và chịu ảnh hƣởng của những tôn giáo bản địa nhƣ Nho giáo, Đạo giáo... Ricci đã tìm ra một con đƣờng để hội nhập với văn hóa Trung Quốc là Nho giáo... Khi viết về quá trình truyền giáo và hội nhập Công giáo tại Trung Quốc, tác giả Nguyễn Duy Trinh trong cuốn Lịch sử Giáo hội Công giáo tập 3 cho biết: “ ... Cha Rici ở lại làm việc tại Nam Kinh và Bắc Kinh. Cha phân biệt rõ ràng Tam giáo ở Trung Quốc và tri thức đều theo Khổng giáo. Cha vạch ra những điểm tƣơng đồng giữa Kitô giáo và Khổng giáo, chế ra những từ mà tiếng Trung Quốc không có nhƣ ” Thiên Chúa”, sát nhập các nghi lễ Trung Quốc vào nghi lễ Công giáo... Những dụng cụ Cha mang theo nhƣ đồng hồ, lăng kính, la bàn, làm họ say mê, nhất là tấm bản đồ thế giới, Cha vẽ lại bản đồ thế giới, với Trung Quốc chính giữa, dâng lên Hoàng đế, khiến ngƣời rất hài lòng, ban cho cha tự do rao giảng khắp nơi..” [80, tr 339]. Nhƣ vậy với tƣ tƣởng tiến bộ cùng với sự linh hoạt và khôn khéo trong cách hội nhập văn hóa Trung Quốc, nhà truyền giáo Rici đã tạo tiền đề thuận lợi để Công 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2