Luận án Tiến sĩ Văn học: Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Nhìn từ góc độ thể loại
lượt xem 14
download
Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hướng đến mục đích nhận diện các đặc điểm thi pháp của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ đó tổng kết, khái quát những thành tựu cũng như những điểm dừng, hạn chế của thể loại này trong bối cảnh chung của văn học Việt Nam đương đại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Nhìn từ góc độ thể loại
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 34 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS. TS LÊ VĂN LÂN 2. PGS. TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội - 2016 2
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS. TS Lê Văn Lân và PGS. TS Hà Văn Đức (Khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), những ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận án này. Xin đƣợc gửi lời cảm ơn trân trọng tới các thầy cô giáo đã đào tạo, dìu dắt tôi trong nhiều năm qua để tôi có đƣợc tri thức và phƣơng pháp trong nghiên cứu khoa học. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo và đồng nghiệp tại Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã luôn luôn động viên, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, công tác và hoàn thành luận án này. NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hoàng 3
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng: - Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của tập thể hƣớng dẫn khoa học, chƣa từng đƣợc công bố trong các công trình nghiên cứu của ngƣời khác. - Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã đƣợc tiếp thu một cách trung thực, cẩn trọng trong luận án. NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hoàng 4
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài “Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hƣớng phát triển vững bền, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để gìn giữ, đổi mới thƣờng xuyên các khuynh hƣớng ấy. Do đó mà thể loại văn học luôn luôn vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định” [150, tr.253]. Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn khi kiến tạo tác phẩm thuộc một thể loại nhất định, một mặt bảo lƣu những đặc trƣng cốt yếu của thể loại, mặt khác không ngừng tìm tòi, cách tân để tác phẩm của mình có đƣợc diện mạo, sức sống riêng, nhờ thế góp phần làm nên sự biến đổi, phát triển của thể loại ấy. Việc quan sát sự vận động của các thể loại trong mỗi nền văn học là một công việc cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với nghiên cứu lịch sử văn học nói chung. Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đã thực hiện một công cuộc hiện đại hóa mau lẹ và phức tạp để tiến một bƣớc dài từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại, từ quỹ đạo vùng Đông Á gia nhập vào quỹ đạo toàn thế giới. Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của công cuộc hiện đại hóa đó là sự phá vỡ mô hình thể loại truyền thống, hình thành cấu trúc thể loại mới với tự sự, trữ tình và kịch. Vận động trong dòng chảy chung đó của cả nền văn học, truyện ngắn hiện đại đƣợc hình thành và qua các giai đoạn 1932 – 1945, 1945 – 1975 đã đạt đƣợc nhiều thành tựu, đánh dấu những bƣớc đi quan trọng của thể loại. Năm 1975, chiến tranh kết thúc, miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, cuộc sống trở về với quỹ đạo bình thƣờng của nó. Hoàn thành sứ mệnh phục vụ kháng chiến, nền văn học từ năm 1975 đến nay vừa kế thừa thành tựu của giai đoạn trƣớc, vừa vận động và phát triển với những nguyên tắc, những khuynh hƣớng, những đặc điểm mới. Nếu nhƣ thơ ca phải đợi đến sau năm 1986 mới thực sự có đƣợc những bƣớc ngoặt quan trọng cho quá trình đổi mới thì trong văn xuôi, quá trình này đã đƣợc khởi tạo ngay sau năm 1975. Với một cách nhìn mới mẻ về con ngƣời và hiện thực, nhiều tác giả văn xuôi đã từng bƣớc đổi mới phƣơng thức 5
- xây dựng hình tƣợng nghệ thuật và những đặc điểm thi pháp của tác phẩm, trong đó sớm nhất phải kể tới những tiểu thuyết của Lê Lựu (Thời xa vắng), Ma Văn Kháng (Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển, Cù lao Tràm), Nguyễn Khải (Cha và Con, và…, Gặp gỡ cuối năm) hay truyện ngắn của Thái Bá Lợi (Hai người trở lại trung đoàn), Xuân Thiều (Gió từ miền cát), Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê)… Cuộc chiến tranh vừa đi qua của dân tộc và những vấn đề về thế sự, đời tƣ, số phận con ngƣời trong điều kiện lịch sử mới đã đƣợc tƣ duy, nhận thức một cách mới mẻ. Có thể nói, không đợi đến công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc đƣợc Đảng khởi xƣớng vào cuối năm 1986, nhu cầu đổi mới tƣ duy và những thể nghiệm đổi mới đã đƣợc các nhà văn hiện thực hoá mạnh mẽ trong văn chƣơng ngay khi chiến tranh kết thúc, đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn hòa bình, dựng xây. Những biến chuyển đó đã phác thảo nên một thời kỳ phát triển mới cho nền văn học: thời kỳ đƣơng đại. Trong bức tranh chung đó, những thành tựu đổi mới của truyện ngắn đã đƣợc xác lập rất sớm và sôi nổi. Có thể nói thể loại tự sự cỡ nhỏ năng động, linh hoạt này đã chứng tỏ sự nhạy bén cũng nhƣ ƣu thế của nó trong bƣớc chuyển và sự định hình của văn học Việt Nam bốn mƣơi năm qua. Thực tế trên đặt ra một nhiệm vụ: tìm hiểu diện mạo lịch sử của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn thể loại. Đã có những công trình nghiên cứu về truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 trên những mảng vấn đề, những khía cạnh khác nhau, chẳng hạn nghiên cứu về các tác giả và nhóm tác giả truyện ngắn tiêu biểu; về bộ phận truyện ngắn đƣợc đăng tải trên một số tờ báo, tạp chí; về đặc điểm truyện ngắn từng vùng miền, từng chặng đƣờng phát triển cụ thể v.v… Theo quan sát của chúng tôi, nếu tiểu thuyết và thơ đã đƣợc quan tâm nghiên cứu một cách bao quát và chi tiết trong nhiều công trình khoa học về lý luận cũng nhƣ lịch sử thể loại, thì đến nay vẫn còn thiếu vắng những công trình soi rọi một cách có hệ thống truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc độ thể loại để thấy đƣợc sự vận động biến đổi của thể loại trong giai đoạn này so với các giai đoạn trƣớc, cũng nhƣ trong tƣơng quan với các thể loại khác của cùng giai 6
- đoạn – tức là chỉ ra đƣợc những đặc điểm của thể loại xét từ cả hai chiều lịch đại và đồng đại. Xuất phát từ những tiền đề lý luận và thực tiễn nhƣ trên, luận án này của chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại . 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi xác định đối tƣợng nghiên cứu của luận án là những đặc điểm cho thấy sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 xét trên phƣơng diện thể loại, đó là những đặc điểm về dung lƣợng, tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nghiên cứu, luận án khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay. Tuy nhiên, đứng trƣớc sự hiện diện vô cùng đa dạng và phong phú của truyện ngắn trong văn học Việt Nam giai đoạn này, với một số lƣợng lớn tác giả, tác phẩm và rất nhiều kiểu loại, nhiều khuynh hƣớng, phong cách, chúng tôi tập trung nghiên cứu nhiều hơn vào những tác phẩm thể hiện rõ nhất sự vận động, đổi mới của thể loại, và phù hợp với hƣớng tiếp cận của chúng tôi. Đó là các tác phẩm đã đạt các giải thƣởng văn học, các tác phẩm khi công bố đã tạo nên dƣ luận sôi nổi, và tác phẩm của những nhà văn đã định hình phong cách, đƣợc biết đến rộng rãi trong công chúng văn học, đƣợc các giáo trình, các bài viết có uy tín về văn học Việt Nam giai đoạn này đánh giá là tiêu biểu. Với giới hạn về quy mô và khả năng bao quát tƣ liệu, những sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Việt ở nƣớc ngoài giai đoạn này không thuộc phạm vi nghiên cứu của chúng tôi trong luận án. Do đối tƣợng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục vận động và phát triển, chúng tôi xác định mốc thời gian sau cùng cho những tác phẩm trong phạm vi khảo sát của luận án là những truyện ngắn đƣợc xuất bản năm 2014. 7
- Chúng tôi hy vọng thông qua đó, có thể thấy đƣợc, tuy không phải tất cả, những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc độ thể loại. Bên cạnh đó, một số truyện ngắn tiêu biểu trong những giai đoạn phát triển trƣớc đó và một số tác phẩm đồng đại thuộc các thể loại khác cũng sẽ đƣợc liên hệ, đối sánh tới khi cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện các đặc điểm thi pháp của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ đó tổng kết, khái quát những thành tựu cũng nhƣ những điểm dừng, hạn chế của thể loại này trong bối cảnh chung của văn học Việt Nam đƣơng đại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát đối tƣợng nghiên cứu, luận án tìm hiểu sự vận động về mặt thể loại của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 trên các phƣơng diện: sự co giãn về dung lƣợng tác phẩm, sự xâm nhập và giao thoa của các phƣơng thức tự sự, sự vận động trong các kiểu tình huống chính, sự đa dạng hóa các hình thức kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật và ngôn ngữ. Luận án cũng đặt truyện ngắn Việt Nam sau 1975 trong tiến trình vận động và phát triển của thể loại truyện ngắn ở Việt Nam, chỉ ra đƣợc tính kế thừa và những biến thiên, cách tân của thể loại trong giai đoạn này so với những giai đoạn trƣớc. Từ đó, chúng tôi đƣa ra một số đánh giá về những thành tựu và lý giải những điểm dừng, giới hạn của truyện ngắn trong bối cảnh chung của các thể loại văn học đƣơng đại Việt Nam. Đạt đƣợc những mục đích trên, luận án sẽ đƣa ra một cái nhìn tổng quan về truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại, có thể trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu văn xuôi nói riêng, văn học Việt Nam nói chung. 8
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án áp dụng thi pháp học và tự sự học vào việc phân tích, tìm hiểu những đặc trƣng của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Với ý nghĩa là một công trình nghiên cứu về một giai đoạn phát triển của một thể loại, trƣớc hết, chúng tôi vận dụng phƣơng pháp thực chứng lịch sử để mô tả, khái quát về tình hình vận động và phát triển của truyện ngắn trên những phƣơng diện cơ bản làm nên đặc trƣng của thể loại. Từ đó, luận án vừa là một sự tổng kết về đối tƣợng, vừa đƣa ra đƣợc những so sánh, liên hệ về đối tƣợng với truyện ngắn Việt Nam các giai đoạn trƣớc. Bên cạnh đó, phƣơng pháp loại hình đƣợc vận dụng trong chƣơng mở đầu của luận án nhằm phân chia đối tƣợng nghiên cứu thành những kiểu, loại với những tiêu chí nhận diện cụ thể. Phƣơng pháp này cũng sẽ giúp cho luận án, ở các chƣơng tiếp theo, nhìn nhận những phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại của truyện ngắn giai đoạn này (tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ) nhƣ một tổng thể với nhiều nhóm đối tƣợng đƣợc phân loại và khảo sát một cách độc lập tƣơng đối, vừa thống nhất, vừa đa dạng. Các thao tác khoa học cụ thể đƣợc vận dụng trong luận án nhƣ sau: Thao tác thống kê, phân loại, hệ thống hoá: nhằm nhận diện các nhóm đối tƣợng và khảo sát đặc điểm của chúng nhƣ các kiểu truyện, các kiểu tình huống, kết cấu, nhân vật. Thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát: nhằm đƣa ra những nhận định khoa học, những minh chứng về các đối tƣợng khảo sát, từ đó đánh giá, lý giải về các kết luận thu đƣợc. Thao tác so sánh: là một thao tác khoa học quan trọng để nhìn nhận đối tƣợng nghiên cứu trong sự liên hệ, trong thế tƣơng quan, đối sánh, trong sự soi rọi từ nhiều góc độ, qua đó có thể chỉ ra sự tƣơng đồng và khác biệt trong truyện ngắn ở các kiểu khác nhau, các tác giả khác nhau… Sự vận động của thể loại so với các giai đoạn trƣớc đó và những biến chuyển bên trong bản thân đối tƣợng giai đoạn này, nhờ thế, sẽ đƣợc làm rõ. 9
- 5. Đóng góp mới của luận án Luận án là một công trình khoa học áp dụng lý thuyết tự sự học và thi pháp học vào việc nghiên cứu thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Tuy đã có một số công trình đi theo hƣớng nghiên cứu này, nhƣng với phạm vi nghiên cứu rộng lớn và hƣớng triển khai của mình, luận án là công trình đầu tiên khảo sát đối tƣợng để đi đến những nhận định, tổng kết khái quát nhất về các đặc điểm thi pháp, sự vận động và những thành tựu của truyện ngắn Việt Nam bốn mƣơi năm qua. Vì thế, luận án không chỉ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận về thể loại, mà còn là một khảo sát gắn với những quan điểm về việc phân kỳ và tổng kết văn học sử. Cùng với những công trình nghiên cứu tổng quan về các thể loại khác (tiểu thuyết, thơ...), luận án góp phần đƣa ra một hình dung khái quát về chặng đƣờng bốn mƣơi năm vận động và phát triển của nền văn học Việt Nam trong thời kỳ đƣơng đại. Luận án cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập ngành Văn học trong các trƣờng Đại học, Cao đẳng, và cho những độc giả quan tâm về văn học Việt Nam sau 1975. 6. Cấu trúc của luận án Luận án bao gồm Mở đầu, Nội dung, Kết luận và Tài liệu tham khảo. Nội dung chính đƣợc chia thành bốn chƣơng: - Chƣơng 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. - Chƣơng 2: Tình huống và kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975. - Chƣơng 3: Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975. - Chƣơng 4: Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 10
- CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 Trƣớc sự phát triển đa dạng, phong phú của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, các nhà nghiên cứu, phê bình, giới báo chí và công chúng đã dành sự quan tâm đáng kể tới thể loại này. Trong phạm vi quan sát của mình, chúng tôi nhận thấy các kết quả nghiên cứu về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 có thể phân chia một cách tƣơng đối thành mấy nhóm chính sau đây: Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu lý luận về truyện ngắn; thứ hai, nhóm công trình khảo sát, bình luận, giới thiệu tổng quát về truyện ngắn Việt Nam sau 1975; thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về từng hệ vấn đề trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975: tác giả, nhóm tác giả, vùng miền, chủ đề, khuynh hƣớng, kiểu truyện, sự tƣơng tác của truyện ngắn với các thể loại khác; và thứ tƣ, nhóm bài viết về những tác phẩm truyện ngắn cụ thể trong giai đoạn này. Dƣới đây chúng tôi sẽ mô tả tổng quan các kết quả nghiên cứu của từng nhóm công trình. 1.1.1. Nghiên cứu lý luận về truyện ngắn M. Bakhtin từng nêu lên những khó khăn đặc biệt trong nghiên cứu tiểu thuyết – thể loại văn chƣơng “đang biến chuyển và còn chƣa định hình”, khiến cho “Các nhà nghiên cứu không chỉ ra đƣợc một dấu hiệu xác định và chắc chắn nào của tiểu thuyết mà lại không phải đính chính, để rồi sự đính chính ấy lại bác bỏ ngay cái dấu hiệu ấy nhƣ chính là một dấu hiệu thể loại” [12, tr.29]. Nhà thơ B. Dimitrova thì thốt lên: “Ôi, nếu tôi biết thơ là gì thì cả đời tôi, tôi chẳng đau khổ thế này”. Có lẽ đó cũng là nỗi niềm chung của những ai muốn đi tìm một định nghĩa chính xác nhất, toàn vẹn nhất về bất cứ thể loại, loại hình nghệ thuật nào, bởi lẽ nghệ thuật trong bản chất là cái chủ quan, và sự định hình nó phụ thuộc một phần quan trọng vào chủ thể sáng tạo. Không nhƣ trong các ngành khoa học khác, các nhà lý luận 11
- văn học nghệ thuật khó có thể đƣa ra một khái niệm duy nhất chính xác và chặt chẽ về từng thể loại, mà dựa trên thực tế tồn tại và phát triển của thể loại để khái quát nên những vấn đề khả dĩ bao quát nhất. Đối với thể loại truyện ngắn, cũng có rất nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau đã ra đời, và thật khó có thể xác định đƣợc một định nghĩa đúng với mọi trƣờng hợp trong thực tiễn sáng tác. Điều đó khiến cho việc nghiên cứu mang tính lý luận về thể loại này vẫn không ngừng hấp dẫn, đồng thời cũng không ngừng là một thử thách đối với giới chuyên môn. Thuật ngữ truyện ngắn và những vấn đề lý luận liên quan đã xuất hiện trong không ít các công trình nghiên cứu sau năm 1975. Trong Từ điển Văn học do nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1984, truyện ngắn đƣợc quan niệm là một loại “truyện” một “hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lƣợng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội” [11, tr.457]. Truyện ngắn đƣợc định tính là “thể loại tự sự cỡ nhỏ” trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên. Các soạn giả của cuốn từ điển này nhấn mạnh đến một số đặc điểm mấu chốt làm nên thể loại truyện ngắn về dung lƣợng, nội dung, nhân vật, cốt truyện, kết cấu, bút pháp và chi tiết. Thể loại này cũng đƣợc đánh giá là “gần gũi với đời sống hàng ngày, súc tích, dễ đọc, lại thƣờng gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh hƣởng kịp thời trong đời sống” [52, tr.314 – 315]. Từ điển văn học bộ mới do Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên, xuất bản năm 2004 định nghĩa truyện ngắn là “Thể loại tự sự cỡ nhỏ, thƣờng đƣợc viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết các phƣơng diện của đời sống con ngƣời và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lƣợng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc ngƣời tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [112, tr.1846]. Không chỉ đƣợc đề cập đến với tƣ cách là một khái niệm, một thuật ngữ, thể loại truyện ngắn, cùng với các thể loại khác, đã đƣợc các nhà lý luận và phê bình 12
- văn học thời kỳ đổi mới quan tâm phân tích từ nhiều góc độ, nhiều phƣơng pháp tiếp cận khác nhau. Hầu hết các giáo trình Lý luận văn học do tập thể tác giả của các trƣờng đại học biên soạn đều nêu lên định nghĩa cũng nhƣ những vấn đề liên quan đến bản chất, đặc trƣng của truyện ngắn với tƣ cách là một thể loại văn học độc lập. Từ góc độ ngôn ngữ học, công trình Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học của Nguyễn Lai khi bàn về Phong cách thể loại qua đặc trưng ngôn ngữ đã lấy các thể loại văn học, trong đó có truyện ngắn, làm đối tƣợng khảo sát. Tác giả đi sâu vào ranh giới giữa các thể loại, tìm hiểu cơ chế sáng tạo khác nhau giữa chúng gắn với chức năng và chất liệu của ngôn ngữ, từ đó bàn về sắc thái riêng của từng phong cách thể loại trong mối quan hệ với ngôn ngữ. Trong cuốn sách Những vấn đề thi pháp của truyện, tác giả Nguyễn Thái Hòa đã đi sâu phân tích nội hàm khái niệm “truyện” trong sự phân biệt với khái niệm “chuyện”, từ đó “miêu tả những khái niệm cơ sở của Thi pháp học thể loại Truyện ở góc nhìn ngôn ngữ học” [59, tr.3]. Tác giả không đặt ra vấn đề phân loại truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết mà đặt các thể loại này trong một khái niệm chung là “truyện kể hiện đại” với tƣ cách là một bộ phận trong loại hình tự sự văn học để nghiên cứu về mặt thi pháp qua các phƣơng diện: “Chuyện của con ngƣời và con ngƣời trong truyện”, “Lời kể và lời thoại trong truyện”, “Không gian nhƣ một nhân tố nghệ thuật của truyện”. Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy là cuốn sách tập hợp các báo cáo khoa học từ hội thảo cùng tên do Khoa Ngữ văn - Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội tổ chức. Trong cuốn sách này có hai bài viết trực tiếp bàn về lý luận truyện ngắn: Phùng Ngọc Kiếm với bài Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 đã mô tả tổng quan về tình hình nghiên cứu lý luận truyện ngắn sau năm 1975 đồng thời phân tích một số quan niệm cơ bản, đi sâu bàn luận về những vấn đề cốt yếu của thể loại này; Nguyễn Thanh Hùng trong bài Nghiên cứu và giảng dạy truyện ngắn hiện đại thì đƣa ra một quan niệm về truyện ngắn hiện đại, từ đó đề xuất những phƣơng pháp, thao tác cần thiết 13
- để đọc hiểu, nghiên cứu và giảng dạy truyện ngắn trong nhà trƣờng. Cũng nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn Văn học và nhân cách đã bàn về tính hàm xúc (khả năng biểu cảm cao), chính xác và đa nghĩa cũng nhƣ độ kết dính và khả năng liên kết trong lời văn nghệ thuật nhƣ là “ánh kim sa trong truyện ngắn”. Ý thức đi tìm một định nghĩa khả dĩ tiếp cận gần nhất với thực tế vận động của thể loại cũng nhƣ đặt ra những vấn đề lý luận căn cốt về truyện ngắn còn đƣợc thể hiện trong một số cuốn sách, chuyên luận dành riêng cho việc nghiên cứu thể loại này. Sổ tay truyện ngắn do Vƣơng Trí Nhàn sƣu tầm, biên soạn, dịch đã tập hợp 37 ý kiến của các nhà văn, giới báo chí trong và ngoài nƣớc xoay quanh những đặc điểm, đặc trƣng của truyện ngắn, những yêu cầu đối với quá trình sáng tạo truyện ngắn, những bí quyết, kinh nghiệm và chuyện “bếp núc” trong thực tế sáng tác truyện ngắn. Cuốn Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký do Tạ Duy Anh chủ biên trong Phần I. Nghệ thuật truyện ngắn cũng tập hợp 10 bài viết của các nhà nghiên cứu, giới sáng tác về quan niệm truyện ngắn, một số đặc điểm của truyện ngắn, kỹ thuật viết truyện ngắn… Hai cuốn sách kể trên đã giúp độc giả tiếp cận với những cách nhìn nhận khá phong phú và sinh động về truyện ngắn, tuy nhiên, những ý kiến đƣợc tập hợp là riêng lẻ, thƣờng mang tính chủ quan, xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân của ngƣời viết nên chƣa tạo ra một hệ thống tri thức lý luận khách quan với một hệ quy chiếu nhất quán và toàn diện về đối tƣợng. Bổ sung thêm những nghiên cứu lý luận về thể loại này, có thể kể đến hai công trình Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại của Bùi Việt Thắng và Truyện ngắn: lý luận, tác gia và tác phẩm của Lê Huy Bắc. Công trình của tác giả Bùi Việt Thắng bao gồm hai phần chính: Phần thứ nhất Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại đƣợc triển khai qua năm nội dung chính: Định nghĩa truyện ngắn, Nguồn gốc truyện ngắn, Đặc trưng thể loại truyện ngắn, Các kiểu truyện ngắn và Khái quát sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX; Phần thứ hai Bàn về truyện ngắn tập hợp một số ý kiến của các nhà văn về truyện ngắn. Là ngƣời giảng dạy và nghiên cứu văn học Việt Nam, tác giả đã đúc kết các vấn đề lý luận chủ yếu dựa trên và gắn với thực tế phát triển của truyện ngắn 14
- trong lịch sử văn học Việt Nam. Công trình của tác giả Lê Huy Bắc lại chủ yếu khảo sát các tác phẩm truyện ngắn nƣớc ngoài, trên cơ sở đó mong muốn “cố gắng hình thành một hệ thống lí luận về truyện ngắn nói chung, truyện ngắn của từng giai đoạn và của từng tác giả,…” [18, tr.6] với cấu trúc gồm ba phần: Tổng luận: bao gồm các vấn đề lí luận về thể loại; Truyện ngắn khu vực và tác giả: bao gồm các bài viết giới thiệu khái quát truyện ngắn từng châu lục, các quốc gia tiêu biểu và phong cách riêng của một số tác giả nổi tiếng bậc nhất; Giải phẫu tác phẩm: phân tích, bình giảng các tác phẩm cụ thể. Năm 2007, công trình Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp – Chân dung do Phan Cự Đệ chủ biên lần đầu tiên đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh về thể loại truyện ngắn Việt Nam từ thời trung đại đến nay qua các giai đoạn phát triển, các đặc điểm thi pháp và các tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Trong chƣơng IX Đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, tác giả Phan Cự Đệ sau khi phân tích các quan điểm của nhiều nhà lý luận, nhà văn trong và ngoài nƣớc, đã tổng kết thành một định nghĩa “bao gồm một hệ thống đặc điểm nhằm phản ánh những đặc trƣng về hình thức, về chủ đề, về kết cấu và cốt truyện, về ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật của thể loại truyện ngắn”[38, tr.443]. Trên cơ sở đó, ở chƣơng X Thi pháp truyện ngắn hiện đại, ông bàn đến kết cấu và cốt truyện, tình huống và khoảnh khắc, chủ đề và chi tiết trong truyện ngắn hiện đại. Những cuốn sách kể trên là những công trình mang lại một hệ thống tri thức có tính lý luận hơn cả, cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn khá bao quát và khách quan về thể loại truyện ngắn. Dù xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau, với những quan niệm khác nhau, song mối quan tâm chung trong những bài viết, những công trình nghiên cứu về lý luận truyện ngắn đƣợc công bố trong các bộ từ điển, các giáo trình, chuyên luận và sách báo, đó là đi vào giải quyết một số phƣơng diện chủ yếu sau đây: Thứ nhất, cố gắng đƣa ra một định nghĩa, một quan niệm tối ƣu nhất về truyện ngắn, để trả lời cho câu hỏi: Truyện ngắn là gì?; thứ hai, nêu lên cách đánh giá về vai trò của truyện ngắn trong cấu trúc thể loại của nền văn học; phân biệt truyện ngắn với 15
- truyện, tiểu thuyết; mối quan hệ giữa truyện ngắn với các thể loại văn học khác; thứ ba, xác định những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn, những yêu cầu quan trọng trong sáng tạo tác phẩm truyện ngắn; và thứ tƣ, phân loại truyện ngắn thành một số kiểu cơ bản. Những quan niệm thuộc bốn hệ vấn đề cơ bản trên thƣờng không mang tính lý luận thuần túy mà gắn với thực tế phát triển của truyện ngắn trong nƣớc và thế giới. Lý luận đƣợc khái quát từ một nền văn học cụ thể, một kinh nghiệm sáng tác cụ thể hoặc một số tác giả, tác phẩm cụ thể; và lý luận đó sẽ đƣợc ứng dụng để tiếp cận và giải mã các hiện tƣợng cụ thể trong đời sống văn học. Sẽ là sơ suất khi mô tả kết quả nghiên cứu lý luận về truyện ngắn mà không đề cập đến lĩnh vực dịch thuật. Để đáp ứng nhu cầu vận dụng các thành tựu lý luận văn học hiện đại thế giới của giới nghiên cứu trong nƣớc, nhiều công trình lý luận có giá trị về văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng đã đƣợc dịch và giới thiệu, tiêu biểu là các công trình của M. Bakhtin: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ dịch), Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki (Trần Đình Sử dịch); của R. Barthes: Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (Đỗ Lai Thúy giới thiệu, Tôn Quang Cƣờng dịch), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch); của M. Kundera: Tiểu luận (Nguyên Ngọc dịch, trong đó bao gồm phần Nghệ thuật tiểu thuyết); của Iu. Lotman: Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vƣơng, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch); của K. Hamburger: Logic học về các thể loại văn học (Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc Vƣơng dịch); của Meletinsky: Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch); của Grojnovski: Đọc truyện ngắn (Trần Hinh, Phùng Ngọc Kiên dịch), v.v… Hầu hết dịch giả của các công trình trên đều là những giảng viên chuyên ngành văn học, những nhà nghiên cứu, phê bình, sáng tác văn học, những thành tựu mà họ chuyển ngữ và giới thiệu kể trên đã cung cấp một hàm lƣợng tri thức khoa học, hiện đại và hữu ích cho khoa nghiên cứu văn học trong nƣớc những năm qua. Trong những công trình này, nhiều vấn đề chung của các thể loại tự sự đã đƣợc luận bàn từ các lý thuyết, các khuynh hƣớng tiếp cận khác nhau. Và dù có trực tiếp bàn về lý luận 16
- truyện ngắn hay không, đây vẫn là những cuốn sách mang tính công cụ quan trọng, giới thiệu những hƣớng tiếp cận, những phƣơng pháp, thao tác nghiên cứu của lý luận văn học phƣơng Tây để các nhà nghiên cứu truyện ngắn có thể vận dụng. Tuy nhiên, các công trình về lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn nhìn chung vẫn còn ít ỏi. 1.1.2. Nghiên cứu tổng quan về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Để tổng kết, đánh giá một giai đoạn phát triển của nền văn học, cần đến một độ lùi nhất định về thời gian. Tuy vậy, đứng trƣớc sự phát triển đa dạng, phong phú của văn học Việt Nam từ năm 1975 đến nay, một số nhà nghiên cứu, phê bình cũng đã có những công trình bƣớc đầu đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng quan về nền văn học nói chung, đồng thời đánh giá những thành tựu cũng nhƣ đặc điểm quá trình vận động của từng thể loại. Trong những công trình này, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đều đƣợc đánh giá là có bƣớc phát triển mạnh mẽ, đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể, với một đội ngũ sáng tác đông đảo, một số lƣợng lớn tác phẩm đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức, trong đó có những tác giả tác phẩm trở thành tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Sách Văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh giá cao sự khởi sắc của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 2000. Trong công trình Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ ghi nhận: “Truyện ngắn và tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới (1986 – 2006) phát triển hết sức mạnh mẽ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật” [38, tr.369]. Từ việc phân tích các tiền đề khách quan và chủ quan, tác giả khẳng định thành tựu của truyện ngắn giai đoạn này trên các phƣơng diện: đổi mới chủ đề và nội dung phản ánh; tính chất dân chủ trong sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm; đề cao dấu ấn của chủ thể sáng tạo; sự đa dạng về phƣơng pháp sáng tác, phƣơng thức tiếp cận hiện thực và bút pháp nghệ thuật. Năm 1991, Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng “chúng ta đang đứng trƣớc một vụ đƣợc mùa truyện ngắn mới. Truyện ngắn đông, nhiều và thật sự có một số truyện ngắn thật hay”, và “truyện ngắn bỗng nổi bật lên hàng đầu” nhƣ “một quy luật rất thú vị về sự phát triển của các thể loại văn học” [103, tr.12]. Ông cho rằng truyện 17
- ngắn là thể loại “tiến xa hơn cả” trong đời sống văn học đƣơng đại. Lý Hoài Thu trong bài viết Sự vận động của các thể văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới cũng khẳng định “Có thể nói rằng, trong văn xuôi, truyện ngắn là thể loại đã khẳng định đƣợc vị trí của mình và có tầm ảnh hƣởng rộng rãi nhất đối với đời sống văn học thời kỳ đổi mới” [143, tr.182]. Bích Thu nhận định “Chƣa bao giờ truyện ngắn lại phát triển phong phú về số lƣợng lẫn hiệu quả nghệ thuật nhƣ hôm nay”. Sự phát triển ấy đƣợc tác giả đánh giá là “một hiện tƣợng mang tính tất yếu không chỉ bởi sự phát triển nội tại của bản thân thân thể loại mà còn do sự tác động của những đổi mới về mọi phƣơng diện của môi trƣờng sáng tạo mới, của sự giao lƣu rộng rãi với văn hóa thế giới” [139, tr.34]. Thành tựu của truyện ngắn giai đoạn này đƣợc nhà nghiên cứu tổng kết trên ba phƣơng diện chủ yếu: cốt truyện và kết cấu, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ. Đề cao truyện ngắn nhƣ một thể loại mạnh của nền văn xuôi hiện đại nƣớc nhà, Nguyễn Thị Bình cho rằng: “Với truyện ngắn, văn học Việt Nam đang tiệm cận văn học đƣơng đại thế giới ở tƣ duy thể loại” [89, tr.278]. Làm nên sự “lên ngôi”, “thăng hoa”, sự phát triển mạnh mẽ đó của truyện ngắn, theo các nhà nghiên cứu, là nhờ một đội ngũ sáng tác hùng hậu: “Truyện ngắn đã và đang là trung tâm thu hút sức sáng tạo của các thế hệ cầm bút, là thể loại sở trƣờng của nhiều nhà văn, ngƣời đến trƣớc, kẻ đến sau, tập hợp thành một lực lƣợng hùng hậu” [139, tr. 34]. Phan Cự Đệ đã làm một thống kê về đội ngũ những ngƣời viết truyện ngắn theo không gian, bao gồm những cây bút truyện ngắn miền xuôi, những nhà văn dân tộc thiểu số, và các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại. Bùi Việt Thắng lại có cái nhìn lịch sử khi ghi nhận sự đóng góp của đội ngũ sáng tác văn xuôi theo từng thế hệ: thế hệ trƣởng thành từ kháng chiến chống Pháp và hòa bình (1954), thế hệ trƣởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, thế hệ xuất hiện sau 1975, và “một thế hệ mới với nhiều tiềm năng sáng tác” xuất hiện từ thời kỳ đổi mới. Trong sự trƣởng thành của lực lƣợng sáng tác, các nhà nghiên cứu đã thống nhất thừa nhận có một phần đóng góp đáng kể từ các giải thƣởng văn học do Hội Nhà văn Việt Nam, một số tờ báo, tạp chí nhƣ Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ… khởi 18
- xƣớng. Một hiện tƣợng đáng chú ý về đội ngũ tác giả truyện ngắn giai đoạn này đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đề cập, đó là sự nở rộ của các cây bút nữ. Sự xuất hiện ngày càng nhiều và ngày càng thành công của các tác giả nữ đƣợc Phƣơng Lựu đánh giá là “một hiện tƣợng tốt đẹp, đánh dấu một phƣơng diện phát triển của văn học thế kỷ này trên đất nƣớc ta”, khiến ông nhận thấy “Đã đến lúc, trên bình diện lý thuyết, phải đặt vấn đề tìm hiểu những đặc điểm của nữ văn sĩ, với tất cả mặt mạnh yếu của nó, để góp phần nhỏ thúc đẩy việc bồi dƣỡng và phát triển lực lƣợng sáng tác của nửa phần dân tộc và nhân loại này” [96, tr. 66]. Thậm chí một số nhà nghiên cứu đã sử dụng những cụm từ “gƣơng mặt nữ”, “âm hƣởng nữ quyền” để phác họa diện mạo văn học Việt Nam đƣơng đại. Việc xác định các khuynh hƣớng nội dung chính trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 cũng đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm và tiến hành từ những góc tiếp cận khác nhau. Căn cứ vào chủ đề và cảm hứng, Nguyễn Thị Bình nhận thấy văn xuôi, trong đó có truyện ngắn, giai đoạn này nổi bật ba khuynh hƣớng: “khuynh hƣớng nhận thức lại hiện thực”, “khuynh hƣớng đạo đức – thế sự” và “khuynh hƣớng triết luận”. Nguyễn Văn Long nói đến bốn khuynh hƣớng của văn xuôi giai đoạn này là “khuynh hƣớng sử thi”, “khuynh hƣớng nhận thức lại”, “khuynh hƣớng thế sự - đời tƣ” và “khuynh hƣớng triết luận”, tuy nhiên, “khuynh hƣớng sử thi” đƣợc ông khái quát chủ yếu từ các tác phẩm tiểu thuyết. Bích Thu xác định Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống mô típ chủ đề, bao gồm “chủ đề thiện ác”, “chủ đề sám hối”, “chủ đề cô đơn”… Ngoài việc khái quát sự vận động của các khuynh hƣớng, một số công trình cũng đã đi vào phân tích một số đề tài, chủ đề, khuynh hƣớng cảm hứng cụ thể trong truyện ngắn sau 1975. Nếu nhƣ trong các giáo trình văn học Việt Nam sau 1975, trong khi khái quát về sự vận động của văn xuôi, thƣờng phân chia các khuynh hƣớng chính dựa trên đề tài, chủ đề của các sáng tác, thì trên các báo và tạp chí cũng xuất hiện nhiều bài viết đi vào phân tích sự thể hiện của từng đề tài, chủ đề, cảm hứng trong văn xuôi và truyện ngắn sau năm 1975. Đề tài chiến tranh trong truyện ngắn đƣợc tìm hiểu trong các bài viết của Tôn Phƣơng Lan (Từ một góc nhìn 19
- về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh), Lê Dục Tú (Truyện ngắn đương đại về đề tài chiến tranh – những đổi mới trong tư duy thể loại). Truyện ngắn và văn xuôi nói chung viết về đề tài dân tộc và miền núi đƣợc nghiên cứu công phu, có hệ thống trong luận án của Phạm Duy Nghĩa: Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi. Phạm Xuân Thạch bàn về đề tài lịch sử trong các tác phẩm tự sự đƣơng đại qua bài viết Quá trình hóa hư cấu. Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử giữa truyền thống và hiện đại. Trần Cƣơng chú ý đến Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80. Nhiều bài viết đề cập đến các đề tài tình yêu, gia đình, dục tính… trong truyện ngắn. Các chủ đề của truyện ngắn nhƣ sám hối, nhận thức lại thực tại, cô đơn cũng đƣợc tìm hiểu trong một số bài viết. Về các chặng đƣờng vận động, phát triển của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, các tác giả đều khẳng định từ sau 1975, truyện ngắn đã có những thay đổi đáng kể so với giai đoạn trƣớc đó, song bƣớc phát triển vƣợt bậc đƣợc tính từ thời kỳ đổi mới (1986 tới nay). Bùi Việt Thắng chia sự phát triển của thể loại này thành hai “khúc”: khúc vƣợt qua quán tính (1975 – 1985) và khúc đổi mới (từ 1986 tới nay). Nguyễn Thị Bình cũng mô tả các chặng đƣờng vận động của văn xuôi giai đoạn này qua hai chặng: những năm từ 1975 đến 1985 là “chặng đƣờng “khởi động” chuẩn bị cho cao trào đổi mới”, còn từ 1986 là thời kỳ “đổi mới văn xuôi đạt đến cao trào sau đó lắng lại”. Nguyễn Văn Long lại cho rằng “Nằm trong sự vận động chung của cả nền văn học, văn xuôi sau 1975, trên đại thể cũng đã đi qua ba chặng đƣờng: từ 1975 đến 1985, 1986 đến đầu những năm 90, và từ giữa những năm 90 đến nay” [90, tr.48]. Đáng chú ý trong các công trình nghiên cứu tổng quan về truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại là luận án tiến sĩ Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Lê Thị Hƣơng Thủy, bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam năm 2013. Ngoài chƣơng Tổng quan về tình hình nghiên cứu, ba chƣơng sau của luận án đi vào khảo sát và phân tích các vấn đề: Truyện ngắn – quan niệm và sự đổi mới tư duy thể loại, Các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản truyện ngắn, Ngôn ngữ và điểm nhìn trần 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến 2010
175 p | 168 | 44
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
160 p | 209 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học
156 p | 161 | 37
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
177 p | 151 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
182 p | 170 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ Loạn
158 p | 149 | 30
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại
156 p | 132 | 25
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
158 p | 109 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX dưới góc độ giới
187 p | 46 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
165 p | 26 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Giá trị văn hóa trong tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân
162 p | 19 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết liên văn bản
168 p | 27 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông
204 p | 117 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
27 p | 111 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ tích và sử thi một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên
219 p | 28 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nghệ thuật nhóm sử thi Dăm Giông
52 p | 135 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Xu hướng cách tân nghệ thuật trong thơ nữ Việt Nam đương đại (Qua các tác phẩm của một số nhà thơ tiêu biểu)
172 p | 51 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ tích và sử thi một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên
27 p | 5 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn