intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn cao học nuôi trồng thủy sản: Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (channa striata)

Chia sẻ: Nguyen Khanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

266
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn cao học nuôi trồng thủy sản: Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (channa striata). Mời các bạn cùng tham khảo luận văn dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn cao học nuôi trồng thủy sản: Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (channa striata)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN NGÔ MINH DUNG NGHIÊN CỨU PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN CHẾ BIẾN TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN (Channa striata) LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2010
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN NGÔ MINH DUNG NGHIÊN CỨU PHƯƠNG THỨC THAY THẾ THỨC ĂN CHẾ BIẾN TRONG ƯƠNG CÁ LÓC ĐEN (Channa striata) LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN PGs. Ts. TRẦN THỊ THANH HIỀN Ts. BÙI MINH TÂM 2010 i
  3. LỜI CẢM TẠ Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Trần Thị Thanh Hiền và thầy Bùi Minh Tâm đã tận tình hướng dẫn, động viên, đóng góp nhiều ý kiến quý báo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Nguyễn Hoàng Đức Trung – cán bộ khoa Thuỷ sản, em Đặng Quốc Toàn – sinh viên lớp Nuôi trồng Thuỷ sản K34 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Xin chuyển lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, quý cô Khoa Thuỷ sản – Trường Đại học Cần Thơ và các bạn đồng nghiệp lớp cao học ngành Nuôi trồng Thuỷ sản K15 đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài tốt nghiệp. Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân đã động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành chương trình học này. Ngô Minh Dung ii
  4. CAM KẾT KẾT QUẢ Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi trong khuôn khổ của đề tài "Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata)" và kết quả này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào khác. Cần Thơ, ngày 10 tháng 10 năm 2010. Người cam kết Ngô Minh Dung iii
  5. TÓM TẮT Hai thí nghiệm nghiên cứu được tiến hành để tìm ra phương thức thay thế thức ăn hiệu quả trong ương cá lóc đen khi chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến. Thí nghiệm thứ nhất được bố trí nhằm xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 7 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. Nghiệm thức đối chứng được thay thế dần Moina bằng cá tạp, lượng cá tạp tăng dần 20% cá tạp/ngày. Các nghiệm thức còn lại được thay thế dần Moina (cá tạp) bằng thức ăn chế biến, lượng thức ăn chế biến tăng dần 10% hoặc 20% thức ăn chế biến/ngày ở các thời điểm 10 ngày tuổi, 17 ngày tuổi và 24 ngày tuổi. Thí nghiệm kéo dài trong 5 tuần. Kết quả cho thấy cá lóc đen bột có thể tập ăn thức ăn chế biến ở 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10% thức ăn chế biến/ngày cho tỉ lệ sống (64,7%) và tăng trưởng (SGR=9,64%/ngày) khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) so với nghiệm thức đối chứng. Thí nghiệm 2 được bố trí dựa trên kết quả của thí nghiệm 1, sử dụng thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả nhất để bố trí các nghiệm thức thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau nhằm so sánh ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá bột. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với 3 lần lặp lại. Nghiệm thức đối chứng không bổ sung chất dẫn dụ, các nghiệm thức còn lại lần lượt được bổ sung 2% dịch cá thuỷ phân, 2% dầu gan mực hoặc 2% dịch trùn quế. Thí nghiệm kéo dài trong 4 tuần. Kết quả cho thấy dịch cá thuỷ phân là chất dẫn dụ kích thích bắt mồi hiệu quả nhất, cho tỉ lệ sống (79,3%) và tăng trưởng (SGR=8,89%/ngày) cao nhất. iv
  6. ABSTRACT The experiments were conducted to find out the efficient weaning methods from live food to artificial food in rearing snakehead murrel larvae. The first experiment was set up to determine the period of time and methods for effectively weaning artificial food in rearing snakehead murrel larvae. The experiment was randomly set up with 7 treatments with 3 replications. In the control treatment, Moina was gradually replaced by trash fish with 20% amount of trash fish increase per day. In the other treatments Moina (or trash fish) were gradually replaced by artificial food with 10% or 20% amount of artificial food increase per day, starting on days 10, 17 and 24 post-hatch. The experiment lasted for 5 weeks. The results showed that snakehead murrel larvae can be weaned artificial food at day 17 post-hatch with the replacing method which increased 10% amount of artificial food per day reached survival rate (64,7%) and specific growth rate (SGR=8,89%/ngày) was not significantly (p>0,05) compared to the control. The second experiment based on the optimal results from the first experiment. The objectives of the experiment were to investigate the effects of different attractants on the effective utilization of artificial food at fry stage. The experiment included 4 treatments with 3 replications. The control treatment was done by feeding diet without attractant supplementation. The treatments (2, 3 and 4) were fed diets adding 2% fish protein hydrolysate, 2% squid liver oil and 2% earthworm liquid, respectively. The experiment lasted for 4 weeks. The results showed that 2% fish protein hydrolysate supplied as attractants had significantly higher survival rate (79,3%) and specific growth rate (SGR=8,89%/ngày) compared to the other treatments. v
  7. MỤC LỤC Trang LỜI CẢM TẠ.............................................................................................i CAM KẾT KẾT QUẢ ..............................................................................ii TÓM TẮT ..................................................................................................iii ABSTRACT ...............................................................................................iv MỤC LỤC ..................................................................................................v DANH SÁCH BẢNG ................................................................................vii DANH SÁCH HÌNH .................................................................................viii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................ix Chương 1: GIỚI THIỆU ..........................................................................1 Giới thiệu..........................................................................................1 Mục tiêu của đề tài ...........................................................................2 Nội dung nghiên cứu........................................................................2 Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .....................................................3 2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc đen ........................................................3 2.1.1 Hệ thống phân loại ..................................................................3 2.1.2 Đặc điểm dinh dưỡng..............................................................3 2.2 Một số nghiên cứu về ương cá bằng thức ăn chế biến.........................4 2.2.1 Phương thức tập ăn thức ăn chế biến trong quá trình ương cá bột.................................................................................................4 2.2.2 Giai đoạn sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến của cá bột.......6 2.2.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ trong quá trình tập ăn .....................8 2.2.4 Khẩu phần ăn và nhu cầu đạm của cá giai đoạn bột và giống đối với thức ăn chế biến ...................................................................9 2.2.5 Chất dẫn dụ trong thức ăn chế biến của cá.............................9 Chương 3 : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................12 3.1 Thời gian và địa điểm ...........................................................................12 3.2 Vật liệu nghiên cứu ...............................................................................12 3.3 Phương pháp thực nghiệm ....................................................................14 3.3.1 Thí nghiệm 1: Xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột ..................14 3.3.2 Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột .....................................................................................16 vi
  8. 3.3.3 Chăm sóc và quản lý ...............................................................17 3.3.4 Phương pháp thu và phân tích mẫu ........................................18 3.3.5 Các chỉ tiêu tính toán ..............................................................19 3.4 Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................19 Chương 4 : KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .............................................20 4.1 Xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột........................................................................20 4.1.1 Các yếu tố môi trường ............................................................20 4.1.2 Tỉ lệ sống.................................................................................20 4.1.3 Tỉ lệ phân cỡ về khối lượng....................................................24 4.1.4 Tỉ lệ ăn nhau............................................................................26 4.1.5 Tăng trưởng.............................................................................29 4.1.6 Tỉ lệ chết..................................................................................31 4.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột...................................34 4.2.1 Các yếu tố môi trường ............................................................34 4.2.2 Tỉ lệ sống.................................................................................34 4.2.3 Tăng trưởng.............................................................................37 4.2.4 Tỉ lệ ăn nhau............................................................................38 4.2.5 Sự phân cỡ về khối lượng .......................................................40 Chương 5 : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .................................................42 5.1 Kết luận .................................................................................................42 5.2 Đề xuất...................................................................................................42 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................43 PHỤ LỤC ...................................................................................................49 Phụ lục A ..........................................................................................49 Phụ lục B ..........................................................................................55 Phụ lục C ..........................................................................................58 vii
  9. DANH SÁCH BẢNG Trang Bảng 3.1: Thành phần nguyên liệu của thức ăn chế biến sử dụng trong thí nghiệm............................................................................................................. 13 Bảng 3.2: Thành phần dinh dưỡng của thức ăn sử dụng trong thí nghiệm... 13 Bảng 3.3: Xuất xứ và thành phần hoá học chất dẫn dụ sử dụng trong thí nghiệm............................................................................................................. 16 Bảng 4.1 : Các yếu tố lý hoá trong thời gian thí nghiệm 1............................ 20 Bảng 4.2: Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau trước và sau 5 tuần thí nghiệm............................................................................................................. 29 Bảng 4.3 : Các yếu tố lý hoá trong thời gian thí nghiệm 2............................ 34 Bảng 4.4 : Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau trước và sau 4 tuần thí nghiệm............................................................................................................. 37 viii
  10. DANH SÁCH HÌNH Trang Hình 2.1: Cá lóc đen (Channa striata)........................................................... 3 Hình 3.1 : Nguồn nước sử dụng trong thí nghiệm ......................................... 12 Hình 3.2: Thức ăn chế biến và cá biển được loại xương và xay nhuyễn sử dụng trong thí nghiệm..................................................................................... 13 Hình 3.3: Thời điểm và phương thức tập ăn của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1.......................................................................................................... 15 Hình 3.4: Cá bột cá lóc đen 10 ngày tuổi và hệ thống bể thí nghiệm trong thí nghiệm 1.......................................................................................................... 15 Hình 3.5: Các chất dẫn dụ sử dụng trong thí nghiệm 2 và thức ăn chế biến sau khi bổ sung chất dẫn dụ............................................................................ 16 Hình 3.6: Hệ thống bể bố trí thí nghiệm 2 ..................................................... 17 Hình 4.1: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm.............. 21 Hình 4.2: Tỉ lệ phân cỡ về khối lượng (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm............................................................................................................. 24 Hình 4.3: Sự phân cỡ về khối lượng ở nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày ..................................................................................................... 25 Hình 4.4: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm ....... 26 Hình 4.5: Sự ăn nhau của cá lóc đen bột trong quá trình tập ăn thức ăn chế biến .................................................................................................................. 27 Hình 4.6: Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (%/ngày) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm ....................................................................................................... 30 Hình 4.7: Tỉ lệ chết tự nhiên (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau sau 5 tuần thí nghiệm .... 32 Hình 4.8: Sưởi ấm hệ thống bể thí nghiệm bằng đèn điện ............................ 33 Hình 4.9: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm ................................. 35 Hình 4.10: Cá tập trung tại sàn ăn để bắt mồi (NT bổ sung dịch cá)............ 36 Hình 4.11: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm ............................ 39 Hình 4.12: Tỉ lệ phân cỡ về khối lượng (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm ... 40 ix
  11. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DWG : Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (Daily Weight Gain) SGR : Tốc độ tăng trưởng tương đối (Specific Growth Rate) WG : Tăng trọng (Weigh Gain) SR : Tỉ lệ sống Wi : Khối lượng đầu Wf : Khối lượng cuối TĂCB : Thức ăn chế biến TLAN : Tỉ lệ ăn nhau TLC : Tỉ lệ chết x
  12. Chương 1 GIỚI THIỆU Cá lóc đen (Channa striata) là loài cá nước ngọt có kích thước lớn, thịt ngon và sinh trưởng nhanh. Cá phân bố tự nhiên trên các sông, kênh, rạch, đồng ruộng… Ở ĐBSCL cá lóc đen có thể nuôi thâm canh trong ao và bè đều đạt năng suất cao. Cá lóc đen là loài cá dữ, ăn thịt. Ngoài tự nhiên cá lóc đen ăn các động vật sống như cá, tép, ếch, nhái…nhưng khi nuôi trong ao và bè chúng có thể sử dụng được các loại thức ăn như tấm, cám, thức ăn viên, cá tạp… Hiện nay, cá lóc đen chủ yếu được nuôi bằng thức ăn tươi (cá tạp nguyên con hay xay nhỏ). Bên cạnh đó, nghề nuôi cá nước ngọt, đặc biệt là các loài cá dữ, chất lượng thịt ngon đang phát triển mạnh đã làm gia tăng đáng kể nhu cầu cá tạp. Trong năm 2008 riêng tỉnh An Giang lượng cá tạp sử dụng trong nuôi cá lóc đã là 67.056 tấn, có 38 loài cá nước ngọt được sử dụng, trong đó hơn 50% là các loài cá kinh tế (Phan Hồng Cương, 2009). Việc sử dụng chủ yếu cá tạp trong nuôi cá lóc dẫn đến việc phụ thuộc của nghề nuôi vào nguồn cá tạp, chất lượng cá tạp, giá cá tạp cung cấp. Vì vậy việc phát triển nguồn thức ăn viên, thức ăn chế biến đang cần thiết nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả nghề nuôi, hạn chế việc khai thác và phụ thuộc nguồn cá tạp, giảm ô nhiễm môi trường. Một số nghiên cứu cho thấy một số loài cá ăn động vật khi nuôi thương phẩm cũng có khả năng sử dụng thức ăn chế biến như cá chẽm (Dicentrarchus labrax) (Infante et al., 1997), cá trê phi (Clarias gariepinus) (Verreth and Tongeren, 1989) … và thấy rằng thời điểm cá bột sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến, phương thức chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cũng khác nhau tùy loài. Ở Việt Nam, cá lóc nói chung và cá lóc đen nói riêng khi nuôi trong ao bè đều có khả năng sử dụng thức ăn chế biến. Trong nghiên cứu cũng như ngoài thực tế, việc chuyển từ thức ăn tươi sang thức ăn chế biến được thực hiện càng sớm càng tốt nếu nó không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá bột. Nếu cá sử dụng tốt thức ăn chế biến sẽ hạn chế được bệnh lây nhiễm qua thức ăn tự nhiên, giảm chi phí và chủ động được nguồn thức ăn trong ương nuôi (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008). Do vậy việc nghiên cứu thời điểm và phương thức thích hợp khi chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cho cá lóc đen giai đoạn bột là cần thiết. Chính vì lý do trên đề tài "Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata)" được thực hiện. 1
  13. Mục tiêu của đề tài Tìm ra phương thức thay thế thức ăn hiệu quả trong ương cá lóc đen khi chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến để góp phần hạn chế việc sử dụng cá tạp trong ương nuôi cá lóc đen. Nội dung nghiên cứu • Xác định thời điểm sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột. • Xác định phương thức thay thế từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột. • So sánh hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau của cá lóc đen giai đoạn bột. 2
  14. Chương 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc đen 2.1.1 Hệ thống phân loại Kết quả nghiên cứu hình thái học hiện nay đã công bố có 30 loài cá lóc họ Channidae, bao gồm 2 giống Channa và Parachanna phân bố chủ yếu ở Châu Á (27 loài) và Châu Phi (3 loài) (http://fishbase.org). Trong đó cá lóc đen có tên khoa học là Channa striata (Bloch, 1973) được phân loại như sau: Lớp: Osteichthyes Bộ: Perciformes Họ: Channidae Giống: Channa Loài: Channa striata (Block 1973) Hình 2.1: Cá lóc đen (Channa striata) 2.1.2 Đặc điểm dinh dưỡng Cá lóc là loài cá dữ, thân tròn dài. Lược mang dạng hình núm. Thực quản ngắn, vách dầy, bên trong thực quản có nhiều nếp nhăn. Dạ dày to hình chữ Y. Đ â y là loài cá dữ, ăn động vật điển hình. Quan sát ống tiêu hóa của cá l ó c cho thấy cá chiếm 63,01%, tép 35,94%, ếch nhái 1,03% và 0,02% là bọ gạo, côn trùng và mùn bã hữu cơ (Dương Nhựt Long, 1999). Theo các nghiên cứu trước đây, cá lóc có sự lựa chọn thức ăn khác nhau ở từng giai đoạn phát triển, thức ăn của cá thay đổi khi kích cỡ cá tăng. Cá mới nở còn sử dụng dinh dưỡng từ khối noãn hoàng. Từ ngày thứ 4-5, khi noãn hoàng đã hết, cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Lúc này cá bột ăn được các loài động vật phù du vừa cỡ miệng chúng như luân trùng, trứng nước. Khi cá dài cỡ 5-6 cm chúng đã có thể rượt bắt các loài tép và cá có 3
  15. kích cỡ nhỏ hơn chúng. Khi cơ thể đạt chiều dài trên 10 cm, cá đã có tập tính ăn như cá trưởng thành (Phạm Văn Khánh, 2003). Theo Qin and Fast (1997), cá bột cá lóc đen có chiều dài 6-7 mm, độ mở của miệng là 0,55 mm sẽ chọn thức ăn là ấu trùng Artermia và không ăn thức ăn chế biến, khi cá đạt chiều dài 15-20 mm thì nhóm giáp xác râu ngành và giáp xác chân chèo chiếm 96% lượng thức ăn. Cá dài 30-40 mm thức ăn là động vật nổi giảm đáng kể và tăng thức ăn là động vật đáy. Cá có thể sử dụng thức ăn chế biến khi chiều dài thân 12 mm và cỡ miệng rộng đến 1 mm. Cá lóc là loài cá dữ nên hiện tượng ăn lẫn nhau là khá phổ biến trong quá trình ương nuôi. Sự khác biệt về kích thước cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng ăn nhau, càng khác nhau về kích cỡ thì tỉ lệ ăn nhau càng tăng (Hecht and Pienaar, 1993). Cá lóc có tỉ lệ ăn nhau là 100% khi tỉ lệ chiều dài của cá nhỏ so với cá lớn là 0,35, tỉ lệ ăn nhau sẽ giảm tới 43% khi tỉ lệ chiều dài của cá nhỏ so với cá lớn tăng đến 0,64. Việc cho ăn cũng cũng làm giảm sự ăn lẫn nhau. Nếu không cho ăn thì hiện tượng ăn nhau là 83% nhưng sẽ giảm đến 43% khi cho ăn với tỉ lệ 15% trọng lượng thân. Tác giả cho rằng có thể giảm bớt ăn lẫn nhau bằng nhiều cách như phân cỡ và cho ăn theo nhu cầu (Quin and Fast, 1996b). 2.2 Một số nghiên cứu về ương cá bằng thức ăn chế biến 2.2.1 Phương thức tập ăn thức ăn chế biến trong quá trình ương cá bột Các nghiên cứu trước đây cho rằng hoạt tính của men tiêu hóa thấp ở những ngày đầu cá ăn thức ăn ngoài và tăng dần trong suốt giai đoạn ấu trùng trước khi chuyển sang giai đoạn khác (Walford and Lam, 1993). Vì vậy, ở hầu hết các loài cá bột khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài, chúng đòi hỏi có thời gian nhất định để phát triển khả năng thích nghi với thức ăn bên ngoài. Trong quá trình chuyển đổi từ thức ăn tự nhiên sang thức ăn chế biến, một vài nghiên cứu cho thấy khi sử dụng kết hợp thức ăn chế biến với thức ăn tự nhiên thì hiệu quả sẽ tốt hơn là thay thế hoàn toàn bằng thức ăn chế biến ngay từ ban đầu. Sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá cũng được cải thiện hơn khi kết hợp 2 loại thức ăn này so với chỉ sử dụng thức ăn chế biến. Theo Guillaume et al. (2001) phương pháp chuyển đổi từ thức ăn tự nhiên sang thức ăn chế biến ở giai đoạn cá bột như sau: (i) ở giai đoạn trung gian khi chuyển từ ăn Artermia sống sang ăn thức ăn chế biến, đối tượng nuôi sẽ được cho ăn động vật nổi đã chết (như Artermia đã được đông lạnh hoặc sấy khô); (ii) cho ăn đồng thời thức ăn tự nhiên và thức ăn chế biến với tỉ lệ thức ăn tự nhiên là 10% - 50% trong khẩu phần ăn. Cách này có thể áp dụng từ giai 4
  16. đoạn rất sớm; (iii) Như cách thứ 2, nhưng cho ăn ở giai đoạn muộn hơn sẽ hạn chế được sự phân đàn. Qin et al. (1997) thử nghiệm trên cá lóc đen bột cho thấy việc sử dụng kết hợp thức ăn chế biến và Artermia sống cho tỉ lệ sống cao nhất (82%) và cá chết 100% ở nghiệm thức chỉ cho ăn thức ăn chế biến. Nhóm tác giả này cũng chứng minh rằng có thể tập cho cá ăn thức ăn chế biến theo phương pháp sau: (i) Cho cá ăn ấu trùng Artermia có bổ sung thức ăn chế biến trong 30 ngày, sau đó loại bỏ dần ấu trùng Artermia trong giai đoạn 7-10 ngày; (ii) Chỉ cho cá ăn ấu trùng Artermia sống trong 30 ngày, 7-10 ngày tiếp theo cho ăn kết hợp giữa Artermia sống với thức ăn chế biến và sau cùng chuyển hoàn toàn sang thức ăn chế biến. Tương tự Kling and Hamlin (2001) đã thử nghiệm tập ăn trên cá tuyết chấm đen (Melanogrammus aeglefius) theo phương pháp: (i) Cá bột được cho ăn Rotifer đến 21 ngày tuổi; (ii) Cho ăn kết hợp Artermia với Rotifer trong 5 ngày tiếp theo, sau đó chỉ cho ăn Artermia đến 42 ngày tuổi; (iii) Cho ăn kết hợp Artermia và thức ăn chế biến với hàm lượng Artermia giảm dần và loại hẳn Artermia trong 7 ngày. Tương tự trên cá trê (Clarias gariepinus), cá được cho ăn Artermia trong khoảng từ 4-6 ngày, sau đó tập ăn thức ăn chế biến bằng cách tăng dần tỉ lệ thức ăn chế biến và giảm dần tỉ lệ Artermia trong 4 ngày (Artermia/thức ăn chế biến: 75/25; 50/50; 25/75; 0/100) (Verreth and Tongeren, 1989). Một số nghiên cứu còn lưu ý đến thời gian cho ăn trong ngày, như trong thử nghiệm của Alves et al. (2006) trên cá móp (Centropomus parallelus) tác giả cũng cho ăn cùng lúc Artermia và thức ăn chế biến với hàm lượng Artermia giảm dần và loại hẳn trong 3 ngày, nhưng trong thời gian tập ăn, thức ăn chế biến sẽ được cho ăn trước Artermia khoảng 30 phút. Hart and Purser (1996) tập ăn trên cá bơn xanh (Rhombosolea tapirina Gunther) ở 23 ngày tuổi cũng bằng cách giảm dần Artermia và tăng dần thức ăn chế biến trong vòng 10 ngày trước khi chuyển sang ăn hoàn toàn bằng thức ăn chế biến, nhưng thức ăn nhân tạo sẽ được cho ăn 3 lần/ngày trong khi Artermia chỉ cho ăn 1 lần/ngày và vào lần cuối cùng trong ngày. Tác giả cho rằng kéo dài thời gian tập ăn vượt quá 10 ngày sẽ làm tăng chi phí Artermia trong quá trình ương. Tương tự trên cá bơn (Solea solea) thức ăn tươi sống cũng được cho ăn 1 lần/ngày trong suốt thời gian tập ăn, thức ăn chế biến sẽ được cho ăn sau thức ăn tươi 8 giờ (Gatesoupe, 1983). Trên cá bơn (Solea senegalensis) khi cho cá sử dụng thức ăn kết hợp trong thời gian khá dài, giai đoạn từ 3 đến 43 ngày tuổi với tỉ lệ thức ăn tự 5
  17. nhiên : thức ăn chế biến là 1:1 sau đó sử dụng hoàn toàn thức ăn chế biến đã cho kết quả tăng trọng không khác biệt so với nghiệm thức chỉ cho ăn thức ăn tự nhiên. Nếu không có giai đoạn cho ăn kết hợp, cá sẽ chết hoàn toàn trong giai đoạn cho ăn thức ăn chế biến, cá sử dụng thức ăn chế biến ngay từ ngày đầu tiên (3 ngày tuổi) cũng thu được kết quả tương tự (Canãvate and Diáz, 1999). Điều này cho thấy việc thay thế hoàn toàn thức ăn tự nhiên bằng thức ăn chế biến trong những ngày đầu ăn ngoài hoặc sự chuyển đổi đột ngột từ thức ăn tự nhiên sang thức ăn chế biến sẽ không mang lại kết quả khả quan. Bên cạnh đó, một số tác giả cho rằng ở giai đoạn bắt đầu ăn ngoài, các men tiêu hoá của cá bột không đủ khả năng tiêu hoá thức ăn chế biến, chính vì vậy các men ngoại sinh được cung cấp từ thức ăn tự nhiên là cần thiết cho cá ở giai đoạn này (Dabrowski and Glogowski, 1977; Cahu and Infante, 2001). Một thử nghiệm khác trên cá vược vàng (Percichthyidae) cũng chứng minh rằng sự thay thế dần Zooplankton bằng thức ăn chế biến với tỉ lệ thay thế là 10% TĂCB/ngày đã mang lại hiệu quả cao (tỉ lệ sống 78%), trong khi đó nếu chuyển đột ngột từ thức ăn Zooplankton sang thức ăn chế biến thì có tỉ lệ sống rất thấp (13,3%) (Herbert and Graham, 2003). Các phương pháp trên cũng được khẳng định trong nghiên cứu của Kolkovski et al. (1997) trên cá chẽm (Dicentrarchus labrax) khi cho ăn kết hợp thức ăn chế biến và Artermia, trên Sander lucioperca khi cho ăn kết hợp với chế độ giảm dần Artermia và tăng dần lượng thức ăn chế biến (Kestemont et al., 2007). Ở cá lóc bông (Channa micropeltes), sự kết hợp giữa thức ăn chế biến với trùn chỉ hoặc cá xay đã cải thiện được những bất lợi về tăng trưởng và tỉ lệ sống (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004). Tương tự cá còm (Chitala chiitala) sử dụng thức ăn kết hợp giữa trùn chỉ và thức ăn chế biến cũng cho tỉ lệ sống và sinh trưởng tốt hơn so với sử dụng đơn thuần cá xay hoặc thức ăn chế biến (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008). Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy rằng có thể tập cho cá ăn thức ăn chế biến sớm bằng cách cho ăn kết hợp thức ăn tự nhiên và thức ăn chế biến (với hàm lượng tăng dần tỉ lệ thức ăn chế biến và giảm tỉ lệ thức ăn tự nhiên) ở giai đoạn trước khi cho ăn hoàn toàn thức ăn chế biến. 2.2.2 Giai đoạn sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến của cá bột Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng việc thay thế thức ăn tự nhiên hoàn toàn bằng thức ăn nhân tạo không thể thực hiện được trong ương nuôi hầu hết các loài cá nguyên nhân do thức ăn nhân tạo không kích thích 6
  18. cá bắt mồi vì không kích thích thị giác của cá. Trong hầu hết các nghiên cứu, thức ăn tươi sống (Artemia, Moina, luân trùng…) luôn cho kết quả về tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá bột tốt hơn thức ăn chế biến (Dabrowski, 1984). Cá rất khó bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên không ăn đủ lượng thức ăn cần thiết (Appelbaum and Damme, 1988). Bên cạnh đó Baskerville-Bridges and Kling (2000) cho rằng ở giai đoạn nhỏ hoạt động của men tiêu hoá ở cá bột chưa đủ chức năng để tiêu hoá thức ăn chế biến. Điển hình như cá thát lát còm (Chitala chitala) cho ăn hoàn toàn thức ăn chế biến sau khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài đã chết 100% sau 12 ngày (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008). Trên cá lóc đen (Channa striata) cũng thu được kết quả tương tự (Quin et al., 1997 ; Bui et al., 2004). Theo Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004) thời gian cá bắt đầu sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến chịu ảnh hưởng lớn vào sự hoàn thiện của ống tiêu hóa cũng như sự phát triển chức năng sinh lý của ống tiêu hóa ở giai đoạn cá bột, thời gian này cũng khác nhau tùy loài. Ở cá chẽm (Dicentrarchus labrax) là 20 ngày sau khi nở (Infante et al., 1997). Nghiên cứu trên cá trê phi (Clarias gariepinus) và cá trê vàng (Clarias macrocephalus) đều cho rằng chúng có thể sử dụng thức ăn chế biến sau 4 ngày sử dụng thức ăn là động vật nổi (Verreth and Tongeren, 1989; Fermin and Bolivar, 1991), trong khi đó ở cá lóc đen (Channa striatus) là 30 ngày (Qin et al., 1997). Một số nghiên cứu khác trên các loài cá khác cũng khẳng định điều này như cá bơn có thể sử dụng 100% thức ăn chế biến trong khẩu phần khi cá 10 ngày tuổi, ở cá vền biển đỏ (Pagrus major) có thể sử dụng 90% ở ngày tuổi thứ 10, cá vền biển có thể sử dụng 50% ở ngày thứ 3 (Guillaume et al., 2001). Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004) thí nghiệm khả năng sử dụng thức ăn chế biến trên cá lóc bông (Channa micropeltes) với những thời điểm cho ăn khác nhau, kết quả sau 15 ngày thí nghiệm cá bột có thể sử dụng thức ăn chế biến vào ngày thứ 7 sau khi nở, tức là khoảng ngày thứ 3 sau khi hết noãn hoàng. Trên Sander lucioperca là ngày thứ 19 (Kestemont et al., 2007). Gần đây nhất khi nghiên cứu trên cá kết (Micronema bleekeri) ngày tuổi thứ 7 là thời điểm loài này sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008). Nghiên cứu mô học về hệ thống tiêu hoá của cá vược măng (Sander lucioperca) cho kết quả cá vược măng (Sander lucioperca) giống có thể tổng hợp và vận chuyển chất béo ở 12 ngày tuổi và thức ăn chế biến chất lượng cao có thể được cá chấp nhận ở thời điểm này (Ostaszewska et al., 2005). Một nghiên cứu khác lại chứng minh cá vược măng (Sander lucioperca) sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến ở 19 ngày tuổi (Kestemont et 7
  19. al., 2007). Kết quả phân tích mô học quá trình phát triển của ruột cá cho thấy tuyến dạ dày của cá thát lát còm (Notopterus chitala) xuất hiện vào ngày thứ 8 sau khi nở chứng tỏ ở giai đoạn này dạ dày cá mới bắt đầu phát triển hoàn chỉnh về chức năng tiêu hoá thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2007). Tuy nhiên đến ngày tuổi thứ 20 mới là thời điểm cá còm (Chitala chitala) sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008). Ở một số loài cá, tập ăn thức ăn chế biến ở giai đoạn sớm lại tốt hơn ở giai đoạn muộn. Trong báo cáo trên cá bơn xanh ( Rhombosolea tapirina Gunther) tập ăn hiệu quả ở 23 ngày tuổi với tỉ lệ sống 82,2% mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng. Nếu tập ăn từ giai đoạn 50 ngày tuổi hoặc trễ hơn sẽ có tỉ lệ sống kém hơn (Hart and Purser, 1996) Bên cạnh đó, một số loài lại có thời điểm tập ăn muộn hơn các loài khác như cá tuyết chấm đen (Melanogrammus aeglefius) có thể ăn tốt thức ăn chế biến ở 42 ngày tuổi với tỉ lệ sống 65% trong khi đó tỉ lệ sống của cá chỉ dao động từ 2,6%-6,3% khi được tập ăn ở giai đoạn 14-35 ngày tuổi (Kling and Hamlin, 2001). Tương tự cá móp (Centropomus parallelus) có thể sử dụng thức ăn chế biến ở 35 ngày tuổi, tuy nhiên cá sử dụng tốt thức ăn chế biến và khả năng bắt mồi tốt ở 40 ngày tuổi với tăng trọng và tỉ lệ sống không khác biệt so với ăn thức ăn tự nhiên (Alves et al., 2006). Qua các nghiên cứu trước đây có thể thấy rằng kích cỡ và tuổi có thể tập ăn thức ăn chế biến phụ thuộc vào sự hoàn thiện của hệ thống tiêu hoá của cá ở giai đoạn bột và thời gian này cũng khác nhau tuỳ loài. 2.2.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ trong quá trình tập ăn Khi nhiệt độ nước tăng, tăng trưởng và nhu cầu năng lượng dùng trong quá trình trao đổi chất cũng gia tăng dẫn đến nhu cầu năng lượng tổng gia tăng nên cá cần cung cấp thức ăn nhiều năng lượng, để đáp ứng được điều đó cá cần tăng khẩu phần ăn hoặc phải gia tăng dưỡng chất trong thức ăn của cá (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Nghiên cứu trên cá tuyết (Gadus morhua) giống, khi tập ăn thức ăn chế biến ở những điều kiện nhiệt độ khác nhau. Kết quả cho thấy việc tăng nhiệt độ trong thời gian tập ăn trong khoảng từ 11,5°C lên 14,5°C thì khả năng tiêu thụ thức ăn chế biến sẽ tốt hơn so với trong điều kiện nhiệt độ thấp hơn (Puvanendran et al., 2006). Appelbaum (1989) cũng đưa ra khuyến cáo nên tăng nhiệt độ của nước trong quá trình ương nuôi cá biển bằng thức ăn 8
  20. chế biến để làm tăng trao đổi chất cá, tăng mức độ hoạt động, từ đó cá sẽ nâng cao khả năng chấp nhận và sử dụng thức ăn chế biến. Cũng cố cho giả thuyết này Hamlin and Kling (2001) thử nghiệm trên cá tuyết chấm đen (Melanogrammus aeglefinus) cũng cho kết quả tương tự khi tăng nhiệt độ từ 8,5oC lên 10,5oC trong quá trình tập ăn thức ăn chế biến đã tăng tỉ lệ sống từ 6,3% lên 65%, tác giả cho rằng nâng cao nhiệt độ đã góp phần cải thiện khả năng sử dụng và tiêu hoá thức ăn chế biến của cá giống. Như vậy khi nhiệt độ nước tăng thì nhu cầu trao đổi chất cũng tăng dẫn đến nhu cầu năng lượng tăng, cá đáp ứng nhu cầu bằng cách tăng khả năng tiêu thụ thức ăn, từ đó sẽ đẩy nhanh việc chấp nhận và sử dụng thức ăn chế biến. Do đó quá trình tập ăn cũng hiệu quả hơn. 2.2.4 Khẩu phần ăn và nhu cầu đạm của cá giai đoạn bột và giống đối với thức ăn chế biến Thử nghiệm trên cá lóc đen bột cho ăn thức ăn chế biến có hàm lượng đạm khác nhau (350-600 g đạm/kg ), kết quả cho thấy nhu cầu chất đạm trong thức ăn của cá lóc đen bột là 550 g đạm/kg thức ăn (nguồn đạm là bột cá) (Mohanty and Samantaray, 1996). Cũng trên đối tượng này, Qin and Fast (1996a) đã cho cá giống ăn thức ăn chế biến dạng khô (50% đạm) ở nhiệt độ 24±1oC với 6 khẩu phần ăn hàng ngày là 0%, 5%, 10%, 15%, 20% và 30% trọng lượng cơ thể cá. Sau 29 ngày ương, kết quả nghiên cứu cho rằng khẩu phần ăn cho cá lóc đen giống là khoảng 5% trọng lượng thân. Nghiên cứu tương tự trong báo cáo trên cá lóc bông (Channa micropeltes) ở 2 cỡ cá giống nhỏ (2,63 g) và cá giống lớn (6,07 g). Sau 50 ngày thí nghiệm đã xác định nhu cầu đạm cho tăng trưởng tối ưu của cá giai đoạn giống nhỏ và giống lớn lần lượt là 50,8% và 46,55%. (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004). Ở cá vền đen (Sparus macrocephalus) giống khi cho ăn thức ăn chứa 40%-50% chất đạm cho kết quả tăng trưởng và chuyển hóa thức ăn tốt hơn cho ăn 20%-30% chất đạm và thức ăn chứa 45% chất đạm cho mức tăng trưởng tối đa (Xu et al., 1991). 2.2.5 Chất dẫn dụ trong thức ăn chế biến của cá Chất dẫn dụ đóng vai trò quan trọng, quyết định hiệu quả sử dụng thức ăn của động vật thủy sản. Trong môi trường nước để cảm nhận được thức ăn chất dẫn dụ phải hòa tan để đối tượng có thể cảm nhận. Động vật thuỷ sản cảm nhận chất dẫn dụ qua khứu giác và vị giác. Do đó, chất dẫn dụ 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0