intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Mở rộng hoạt động cho vay các doanh nghiệp ngành phân phối tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:69

92
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đất nước ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp. Vì vậy để tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, giúp các doanh nghiệp bắt kịp với trình độ sản xuất, công nghệ trên thế giới, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào trong nước… Đó là những mục tiêu hàng đầu mà Nhà nước ta đã đề ra ngay từ những ngày đầu hội nhập. Để làm được điều đó thì yếu tố vốn đầu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Mở rộng hoạt động cho vay các doanh nghiệp ngành phân phối tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm

  1. LUẬN VĂN: Mở rộng hoạt động cho vay các doanh nghiệp ngành phân phối tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm
  2. Lời mở đầu Đất nước ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp. Vì vậy để tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, giúp các doanh nghiệp bắt kịp với trình độ sản xuất, công nghệ trên thế giới, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào trong nước… Đó là những mục tiêu hàng đầu mà Nhà nước ta đã đề ra ngay từ những ngày đầu hội nhập. Để làm được điều đó thì yếu tố vốn đầu tư là một trong những yếu tố then chốt, quyết định. Có nhiều nguồn vốn doanh nghiệp có thể khai thác như huy động trong nhân dân thông qua phát hành trái phiếu, thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn liên doanh, cổ phần hóa… Tuy nhiên nguồn vốn thông dụng nhất mà các doanh nghiệp vẫn hay sử dụng đó là nguồn vốn vay ngân hàng. Mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp là một mối quan hệ bền chặt, chi phối lẫn nhau và thường là lâu dài, mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Vì lẽ đó, các ngân hàng cũng thường xuyên đổi mới chính sách tín dụng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước đang diễn ra từng ngày từng giờ. Tuy nhiên, do nền kinh tế của nước ta vẫn còn đang trong quá trình phát triển, nên thị trường tiền tệ nói chung và thị trường vốn tín dụng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, chưa mang lại những hiệu quả như mong đợi. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm em đã tìm hiểu về các hoạt động tín dụng của ngân hàng và quyết định nghiên cứu đề tài về: “ Mở rộng hoạt động cho vay các doanh nghiệp ngành phân phối tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm” Kết cấu của đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay các doanh nghiệp ngành phân phối tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm
  3. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay với các doanh nghiệp ngành phân phối tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm Chương 1: Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 1.1.Các vấn đề cơ bản của Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, các đặc điểm của Ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành ngân hàng * Lịch sử hình thành Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và yêu cầu sự phát triển của ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Những ngân hàng loại này còn được gọi là ngân hàng thợ vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc, đổi tiền, thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua - bán. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ và đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn…nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng qui mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ. Thanh toán qua
  4. trung gian làm nảy sinh thanh toán không dùng tiền mặt, đến lượt nó, những ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút được các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi. Họ là những người làm nghề kinh doanh tiền tệ, hay còn gọi là nhà buôn tiền. Đầu tiên, những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay, nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, họ nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người rút tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên ở trong két. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền - Kẻ cho vay nặng lãi - thành nhà buôn tiền - Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay. Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. * Lịch sử phát triển Hình thức ngân hàng đầu tiên - ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi, thực hiện cho vay với cá nhân, chủ yếu là những người giàu nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi - tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay cho vàng hoặc bạc), phát
  5. hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử dụng nguồn vay này. Trước tình hình đó nhiều nhà buôn góp vốn lập ngân hàng, với chức năng chủ yếu là tài trợ ngắn hạn (tài trợ cho tài sản lưu động) và thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng này gọi là NHTM. NHTM thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất trữ hộ và cho vay. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa NHTM và ngân hàng thợ vàng trước đây đó là NHTM chủ yếu cho vay các nhà buôn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. Sự phá sản của nhiều NHTM đã gây tổn thất lớn cho người gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi. Ngân hàng này không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy phí. Đồng thời tại mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại hình ngân hàng khác như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà nước)…tạo nên hệ thống các ngân hàng. Trong đó, trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và quản lý chính sách tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn lại dù có một số nghiệp vụ khác nhau song đều chung đặc điểm đó là trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước; các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm cuối thế kỉ 20. Nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển. NHTM từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung
  6. và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng đã mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các ngân hàng đã mở rộng các hình thức vay như vay ngân hàng trung ương, vay các ngân hàng khác. Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho cộng đồng. Quá trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số lượng các ngân hàng mà còn làm tăng qui mô của mỗi ngân hàng. Tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng chục tỷ đô la Mỹ đủ sức để tài trợ cho những ngành công nghiệp dịch vụ mũi nhọn toàn cầu. Quá trình phát triển của các ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng. Các hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo ra sự thống nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế. Lịch sử hình thành và phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới, gây tổn thất rất lớn cho nền kinh tế và mất ổn định chính trị. Có thể nói, các vụ sụp đổ ngân hàng cũng là một khâu tất yếu trong tiến trình phát triển của ngân hàng. Các nhà quản lý đã và đang không ngừng cải tiến chính sách quản lí để hạn chế sự sụp đổ và mở đường cho sự phát triển của ngành ngân hàng. 1.1.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại theo luật
  7. Ngân hàng thương mại là tổ chức có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, nó có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính và cũng là trung gian tài chính có số lượng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường, nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế, ngân hàng thương mại cũng là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. * Các loại hình Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường - Theo hình thức sở hữu gồm có: Ngân hàng sở hữu Nhà nước, Ngân hàng sở hữu tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng Liên doanh. - Theo tính chất hoạt động: Ngân hàng hoạt động chuyên doanh và đa năng, Ngân hàng hoạt động bán buôn và ngân hàng bán lẻ. - Theo cơ cấu tổ chức gồm có: Ngân hàng sở hữu công ty, Công ty sở hữu ngân hàng. 1.1.1.3. Đặc điểm của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính: Đây là đặc điểm đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp phải nhiều hạn chế. Hoạt động của NHTM đã góp phần khắc phục các hạn chế đó. NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM là đi vay để cho vay.
  8. Trung gian về thông tin: Ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian về thông tin đó là khả năng về thẩm định thông tin. Nếu sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường. Ngân hàng là nơi có chuyên môn và kinh nghiệm để đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro và lợi nhuận hấp dẫn. Trung gian về kỳ hạn: Ngân hàng thương mại là trung gian về kì hạn thông qua việc quản lý kì hạn đó là việc xác định kì hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kì hạn của sử dụng đồng thời tạo ra sự ổn định của nguồn. Bao gồm việc xác định kì hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng; xác định kì hạn thực tế của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng; xem xét khả năng chuyển hoán kì hạn của nguồn. Trung gian về rủi ro: Ngân hàng thương mại tham gia vào quá trình kinh doanh rủi ro, nó thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng và sẵn sang chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Trung gian về thanh toán: Là việc ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Với việc kinh doanh tiền tệ dưới hình thức ban đầu giản đơn và thuần tuý của nó, người thủ quỹ thực hiện chức năng trung gian thanh toán một cách riêng rẽ, tách khỏi chế độ tín dụng. Còn trong NHTM, chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng số tiền gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng là người thủ quỹ của các doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi các khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó khăn và không an toàn. Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện không qua ngân hàng, thì sẽ có những bất tiện và tốn kém lớn như: những chi phí cho lưu thông tiền
  9. mặt và những chi phí có liên quan đến người trả và người nhận. Khi NHTM ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế (các doanh nghiệp và cá nhân) đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện, việc thanh toán trở nên tiện lợi, tiết kiệm được nhiều chi phí, mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình. Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ở các nước phát triển, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM. Nếu việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và thanh toán trong cùng một ngân hàng, thì chỉ là một động tác làm chuyển dịch vốn từ tài khoản này sang một tài khoản khác và nếu séc thanh toán trong cùng địa bàn thì phải thông qua thanh toán bù trừ.Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác, tạo điều kiện thanh toán bù trừ được nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh có điều kiện về Vốn, nhân lực, chi nhánh, cơ sở vật chất kỹ thuật. Trước hết để tiến hành hoạt động kinh doanh được các ngân hang thương mại phải có điều kiện về vốn điều lệ do ngân hàng trung ương quy định; điều kiện về vốn tự có; tỷ lệ an toàn vể vốn… phải có những điều kiện đó là vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ nên mang tính đặc thu và rất nhạy cảm. Thứ hai, Nguồn nhân lực trong hệ thống ngân hàng thương mại là rất quan trọng và có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Điều này cũng xuất phát từ đặc trưng của ngành kinh doanh dịch vụ, nhân tố con người là rất quan trọng- là sự chuyên nghiệp trong chuyên môn và phẩm chất đạo đức, thái độ phục vụ khách hàng. Thứ ba, Hệ thống
  10. chi nhánh của ngân hàng thương mại cũng có quy định rõ rang tuỳ thuộc vào quy mô, loại hình ngân hàng mà có mạng lưới chi nhánh tương ứng. Bên cạnh các yếu tố trên thì điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò hết sức quan trọng. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết để thành lập ngân hàng - là các yêu cầu chung về công nghệ ngân hàng, về cơ sở vật chất (Hội sở, chi nhánh, máy móc…). Hoạt động của NHTM là hoạt động bị kiểm soát: Mọi hoạt động của Ngân hàng thương mại đều bị kiểm soát bởi Ngân hàng trung ương. Chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ mà Ngân hàng trung ương ban hành tùy theo tình tình của nền kinh tế. Những quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất cơ bản,… đó là các công cụ mà Ngân hang trung ương áp dụng để kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Ngân hàng đóng vai trò như là thủ quỹ của nền kinh tế, nó thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn, những hoạt động cơ bản của ngân hàng gồm có: Huy động vốn; sử dụng vốn và các dịch vụ khác * Hoạt động huy động vốn Đây là hoạt động phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn gồm có hoạt động cơ bản là nhận tiền gửi. Đây là khoản tiền mà các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế gửi vào Ngân hàng để bảo quản, thanh toán mà ngân hàng có thể sử dụng cho các hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó Ngân hàng còn có các hoạt động để huy động vốn như phát hành giấy tờ có giá, hoạt động đi vay từ Ngân hàng NN, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường liên ngân hàng. Các hoạt động tạo vốn khác như nhận làm đại lý, uỷ thác vốn cho các tổ chức,cá nhân trong và ngoài nước. Vốn tự có hay vốn của Chủ Ngân hàng cũng là nguồn chiếm vị trí quan trọng dù tỷ trọng nhỏ, vốn tự có được tăng dần cùng quá trình tông tại của Ngân hàng là tấm đệm cho rủi ro và cũng là yếu tố nâng cao vị thế của Ngân hàng.
  11. * Hoạt động sử dụng vốn Đây là hoạt động phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích để thực hiện mục tiêu an toàn và sinh lợi cho Ngân hàng. Hoạt động này có vai trò quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng là cho vay, cho vay có thể phân theo nhiều tiêu thức khác nhau do đó có nhiều hình thức cho vay khác nhau. Với mục tiêu an toàn, Ngân hàng cần phải có hoạt động ngân quỹ, hoạt động này phản ánh khoản vốn của ngân hàng dùng để đảm bảo an toàn thanh khoản cho ngân hàng thực hiện những quy định an toàn, dự trữ bắt buộc của Nhà nước. Bên cạnh hoạt động cho vay, hoạt động ngân quỹ ta có hoạt động đầu tư và những hoạt động khác có thể là góp vốn, hùn vốn, kinh doanh chứng khoán. Những hoạt động khác đem lại một phần lợi nhuận cho ngân hàng có thể kể đến như kinh doanh ngoại tệ, vàng, bảo quản vật có giá… 1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoản thời gian xác định. Cho vay là khoản mục lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Khi lập báo cáo tài chính cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. * Nguyên tắc cho vay: Cho vay là hoạt động chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, đưa lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro chính vì vậy mà khi cho vay và đi vay cả ngân hàng và khách hàng đều phải tuân theo những nguyên tắc cho vay sau: - Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Với các tổ chức kinh tế ngân hàng chỉ thực hiện cho vay để doanh nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ được pháp luật cho phép mà đã được ghi trong quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc trong giấy phép kinh doanh của họ. Khách hàng cần sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận ghi
  12. trong hợp đồng tín dụng, mục đích này cũng được ghi trong dự án hay kế hoạch sản xuất kinh doanh được ngân hàng chấp nhận. Mọi khoản vay ngân hàng đều phải xác định trước về mục đích kinh tế. Vì vậy mà những cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn phải trình bày rõ ràng mục đích của việc vay vốn với ngân hàng trước khi vay. Họ cũng cần nộp cho ngân hàng các kế hoạch sản xuất kinh doanh, các hợp đồng cung cấp, tiêu thụ sản phẩm cùng các tài liệu kế toán để ngân hàng xem xét ra quyết định cho vay hay không. Sau khi cho vay, ngân hàng có trách nhiệm kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay nếu thấy khách hàng sử dụng vốn sai mục đích ngân hàng cần có những biện pháp sử lý kịp thời để hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra. - Tiền vay phải hoàn trả đúng hạn, đầy đủ cả gốc và lãi Nguồn vốn để cho vay của ngân hàng thương mại chủ yếu là nguồn vốn huy động, ngân hàng cần phải chi trả cho người gửi tiền ngay khi họ có nhu cầu chính vì vậy mà ngân hàng yêu cầu người đi vay cũng phải hoàn trả đúng hạn. Khi ngân hàng không thu hồi hoặc thu hồi không đúng hạn các khoản nợ có thể dẫn đến bị thua lỗ và phá sản. Thu hồi nợ đúng hạn là cơ sở để các ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Ngân hàng luôn tiến hành nhiều biện pháp trong quản lý để đảm bảo nguyên tắc này như xác định thời hạn cho vay và kì hạn nợ từng khoản vay, thường xuyên theo dõi, đôn đốc khách hàng trả nợ. - Tiền vay phải thực hiện đảm bảo theo đúng quy định Ngân hàng thương mại hoạt động luôn nhằm hai mục tiêu là an toàn và sinh lợi. Việc đảm bảo tín dụng nhằm mục tiêu an toàn vốn cho ngân hàng là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tôn trọng nguyên tắc này trong quá trình cho vay sẽ giúp cho ngân hàng có thể thu nợ bằng cách phát mại các tài sản đảm bảo nếu khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Có nhiều hình thức bảo đảm có thể bảo đảm bằng tài sản với hình thức cầm cố hoặc thế chấp hoặc bảo đảm bằng uy tín thông qua bảo lãnh của người thứ ba.
  13. * Phân loại cho vay Trong nền kinh tế, ngân hàng có rất nhiều loại hình cho vay khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng cũng như nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Do đó, việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học sẽ tạo điều kiện thực hiện tốt công tác hoạch định kế hoạch, quản lý ngân hàng nói chung và nâng cao chất lượng cho vay nói riêng. Hiện nay, có nhiều cách phân loại cho vay khác nhau, tuy nhiên một số cách phân loại phổ biến được các ngân hàng thường sử dụng. Dựa vào mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, một số NHTM chia cho vay thành các loại sau: Cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay thương mại và công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay khác và thuê mua. Cách phân loại này giúp cho các NHTM nắm bắt tình hình biến động của nền kinh tế và các xu hướng phát triển trong tương lai để từ đó đưa ra các chính sách kinh doanh phù hợp với sự phát triển bền vững của NHTM. Dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay được chia thành hai loại: - Cho vay có tài sản đảm bảo: Là loại cho vay trong đó người đi vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mới được ngân hàng chấp thuận cho vay. Loại hình cho vay này sẽ hạn chế bớt rủi ro cho ngân hàng trong vai trò người cho vay đồng thời nâng cao ý thức trả nợ của người đi vay. - Cho vay không có tài sản đảm bảo: Là ngân hàng cho khách hàng vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Hình thức cho vay này chứa đựng nhiều rủi ro nên chỉ khi ngân hàng nắm rõ về tình hình của khách hàng vay đặc biệt tình hình tài chính của họ để đảm bảo khả năng trả nợ vay thì ngân hàng sẽ cho vay theo hình thức này. Dựa theo thời hạn cho vay, người ta cũng chia cho vay thành hai loại:
  14. - Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Cho vay trung và dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Loại cho vay này phục vụ cho mục đích đầu tư mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới thiết bị sản xuất, thực hiện các dự án… Hiện nay, ở các nước đang phát triển cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục cho vay của các NHTM bởi vì rủi ro của loại cho vay này đối với Ngân hàng thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn và thu hồi vốn nhanh hơn, tất nhiên lợi nhuận thu được thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn. Mục đích của cách phân loại này chủ yếu giúp các NHTM dự kiến và đề phòng rủi ro liên quan khi căn cứ vào thời hạn cho vay. Dựa vào loại hình tiền tệ cho vay, chúng ta có hai hình thức: Cho vay bằng nội tệ và cho vay bằng ngoại tệ. Việc phân loại này phản ánh sự hội nhập của lĩnh vực Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế quốc gia sở tại nói chung với thế giới. Và còn nhiều cách phân loại cho vay khác, ví dụ như phân loại theo cho vay theo phương pháp hoàn trả, theo ngành nghề kinh doanh, theo khu vực kinh tế. Tóm lại, việc phân loại cho vay khá linh hoạt và đa dạng giúp ngân hàng quản lý hoạt động cho vay cũng như thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng vay. Điều này luôn được các ngân hàng quan tâm đúng mức bởi vì đây là một yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. * Quy trình cho vay: Cho vay là hoạt động chính của ngân hàng thương mại nên nó rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, hành động chủ quan duy ý chí làm chiếu lệ sẽ gây ra những tổn thất nặng nề cho ngân hàng. Để giải quyết cho vay chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí đồng thời đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng hoạt động cho vay phải tuân thủ theo một quy trình chặt chẽ gồm các bước sau:
  15. Bước 1: Phân tích trước khi cho vay: Đây là bước quan trọng nhất quyết định chất lượng phân tích tín dụng bao gồm việc thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng đó là: năng lực sử dụng vốn vay, uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế liên quan đến người vay. Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ và ngân hàng đó là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng trong một khoản thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là một văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. Do đó cả ngân hàng và khách hàng đều phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như đã thoả thuận. Kèm theo thoả thuận ngân hàng kiểm soát khách hàng xem khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích hay không… khí chất lượng khoản vay bị đe doạ ngân hàng cần có các biện pháp kịp thời để xử lý. Bước 4: Thu nợ và đưa ra phán quyết cho vay mới: Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp các khoản tín dụng không hoàn trả hoặc không hoàn trả đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các trục trặc trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét tìm ra nguyên nhân là quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng. 1.2.2. Các phương thức cho vay của Ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay bao gồm các phương thức sau đây:
  16. * Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân và ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…Hình thức này được sử dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. * Cho vay trực tiếp từng lần Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sỏ hữu là chủ yếu chi khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng tức là vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách thành các hồ sơ (các khế ước nhận nợ) khác nhau. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt * Cho vay theo hạn mức Là nghiệp vụ mà ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính và được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương
  17. án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. * Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá, doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Cho vay luân chuyển thường áp dụng với những doanh nghiệp là thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay - trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng, thủ tục vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời vì vậy việc thanh toán cho ngưòi cung cấp sẽ nhanh gọn. * Cho vay trả góp Là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay, nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì vậy rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
  18. * Cho vay gián tiếp Là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các trung gian như: Các tổ, đội, hội phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này có thể hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Như vậy cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm được chi phí cho vay. Cho vay qua trung gian đều giảm đều nhằm giảm bớt rủi ro, cho phí của ngân hàng. 1.2.3. Mở rộng cho vay của Ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Khái niệm mở rộng cho vay của Ngân hàng thương mại Cho vay là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, nó đem lại lợi nhuận để ngân hàng tồn tại và phát triển. Mở rộng cho vay cùng với nâng cao chất lượng tín dụng sẽ đáp ứng được mục tiêu an toàn và sinh lợi của ngân hàng. Mở rộng cho vay có vai trò quan trọng với ngân hàng, với khách hàng và với cả nền kinh tế. Nó đưa lại lợi nhuận cho ngân hàng, với các cá nhân và doanh nghiệp sống và tiến hành sản xuất kinh doanh hiếm có doanh nghiệp nào sử dụng nguồn vốn tự có. Để tăng hiệu quả doanh nghiệp cần có cơ cấu vốn tối ưu nên cần kết hợp hợp lý giữa vốn vay và vốn tự có bên cạnh đó thị trường chứng khoán còn non trẻ thì mở rộng cho vay sẽ tháo gỡ trở ngại kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế có sản xuất mới có phát triển, mở rộng cho vay sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ đó đáp ứng các mục tiêu xã hội, giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp cho mọi người có cuộc sống đầy đủ hơn. Mở rộng cho vay xét theo nghĩa hẹp đó là làm tăng tỷ trọng cho vay trong tài sản của ngân hàng thương mại. Theo cách hiểu này thì kết quả, mục tiêu của mở
  19. rộng cho vay chỉ dừng lại ở việc tăng các chỉ số về tỷ trọng như tỷ trọng dư nợ cho vay trên tổng tài sản, tỷ trọng cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trên tổng dư nợ cho vay. Tuy nhiên cần xem xét mở rộng cho vay theo nghĩa rộng, theo quan điểm hiện đại, mở rộng cho vay là các biện pháp của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng gia tăng cả về số lượng khách hàng, loại khách hàng, đó là mở rộng địa bàn cho vay và phương thức cho vay đồng thời phải nâng cao chất lượng của các khoản vay. Thể hiện đó là giảm tỷ lệ nợ quá hạn, thay đổi tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của khoản vay. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay của NHTM Ngân hàng hoạt động nhằm mục tiêu an toàn và sinh lợi bất cứ một ngân hàng nào cũng cần đảm bảo được hai mục tiêu đó. Kết quả cuối cùng của mở rộng cho vay là gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Lợi nhuận của NHTM = Doanh thu – Chi phí = Dư nợ * Lãi suất – Chi phí trả lãi - Dự phòng Để làm tăng lợi nhuận của ngân hàng thì có thể làm gia tăng dư nợ hoặc giảm dự phòng. Dư nợ cho vay là số tiền ngân hàng hiện đang cho vay ở một thời điểm nhất định. Ngân hàng tính lãi cho vay dựa trên dư nợ cho vay đến thời điểm. Mở rộng cho vay thể hiện ở việc tăng dư nợ kì này so với kì trước hoặc vượt kế hoạch. * Nhóm chỉ tiêu đánh giá việc gia tăng dư nợ - Sự tăng lên về số lượng khách hàng vay vốn ở ngân hàng: Đây là một chỉ tiêu dễ nhận thấy và cụ thể nhất, nó được tính bằng tổng số lượng khách hàng có quan hệ vay vốn với ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Khi số lượng khách hàng tăng lên có thể nói ngân hàng đang mở rộng cho vay.
  20. - Sự tăng lên về quy mô mỗi món vay, số vốn vay của khách hàng = số lượng khách hàng * giá trị trung bình các món vay. Dư nợ tăng lên khi có sự tăng lên của số lượng khách hàng hoặc giá trị trung bình của món vay hoặc cả hai nhân tố đó. - Sự tăng lên về thị phần của ngân hàng Trong một phạm vi hoạt động không thể chỉ có một ngân hàng độc lập tồn tại. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường tài chính như hiện nay có rất nhiều ngân hàng mới đang ra đời vì vậy ngân hàng phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác. Mở rộng cho vay có đạt được kết quả hay không cần xem xét thị phần ngân hàng có tăng lên hay không. Nếu các chỉ tiêu như số lượng khách hàng, quy mô món vay và các chỉ tiêu khác đều tăng mà thị phần của ngân hàng giảm thì không thể nói ngân hàng đang mở rộng cho vay. - Tốc độ tăng trưởng của dư nợ dương Tỷ lệ này được đo bằng = Dư nợ cho vay năm nay – dư nợ cho vay năm trước/dư nợ cho vay năm trước Đây là tỷ lệ phản ánh cho vay của ngân hàng thương mại đối với một đối tượng đang tăng lên hay giảm đi. Chỉ tiêu này dương có nghĩa là hoạt động cho vay năm nay mở rộng hơn so với năm trước và nếu tỷ lệ này ngày một gia tăng theo thời gian thì ta có mở rộng cho vay theo thời gian. Nhưng để đánh giá đầy đủ thì cần phải xem xét tương quan với các đối tượng khác. Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ của một đối tượng dương và đồng thời lớn hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ của đối tượng khác mới có thể kết luận được ngân hàng đang mở rộng cho vay với đối tượng nghiên cứu. - Sự tăng lên của tỷ trọng dư nợ cho vay của từng đối tượng vay trên tổng dư nợ. Chỉ tiêu này đo dư nợ của một đối tượng khách hàng trên tổng dư nợ của ngân hàng trong kỳ Dư nợ Tỷ trọng dư nợ trên tổng dư nợ =
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0