LUẬN VĂN: Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
lượt xem 186
download
Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác đảng viên. Làm tốt công tác quản lý đảng viên, các cấp uỷ, tổ chức đảng không chỉ nắm chắc diễn biến chất lượng, số lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên và từng cá nhân đảng viên mà đó cũng là quá trình giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa đảng viên với tổ chức đảng, kịp thời có những biện pháp công tác thích hợp để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
- LUẬN VĂN: Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay Mở đầu
- 1. Tính cấp thiết của đề tài Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác đảng viên. Làm tốt công tác quản lý đảng viên, các cấp uỷ, tổ chức đảng không chỉ nắm chắc diễn biến chất lượng, số lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên và từng cá nhân đảng viên mà đó cũng là quá trình giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa đảng viên với tổ chức đảng, kịp thời có những biện pháp công tác thích hợp để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chính vì vai trò quan trọng của công tác quản lý đảng viên như vậy nên Đảng ta yêu cầu các tổ chức đảng phải thường xuyên quản lý đảng viên xây dựng nền nếp quản lý chặt chẽ đảng viên, giúp cho Đảng nắm chắc đảng viên "không để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức"; mỗi đảng viên phải "tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ" [18, tr.143]. Đất nước ta đang trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, có nhiều cơ hội để tiến lên. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Tỡnh hỡnh đó đòi hỏi công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên nói riêng phải được tăng cường và có những đổi mới cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu và nhiệm vụ mới, trong đó phải chú trọng công tác quản lý đảng viên. Đại hội X của Đảng yêu cầu: “...đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên của chi bộ. Đảng viên có cương vị càng cao càng phải chấp hành sự quản lý của chi bộ” [22, tr.299]. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội là lực lượng đảng viên đang trực tiếp đi đầu thực hiện và lãnh đạo nhân dân Thủ đô thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ đảng viên này đang đứng trước những yêu cầu ngày càng cao về phẩm chất và năng lực, vừa chịu những tác động phức tạp nhiều mặt của môi trường công tác, nên công tác quản lý đội ngũ đảng viên này càng phải được quan tâm. Trong thời gian qua, Thành uỷ, các quận uỷ và các đảng bộ phường ở thành phố Hà Nội đó chú trọng đến công tác quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức
- phường. Nhiều nội dung, biện pháp quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường được triển khai thực hiện hoặc được đổi mới như: tổ chức cho nhân dân phường tham gia giám sát, quản lý đảng viên thông qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tổ chức nghiêm túc việc chi bộ giao nhiệm vụ và kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ; thực hiện thành nề nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường... Do đó, đó gúp phần quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường, phòng ngừa và hạn chế một bước sự sai phạm của đội ngũ đảng viên này. Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường, công tác quản lý đội ngũ đảng viên này vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng đảng viên không gắn bó, tích cực hoạt động, và chi bộ không nắm được hoàn cảnh, tư tưởng, phẩm chất của đảng viên còn xảy ra ở không ít nơi, ngay cả đối với những đảng viên do môi trường công tác cần đặc biệt quản lý, giám sát. Kết quả là các đảng bộ phường ở thành phố Hà Nội cũn nhiều bất cập, chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường cũn bộc lộ nhiều yếu kộm, tồn tại. Một bộ phận đảng viên, trong đó có cả đảng viên có chức có quyền đó phai nhạt lý tưởng, mất sức chiến đấu, hách dịch, cửa quyền, gia trưởng… ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, việc nghiờn cứu, làm rừ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề: “Quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên này có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liên quan đến đề tài Quản lý đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, là vấn đề thường xuyên được Đảng ta quan tâm chỉ đạo thực hiện, bởi vậy đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị đề cập đến. Nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn cũng đã có những nghiên cứu về quản lý đảng viên ở các góc độ khác nhau, tiêu biểu như: * Sách: + PTS Ngô Kim Ngân (chủ biên), (Nhà xuất bả Chính trị quốc gia, 1999): “Về nâng cao chất lượng đảng viên trong sự nghiệp đổi mới”.
- + TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) (Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, 2003): “Phỏt huy vai trũ đội ngũ đảng viên là người nghỉ hưu khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn hiện nay”. + PGS, TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003): “Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay”. + PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004): “Nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ phường ở Thủ Đô Hà Nội hiện nay”. * Các luận án, luận văn: + Đặng Đỡnh Phỳ (1996): “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở Đảng Phường, xó ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay” - Luận án Phó Tiến Sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. + Nguyễn Văn Giang (2002): “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển Đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn hiện nay” - Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. + Cao Thị Thanh Vân (2002): “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn Đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy manh công nghiệp hoá” - Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. + Đặng Thị Minh Hảo (2003): “ Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong các trường trung học phổ thông ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. + Nguyễn Huỳnh Long (2005): “ Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là giáo viên trong các trường trung học phổ thông ở Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay” - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. + Nguyễn Thị Ngọc Loan (2006): “Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách ở các Phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- + Trần Thị Bích Thuỷ (2006): “ Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp Phường Quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. + Nguyễn Văn Doãn (2008): Quản lý đảng viên là người công giáo ở các đảng bộ xã của huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. + Tôn Mạnh (2008): Công tác quản lý đảng viên ở đảng bộ các cơ quan dân chính đảng, tỉnh Nghệ an trong giai đoạn hiện nay - Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn, ở những góc độ và mức độ khác nhau đã bàn đến vấn đề quản lý đảng viên. Một số công trình đã đi sâu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý đảng viên, chỉ ra phương hướng và giải pháp tăng cường, đổi mới công tác quản lý đội ngũ đảng viên ở một địa bàn cụ thể. Tuy nhiên, đến nay chưa cú cụng trỡnh nào đi sâu nghiên cứu về quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích Gúp phần làm rừ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay; từ đó đề xuất những giải pháp khả thi để tăng cường công tác quản lý đội ngũ đảng viên này trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ - Làm rừ đặc điểm đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội. - Xây dựng quan niệm, nội dung, phương thức quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ,công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay. - Đánh gíá đúng thực trạng quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến nay; rút ra nguyên nhân, kinh nghiệm.
- - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội. * Phạm vi nghiên cứu Đề tài khảo sát công tác quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội cũ trong thời gian từ 2005 đến nay và đề xuất phương hướng, giải pháp quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở Hà Nội từ nay đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn * Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mỏc-Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng, xây dựng, quản lý đội ngũ đảng viên. Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đó được công bố. * Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, sử dụng kết hợp các phương pháp tổng kết thực tiễn, lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xó hội học... 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Gúp phần làm rừ thờm quan niệm, nội dung, phương thức, biện pháp quản lý đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi để tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ đảng ở Hà Nội trong công tác quản lý đảng viên và làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập môn xây dựng Đảng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
- Chương 1 QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. PHƯỜNG, ĐẢNG BỘ PHƯỜNG VÀ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1.1. Vai trũ và đặc điểm của phường ở thành phố Hà Nội 1.1.1.1. Vai trũ của phường ở thành phố Hà Nội Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, có vị trí từ 20053’ đến 21023’ vĩ độ Bắc từ 1050 44’ đến 106002’ kinh độ Đông. Hà Nội tiếp giáp 5 tỉnh: phía Bắc giáp Thái Nguyên; phía Đông giáp Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp Vĩnh Phúc; phía Nam giáp Hà Tây. Thành phố gồm 9 quận nội thành: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đỡnh, Cầu Giấy, Thanh Xuõn, Tõy Hồ, Hoàng Mai, Long Biờn và 5 huyện ngoại thành: Súc Sơn, Đông Anh, Thanh Trỡ, Từ Liờm, Gia Lõm. Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá và là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phũng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Hơn hai mươi năm đổi mới và phát triển, đi đúng định hướng và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, đưa sự nghiệp đổi mới của Hà Nội đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, chuyển biến cơ bản trong đời sống xó hội. Với 920,97 km2, và khoảng 3.118.200 triệu dân số trong 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. Toàn thành phố Hà nội có 128 phường và 9 quận nội thành của Hà Nội. phường là cấp hành chính cơ sở ở nội thành - đặc biệt đối với phường của thủ đô Hà Nội lại càng có vai trũ quan trọng hơn trong việc lónh đạo, phổ biến và tổ chức, quản lý, động viên quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng như các nhiệm vụ chính của địa phương… thông qua đó, để đưa được các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các nhiệm vụ của
- địa phương đó vào cuộc sống, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong phường. Từ việc thực hiện những chủ trương, đường lối, chính sách… sẽ tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, vận động nhân dân làm trũn nghĩa vụ cụng dõn đối với nhà nước. Vai trũ của phường ở thủ đô Hà Nội gắn liền với vị trí, vai trũ đặc biệt quan trọng ở thủ đô, đó là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, giáo dục, y tế của cả nước đó là nơi các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xó hội và cơ quan đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế đặt trụ sở và làm việc. Nơi đây diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ nghĩa. Vị trí, vai trũ của phường ở Hà Nội được Đảng ta, Thành ủy Hà Nội nhất quán khẳng định, thể hiện trong các chủ tr ương và những việc làm cụ thể nhằm xây dựng phường ở Hà Nội ngày càng vững mạnh. Ngay sau khi thủ đô được giải phóng (10-10- 1954), việc quan tâm xây dựng cấp cơ sở ở Hà Nội đó được thể hiện và thu được những thành quả đáng ghi nhận. Đến năm 1974, căn cứ vào tỡnh hỡnh thực tế, thành phố Hà Nội kiện toàn lại một b ước về tổ chức và xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấp cơ sở của nội thành. Từ 231 ban đại diện dân phố được sắp xếp lại thành 185 ban đại diện hành chính tiểu khu; quy mô mỗi tiểu khu từ 2.000 đến 5.000 dân. Năm 1978, Thành ủy Hà Nội tiến hành thí điểm, lập ra ủy ban nhân dân tiểu khu, mỗi tiểu khu có khoảng 10.000 dân… Đi liền với quá trỡnh đó, tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể cũng được sắp xếp, kiện toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ sở nội thành. Đó là chủ trương và phương hướng phát triển đúng đắn. Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, đơn vị hành chính ở Hà Nội chia thành ba cấp. Riêng ở nội thành, dưới thành phố là cấp quận và dưới quận là cấp phường. Quyết định số 94/HĐBT ngày 26-9-1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7.000 đến 12.000 dân. Chức năng chủ yếu của bộ máy chính quyền cấp phường là quản lý hành chớnh nhà nước, quản lý xó hội, quản lý và chăm lo phục vụ đời sống dân cư.
- Thực hiện quyết định nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra Quyết định số 1408/QĐUB ngày 15-4-1982 để hướng dẫn các phường hoạt động theo hỡnh thức mới. Tiếp đến ngày 15-1-1986, Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đó họp và quyết định: đi đôi với việc quản lý hành chính về mặt nhà nước, quản lý xó hội, quản lý dõn cư, chăm lo đời sống nhân dân, chính quyền phường phải quản lý cỏc tổ chức sản xuất tiểu thủ cụng nghiệp (cả tập thể và cỏ nhõn) về cỏc mặt xõy dựng, thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, phõn phối, chấp hành các chế độ, thể lệ tài chính, giá cả và nghĩa vụ đối với Nhà nước. Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước bước vào thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lónh đạo. Thủ đô Hà Nội cũng dần dần chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường. Cấp phường lại có vai trũ rất quan trọng trong điều kiện thực hiện cơ chế mới. Trên cơ sở các văn bản của Nhà nước và của Thủ đô đó ban hành, Ủy ban nhõn dõn thành phố Hà Nội ban hành Quy định số 3940/QĐUB ngày 25-8-1990, về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền phường. Bản quy định gồm 20 điều, trong đó nêu rừ: Phường là đơn vị hành chính cơ sở nội thành, nội thị, là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Chính quyền phường có chức năng chủ yếu là quản lý hành chớnh nhà nước, quản lý xó hội và chăm lo phục vụ đời sống dân cư [51, tr.9]. Điều 1 của Quy định ghi rừ: Ủy ban nhõn dõn phường thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của các đơn vị và công dân trên địa bàn phường về việc chấp hành các chủ trương, chính sách, và pháp luật của Nhà nước, các quy định của thành phố về quản lý kinh tế, xó hội và đô thị; chịu sự quản lý và điều hành tập trung, thống nhất của quận, thị xó (gọi tắt là quận), thành phố trong quản lý dõn cư, quản lý xó hội, quản lý đô thị [51, tr.10]. Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên địa bàn thủ đô, vị trí, vai trũ của phường ở Hà Nội ngày càng được nhận thức và phát triển sâu sắc h ơn, được thể hiện rừ trờn thực tế thực hiện cụng cuộc đổi mới. Các phường ở Hà Nội đó
- đóng góp to lớn trong phát triển kinh tế, quản lý đô thị, khắc phục các tệ nạn xó hội do tỏc động của mặt trái cơ chế thị trường, giải quyết những vấn đề xó hội trờn địa bàn, giữ vữn g an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội, gúp phần quan trọng vào thành tựu cụng cuộc đổi mới của thủ đô. Thực tế đó khẳng đinh, phường mạnh thỡ quận mạnh, quận mạnh thỡ thủ đô vững mạnh; thủ đô mạnh sẽ tác động lớn đến sự phát triển của đất nước. Phường yếu kém không ổn định, có nhiều điểm nóng thỡ quận khụng ổn định, không phát triển được, thậm chí gây hậu quả xấu đối với thủ đô; ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của đất nước, đến uy tín, thanh danh của Đảng. Như vậy, phuờng bên cạnh vai trũ là nơi phổ biến tổ chức, quản lý, động viên quần chúng nhân dân trong phường thỡ cũn cú vai trũ trong việc bảo đảm ổn định chính trị, chống lại những liệu điệu xuyên tạc đối với đuờng lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nuớc. Cấp phường là cấp cơ sở cuối cùng trong hệ thống chính trị và là nơi tiếp nhận những ý kiến, những thắc mắc rất đời thường của quần chúng nhân dân trên những vấn đề đang diễn ra về văn hoá, giáo dục; y tế; về kinh tế; về an ninh, quốc phũng; về quản lý dõn cư và xó hội; về quản lý lao động, về quản lý nhà, đất đai (đây là vấn đề nóng bỏng, đang diễn ra khá phức tạp hàng ngày, hàng giờ - đặc biệt là ở một số xó vừa được chuyển lên phường khi Hà Nội mở rộng, phát triển thêm những quận mới). Những vấn đề này liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân, nếu các phường không giải quyết triệt để, tận gốc, hợp tỡnh, hợp lý thỡ sẽ xảy ra vấn đề khiếu kiện kéo dài, thậm chí sẽ vượt cấp… điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới vai rũ lónh đạo của các đảng bộ phường, các quận uỷ, Thành uỷ Hà Nội nói riêng cũng như của toàn Đảng nói chung. Cũng từ những việc giải quyết không ổn thoả ở phường có thể sẽ tạo sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, xúi bẩy nhân dân, khiếu kiện đông người, gây mất ổn định chính trị - xó hội. Do vậy, để làm tốt được các vấn đề về kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phũng, quản lý về đất đai, dân cư, lao động… thỡ cần được định hướng và chỉ đạo thực hiện đúng hướng, có hiệu quả. Có như vậy phường mới phát triển mạnh, bền vững; từ đó, mới có thể khẳng định phưũng mạnh mà nếu phường mạnh thỡ quận mạnh và từ đó sẽ
- tạo đà cho Thủ đô vững mạnh. Và Thủ đô Hà Nội là trung tâm, là trái tim của cả nước, vỡ thế, nú cú thật sự vững mạnh thỡ sẽ tỏc động lớn đến sự phát triển của đất nước. 1.1.1.2. Đặc điểm của phường ở thành phố Hà Nội Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy các phường ở thành phố Hà Nội có một số đặc điểm sau: Một là, phường ở Hà Nội là đơn vị cơ sở thuộc hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, nằm trên địa bàn thủ đô, đó là trung tâm đầu nóo chớnh trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và giao dịch quốc tế. Phường là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, được Điều 118 Hiến pháp 1992 quy định: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xó; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xó;Huyện chia thành xó, thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xó chia thành phường và xó; quận chia thành phường. Như vậy, hệ thống chính trị ở nước ta từ Trung ương đến cơ sở là một thiết chế xó hội bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xó hội, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, dưới sự lónh đạo của Đảng. Phường là đơn vị hành chính lónh thổ cấp cuối cùng ở nước ta; phường có đầy đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị, có các tổ chức kinh tế, các tổ chức xó hội, nghề nghiệp,… Cú thể núi phường là hỡnh ảnh thu nhỏ của một xó hội, phần rất lớn cỏc hoạt động của đời sống xó hội đều được diễn ra ở phường. Nghĩa là đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều hội tụ về phường và được tổ chức thực hiện. Phường là nơi phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi kiểm nghiệm những chủ trương của Đảng và Nhà nước về quản lý đô thị, xây dựng thủ đô văn minh, lịch sự, bài trừ các tệ nạn xó hội, phỏt triển kinh tế, văn hóa giáo dục… Đó là nơi Đảng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với đông đảo nhân dân; nắm bắt tâm tư, tỡnh cảm, nguyện vọng chớnh đáng của nhân dân… Đó là nơi đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm quý báu để Đảng sửa đổi, bổ sung đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn hơn và đề ra chủ trương, chính sách mới sát với phường. Những hoạt động nêu trên cũng diễn ra ở các phường của các thành phố, thị xó khỏc. Song, đối với các phường ở thủ đô Hà Nội, những hoạt động đó diễn ra với những đặc điểm
- riêng. Các phường ở nơi khác hoạt động yếu kém cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh, thành phố đó. Nhưng đối với thủ đô Hà Nội, nếu phường hoạt động yếu sẽ ảnh hưởng đến thủ đô và đến cả nước. Nếu xảy ra những vấn đề phức tạp, nhất là những điểm nóng, sẽ ảnh hưởng nhất định đến sự ổn định chính trị của thủ đô, đến uy tín, thanh danh của Đảng và của đất nước trên trường quốc tế; và các thế lực thù địch dễ lợi dụng tỡnh hỡnh đó để phá hoại Đảng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội trờn đất nước ta. Đặc điểm nêu trên quy định và đũi hỏi cỏc phường ở Hà Nội phải được đầu tư xây dựng ngày càng vững mạnh, hoạt động đạt kết quả tốt, không được phép để xảy ra những sai sót, nhất là xảy ra những phức tạp về an ninh, trật tự và các điểm nóng. Hai là, nhiều phường ở Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan đầu nóo của Trung ương và của thủ đô, các doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học của Trung ương và của Hà Nội; nơi có nhiều di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh. Đây là thế mạnh và đặc điểm riêng có của nhiều phường ở thủ đô Hà Nội. Các phường có điều kiện thuận lợi trong việc trực tiếp quan hệ với các cơ quan Trung ương, các doanh nghiệp, công ty, các trường đại học, cao đẳng để phối hợp hoạt động giữa phường với các cơ quan đó trong hoạt động xây dựng phường, tạo điều kiện cho phường phát triển, hoạt động đạt kết quả cao. Các xó cũng như các phường ở những nơi khác có thể trực tiếp quan hệ với các cơ quan Trung ương, các trường đại học để hoạt động đạt kết quả tốt hơn. Song, nhỡn chung họ gặp nhiều khú khăn và điều kiện cụ thể thường không cho phép họ thực hiện điều đó. Nhiều phường ở Hà Nội có các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đây là điều kiện rất thuận lợi để các phường phát triển văn hóa, nâng cao trỡnh độ dân trí, cũng như phát triển du lịch, dịch vụ để tăng thu ngân sách của phường. Đặc biệt các phường ở Hà Nội là nơi cư trú của hàng ngàn cán bộ, công chức của Trung ương và Hà Nội, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Theo quy định của Trung ương, những cán bộ này phải biết giữ mối liên hệ với cấp ủy, chính quyền nơi cư trú. Đây là điều kiện rất thuận lợi để các phường tận dụng, phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của các cán bộ, công chức đó, vỡ sự phỏt triển của phường.
- Ba là, phường ở Hà Nội phân chia thành nhiều loại rất đa dạng; kinh tế hàng hoá trên địa bàn phường đang có xu hướng phát triển mạnh. Phường ở Hà Nội rất đa dạng. Các phường thuộc khu phố cổ là trung tâm buôn bán, sản xuất, dịch vụ như: phường Đồng Xuân, Phố Huế, Cửa Đông, Hàng Mã, Hàng Đào… Có các phường lại chủ yếu là nơi đặt cơ quan của Trung ương hoặc của Thành phố. Có những phường tập trung nhiều khu tập thể cao tầng của cán bộ, công chức, như: phường Nghĩa Tân, Trung Tự, Thành Công, Thanh Xuân Bắc… Lại có nhiều phường mới được chuyển đổi từ các xã do quá trình phát triển, mở rộng thủ đô; cơ cấu kinh tế nên vẫn còn một bộ phận sản xuất nông nghiệp, như: phường Phúc Tân, Nhật Tân, Xuân La, Mai Dịch… Trên địa bàn các phường kinh tế hàng hoá đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các công ty liên doanh, công ty c ổ phần, các văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài được thành lập. Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của cơ chế thị trường cũng gây nên những khó khăn không nhỏ đối với hoạt động của phường. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống, những tệ nạn xã hội nảy nở, phát triển, một số tệ nạn đã trở thành nhức nhối, bức xúc làm băng hoại đạo đức, lối sống… cần cấp bách được giải quyết. Bốn là, số lượng dân cư trên địa bàn phường rất lớn, cơ cấu đa dạng. Những năm gần đây kinh tế thị trường ở Hà Nội phát triển khá nhanh, tạo nên sự phân tầng mạnh mẽ các giai cấp, các tầng lớp dân cư trên địa bàn các phường. Số người không có việc làm ổn định ở các phường cũn lớn. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp cú tõm tư, nguyện vọng, tỡnh cảm khỏc nhau; đây là những vấn đề khó khăn, phức tạp đối với hoạt động của các phường. Công cuộc đổi mới đất nước nói chung và trên địa bàn thủ đô nói riêng đó thu được thắng lợi to lớn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các phường của Hà Nội mặc dù cũn nhiều khú khăn; song, nhỡn chung khỏ ổn định, được cải thiện ở mức cao hơn so với đời sống của nhân dân ở các thành phố, thị xó khỏc trong cả n ước. Trỡnh độ dân trí ở các phường của Hà Nội nhỡn chung vào loại cao nhất trong cả nước. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để các phường hoạt động có hiệu quả.
- Trên địa bàn phường ở Hà Nội, làn sóng người nhập cư ồ ạt từ các tỉnh gây nên sự hỗn hợp, phức tạp trong lối sống, văn hóa ảnh hưởng đến nếp văn minh thanh lịch của người Hà Nội. Một số người truyền bá những tư tưởng lạc hậu, không lành mạnh và những tệ nạn xó hội. Những đặc điểm của các phường ở Hà Nội nêu trên có ảnh hưởng không nhỏ đến cơ cấu, phẩm chất, năng lực và phong cách của đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức phường ở thành phố Hà Nội và công tác quản lý đội ngũ đảng viên này. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức ở các phường thuộc nội thành cũ thường có ưu điểm nổi bật ở trình độ mọi mặt, kinh nghiệm quản lý đô thị, phong cách làm việc...; nhưng trong quản lý bộ phận đảng viên này cần chú ý quản lý quan hệ xã hội, nâng cao ý thức gần gũi phục vụ nhân dân. Đội ngũ đảng viên là cán bộ, công chức ở các ph ường đang trong quá trình đô thị hóa lại cần chú ý quản lý, nâng cao trình độ, năng lực quản lý đô thị, xây dựng phong cách làm việc phù hợp yêu cầu của văn hóa đô thị ... 1.1.2. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của đảng bộ phường ở thành phố Hà Nội Đảng bộ thành phố Hà Nội đến cuối năm 2007 (trước khi mở rộng) có 128 đảng bộ phường với 199.262 đảng viên. Sau khi mở rộng (ngày 01-8-2008), số đảng bộ phường tăng lên 148 với 314.670 đảng viên (số liệu tính đến 31-12-2008). 1.1.2.1. Vai trò của đảng bộ phường Trong hệ thống chính trị ở phường, các đảng bộ phường là một bộ phận, đồng thời lónh đạo hệ thống ấy. Ngoài những điểm chung về vai trũ tổ chức cơ sở đảng, các đảng bộ phường cũn cú những điểm riêng đặc thù, do tính đặc thù của cấp phường quy định. Các đảng bộ phường ở Hà Nội là nền tảng của Đảng, là người trực tiếp đưa đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, nghị quyết, chủ trương của cấp trên đến với nhân dân và lónh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết ấy; lónh đạo các hoạt động ở phường bảo đảm cho các hoạt động đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Các đảng bộ phường có vai trũ rất to lớn trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của đường lối, nghị quyết của Đảng; đóng góp cho Đảng những ý kiến, kinh nghiệm để Đảng sửa đổi, bổ
- sung chủ trương, chính sách cho đúng đắn hơn, và đề ra chủ trương, chính sách mới. Đó là cầu nối tổ chức Đảng với nhân dân ở phường, nắm bắt tâm tư, tỡnh cảm, nguyện vọng của nhõn dõn để phản ánh với Đảng. Thông qua hoạt động của các đảng bộ phường mà Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu. Đảng bộ phường cũn là người trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp đảng viên, tiến hành tất cả các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng. 1.1.2.2. Chức năng của đảng bộ phường Theo quyết định số 94/QĐ-TW ngày 03-03-2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các đảng bộ phường có chức năng: Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lónh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lónh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dõn làm trũn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Các đảng bộ phường ở Hà Nội là hạt nhân chính trị ở cơ sở, do đó phải luôn luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ phù hợp với phường của mỡnh, cụ thể húa nhiệm vụ, mục tiờu, chương trỡnh hành động để thực hiện đạt kết quả tốt. Hoạt động lónh đạo của đảng bộ phường phải thể hiện rừ sự định hướng chính trị đúng đắn cho các hoạt động trên địa bàn phường, bảo đảm cho các hoạt động đó đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các đảng bộ phường cũn phải trực tiếp lónh đạo xây dựng chính quyền, các đoàn thể chính trị - xó hội, cỏc tổ chức xó hội nghề nghiệp. Nghĩa là lónh đạo hoạt động của các tổ chức đó theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, uốn nắn kịp thời những lêch lạc trong xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức đó. 1.1.2.3. Nhiệm vụ của đảng bộ phường Trên cơ sở vai trũ và chức năng đó nờu, đảng bộ phường có các nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, lónh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội, an ninh, quốc phũng. Lónh đạo việc thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội theo nghị quyết của đại hội đảng bộ, chi bộ phường và của cấp trên; tạo môi trường thuận lợi
- để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ gia đỡnh phỏt triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm trũn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng phường giàu đẹp, văn minh. Lónh đạo việc thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính nhà nước và cụng tỏc quản lý đô thị trên địa bàn phường; thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch; chăm lo phát triển sự nghiệp, văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xó hội, xúa đói giảm nghèo. Lónh đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật; không để tích tụ được mâu thuẫn trở thành điểm nóng; không để xảy ra tỡnh trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị trên địa bàn. Lónh đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phũng toàn dõn và chớnh sỏch hậu phương quân đội; giữ vững an ninh chớnh trị và trật tự an toàn xó hội; đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà n ước, của tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xó hội, nhất là ma tỳy, mại dõm. Thứ hai, lónh đạo công tác tư tưởng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xó hội trong cỏc tầng lớp nhõn dõn, nhất là trong thanh niờn, thiếu niờn; xõy dựng tỡnh đoàn kết, gắn bó, thương yêu, giúp đỡ nhau; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở tổ dân phố, khu dân cư và trong từng gia đỡnh; chỳ trọng tuyờn truyền và nhõn rộng gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên mọi lĩnh vực. Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương;
- kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên. Lónh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phũng, chống sự suy thoỏi về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thứ ba, lónh đạo công tác tổ chức, cán bộ. Lónh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ. Từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức ở phường. Cấp ủy phải xây dựng quy chế về công tác tổ chức cán bộ; nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đói ngộ đối với cán bộ thuộc quyền, quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở theo phân cấp; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức đảng và nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc; các đoàn thể nhân dân theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức. Cấp ủy đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào các cơ quan lónh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý. Thứ tư, lónh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Lónh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở phường vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Lónh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của
- địa phương; trước hết là những chủ trương, chính sách về xây dựng và quản lý đô thị, giải quyết việc làm và cỏc chớnh sỏch xó hội khác. Thứ năm, xây dựng tổ chức Đảng. Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao năng lực lónh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lóng phớ và cỏc biểu hiện tiờu cực khỏc; chỳ trọng xõy dựng và nõng cao chất lượng lónh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở tổ dân phố, khu dân cư. Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bỡnh và phờ bỡnh; thực hiện cú nền nếp và nõng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lónh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu. Giáo dục, rèn luyện đ ội ngũ đảng viên nêu cao vai trũ tiền phong gương mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực; nghiêm chỉnh chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng, quyết định của chính quyền và chương trỡnh hành động của các đ oàn thể nhân dân. Cấp ủy xây dựng kế hoạch và tạo đi ều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trỡnh độ về mọi mặt. Cấp ủy xõy dựng kế hoạch, biện phỏp quản lý, phõn cụng nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác động viên, xử lý nghiờm minh, kịp thời những cỏn bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy trỡnh, chỳ trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng. Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Định kỳ hàng năm, cấp ủy tổ chức để quần chúng tham gia đóng góp xây dựng Đảng; bí thư cấp ủy cơ sở; chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân tự phê bỡnh trước đại diện
- của nhân dân và chịu trách nhiệm khi để xảy ra tỡnh trạng quan liờu, tham nhũng, lóng phớ ở địa phương. Cấp ủy thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Phối hợp với các tổ chức, cơ sở đảng trên địa bàn có đảng viên, cán bộ, công chức đang cư trú trên địa bàn đó thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương. 1.1.2.4. Đặc điểm của đảng bộ phường ở thành phố Hà Nội Một là, các đảng bộ phường Hà Nội hoạt động trên địa bàn thủ đô- trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xó hội cả nước. Đây là đặc điểm riêng có các đảng bộ phường ở Hà Nội. Hàng ngày, hàng giờ tại thủ đô Hà Nội diễn ra các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xó hội quan trọng; truyền đi tỡnh hỡnh thời sự về chớnh trị, kinh tế - xó hội trong cả nước và quốc tế. Hoạt động trong điều kiện rất thuận lợi đó, các đảng bộ phường ở Hà Nội có thế mạnh trong việc tiếp nhận thông tin phục vụ cho sự lónh đạo của mỡnh. Cỏc cơ quan của Trung ương Đảng, Nhà nước đặt trụ sở làm việc tại Hà Nội nên mọi chủ trương, chính sách của Đảng được các đảng bộ phường nắm bắt nhanh chóng để đưa vào tổ chức thực hiện. Các đảng bộ phường ở Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp với các tổ chức đảng, các cơ quan của Đảng, của Nhà nước trên địa bàn thủ đô để học tập kinh nghiệm, nhờ sự giúp đỡ của các cơ quan đó đối với hoạt động của mỡnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ phường. Hai là, đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường ở Hà Nội rất đông, cơ cấu đa dạng, trong đó số đảng viên là người nghỉ hưu, nghỉ mất sức chiếm tỷ lệ cao. Số đảng viên là người nghỉ hưu, nghỉ mất sức ở các đảng bộ phường chiếm khoảng từ 70% đến 80%, có nơi gần 90% so với tổng số đảng viên của đảng bộ phường. Đây là tỷ lệ rất cao so với các phường ở các thành phố, thị xó trong cả nước. Những đảng viên này có trỡnh độ mọi mặt khá cao, có uy tín, năng lực công tác, có kinh nghiệm sống và kinh nghiệm công tác. Trong số đó, nhiều người đó là cỏn bộ trung, cao cấp (kể cả những người nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, bộ trưởng, thứ trưởng,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn "Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp"
105 p | 611 | 152
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Quản lý đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Vật lý theo hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Huyện Đoan Hùng, Tỉnh Phú Thọ
55 p | 206 | 55
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hoá
130 p | 160 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên các trường mầm non tư thục trên địa bàn quận Hoàng Mai - thành phố Hà Nội theo tiếp cận phát triển nguồn nhân lực
127 p | 159 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục: Quản lý đội ngũ cố vấn học tập tại Trường Cao đẳng Dược Phú Thọ
41 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên cốt cán đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông ở các trường trung học phổ thông tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
218 p | 23 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ Cố vấn học tập tại trường Đại học Thủ Dầu Một
315 p | 14 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
188 p | 22 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường trung học phổ thông thành phố Sóc Trăng tỉnh Sóc Trăng
169 p | 31 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên trường THCS trên địa bàn huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước trong bối cảnh hiện nay
135 p | 19 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý đội ngũ tổ trưởng chuyên môn các trường tiểu học khu vực đồng bằng sông Cửu Long
198 p | 46 | 8
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
117 p | 52 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ tổ trưởng chuyên môn ở các trường tiểu học thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị
130 p | 20 | 6
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giáo viên các trường trung học cơ sở công lập trên địa bàn huyện Núi Thành
110 p | 43 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý đội ngũ viên chức hành chính theo tiếp cận nguồn nhân lực tại trường Đại học An Giang
109 p | 43 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông chuyên trong bối cảnh đổi mới giáo dục
27 p | 27 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ giáo viên môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
101 p | 14 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
176 p | 8 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn